Tiếp tục đổi mới công tác nghiên cứu lý luận theo tinh thần Nghị quyết XI của Đảng ThS. Vũ Văn Hòa - Tạp chí Cộng sản

Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XI Đảng Cộng sản Việt Nam tiến hành tổng kết 20 năm thực hiện Cương lĩnh năm 1991, 10 năm thực hiện Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội (2001-2010) và 5 năm thực hiện Nghị quyết Đại hội lần thứ X, thông qua Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm 2011); Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 2011-2020; Báo cáo chính trị của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa X; đề ra Phương hướng nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội giai đoạn 2011-2015. Một nội dung quan trọng được Đại hội XI đề cập là đánh giá công tác nghiên cứu lý luận trong thời kỳ đổi mới. Đại hội khái quát những thành tựu và những hạn chế chủ yếu của công tác nghiên cứu lý luận trong 25 năm đổi mới, đặc biệt là quá trình tổng kết thực tiễn đổi mới chuẩn bị các văn kiện trình Đại hội XI, từ đó xác định phương hướng, nhiệm vụ công tác nghiên cứu lý luận trong tình hình mới. Quán triệt tinh thần Nghị quyết của Đại hội XI, bài viết sẽ tập trung vào chủ đề tiếp tục đổi mới công tác nghiên cứu lý luận trong tình hình hiện nay.

I. SỰ CẦN THIẾT PHẢI ĐỔI MỚI CÔNG TÁC NGHIÊN CỨU LÝ LUẬN

Xuất phát từ quy luật vận động, phát triển của lý luận

Với tư cách là sự phản ánh hiện thực khách quan, lý luận không ngừng vận động, phát triển, không ngừng hoàn thiện, bổ sung. Đây là quy luật nội tại của lý luận với tư cách hình thức khái quát nhất của ý thức xã hội. Cùng với sự vận động, chuyển biến không ngừng của thực tiễn phát triển đất nước, đổi mới công tác lý luận nói chung, nghiên cứu lý luận nói riêng tất yếu phải được tiến hành thường xuyên, liên tục. Chỉ có vậy, lý luận mới đảm đương được chức năng định hướng, dẫn đường cho hoạt động thực tiễn: Đổi mới, nâng cao chất lượng nghiên cứu lý luận trở thành nhu cầu bên trong đối với sự tồn tại của bản thân lý luận.

Trong quá trình vận động, phát triển, lý luận luôn có sự kế thừa, lọc bỏ kết quả, thành tựu của thời kỳ trước. Lý luận có thể bị lạc hậu hoặc vượt trước so với sự vận động phát triển của thực tiễn. Vì lạc hậu nên lẽ hiển nhiên là lý luận phải được bổ sung, điều chỉnh. Vì vượt trước, mà trong sự vượt trước ấy lý luận bao hàm cả những dự báo chính xác, đúng với thực tiễn, cả những dự báo sai, không chuẩn xác so với thực tiễn. Do vậy, lý luận luôn phải nhìn lại bản thân, phải soi  mình vào thực tiễn để tự điều chỉnh, tự bổ sung, tự hoàn thiện.

Như vậy, xét từ những quy luật vận động, phát triển của bản thân lý luận, sự đổi mới, bổ sung, hoàn thiện, phát triển lý luận là một tất yếu khách quan, là một nhiệm vụ thường xuyên, không thể xem nhẹ. Điều đó có nghĩa, đổi mới, nâng cao chất lượng nghiên cứu lý luận phải trở thành một công việc thường trực, liên tục của giới lý luận.

Xuất phát từ sự vận động, biến đổi của thực tiễn

Giữa lý luận và thực tiễn có mối quan hệ biện chứng. Trong quan hệ ấy, thực tiễn đóng vai trò cơ sở, mục đích, động lực của lý luận, tiêu chí để kiểm nghiệm tính chân lý, tính đúng đắn của lý luận.

Song, lý luận không phản ánh thực tiễn một cách thụ động, mà đóng vai trò kim chỉ nam, định hướng, vạch đường đi cho thực tiễn, xác định phương pháp hành động hiệu quả nhất để đạt mục đích của thực tiễn. Đồng thời, cần ý thức rõ rằng ''Lý luận rất cần thiết, nhưng nếu cách học tập lý luận không đúng thì sẽ không có kết quả. Do đó, trong lúc học tập lý luận, chúng ta cần nhấn mạnh: lý luận phải liên hệ với thực tiễn. Thống nhất giữa lý luận và thực tiễn là một nguyên tắc căn bản của chủ nghĩa Mác - Lênin. Thực tiễn không có lý luận hướng dẫn thì thành thực tiễn mù quáng. Lý luận mà không liên hệ với thực tiễn là lý luận suông. Vì vậy cho nên trong khi nhấn mạnh sự quan trọng của lý luận, đã nhiều lần đồng chí Lênin nhắc đi nhắc lại rằng, lý luận cách mạng không phải là giáo điều, nó là kim chỉ nam cho hành động cách mạng; và lý luận không phải là một cái gì cứng nhắc, nó đầy tính sáng tạo; lý luận luôn luôn cần được bổ sung bằng những kết luận mới rút ra trong thực tiễn sinh động. Những người cộng sản các nước phải cụ thể hoá chủ nghĩa Mác - Lênin cho thích hợp với điều kiện, hoàn cảnh từng lúc và từng nơi''1.

