Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm 2011) đã xác định rõ mục tiêu tổng quát khi kết thúc thời kỳ quá độ ở nước ta là: “xây dựng được về cơ bản nền tảng kinh tế của chủ nghĩa xã hội với kiến trúc thượng tầng về chính trị, tư tưởng, văn hóa phù hợp, tạo cơ sở để nước ta trở thành một nước xã hội chủ nghĩa ngày càng phồn vinh, hạnh phúc”1. Để thực hiện thành công mục tiêu này, Cương lĩnh nêu 8 phương hướng cơ bản đòi hỏi toàn Đảng, toàn dân và toàn quân nêu cao tinh thần cách mạng tiến công, ý chí tự lực tự cường, phát huy tiềm năng và trí tuệ, tận dụng thời cơ vượt qua thách thức, quán triệt và thực hiện tốt. Trong quá trình thực hiện các phương hướng cơ bản trên, phải đặc biệt chú trọng nắm vững và giải quyết tốt các mối quan hệ lớn: quan hệ giữa đổi mới, ổn định và phát triển; giữa đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị; giữa kinh tế thị trường và định hướng xã hội chủ nghĩa; giữa phát triển lực lượng sản xuất và xây dựng, hoàn thiện từng bước quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa; giữa tăng trưởng kinh tế và phát triển văn hóa, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội; giữa xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa; giữa độc lập, tự chủ và hội nhập quốc tế; giữa Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ.
Như vậy, quan hệ giữa đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị là một trong những mối quan hệ cơ bản, cốt lõi trong tiến trình thực thi xây dựng xã hội mới. Đó chính là quan hệ giữa hai lĩnh vực cơ bản của đời sống xã hội (kinh tế và chính trị); là mối quan hệ khách quan tồn tại trong mọi xã hội có phân chia giai cấp, là sự thể hiện cô đọng quan hệ giữa cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng của xã hội.
1. Thực chất đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị
Để giải quyết tốt quan hệ giữa đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị vấn đề trước hết cần nắm rõ thực chất của đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị ở Việt Nam là gì? Về vấn đề này xin được nêu khái quát, ngắn gọn như sau:
1.1. Đổi mới kinh tế
Thực chất của đổi mới kinh tế ở Việt Nam là chuyển từ nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung quan liêu bao cấp sang nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Đó là nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần, vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản; vừa vận động theo những qui luật của kinh tế thị trường, vừa được dẫn dắt chi phối bởi các nguyên tắc và bản chất của chủ nghĩa xã hội; trong đó cơ chế thị trường được vận dụng đầy đủ, linh hoạt để phát huy mạnh mẽ, có hiệu quả mọi nguồn lực nhằm phát triển nhanh và bền vững nền kinh tế.
Sau 25 năm đổi mới, chúng ta có được bước tiến mới trong tư duy phát triển (thể hiện trong 5 quan điểm phát triển của chiến lược kinh tế xã hội 2011-2020), nền kinh tế có được sự tăng trưởng khá nhanh so với các nước trong khu vực. Chúng ta đã có sự đổi mới căn bản về hình thức sở hữu, về cơ cấu và vai trò của các thành phần kinh tế, đã hình thành các loại thị trường, tích cực và chủ động hội nhập quốc tế... Tuy nhiên, cũng còn nhiều vấn đề cần tiếp tục đẩy mạnh đổi mới, trong đó, thể chế kinh tế, chất lượng nguồn nhân lực, kết cấu hạ tầng vẫn là những “điểm nghẽn” cản trở sự phát triển.
Hiện nay, nội dung chủ yếu của đổi mới kinh tế là tập trung hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, trọng tâm là đổi mới cơ chế, chính sách, tạo lập môi trường cạnh tranh bình đẳng và cải cách hành chính. Để thực hiện điều này cần phát triển mạnh các hình thức sở hữu, các thành phần kinh tế, các loại hình doanh nghiệp. Thực hiện phát triển đồng bộ các yếu tố thị trường và các loại thị trường. Nâng cao vai trò lãnh đạo của Đảng, hiệu lực, hiệu quả quản lý của Nhà nước đối với nền kinh tế. Đồng thời tiếp tục đổi mới mô hình tăng trưởng và cơ cấu lại nền kinh tế từ chủ yếu phát triển theo chiều rộng sang phát triển hợp lý giữa chiều rộng và chiều sâu; gắn kết chặt chẽ phát triển kinh tế với thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội, bảo vệ môi trường. Tiếp tục đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, phát triển nhanh, bền vững.
