Tính tất yếu của sự quá độ lên chủ nghĩa xã hội
Sự phát triển của xã hội loài người là một quá trình lịch sử tự nhiên. Đó là sự biến đổi và thay thế lẫn nhau của các hình thái kinh tế - xã hội từ thấp đến cao, từ đơn giản đến phức tạp. Nghiên cứu tiến trình vận động của lịch sử, các nhà sáng lập chủ nghĩa Mác khẳng định, phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa chắc chắn sẽ bị thay thế bằng phương thức sản xuất cộng sản chủ nghĩa. Đó là một quy luật khách quan của lịch sự và thời đại ngày này chính là thời kỳ quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa cộng sản. Thấm nhuần quan điểm của chủ nghĩa Mác, Đảng ta khẳng định: "Theo quy luật tiến hóa của lịch sử, loài người nhất định sẽ tiến tới chủ nghĩa xã hội"(1).
Sở dĩ nói thời đại ngày nay là thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội trên toàn thế giới là vì, thực tiễn lịch sử cho thấy, từ khi cách mạng xã hội chủ nghĩa tháng Mười thành công ở nước Nga năm 1917, nhân loại đã thực sự bước vào một giai đoạn phát triển mới - giai đoạn quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Hiện nay, mặc dù hệ thống chủ nghĩa xã hội thế giới đã bị sụp đổ, phong trào xã hội chủ nghĩa nhìn chung đang trong giai đoạn thoái trào "...nhưng một số nước theo con đường xã hội chủ nghĩa, trong đó có Việt Nam, vẫn kiên định mục tiêu, lý tưởng, tiến hành cải cách, đổi mới, giành được những thắng lợi to lớn, tiếp tục trỗi dậy, phát triển mạnh mẽ; phong trào cộng sản và công nhân quốc tế có những bước phục hồi... Hiện tại, chủ nghĩa tư bản còn tiềm năng phát triển nhưng về bản chất vẫn là chế độ áp bức bóc lột và bất công. Những mâu thuẫn cơ bản vốn có của chủ nghĩa tư bản, nhất là mâu thuẫn giữa tính chất xã hội hóa ngày càng cao của lực lượng sản xuất với chế độ chiếm hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa, chẳng những không giải quyết được mà ngày càng trở nên sâu sắc. Khủng hoảng kinh tế, chính trị, xã hội vẫn tiếp tục xảy ra. Chính sự vận động của những mâu thuẫn nội tại đó và cuộc đấu tranh của nhân dân lao động quyết định vận mệnh của chủ nghĩa tư bản"(2).
Đó là xu thế, là tiến trình vận động tự nhiên của lịch sử thế giới. Chủ nghĩa tư bản mặc dù vẫn còn tiềm năng tồn tại và phát triển nhưng những mâu thuẫn nội tại của nó ngày càng trở nên gay gắt không thể dung hòa được, những cuộc khủng hoảng trầm trọng về kinh tế, chính trị và xã hội những năm đầu thế kỷ XXI báo hiệu chủ nghĩa tư bản đang ở thời kỳ suy thoái toàn diện; bên cạnh đó, cùng với sự cải cách, đổi mới thành công của Việt Nam và Trung Quốc, phong trào cánh tả và xã hội chủ nghĩa trên toàn thế giới cũng đang trỗi dậy mạnh mẽ. Hơn nữa, nhiều nước tư bản phát triển theo xu hướng xã hội dân chủ cũng cho thấy nhiều dấu hiệu thực tế của một xã hội tương lai thay thế chủ nghĩa tư bản đang hình thành và ra đời ở chính trong lòng những nước tư bản chủ nghĩa phát triển. Với những ý nghĩa trên, rõ ràng, xã hội loài người đang chuyển mình mạnh mẽ sang một xã hội mới - xã hội xã hội chủ nghĩa như một tiến trình phát triển lịch sử tự nhiên.