Những thập niên vừa qua tình hình thế giới và khu vực thay đổi nhanh chóng, vô cùng phức tạp. Xu thế vận động khách quan này của thế giới sẽ tiếp tục duy trì trong những năm sắp tới. Về vấn đề này, Đại hội XI của Đảng nhận định, ''bối cảnh thế giới đang thay đổi rất nhanh, phức tạp, khó lường. Hoà bình, hợp tác và phát triển vẫn là xu thế lớn, nhưng xung đột sắc tộc, tôn giáo, chiến tranh cục bộ, can thiệp, lật đổ, khủng bố vẫn diễn ra gay gắt, các yếu tố đe dọa an ninh phi truyền thống, tội phạm công nghệ cao tiếp tục gia tăng. Những vấn đề toàn cầu như an ninh tài chính, an ninh năng lượng, an ninh lương thực, biến đổi khí hậu, thiên tai, dịch bệnh... sẽ tiếp tục diễn biến phức tạp. Toàn cầu hoá và cách mạng khoa học - công nghệ phát triển mạnh mẽ, thúc đẩy quá trình hình thành xã hội thông tin và kinh tế tri thức. Kinh tế thế giới mặc dù có dấu hiệu phục hồi sau khủng hoảng nhưng vẫn còn nhiều khó khăn, bất ổn; quá trình cấu trúc lại nền kinh tế và điều chỉnh các thể chế tài chính diễn ra mạnh mẽ ở các nước. Cạnh tranh kinh tế thương mại, giành giật các nguồn tài nguyên, năng lượng, thị trường, công nghệ, nguồn vốn, nguồn nhân lực chất lượng cao... giữa các nước ngày càng gay gắt. Cuộc đấu tranh của nhân dân các nước trên thế giới vì hoà bình, độc lập dân tộc, dân sinh, dân chủ và tiến bộ xã hội tiếp tục phát triển. Cuộc đấu tranh giai cấp và dân tộc vẫn diễn biến phức tạp. Khu vực châu Á - Thái Bình Dương trong đó có khu vực Đông Nam Á, là khu vực phát triển năng động nhưng vẫn tồn tại nhiều nhân tố gây mất ổn định; tranh chấp lãnh thổ, biển đảo ngày càng gay gắt...''. Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm 2011) cũng xác định: ''Đặc điểm nổi bật trong giai đoạn hiện nay của thời đại là các nước với chế độ xã hội và trình độ phát triển khác nhau cùng tồn tại, vừa hợp tác vừa đấu tranh, cạnh tranh gay gắt vì lợi ích quốc gia, dân tộc”2. Những chuyển biến nhanh chóng đó của thế giới và khu vực đặt ra nhiều vấn đề, đòi hỏi giới nghiên cứu lý luận phải luận giải, phải đưa ra câu trả lời thuyết phục. Và như vậy, nếu không đổi mới, không nâng cao chất lượng công tác nghiên cứu, thì lý luận sẽ trở nên lạc hậu, sẽ bị cuộc sống đào thải.

Sự phát triển nhanh chóng của thực tiễn đổi mới đất nước cũng đặt ra hàng loạt vấn đề mới đòi hỏi lý luận phải đưa ra câu trả lời làm định hướng, kim chỉ nam cho hoạt động thực tiễn. Trong đó, nổi lên những vấn đề như: “...làm sáng tỏ một số vấn đề về đảng cầm quyền, về chủ nghĩa xã hội, con đường đi lên chủ nghĩa xã hội nước ta''3.

Rõ ràng là những biến chuyển nhanh chóng, phức tạp của thực tiễn trong nước và thế giới đều đặt ra những vấn đề, câu hỏi mới, cấp bách đòi hỏi lý luận phải giải quyết, phải trả lời. Để hoàn thành sứ mệnh cao cả ấy, không còn cách nào khác, là phải đổi mới và không ngừng nâng cao chất lượng công tác lý luận nói chung, nghiên cứu lý luận nói riêng.