1.2. Đổi mới chính trị
Đổi mới chính trị ở Việt Nam không phải là thay đổi chế độ chính trị hiện nay bằng chế độ chính trị khác, mà là quá trình đổi mới tư duy chính trị về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội; đó cũng là quá trình hoàn thiện tổ chức bộ máy, nội dung và phương thức hoạt động của cả hệ thống chính trị theo hướng tạo lập nền dân chủ xã hội chủ nghĩa và một Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân, vì dân, thể hiện và thực hiện ý chí, quyền lực của dân dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản.
Trong đổi mới chính trị, “trọng tâm là hoàn thiện nội dung và đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng, gắn quyền hạn với trách nhiệm trong thực hiện chức năng lãnh đạo của các cấp ủy Đảng; mở rộng dân chủ trong Đảng và trong toàn xã hội nhằm phát huy vai trò chủ động của các cơ quan nhà nước, khả năng sáng tạo to lớn của nhân dân, sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc để xây dựng và bảo vệ đất nước”2.
Thực tiễn của đổi mới kinh tế đang tiếp tục đặt ra yêu cầu đổi mới chính trị. Hai mươi lăm năm đổi mới vừa qua, chúng ta đã có bước tiến trong xây dựng và hoàn thiện nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, trong xây dựng và hoàn thiện nhà nước pháp quyền, trong đổi mới hoạt động của Mặt trận và các đoàn thể, cũng như trong công tác xây dựng và đổi mới phương thức hoạt động và lãnh đạo của Đảng. Tuy nhiên, cũng còn tồn tại không ít việc cần tiếp tục đẩy mạnh đổi mới. Nghị quyết Trung ương 5, khóa X chỉ rõ: “Hệ thống thể chế, pháp luật, nhất là thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa vẫn còn nhiều bất cập, vướng mắc. Chức năng, nhiệm vụ của một số cơ quan trong hệ thống hành chính nhà nước chưa đủ rõ, còn trùng lặp và chưa bao quát hết các lĩnh vực quản lý nhà nước; cơ cấu tổ chức bộ máy còn cồng kềnh, chưa phù hợp. Chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức chưa đáp ứng kịp yêu cầu; tình trạng quan liêu, tham nhũng, lãng phí còn nghiêm trọng. Thể chế, luật pháp về quản lý tài chính công tuy có nhiều đổi mới, nhưng còn bất cập. Thủ tục hành chính còn nhiều vướng mắc, gây phiền hà cho tổ chức và công dân; kỷ luật, kỷ cương cán bộ, công chức chưa nghiêm, hiệu lực, hiệu quả của quản lý nhà nước còn nhiều yếu kém”3.
Để khắc phục tồn tại nêu trên cần tiếp tục đẩy mạnh sự nghiệp đổi mới nói chung và tập trung giải quyết tốt mối quan hệ giữa đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị.
2. Yêu cầu tất yếu phải giải quyết tốt mối quan hệ giữa đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị và sự sáng tạo của Đảng ta trong quá trình giải quyết mối quan hệ này
Cơ sở khách quan qui định giải quyết mối quan hệ giữa đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị chính là quan hệ biện chứng giữa yếu tố kinh tế và yếu tố chính trị. Theo quan điểm của các nhà kinh điển Mác - Lênin, trong quan hệ giữa kinh tế và chính trị, kinh tế có vai trò quyết định, nó qui định nội dung và kết cấu chính trị. Đến lượt mình chính trị có tác động mạnh mẽ tới kinh tế, định hướng cho quá trình phát triển kinh tế. Lê-nin khẳng định: “Chính trị là biểu hiện tập trung của kinh tế. Chính trị không thể không chiếm địa vị hàng đầu so với kinh tế”4. Nắm vững và giải quyết tốt mối quan hệ biện chứng này là nhiệm vụ khó khăn, phức tạp, song có ý nghĩa quyết định đối với sự thành bại của tiến trình cách mạng.