Mặc dù sự thay thế nhau của các hình thái kinh tế - xã hội là một quá trình lịch sử tự nhiên, nhưng sự thay thế ấy bao giờ cũng trải qua một quá trình biến đổi, chuyển đổi lâu dài. Đó là thời kỳ quá độ. Sở dĩ phải có thời quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội, trước hết là do chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa tư bản khác nhau một cách căn bản. Xã hội tư bản dựa trên chế độ tư hữu về tư liệu sản xuất, xã hội phân chia thành giai cấp, áp bức, bóc lột giai cấp và tồn tại sự đối kháng giai cấp, còn xã hội chủ nghĩa dựa trên chế độ công hữu về tư liệu sản xuất, không phân chia thành giai cấp, không có bóc lột, áp bức giai cấp và đối kháng giai cấp. Rõ ràng, hai xã hội khác nhau như thế nên để từ xã hội này chuyên đổi sang xã hội kia, dĩ nhiên, cần phải có một khoảng thời gian chuyến đổi lâu dài. Thứ hai, chủ nghĩa tư bản đã tạo ra tiền đề vật chất là nền sản xuất đại công nghiệp với trình độ cao làm cơ sở vật chất cho sự ra đời và phát triển của chủ nghĩa xã hội, tuy nhiên, cần phải có thời gian lâu dài để tổ chức, sắp xếp lại, quản lý và điều tiết nền đại công nghiệp đó cho phù hợp với điều kiện của chủ nghĩa xã hội. Thứ ba, chủ nghĩa tư bản đã mở đường và tạo điều kiện cho sự phát triển mạnh mẽ lực lượng sản xuất xã hội nhưng quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa đã trở thành "xiềng xích" kìm hãm sự phát triển của nó vì vậy phải có một thời gian nhất định để xóa bỏ hoàn toàn quan hệ sản xuất cũ và xây dựng quan hệ sản xuất mới xã hội chủ nghĩa phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất. Thứ tư, xây dựng chủ nghĩa xã hội là công việc hoàn toàn mới mẻ, khó khăn, phức tạp, chưa có tiền lệ, vì vậy, việc xây dựng này phải được thực hiện một cách thận trọng, vừa làm vừa rút kinh nghiệm, vừa điều chỉnh. Hơn nữa, việc cải tổ sản xuất thay đổi căn bản mọi lĩnh vực của đời sống xã hội là một công việc vừa phức tạp, vừa phải đấu tranh quyết liệt giữa cái cũ và cái mới, giữa các lực lượng xã hội có lợi ích và quyền lợi đối lập nhau. . . vì lẽ đó, thực trạng này sẽ diễn ra một cách lâu dài trong đời sống xã hội.
Đó là những nét cơ bản nhất của tính tất yếu của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Dĩ nhiên, tính tất yếu này được qui định một cách cụ thể bởi những đặc điểm văn hóa, những đặc thù của xuất phát điểm của các nước, các chế độ xã hội khác nhau khi tiến lên chủ nghĩa xã hội. Chính đặc điểm văn hóa và đặc thù của điểm xuất phát khi bước vào thời kỳ quá độ sẽ qui định nội dung, đặc điểm, mục tiêu, nhiệm vụ và độ dài của thời kỳ quá độ của mỗi quốc gia. Điều này cũng có nghĩa, mỗi quốc gia sẽ có thời kỳ quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội đặc sắc riêng của mình.
Thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội
Phạm trù thời kỳ quá độ được C.Mác nêu ra trong tác phẩm Phê phán Cương lĩnh Gôtha là:"Giữa xã hội tư bản chủ nghĩa và xã hội cộng sản chủ nghĩa là một thời kỳ cải biến cách mạng từ xã hội nọ sang xã hội kia. Thích ứng với thời kỳ ấy là một thời kỳ quá độ chính trị, và nhà nước của thời kỳ ấy không thể là gì khác hơn là nền chuyên chính cách mạng của giai cấp vô sản"(3). Đây là một định nghĩa nổi tiếng về thời kỳ quá độ. Trong tác phẩm này, C.Mác chỉ rõ thời kỳ quá độ có một số điểm đáng lưu sau: xã hội thời kỳ quá độ là xã hội vừa thoát thai từ xã hội tư bản chủ nghĩa, do đó, mọi mặt của nó đều mang dấu ấn sâu sắc của xã hội tư bản chủ nghĩa; Thời kỳ quá độ là thời kỳ cải biến cách mạng một cách sâu sắc từ xã hội tư bản chủ nghĩa sang xã hội xã hội chủ nghĩa; Công cụ để thực hiện sự cải biến đó là nhà nước, đó là nhà nước chuyên chính cách mạng của giai cấp vô sản; Thời kỳ quá độ là thời kỳ sinh đẻ lâu dài và đau đớn(4).