Xuất phát từ đánh giá của Đảng về công tác nghiên cứu lý luận thời kỳ đổi mới

Thành tựu nghiên cứu lý luận thời kỳ đổi mới

Sau 25 năm tiến hành đổi mới, đất nước ta đã đạt được ''những thành tựu to lớn và có ý nghĩa lịch sử''. Công tác nghiên cứu lý luận cũng đạt nhiều thành tựu to lớn, góp phần làm nên những thành công chung của đổi mới, Nghị quyết Hội nghị Trung ương năm khóa IX của Đảng đánh giá, từ khi tiến hành đổi mới “... trình độ lý luận của Đảng ta đã có bước phát triển rõ rệt. Đảng đã không ngừng đổi mới phương pháp tư duy lý luận, kiên định và vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, khắc phục bệnh giáo điều chủ quan, duy ý chí, mở ra bước chuyển biến quan trọng trong tư duy lý luận từng bước xây dựng và hoàn chỉnh đường lối đối mới toàn diện, làm cho nước ta có bước phát triển ngày càng mạnh mẽ; giải đáp có căn cứ khoa học một vấn đề cơ bản về lý luận và thực tiễn; nhận thức đầy đủ hơn nội dung, giá trị và tầm vóc của tư tưởng Hồ Chí Minh, khẳng định chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh là nền tảng tư tưởng của Đảng''4.

Tiếp tục tinh thần đó, Đại hội toàn quốc lần thứ XI của Đảng đánh giá khái quát về thành tựu nghiên cứu lý luận như sau: ''Nhiều vấn đề mới nảy sinh từng bước được Đảng ta nhận thức và giải quyết có hiệu quả; nhiều vấn đề liên quan đến Cương lĩnh (năm 1991) đã có nhận thức mới sâu sắc hơn; quan niệm về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội nước ta ngày càng rõ hơn''5.

Những đánh giá trên đây của Đảng cho thấy, từ khi tiến hành đổi mới công tác nghiên cứu lý luận ở nước ta đã có chuyển biến tích cực. Những chuyển biến đó thể hiện trên một số phương diện chủ yếu sau:

Thứ nhất, Đảng ta ngày càng nhận thức rõ hơn tầm quan trọng đặc biệt, vai trò dẫn đường, định hướng của lý luận đối với sự nghiệp đổi mới bởi lẽ, như V.I Lênin đã dạy ''Không có lý luận cách mạng thì cũng không thể có phong trào cách mạng''6. Như vậy, vị trí của công tác tư tưởng, lý luận trong đời sống xã hội nước ta ngày càng được coi trọng lý luận nói chung, nghiên cứu lý luận nói riêng được nhìn nhận như yếu tố hợp thành động lực và nội dung của đổi mới. Khách quan mà nói, chính thực tiễn đổi mới là nhân tố xác lập, quyết định vị trí và vai trò của lý luận. Tầm vóc lịch sử và ý nghĩa chiến lược của đổi mới cũng như quy mô của những nhiệm vụ lịch sử mà đổi mới phải giải quyết đã khách quan hoá tầm quan trọng của lý luận trong đời sống xã hội, đã nâng cao đáng kể những ảnh hưởng của nó đối với mọi lĩnh vực đời sống xã hội, trước hết là đối với hoạt động chính trị, công tác lãnh đạo, quản lý, giáo dục tư tưởng chính trị cho cán bộ, đảng viên và toàn thể nhân dân.

Thứ hai, hai mươi lăm năm vừa qua, dưới ánh sáng của tư duy đổi mới, được cổ vũ và khích lệ bởi các quyết định, nghị quyết của Đảng, được thúc đẩy bởi bầu không khí cởi mở về tư tưởng, giới nghiên cứu lý luận nước ta đã chủ động, mạnh dạn thâm nhập thực tiễn, đã thể hiện sự nhiệt thành và tâm huyết với sự nghiệp đổi mới. Thông qua các công trình nghiên cứu và những cống hiến thực tế, đội ngũ nghiên cứu lý luận đã góp phần tích cực để đưa tư tưởng và đường lối đổi mới của Đảng vào cuộc sống. Nhiều công trình nghiên cứu đã góp phần quan trọng làm sáng tỏ phương diện lý luận và thực tiễn của đổi mới. Đó là kết quả của phương châm giải phóng tinh thần, thực hiện tự do tư tưởng do Đảng khởi xướng, cổ vũ và nó đã có tác động to lớn đối với việc phát huy mọi tiềm năng sáng tạo, huy động được sức mạnh tư duy và trí tuệ vào việc tìm tòi, phát hiện những tính quy luật của con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Trong những thành tựu của đổi mới có phần đóng góp đáng kể của công tác nghiên cứu lý luận. Những thành tựu đó thổi luồng gió mới vào đời sống lý luận, làm sâu sắc thêm mối quan hệ biện chứng giữa lý luận và thực tiễn trong thời kỳ đổi mới.

Thứ ba, không khí dân chủ trong hoạt động lý luận đã được phát huy một cách đáng kể. Điều đó tạo thêm động lực, nguồn cảm hứng mới cho đội ngũ những người nghiên cứu lý luận. Sự giải phóng tinh thần và tự do tư tưởng, tuy mới là bước đầu, nhưng có ý nghĩa sâu xa về nhiều mặt đối với công tác lý luận. Xã hội dần quen với không khí đối thoại, tranh luận, phát triển các nhu cầu về thông tin, chấp nhận sự đa dạng, khác biệt trong ý kiến và đánh giá xã hội, từng bước khắc phục tính đơn điệu, cứng nhắc, hình thức và sáo mòn trong các cuộc hội thảo và sinh hoạt khoa học. Tại các diễn đàn và trong các ấn phẩm đã xuất hiện không ít ý kiến, luận điểm mang tính tìm tòi, khám phá, những phương pháp tiếp cận mới.