Cách đây hơn 20 năm, quá trình cải tổ ở Liên xô và Đông Âu, do xử lý mối quan hệ giữa cải cách kinh tế và chính trị không tốt đã dẫn đến sự sụp đổ của chế độ xã hội chủ nghĩa ở các quốc gia này. Với mục đích đẩy nhanh cải tổ, thực hiện các liệu pháp sốc về kinh tế và ưu tiên cải tổ chính trị đi trước đã đẩy xã hội lâm vào rối lọan, làm cho Đảng Cộng sản mất quyền lãnh đạo đất nước.
Trong khi đó, Trung Quốc ngay từ đầu đã tiến hành đồng bộ cải cách thể chế chính trị với cải cách kinh tế, chính vì vậy đã tạo sự phát triển ấn tượng. Tuy nhiên, sau sự kiện năm 1989, tốc độ cải cách chính trị có phần chững lại, không theo kịp đà cải cách và phát triển trong lĩnh vực kinh tế. Bất cập này đã tác động bất lợi đến sự phát triển kinh tế, làm nảy sinh các tiêu cực và nhiều vấn đề khác như phân hóa xã hội, gia tăng bất bình đẳng về thu nhập5.
Ở Việt Nam, Đảng ta trên cơ sở tổng kết thực tiễn đã khởi xướng đường lối đổi mới tại Đại hội VI. Về chủ trương, ngay từ đầu Đảng đã khẳng định, thực hiện đổi mới toàn diện đất nước, đổi mới phải có bước đi và cách làm thích hợp.
Đại hội VII của Đảng khẳng định: Đổi mới toàn diện, đồng bộ và triệt để, nhưng phải có bước đi, hình thức và cách làm phù hợp. Về quan hệ giữa đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị, phải tập trung sức làm tốt đổi mới kinh tế. Đồng thời với đổi mới kinh tế, phải từng bước đổi mới tổ chức và phương thức hoạt động của hệ thống chính trị;
Tổng kết 10 năm đổi mới, Đại hội VIII của Đảng đã rút ra một số bài học kinh nghiệm, trong đó nổi lên bài học: “Kết hợp chặt chẽ ngay từ đầu đổi mới kinh tế với đổi mới chính trị, lấy đổi mới kinh tế làm trọng tâm, đồng thời từng bước đổi mới chính trị”6. Đại hội IX tiếp tục khẳng định những kinh nghiệm và nhấn mạnh: “Tiếp tục đổi mới sâu rộng, đồng bộ về kinh tế, xã hội và bộ máy nhà nước”7.
Tổng kết 20 năm đổi mới (1986-2006), Đại hội X của Đảng chỉ rõ: “Đổi mới tất cả các mặt của đời sống xã hội nhưng phải có trọng tâm, trọng điểm, có những bước đi thích hợp; bảo đảm sự gắn kết chặt chẽ và đồng bộ giữa ba nhiệm vụ: phát triển kinh tế là trung tâm, xây dựng Đảng là then chốt và phát triển văn hóa - nền tảng tinh thần xã hội”8. Và đến Đại hội XI, sự nghiệp đổi mới tiếp tục được khẳng định, Đảng ta chỉ rõ: “Đổi mới chính trị phải đồng bộ với đổi mới kinh tế theo lộ trình thích hợp, trọng tâm là hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng, xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, mở rộng dân chủ trong Đảng và trong xã hội gắn với tăng cường kỷ luật, kỷ cương để thúc đẩy đổi mới toàn diện và phát huy sức mạnh tổng hợp của toàn dân tộc vì mục tiêu xây dựng nước Việt Nam xã hội chủ nghĩa dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh.”9.
Như vậy có thể thấy, trong tiến trình 25 năm đổi mới vừa qua, Đảng ta đã bắt đầu từ đổi mới kinh tế, lấy đổi mới kinh tế làm trọng tâm, nhằm giải phóng các nguồn lực của đất nước. Trong đổi mới kinh tế, bắt đầu trước hết là đổi mới tư duy kinh tế, đổi mới quan điểm, đường lối phát triển kinh tế. Khi đổi mới kinh tế đã đạt được những thành tựu to lớn, các quan hệ kinh tế đã có sự thay đổi cơ bản, cần thiết phải tiến hành đồng thời đổi mới kinh tế với đổi mới chính trị để thúc đẩy đổi mới toàn diện. Điều này khẳng định sự vận dụng đúng đắn, sáng tạo của Đảng ta về bước đi và biện chứng của giải quyết quan hệ giữa đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị. Và những kết quả của 25 năm đổi mới cũng minh chứng cho điều đó.