Kế thừa và phát triển những tư tưởng của C.Mác, V.I. Lênin đã nói một cách cụ thể hơn về thời kỳ quá độ: "Danh từ quá độ có nghĩa là gì? Vận dụng vào kinh tế, có phải nó có nghĩa là trong chế độ hiện nay có những thành phần, những bộ phận, những mảnh của cả chủ nghĩa tư bản lẫn chủ nghĩa xã hội không? Bất cứ ai cũng thừa nhận là có”(5). Và, V.I. Lênin, nói rõ hơn: về lý luận, không thể nghi ngờ gì được rằng giữa chủ nghĩa tư bản và chủ nghĩa cộng sản, có một thời kỳ quá độ nhất định. Thời kỳ đó không thể không bao gồm những đặc điểm hoặc những đặc trưng của cả hai kết cấu kinh tế - xã hội ấy. Thời kỳ quá độ ấy không thể nào lại không phải là một thời kỳ đấu tranh giữa chủ nghĩa tư bản đang giãy chết và chủ nghĩa cộng sản đang phát sinh, hay nói một cách khác, giữa chủ nghĩa tư bản đã bị đánh bại nhưng chưa bị tiêu diệt hẳn, và chủ nghĩa cộng sản đã phát sinh nhưng vẫn còn rất non yếu”(6).
Như vậy, theo các nhà kinh điển, thời kỳ quá độ là thời kỳ cải biến cách mạng sâu sắc, toàn diện từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa cộng sản. Đó là thời điểm mà, đồng thời cùng tồn tại những đặc điểm, đặc trưng của cả hai kết cấu kinh tế - xã hội tư bản chủ nghĩa và cộng sản chủ nghĩa và diễn ra cuộc đấu tranh giữa chủ nghĩa tư bản đã bị đánh bại nhưng chưa bị tiêu diệt hẳn và chủ nghĩa cộng sản đã phát sinh nhưng còn rất non yếu.
Trên cơ sở quan điểm của C.Mác, V.I.Lênin đã chỉ ra bốn đặc điểm cơ bản của thời kỳ quá độ là: Thứ nhất, đó là thời kỳ, xét về mọi mặt của đời sống xã hội, đều do nhiều thành phần không thuần nhất tạo nên. Đó là thời kỳ có sự đan xen, thâm nhập lẫn nhau giũa chủ nghĩa tư bản và chủ nghĩa xã hội.
Theo V.I. Lênin, trong thời kỳ này. . . một mẩu nhỏ của chủ nghĩa tư bản và một mẩu nhỏ của chủ nghĩa xã hội tồn tại cạnh nhau. Thứ hai,đó là thời kỳ, sự phát triển của cái cũ, của những trật tự cũ đôi khi lấn át những mầm mống của cái mới, những trật tự mới. V.I. Lênin cho rằng những mảnh vụn của trật tự cũ đôi khi chất đống lại một cách nhanh chóng, trong khi những mầm mống của cái mới có khi lại phát triển chậm chạp và không phải bao giờ cũng thấy rõ ngay được. Thứ ba, đó là thời kỳ xét về mọi phương diện, đều có sự phát triển của tính tự phát tiểu tư sản, là thời kỳ chứa đựng mâu thuẫn không thể dung hòa được giữa tính kỷ luật nghiêm ngặt của giai cấp vô sản và tính vô chính phủ, vô kỷ luật của các tầng lớp tiểu tư sản. V.I. Lênin khẳng định, mâu thuẫn giữa tính tự phát tiểu tư sản và tính kỷ luật nghiêm ngặt của giai cấp vô sản là một trong những đặc điểm nổi bật của giai đoạn quá độ. Thứ tư, đó là thời kỳ lâu dài, có rất nhiều khó khăn, phức tạp, phải trải qua nhiều lần thử nghiệm để rút ra những kinh nghiệm, những hướng đi đúng đắn; tuy nhiên, trong quá trình thử nghiệm ấy có thể phải trả giá cho những sai lầm nghiêm trọng. V.I. Lênin từng nói, chúng ta biết rằng việc chuyển từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội là cuộc đấu tranh vô cùng khó khăn. Nhưng chúng ta sẵn sàng chịu hàng nghìn khó khăn, thực hiện hàng nghìn lần thử, và, khi chúng ta đã thực hiện được một nghìn lần thử rồi, thì chúng ta sẽ thực hiện cái lần thử thứ một nghìn lẻ một(7).