Trên nền chung của đổi mới xã hội và sự bùng nổ thông tin đa chiều, cùng với sự nâng cao trình độ dân trí của xã hội, tư duy lý luận và công tác nghiên cứu lý luận đã dần vượt ra khỏi tình trạng chính trị hoá trong nội dung và giáo huấn đạo đức trong hình thức thể hiện. Nghiên cứu và giảng dạy lý luận từng bước vượt qua trình độ mô tả, bình giảng, nâng lên tầm phân tích, luận chứng, tổng kết, đề xuất các luận điểm và được khảo sát, minh chứng trong thực tiễn, đề xuất các kiến giải, đưa ra những dự báo.

Thứ tư, một đóng góp rất có ý nghĩa của công tác nghiên cứu lý luận ở nước ta trong thời kỳ đổi mới là đã thu hút sự tham gia ngày càng đông đảo giới nghiên cứu lý luận vào quá trình chuẩn bị, xây dựng Cương lĩnh, đường lối của Đảng, quá trình soạn thảo các văn kiện chính trị cho các Đại hội, các Hội nghị Trung ương của Đảng. Tiến trình soạn thảo cũng như thảo luận, đóng góp ý kiến để hoàn thiện các văn kiện đã thu hút được nhiều tinh hoa trí tuệ của cán bộ, đảng viên và nhân dân cả nước, trong đó giới nghiên cứu lý luận đóng vai trò lực lượng nòng cốt. Thông qua đó, Đảng đã chắt lọc, tiếp thu để hình thành nên hệ quan điểm và phương pháp đổi mới. Với quá trình đổi mới toàn diện, công tác nghiên cứu lý luận qua thể nghiệm thực tiễn đã tìm thấy phương thức thích hợp để nâng cao năng lực lãnh đạo và tăng cường khả năng tư duy, tiềm năng trí tuệ của Đảng, nâng cao trình độ nhận thức, niềm tin khoa học, ý thức chính trị của giới nghiên cứu lý luận, nghiên cứu khoa học nói riêng và của cán bộ, đảng viên và toàn thể nhân dân nói chung.

Phải thừa nhận rằng, từ trong thực tiễn đổi mới đang dần hình thành một lực lượng cán bộ nghiên cứu lý luận trẻ được đào tạo bài bản, được rèn luyện và trưởng thành trong thời kỳ đổi mới, trong môi trường chính trị, xã hội với không khí dân chủ và tinh thần sáng tạo. Đó là nguồn lực tinh thần vô cùng quý giá của Đảng và xã hội, nó tạo đà cho những chặng đường phát triển tiếp theo của đổi mới.

Hạn chế trong công tác nghiên cứu lý luận

Bên cạnh những thành tựu chủ yếu trên đây, hoạt động nghiên cứu lý luận vẫn còn không ít hạn chế, bất cập so với yêu cầu của đổi mới, cần được khắc phục. Những hạn chế, bất cập của công tác lý luận cho thấy, khoảng cách của nhiều vấn đề lý luận với cuộc sống hiện thực không những chưa được thu hẹp mà có xu hướng mở rộng thêm. Hiện đang tồn tại hai thực tế trái ngược nhau: một mặt, lý luận vẫn bị lạc hậu, vẫn đi sau cuộc sống, hàng loạt câu hỏi cơ bản và cấp bách do thực tiễn đổi mới đặt ra đòi hỏi lý luận trả lời.

Nhưng hoặc là lý luận chưa trả lời được, hoặc là trả lời nhưng chưa thuyết phục, chưa luận giải thấu đáo. Mặt khác, do thiếu sự dẫn dắt, chỉ đường, định hướng của lý luận đúng đắn, nên nhiều quá trình xã hội diễn ra một cách tự phát. Hậu quả là trong chỉ đạo thực tiễn chúng ta bị lúng túng, thụ động đối phó, không có đối sách rõ ràng, kịp thời và hiệu quả.

Nghiên cứu lý luận và đội ngũ nghiên cứu lý luận chưa ngang tầm nhiệm vụ, còn xa mới đáp ứng được yêu cầu của đổi mới. Những kết quả đạt được trong nghiên cứu và giảng dạy lý luận chưa đủ sức cung cấp cơ sở khoa học và thực tiễn để Đảng tham khảo trong quá trình hoạch định và thông qua chiến lược phát triển đất nước từng giai đoạn.

Các cơ quan và tổ chức làm công tác quản lý nghiên cứu và giảng dạy lý luận chưa được kiện toàn, chậm đổi mới, thiếu liên kết, phối hợp, nên vẫn kéo dài tình trạng hoạt động phân tán, biệt lập.

Tầm tư duy, tính khoa học của những sản phẩm nghiên cứu các vấn đề lý luận do thực tiễn đặt ra chưa đủ sức thuyết phục đối với yêu cầu của xã hội. Vẫn còn tình trạng một số công trình nghiên cứu lý luận mang nặng tính chất giáo điều, kinh viện, chủ yếu thuyết minh, giảng giải những nguyên lý có sẵn một cách giản đơn, theo công thức lôgic hình thức. Điều đó cho thấy sự tách biệt giữa lý luận và thực tiễn, lý luận chưa xuất phát từ yêu cầu của thực tiễn.

Lý luận thiếu sự sắc sảo và nhạy bén dễ dự báo, phát hiện những mâu thuẫn và tình huống có vấn đề trong quá trình đổi mới, từ đó dùng thực tiễn kiểm nghiệm lý luận, nhận thức lại những vấn đề lý luận trước đây đã được khẳng định, nhưng nay đã bị cuộc sống vượt qua.

Sự thiếu hụt về năng lực sáng tạo cũng như trình độ nhận thức và vận dụng tư duy lý luận ở một số người làm công tác lý luận đã dẫn tới tình trạng giản đơn, một chiều, nặng về mô tả các hiện tượng sự kiện, hoặc suy luận chủ quan mà không nâng lên tầm phân tích, tổng kết thực tiễn và khái quát lý luận. Đây là một trong những hạn chế không nhỏ của công tác nghiên cứu lý luận ở nước ta, và cũng là bằng chứng rõ rệt của thực trạng bất cập, lạc hậu về lý luận trước yêu cầu bức xúc của sự nghiệp đổi mới. Sự bất cập, chậm trễ này được biểu hiện rõ nét trước hết ở nội dung nghiên cứu: hàm lượng khoa học trong các công trình và ấn phẩm đã được xã hội hoá chưa cao. Tính chất giáo huấn nặng nề thay cho luận chứng khoa học, thiếu sự trình bày nêu vấn đề, kích thích tư duy độc lập, sự bồi dưỡng tư duy khoa học, sức lôi cuốn và sự hấp dẫn hướng tới những tìm tòi, những quan điểm khoa học, sáng tạo.

Những kết luận, kiến nghị của các công trình nghiên cứu chưa đi sâu vào các giải pháp cụ thể có tính khả thi, tính thuyết phục chưa cao nên ít được ứng dụng ngay vào thực tiễn. Nhiều vấn đề bức xúc do thực tiễn đổi mới đặt ra chưa được giải quyết một cách thoả đáng. Bên cạnh đó, phương pháp nghiên cứu, hình thức diễn đạt, lối tư duy còn giản đơn, một chiều, phương pháp tiếp cận vẫn cũ kỹ, sáo mòn, đơn điệu, thiếu hấp dẫn và kém sức thuyết phục.

Thêm vào đó, xét trên phương diện quản lý, số lượng đề tài các cấp, số đề tài nhánh thuộc các chương trình, đề tài nghiên cứu cấp nhà nước quá nhiều, đến vậy dẫn đến tình trạng trùng lặp về nội dung và chủ đề, gây lãng phí nguồn lực đầu tư, chất lượng và giá trị khoa học trong kết quả các đề tài bị hạn chế.

Khiếm khuyết trên đây do nhiều nguyên nhân. Trong đó phải kể đến sự thiếu hụt về vốn học vấn, trình độ lý luận, phương pháp luận, sự hiểu biết hạn chế về văn hoá nói chung của một bộ phận cán bộ nghiên cứu lý luận. Mặt khác, cũng do thiếu kinh nghiệm và vốn sống, đặc biệt ở lớp cán bộ nghiên cứu trẻ. Thêm vào đó, còn có tâm lý thụ động, ngại né tránh các vấn đề lý luận và thực tiễn gai góc, hoặc cảm nhận thấy vấn đề nhưng không đủ năng lực, bản lĩnh theo đuổi vấn đề đến cùng và giải quyết triệt để.

Sự phát huy không đầy đủ tinh thần dân chủ trong đời sống lý luận, những biểu hiện lệch lạc trong thái độ và quan hệ giữa lãnh đạo, quản lý với đội ngũ nghiên cứu lý luận cũng góp phần làm trầm trọng thêm các hạn chế nêu trên, thậm chí còn gây nên những cản trở, kìm hãm đối với phát triển tinh thần sáng tạo, tự do tư tưởng và giải phóng tinh thần trong nghiên cứu lý luận.