Đồng thời, V.I. Lênin, cũng đã có sự phân chia quá trình hình thành và phát triển của chủ nghĩa cộng sản thành 3 giai đoạn cụ thể như sau: giai đoạn những cơn đau đẻ kéo dài; giai đoạn đầu của xã hội cộng sản chủ nghĩa; và giai đoạn cao của xã hội cộng sản chủ nghĩa(8). Theo V.I. Lênin "giai đoạn đầu của xã hội cộng sản chủ nghĩa” chính là xã hội xã hội chủ nghĩa còn thời kỳ những cơn đau đẻ kéo dài" chính là thời kỳ quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội (Trong tác phẩm Cương lĩnh quân sự của cách mạng vô sản năm 1916, lần đầu tiền V.I. Lênin dùng khái niệm: "thời kỳ quá độ từ xã hội tư sản sang xã hội xã hội chủ nghĩa"). Như vậy, thời kỳ quá độ là một giai đoạn độc lập có vị trí riêng biệt nằm giữa chủ nghĩa tư bản và chủ nghĩa xã hội. Điều này cũng có nghĩa thời kỳ quá độ chưa phải là chủ nghĩa xã hội và cũng không nằm ở giai đoạn đầu của chủ nghĩa cộng sản. Xác định đúng và làm rõ vị trí của thời kỳ quá độ có ý nghĩa lý luận và thực tiễn quan trọng bởi nó giúp ta xác định được đặc điểm, nội dung và nhiệm vụ cũng như mục đích của thời kỳ này.
Độ dài của thời kỳ quá độ bao giờ cũng bị qui định bởi đặc trưng văn hóa và xuất phát điểm khi bước vào thời kỳ quá độ của mỗi quốc gia cụ thể V.I. Lênin cho rằng, cần phải có một thời kỳ quá độ khá lâu dài từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội. Ông còn nói cụ thể hơn: " . . .tất yếu phải có một thời kỳ quá độ lâu dài và phức tạp từ xã hội tư bản chủ nghĩa (xã hội đó càng ít phát triển, thì thời kỳ đó càng dài) . . . tiến lên xã hội cộng sản chủ nghĩa”(9). Như vậy theo V.I. Lênin, bản thân những nước có điểm xuất phát khi bước vào thời kỳ quá độ là từ chủ nghĩa tư bản đã cần phải có độ dài của thời kỳ quá độ là khá lâu dài thì đối với những nước có điểm xuất phát thấp hơn chủ nghĩa tư bản - tiền tư bản chủ nghĩa, thì càng chắc chắn rằng sẽ có thời kỳ quá độ còn phải lâu dài hơn gấp nhiều lần. Bởi lẽ, về mặt khách quan, chủ nghĩa xã hội ra đời trên cơ sở của sự phát triển chủ nghĩa tư bản; hay nói cách khác, trong quá trình phát triển mạnh mẽ của mình, chủ nghĩa tư bản đã tạo ra tiền đề hiện thực (cả vật chất và tinh thần) cho sự ra đời của chủ nghĩa xã hội. Đó không chỉ là sự phát triển của lực lượng sản xuất, của quan hệ sản xuất, nền đại công nghiệp, phương pháp quản lý, tổ chức sản xuất và xã hội mà còn cả sự phát triển toàn diện của văn hóa, xã hội và con người. Đó chính là tiền đề hiện thực của sự ra đời của xã hội mới - xã hội chủ nghĩa.
Chưa trải qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa cũng có nghĩa là chưa có đầy đủ cơ sở vật chất kỹ thuật, cơ sở xã hội và con người để tiến lên chủ nghĩa xã hội một cách nhanh chóng và vững chắc. Tuy nhiên, đối với những nước chưa trải qua quá trình phát triển chủ nghĩa tư bản thì, muốn xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội, nhất thiết phải thực hiện thời kỳ quá độ một cách lâu dài với những bước đi thích hợp và với một khối lượng công việc to lớn bao gồm trong đó không chỉ những nội dung cơ bản của thời kỳ quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội, mà hơn thế, còn phải đồng thời đạt được cả những thành tựu căn bản mà chủ nghĩa tư bản phải mất hàng trăm năm mới có được. Như vậy, đối với các nước như thế, chắc chắn thời kỳ quá độ không chỉ vô cùng khó khăn, phức tạp mà còn là một giai đoạn phát triển rất lâu dài.