II. MỘT SỐ ĐỊNH HƯỚNG CHỦ YẾU ĐỂ TIẾP TỤC ĐỔI MỚI CÔNG TÁC NGHIÊN CỨU LÝ LUẬN

Đổi mới công tác nghiên cứu lý luận trong thời gian tới cần triển khai theo một số định hướng chủ yếu sau:

1. Bám sát thực tiễn đổi mới, đi vào thực tiễn để phát hiện yêu cầu của thực tiễn, tìm xem thực tiễn đặt ra vấn đề gì mới đòi hỏi lý luận phải giải quyết

Để làm được việc này, phải thường xuyên tổng kết thực tiễn, bổ sung phát triển lý luận. Nghiên cứu lý luận phải luôn nhằm mục đích cao nhất là phục vụ đáp ứng nhu cầu đòi hỏi của thực tiễn. Phải không ngừng nâng cao trình độ tư duy, năng lực chuyên môn của đội ngũ làm công tác lý luận. Nhiệm vụ hàng đầu của công tác lý luận trong những năm tới là tiếp tục làm sáng tỏ những vấn đề về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta, làm rõ cơ sở lý luận, cơ sở thực tiễn đường lối, chính sách có Đảng trong thời kỳ mới.

Khắc phục tình trạng thiếu hợp tác giữa giới nghiên cứu lý luận và giờ chỉ đạt thực tiễn. Hiện có một thực trạng không bình thường trong quan hệ giữa giới nghiên cứu lý luận và giới chỉ đạo thực tiễn ở nước ta. Đó là giới nghiên cứu lý luận dường như né tránh các vấn đề gai góc của thực tiễn. Hoặc giới lý luận chưa nhìn ra, chưa nắm bắt được nhu cầu của các nhà chỉ đạo thực tiễn. Hoặc giới lý luận vẫn đi theo ''lối mòn'', tìm mọi cách chứng minh cho sự phù hợp, cho giá trị của các lý luận, các nguyên lý cũ. Nhưng các nhà chỉ đạo thực tiễn thấy rằng sự luận giải, minh chứng của giới lý luận thiếu sức thuyết phục, chưa thoả mãn, chưa đáp ứng được yêu cầu của công tác chỉ đạo thực tiễn. Có thể các nhà lý luận quá xa rời thực tiễn nên không tìm được luận cứ hoặc đưa ra những luận cứ quá cũ, quá lạc hậu đề chứng minh cho các luận điểm của mình. Điều đó làm cho các nhà chỉ đạo thực tiễn không những không thấy hết giá trị của lý luận, thậm chí ''dị ứng'' với lý luận. Họ coi lý luận không chỉ như thứ đồ trang sức thừa, mà còn như yếu tố cản đường đối với chỉ đạo thực tiễn.

Về phần mình, do bị các nhà chỉ đạo thực tiễn xa rời, coi thường, không nghe theo những khuyến cáo, đề xuất, kiến nghị, nên các nhà lý luận có ý nghĩ là giới chỉ đạo thực tiễn xem thường vai trò, tác dụng của lý luận, bỏ qua lý luận, nhắm mắt hành động theo kinh nghiệm, thói quen kiểu ''thử nghiệm – sai lầm – thử nghiệm”.

Tình trạng này làm cho giới nghiên cứu lý luận và giới chỉ đạo thực tiễn quay lưng lại với nhau, không tin tưởng, khó hợp tác với nhau, việc ai nấy làm. Lý luận sa vào kinh viện hoặc đi nghiên cứu những chủ đề quá xa, quá cách biệt với đời sống. Trong khi đó, giới chỉ đạo thực tiễn lại bị lúng túng, mất phương hướng, không biết lấy gì làm chuẩn, làm định hướng cho hành động của mình. Cần nhanh chóng khắc phục thực trạng bất bình thường này. Trách nhiệm của giới nghiên cứu lý luận trong quá trình khắc phục tình trạng này là phải chủ động đến với những người chỉ đạo thực tiễn, phải thâm nhập, hoà mình vào cuộc sống. Xây dựng hệ đề tài nghiên cứu, phải đưa vào nhu cầu của thực tiễn, phải phối hợp, tham khảo ý kiến của những người chỉ đạo thực tiễn. Chỉ như vậy mới phát hiện được nhu cầu thực sự, mới thấy được vướng mắc của giới chỉ đạo thực tiễn. Trên cơ sở các dữ kiện thu được từ thực tiễn, với tiềm năng lý luận, bằng tư duy của mình, giới nghiên cứu tổng kết khái quát thành những quy luật, dự báo xu hướng vận động, phát triển của thực tiễn, đề xuất những kiến giải cho giới chỉ đạo thực tiễn.

2. Rà soát lại kết quả nghiên cứu lý luận từ trước đến nay

Tiến hành hệ thống hóa những đề tài đã triển khai, những kết quả nghiên cứu lý luận đã đạt được. Từ đó xác định những vấn đề nào đã có câu trả lời xác đáng, những vấn đề nào cần tiếp tục đi sâu nghiên cứu để tìm lời giải, mặc dù đã có lời giải nhưng lời giải đó chưa thoả đáng, hoặc lời giải đó có lúc đã từng phù hợp, nhưng nay có thể không còn phù hợp nữa vì thực tiễn đã chuyển biến, đã vượt qua rồi.

3. Củng cố, bồi dưỡng đội ngũ làm công tác lý luận. Bố trí, sắp xếp lại hệ thống các cơ quan nghiên cứu lý luận. Xây dựng ban hành quy chế dân chủ trong nghiên cứu lý luận.

Một hướng cơ bản để tiếp tục đổi mới, nâng cao chất lượng nghiên cứu lý luận là quan tâm xây dựng đội ngũ, tổ chức, sắp xếp lại các cơ quan nghiên cứu lý luận trên cơ sở xác định rõ chức năng, nhiệm vụ. Tăng số lượng, chất lượng đội ngũ cán bộ nghiên cứu lý luận, nhất là đội ngũ cán bộ chủ chốt. Tiến hành đồng bộ công tác tư tưởng, công tác lý luận, gắn với công tác tổ chức cán bộ, chống sự suy thoái về tư tưởng, chính trị, đạo đức, lối sống.

Chú trọng nâng cao tính khoa học, tính thực tiễn và sự mạnh dạn khám phá, sáng tạo trong công tác nghiên cứu khoa học, nghiên cứu lý luận. Sớm xây dựng và ban hành quy chế dân chủ trong nghiên cứu lý luận. Một mặt quy chế này phải tạo môi trường, không khí cởi mở để nhà nghiên cứu tự do sáng tạo, tự do nghiên cứu, mạnh dạn trình bày, phát biểu quan điểm, ý kiến của mình. Tạo điều kiện cần thiết để nhà nghiên cứu thâm nhập thực tế, có thể nhanh chóng tiếp cận dễ dàng các nguồn thông tin, tư liệu phục vụ cho nghiên cứu. Quy chế phải làm thế nào để cơ quan quản lý, những người có trách nhiệm lắng nghe cả những ý kiến trái chiều, thậm chí chưa chín muồi. Tức là quy chế đó phải khuyến khích, cổ vũ người nghiên cứu tích cực tìm tòi, phát hiện cái mới, dám nói về cái mới. Mặt khác, quy chế dân chủ trong nghiên cứu lý luận cũng cần xác định rõ trách nhiệm xã hội của nhà nghiên cứu, trách nhiệm trước Đảng (nếu nhà nghiên cứu là đảng viên), trước nhân dân, trước sự nghiệp chung của dân tộc. Trong lãnh đạo, quản lý lĩnh vực nghiên cứu lý luận phải chú ý đến những nét đặc thù chủ yếu sau: Thứ nhất, công tác nghiên cứu lý luận ở Việt Nam là một bộ phận hữu cơ, là yêu cầu sống còn của Đảng, là yếu tố tạo cơ sở để Đảng nâng cao tầm tư duy lý luận. Công tác ấy phải được đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng. Đảng không chỉ đặt hàng mà còn trực tiếp chỉ đạo và sử dụng kết quả nghiên cứu. Mục đích của nghiên cứu lý luận trong giai đoạn hiện nay là phục vụ cho công cuộc đổi mới, cho lợi ích của Đảng, của nhân dân và của dân tộc. Chức năng chủ yếu của nghiên cứu lý luận là thông qua khám phá các quy luật, tính quy luật vận động của xã hội mà luận chứng cơ sở khoa học, phản biện đường lối của Đảng, chính sách của Nhà nước, chứ không chỉ thuyết minh, bình giảng về đường lối, chính sách. Thứ hai, mỗi bước phát triển của lý luận được đánh dấu bằng sự hình thành những luận điểm mới và được cuộc sống thẩm định. Trong nghiên cứu khoa học nói chung, nghiên cứu lý luận nói riêng, ý tưởng, luận điểm mới thường là sản phẩm sáng tạo của cá nhân, và không dễ gì được đa số chấp nhận ngay. Do vậy, ở đây không thể áp dụng nguyên tắc “chân lý thuộc về đa số”, mà phải biết lắng nghe, tôn trọng ý kiến, đề xuất của cá nhân nhà nghiên cứu. Thực tiễn sẽ xác nhận hoặc bác bỏ ý kiến, đề xuất đó.

4. Nghiên cứu, học tập kinh nghiệm của các nước

Tìm hiểu xem các nước khác đối mặt với những vấn đề tương tự, họ giải quyết chúng ra sao. Việt Nam chúng ta có thể học hỏi được kinh nghiệm gì của nước ngoài trong giải quyết các vấn đề đó. Giải pháp này giúp tiết kiệm thời gian, công sức, trí tuệ, chất xám trong nghiên cứu lý luận. Ở đây, mà điều cần lưu ý là khi nghiên cứu, tham khảo kết quả nghiên cứu của nước ngoài cần tính đến hoàn cảnh cụ thể, đặc thù của chúng ta, tránh sao chép, áp dụng kinh nghiệm của nước khác một cách máy móc.