Trong di sản quý báu của các nhà sáng lập chủ nghĩa Mác - Lênin về thời kỳ quá độ có rất nhiều nội dung phong phú và đa dạng, cũng có những nội dung các ông đề xuất khi đó đến nay không còn phù hợp, nhưng nhìn chung về cơ bản tư tưởng của các ông về thời kỳ quá độ cũng như đặc điểm, nội dung và nhiệm vụ của nó hầu như vẫn giữ nguyên giá trị và vẫn hoàn toàn phù hợp với sự phát triển của xã hội hiện đại. Có thể nêu một số nội dung chủ yếu sau:
Thứ nhất, về xã hội. Trong thời kỳ quá độ, tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội là sự đan xen lẫn nhau giữa chủ nghĩa tư bản và chủ nghĩa xã hội, giữa cái mới và cái cũ, trong khi cái cũ vẫn còn rất mạnh mẽ thì cái mới còn ở dạng mầm mống, yếu ớt, phát triển chậm chạp.
Thứ hai, về chính trị. Thời kỳ quá độ là thời kỳ đầy khó khăn, phức tạp, trải qua nhiều bước trung gian, nhiều cuộc thể nghiệm, và đặc biệt là luôn luôn vấp phải sự phản kháng nhằm phá hoại, lật đổ chế độ mới, phục hồi, giành lại chính quyền của giai cấp tư sản vì vậy, nếu không tỉnh táo, sáng suốt và quyết liệt giai cấp công nhân có thể bị thất bại và mất chính quyền công nông.
Thứ ba, về tâm lý - ý thức. Đó là tâm lý phục thù, khôi phục lại chính quyền cũ của giai cấp tư sản; tâm lý vô chính phủ, tập quán tản mạn, tự do buôn bán, hoang mang, dao động của tầng lớp tiểu tư sản; lối sống thiếu văn hóa, không tuân thủ pháp luật, tệ tham ô, hối lộ, quan liêu; thói kiêu ngạo cộng sản, tâm lý thỏa mãn, hưởng thụ, lười biếng của một bộ phận trong xã hội... Với thực trạng đó nó rất dễ tạo nên một xã hội hỗn tạp và rối loạn về xã hội và tâm lý xã hội.
Thứ tư, về kinh tế. Đó là sự cùng tồn tại đan xen, hợp tác và cạnh tranh quyết liệt với nhau của các thành phần, yếu tố kinh tế, quan hệ kinh tế cả tư bản, tiền tư bản và xã hội chủ nghĩa. Đặc biệt, việc xóa bỏ quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa, thiết lập quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa nhất thiết phải trải qua quá trình lâu dài, dần dần có lộ trình với những bước đi thích hợp và thường xuyên được điều chỉnh cho phù hợp với tình hình thực tiễn của từng giai đoạn phát triển.
Thứ năm, về chế độ chính trị. Phải xây dựng và thực hiện chế độ tập trung dân chủ. Đổi mới xã hội chủ nghĩa đó là sự thống nhất giữa đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị. Xây dựng và hoàn thiện hệ thống chính trị từ Trung ương đến cơ sở nhằm phù hợp và đáp ứng kịp thời những nhiệm vụ cấp thiết và quan trọng của thời kỳ quá độ. Đồng thời, quan tâm xây dựng, củng cố và nâng cao vai trò của các tổ chức quần chúng nhằm đưa các tổ chức này thiết thực góp phần xây dựng xã hội mới xã hội chủ nghĩa và bảo vệ lợi ích chính đáng của giai cấp công nhân và nhân dân lao động.
Thứ sáu, về văn hóa, khoa học, kỹ thuật. Đối với việc xây dựng nền văn hóa và khoa học, kỹ thuật mới xã hội chủ nghĩa trong thời kỳ quá độ cần phải trên cơ sở kế thừa, tiếp thu có chọn lọc nền văn hóa và khoa học, kỹ thuật với tư cách là những thành tựu mà nhân loại đã sáng tạo và tích lũy được hàng nghìn năm qua, nhất là những thành tựu của thời kỳ phát triển tư bản chủ nghĩa(10).
Quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam
Thấm nhuần những tư tưởng căn bản của các nhà kinh điển về thời kỳ quá độ Đảng ta khẳng định, thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã ởnước ta ". . .là một quá trình cách mạng sâu sắc, triệt để, đấu tranh phức tạp giữa cái cũ và cái mới nhằm tạo ra sự biến đổi về chất trên tất cả mọi lĩnh vực của đời sống xã hội, nhất thiết phải trải qua một thời kỳ quá độ lâu dài với nhiều bước phát triển, nhiều hình thức tổ chức kinh tế, xã hội đan xen"(11). Chỉ với một đoạn văn ngắn, trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin và những thành tựu về lý luận cũng như thực tiễn có được trong quá trình lãnh đạo xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta mấy chục năm qua, nhất là trong 25 năm đổi mới, Đảng ta đã đưa ra sự khái quát về thời kỳ quá độ ở Việt Nam.
Theo sự khái quát của Đảng, thời kỳ quá độ đó là một quá trình cách mạng sâu sắc, triệt để, đấu tranh phức tạp giữa cái cũ và cái mới. Có thể hiểu cái cũ ở đây không chỉ là những tàn dư của xã hội tiền tư bản mà xã hội ta mới thoát ra mấy chục năm qua, mà cái cũ ở đây còn là những yếu tố tư bản chủ nghĩa đang và sẽ hiện diện trong đời sống kinh tế - xã hội. Những nhân tố này có thể là mới so với thực trạng xã hội ta (chẳng hạn như sở hữu tư nhân, kinh tế thị trường...) nhưng lại cũ so với những nhân tố xã hội chủ nghĩa mà chúng ta đang xây dựng; Đó là để tạo ra sự biến đổi về chất trên tất cả mọi lĩnh vực của đời sống xã hội. Sự biến đổi về chất nghĩa là sự biến đổi mang tính chất bản chất, căn bản, toàn diện khác với sự biến đổi về lượng, sự biến đổi của từng bộ phận. Nghĩa là trong thời kỳ quá độ, ở nước ta sẽ diễn ra sự biến đổi mang tính chất bản chất, căn bản và toàn diện ở tất cả mọi lĩnh vực của đời sống xã hội; và, quá trình đó phải diễn ra lâu dài với nhiều bước phát triển, nhiều hình thức tổ chức kinh tế, xã hội đan xen: Đó là do xuất phát điểm của nước ta thấp và xã hội ta cũng chưa trải qua sự phát triển của chủ nghĩa tư bản vì vậy, thời kỳ quá độ phải diễn ra lâu dài là một tất yếu lịch sử. Đồng thời, với sự lâu dài đó, thời kỳ quá độ phải trải qua nhiều bước phát triển khác nhau với nhiều hình thức tổ chức kinh tế, xã hội cùng phát triển hội nhập, đan xen nhau. Có thể khẳng định, khi bước vào thời kỳ quá độ, chúng ta gặp rất nhiều khó khăn. Đó là do, đất nước ta mới trải qua hai cuộc chiến tranh nên mọi lĩnh vực của đời sống xã hội đều bị tàn phá, chưa kinh qua thời kỳ phát triển tư bản chủ nghĩa nên hầu như chưa có những tiền đề thực tiễn cơ bản cho sự ra đời của chủ nghĩa xã hội, hệ thống chủ nghĩa xã hội thế giới tan rã và phong trào xã hội chủ nghĩa và công nhân quốc tế đang ở thời kỳ thoái trào. Bên cạnh đó, "các thế lực thù địch tiếp tục chống phá, tìm cách xóa bỏ chủ nghĩa xã hội". Trong bối cảnh khó khăn đó, Đảng ta vẫn lạc quan khẳng định, "Chúng ta có nhiều thuận lợi cơ bản: có sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng Cộng sản Việt Nam do Chủ tịch Hồ Chí Minh sáng lập và rèn luyện, có bản lĩnh chính trị vững vàng và dày dặn kinh nghiệm lãnh đạo; dân tộc ta là một dân tộc anh hùng; nhân dân ta có lòng yêu nước nồng nàn, có truyền thống đoàn kết và nhân ái, cần cù lao động và sáng tạo, luôn ủng hộ và tin tưởng vào sự lãnh đạo của Đảng; chúng ta đã từng bước xây dựng được những cơ sở vật chất - kỹ thuật rất quan trọng; cuộc cách mạng khoa học và công nghệ hiện đại, sự hình thành và phát triển của kinh tế tri thức cùng với quá trình toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế là một thời cơ để phát triển”(12).