Tóm lại, trong 25 năm đổi mới vừa qua công tác nghiên cứu lý luận ở nước ta đã đạt những thành tựu quan trọng. Những kết quả nghiên cứu lý luận đã củng cố nền tảng tư tưởng, cơ sở khoa học cho quá trình hoạch định đường lối, chiến lược của Đảng, chính sách của Nhà nước. Đội ngũ cán bộ nghiên cứu lý luận trưởng thành cả về lượng lẫn về chất, bước đầu chủ động, tích cực nghiên cứu lý luận  trưởng thành cả về lượng lẫn về chất, bước đầu chủ động tích cực đối với sự nghiệp đổi mới đất nước. Bên cạnh đó, công tác nghiên cứu lý luận còn không ít hạn chế, bất cập. Hạn chế bao trùm nhất là công tác nghiên cứu lý luận còn yếu, chưa theo kịp yêu cầu của công cuộc đổi mới.

Để phát huy những thành tựu đã đạt được, khắc phục những hạn chế, yếu kém, trong thời gian tới cần tiếp tục đổi mới, không ngừng nâng cao chất lượng nghiên cứu lý luận theo hướng: đổi mới mạnh mẽ tư duy, tăng cường tổng kết thực tiễn, nghiên cứu lý luận phải xuất phát từ yêu cầu, đòi hỏi của thực tiễn, lấy thực tiễn đổi mới làm cơ sở, mục tiêu; Tăng cường dân chủ, tự do sáng tạo, khuyến khích các nhà lý luận mạnh dạn đi vào nghiên cứu các vấn đề mới, áp dụng các phương pháp nghiên cứu hiện đại. Xây dựng và ban hành quy chế dân chủ trong nghiên cứu lý luận; Kiện toàn tổ chức hệ thống các cơ quan nghiên cứu lý luận, nâng cao phẩm chất và năng lực chuyên môn của đội ngũ cán bộ nghiên cứu lý luận./.

__________

1. Hồ Chí Minh: Tuyển tập, Nxb Sự thật, HN, 1960, tr. 638-639.

2. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb Chính trị quốc gia – sự thật, HN, 2011, tr.69.

3. Văn kiện Đại hội XI đã dẫn, tr.57.

4. Văn kiện Hội nghị lần thứ năm Ban Chấp hành Trung ương khóa IX, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2002, tr.131.

5. Văn kiện Đại hội XI đã dẫn, tr.23.

6. V.I.Lênin: Toàn tập, t.6, Nxb Tiến bộ, M., 1980, tr.30.

Phản hồi

Thông tin người gửi phản hồi

Các tin khác

Ban hành Quy chế bầu cử trong Đảng

(ĐCSVN) - Ngày 10/10, thay mặt Ban Chấp hành Trung ương Đảng, Tổng Bí thư Tô Lâm đã ký Quyết định số 190-QĐ/TW về việc ban hành Quy chế bầu cử trong Đảng.

Kiểm soát quyền lực, phòng, chống tham nhũng, tiêu cực trong quản lý, sử dụng tài chính, tài sản công

(ĐCSVN) - Bộ Chính trị vừa ban hành Quy định số 189-QĐ/TW ngày 08/10/2024 về kiểm soát quyền lực, phòng, chống tham nhũng, tiêu cực trong quản lý, sử dụng tài chính, tài sản công.

Bộ Chính trị ban hành quy định phòng chống tham nhũng, tiêu cực trong điều tra, xét xử

(ĐCSVN) – Ngày 27/10/2023, Bộ Chính trị đã ban hành Quy định số 132-QĐ/TW về kiểm soát quyền lực, phòng, chống tham nhũng, tiêu cực trong hoạt động điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án.

Tập trung tuyên truyền những chủ đề lớn, trọng tâm từ nay đến Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIV của Đảng

(ĐCSVN) - Ban Tuyên giáo Trung ương yêu cầu thông tin chính xác, kịp thời với nhiều hình thức linh hoạt, sáng tạo, phong phú, sinh động gắn với tuyên truyền đại hội đảng bộ các cấp, tiến tới Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIV của Đảng và tuyên truyền kỷ niệm các ngày lễ lớn, sự kiện lịch sử quan trọng của đất nước trong năm 2024, 2025.

Quy trình kỷ luật đảng viên thuộc thẩm quyền của Trung ương Đảng, Bộ Chính trị, Ban Bí thư

(ĐCSVN) - Thay mặt Bộ Chính trị, Thường trực Ban Bí thư Lương Cường vừa ký Quyết định số 165-QĐ/TW ngày 6/6/2024 của Bộ Chính trị ban hành Quy trình xem xét, thi hành kỷ luật đối với tổ chức Đảng, đảng viên thuộc thẩm quyền của Ban Chấp hành Trung ương Đảng, Bộ Chính trị, Ban Bí thư.

Liên kết website