Trong bối cảnh những thuận lợi và khó khăn hiện nay, Đảng ta chỉ rõ mục tiêu tổng quát khi kết thúc thời kỳ quá độ ở nước ta là, chúng ta xây dựng được về cơ bản nền tảng kinh tế của chủ nghĩa xã hội với kiến trúc thượng tầng về chính trị, tư tưởng, văn hóa phù hợp tạo cơ sở để nước ta trở thành một nước xã hội chủ nghĩa ngày càng phồn vinh, hạnh phúc. Cụ thể hơn, Đảng ta chỉ rõ, đến giữa thế kỷ XXI, nước ta trở thành một nước công nghiệp hiện đại, theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Đây quả là những nhiệm vụ nặng nề bởi trước hết "xây dựng được về cơ bản nền tảng kinh tế của chủ nghĩa xã hội" nghĩa là nền kinh tế của chúng ta phải liên tục phát triển vượt bậc để đến khi kết thúc thời kỳ quá độ chúng ta đạt được nền kinh tế phát triển rất cao đủ cơ sở hiện thực để đưa xã hội ta bước vào thời kỳ phát triển xã hội xã hội chủ nghĩa; thứ hai, phải xây dựng được kiến trúc thượng tầng về chính trị, tư tưởng, văn hóa phù hợp với hạ tầng cơ sở phát triển cao như thế. Đây quả là vấn đề không đơn giản như các nhà kinh điển đã chỉ ra. Bởi vì, thời kỳ quá độ là thời kỳ diễn ra những cuộc biến đổi hết sức sâu sắc và căn bản, nó diễn ra cuộc đấu tranh quyết liệt giữa cái cũ và cái mới, giữa chủ nghĩa tư bản và chủ nghĩa xã hội, giữa giai cấp tư sản, những thế lực phản động và giai cấp công nhân, nhân dân lao động. Nghĩa là, ở đó chúng ta không chỉ có xây dựng mà cơ bản hơn là phải đấu tranh quyết liệt để giữ chính quyền, bảo vệ chế độ và xây dựng những "cơ sở để nước ta trở thành một nước xã hội chủ nghĩa ngày càng phồn vinh, hạnh phúc".
Nhận thức đúng những thời cơ và thách thức đang đặt ra để thực hiện được mục tiêu tổng quát khi kết thúc thời kỳ quá độ, Đảng ta chỉ rõ chúng ta phải quán triệt và thực hiện tốt các phương hướng, nhiệm vụ cơ bản: Đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước gắn liền với phát triển kinh tế tri thức, bảo vệ tài nguyên, môi trường; Phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa; Xây dựng nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc; Xây dựng con người, nâng cao đời sống nhân dân, thực hiện tiến bộ và công băng xã hội; Bảo đảm vững chắc quốc phòng và an ninh quốc gia, trật tự an toàn xã hội; Thực hiện đường lối đối ngoại độc lập, dân chủ, hòa bình, hữu nghị, hợp tác và phát triển; chủ động và tích cực hội nhập quốc tế; Xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, thực hiện đại đoàn kết toàn dân tộc, tăng cường và mở rộng mặt trận dân tộc thống nhất; Xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân; Xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh.
Đặc biệt, trong Đại hội XI, vấn đề mô hình phát triển xã hội - mô hình chủ nghĩa xã hội Việt Nam đã được Đảng ta trình bày một cách vừa cụ thể vừa hết sức sâu sắc, toàn diện. Đảng ta khẳng định, "Xã hội xã hội chủ nghĩa mà nhân dân ta xây dựng là một xã hội: Dân giàu, nước mạnh dân chủ, công bằng, văn minh; do nhân dân làm chủ; có nền kinh tế phát triển cao dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và quan hệ sản xuất tiến bộ phù hợp; có nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc; con người có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, có điều kiện phát triển toàn diện; các dân tộc trong cộng đồng Việt Nam bình đẳng đoàn kết, tôn trọng và giúp nhau cùng phát triển; có Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân do Đảng Cộng sản lãnh đạo; có quan hệ hữu nghị và hợp tác với các nước trên thế giới”(13).
Đây là mô hình chủ nghĩa xã hội đặc thù Việt Nam mang tính định hướng trong suốt thời kỳ quá độ. Sở dĩ nói định hướng là vì, như đã nêu trên, thời kỳ quá độ là một giai đoạn phát triển mang tinh độc lập và nằm trong giai đoạn chuyên đổi từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội. Vì vậy, xã hội trong thời kỳ quá độ chưa phải là xã hội xã hội chủ nghĩa mà chỉ là xã hội quá độ tiến lên chủ nghĩa xã hội.
Những đặc trưng của xã hội xã hội chủ nghĩa mà Đảng ta khái quát trên phản ánh thực trạng xã hội ta hiện nay với tư cách là những bước đi ban đầu của thời kỳ quá độ. Khác với những nước tư bản phát triển, khi tiến lên chủ nghĩa xã hội, họ trực tiếp thực hiện bước quá độ từ chủ nghĩa tư bản, Việt Nam khi bước vào thời kỳ quá độ chúng ta chưa trải qua sự phát triển của chủ nghĩa tư bản, dĩ nhiên, chúng ta có đủ cơ sở thực tiễn khách quan và chủ quan như Đảng ta đã chỉ rõ để thực hiện thành công sự quá độ tiến lên chủ nghĩa xã hội.
Những đặc trưng của mô hình xã hội xã hội chủ nghĩa Việt Nam vừa mang tính chất định hướng lâu dài vừa mang tính chất những nhiệm vụ cụ thể cần đạt tới trong từng bước đi, từng giai đoạn, từng thời kỳ của cả thời kỳ quá độ. Điều này mang ý nghĩa phương pháp luận rất quan trọng không chỉ đối với thực tiễn mà cả lý luận. Về mặt thực tiễn, mô hình chủ nghĩa xã hội không phải là một hệ chuẩn cố định, cứng nhắc, bất biến mà là một hệ thống giá trị phổ quát, sinh động luôn vận động và biến đổi cùng với sự vận động và biến đổi của thực tiễn lịch sử. Về mặt lý luận, nhận thức là một quá trình và do đó, chân lý cũng là quá trình. Nhận thức về chủ nghĩa xã hội với tư cách là nhận thức về một thực thể đang hình thành, đang vận động và phát triển càng là một quá trình phức tạp với nhiều bất ngờ, mới mẻ. Do đó, nhận thức vê mô hình chủ nghĩa xã hội càng phải tuân thủ các phương pháp nhận thức biện chứng duy vật. Quan điểm của Đảng ta về mô hình chủ nghĩa xã hội xã hội Việt Nam chính là thành tựu to lớn về tư duy lý luận của Đảng ta mấy chục năm lãnh đạo nhân dân ta xây dựng chủ nghĩa xã hội, nhất là hai mươi lăm năm đổi mới vừa qua. Nhưng có thể khẳng định rằng, đó là mô hình tổng quát, trong thời kỳ quá độ, nhiều đặc trưng mới, cụ thể và phù hợp hơn với thực tiễn, với chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản chắc chắn sẽ được Đảng ta tiếp tục bổ sung và hoàn thiện./.
___________
1. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2011, tr. 69.
2. Đảng Cộng sản Việt Nam: Sđd, tr. 68-69.
3. C.Mác và Ph.Ăngghen: Toàn tập, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, tập 19, Tr. 47.
4. Xin xem: GS, PTS Nguyễn Trọng Chuẩn, PTS. Phạm Văn Đức, PTS. Hồ Sỹ Quý (Đồng chủ biên): Những quan điểm cơ bản của C.Mác – Ph.Ăngghen – V.I. Lênin về chủ nghĩa xã hội và thời kỳ quá độ. Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1997. tr. 155.
5. V.I Lênin: Toàn tập, Nxb Tiến bộ, Mátxcơva, 1977, t.36, tr. 362.
6. V.I. Lênin: Sđd, t.39. tr. 309-310.
7. GS, PTS. Nguyễn Trọng Chuẩn, PTS. Phạm Văn Đức, PTS. Hồ Sỹ Quý (Đồng chủ biên): Sđd, tr.162-163.
8. V.I. Lênin: Sđd, t. 33, tr. 223.
9. V.I. Lênin: Sđd, t44, tr. 197.
10. GS, PGS. Nguyễn Trọng Chuẩn, PTS. Phạm Văn Đức, PTS. Hồ Sỹ Quý (Đồng chủ biên): Sđd, tr. 189-192.
11. Đảng Cộng sản Việt Nam: Sđd, tr. 70.
12. Đảng Cộng sản Việt Nam: Sđd, tr. 70 – 71.
13. Đảng Cộng sản Việt Nam: Sđd, tr. 70.