3. Nắm vững và giải quyết tốt mối quan hệ giữa đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị
Nhằm tiếp tục thúc đẩy đổi mới, giải quyết tốt mối quan hệ giữa đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị, trên cơ sở đó phát huy tối đa các nguồn lực bảo đảm phát triển nhanh và bền vững đòi hỏi có sự đầu tư nghiên cứu thảo luận, tổng kết thực tiễn đề ra các giải pháp, hướng thực hiện trong thực tiễn. Trong khuôn khổ Tọa đàm này, tôi xin nêu một số nội dung cơ bản cần quan tâm triển khai:
Một là, cần làm rõ nội dung cơ bản của mối quan hệ giữa đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị. Để giải quyết tốt mối quan hệ này đương nhiên trước tiên phải hiểu rõ, nắm vững nội hàm của mối quan hệ biện chứng giữa đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị. Kinh tế và chính trị là hai lĩnh vực cơ bản, rộng lớn của đời sống xã hội. Quan hệ giữa đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị được biểu hiện ra thông qua những mối quan hệ cụ thể đòi hỏi phải kết hợp giải quyết tốt. Đó là những mối quan hệ như: quan hệ giữa đổi mới thể chế kinh tế với đổi mới thể chế chính trị; quan hệ giữa phát triển sức sản xuất với bảo đảm định hướng xã hội chủ nghĩa của quá trình đổi mới, phát triển; quan hệ giữa tăng trưởng nhanh với tăng trưởng bền vững, bảo đảm tiến bộ, công bằng xã hội; quan hệ giữa quyền chủ động, tự do sản xuất kinh doanh của các chủ thể trên thị trường với bảo đảm xây dựng và thực thi nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa; quan hệ giữa chủ động và tích cực hội nhập quốc tế với bảo đảm chủ quyền quốc gia… Việc quan tâm giải quyết các mối quan hệ này sẽ góp phần thực hiện tốt quan hệ giữa đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị.
Hai là, công tác tuyên truyền đóng vai trò quan trọng trong việc thực hiện phối kết hợp hài hòa giữa đổi mới kinh tế với đổi mới chính trị. Cùng với nghiên cứu nắm vững, rõ nội hàm như trên cần thông tin tuyên truyền, làm cho cán bộ, đảng viên hiểu rõ tầm quan trọng, vai trò quyết định của đổi mới kinh tế trong tiến trình cách mạng, cũng như nhận rõ tác động, thậm chí là mở đường của đổi mới chính trị đối với đổi mới kinh tế. Tuyên truyền làm rõ cơ sở lý luận, cũng như cơ sở thực tiễn của việc gắn kết đổi mới kinh tế với đổi mới chính trị; làm rõ thực chất của đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị, những khó khăn và thuận lợi, bất cập trong đổi mới. Có như vậy mới tạo được sự đồng tâm nhất trí, phát huy được sức mạnh cả cộng đồng trong thực hiện đổi mới.
Ba là, lực lượng thực hiện và tham gia thúc đẩy, giải quyết tốt mối quan hệ giữa đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị chính là cả hệ thống chính trị và người dân. Đổi mới là sự nghiệp của quần chúng, do đó để giải quyết tốt mối quan hệ này cần có sự tham gia tích cực của cả hệ thống chính trị, phát huy sức mạnh khối đại đoàn kết toàn dân tộc dưới sự lãnh đạo của Đảng. Đổi mới kinh tế và chính trị là đổi mới toàn diện, liên quan đến tổng thể các quan hệ lợi ích, các cá nhân, các tổ chức và hệ thống chính quyền. Do vậy, cần có sự vào cuộc của cả người dân và hệ thống chính trị. Muốn vậy cùng với đòi hỏi nâng cao ý thức trách nhiệm của các tổ chức, các cá nhân, rất cần bảo đảm thực hiện tốt qui chế dân chủ cơ sở, tạo điều kiện cho mọi người phát huy sáng kiến và đóng góp của bản thân vào sự nghiệp đổi mới.
Bốn là, về nguyên tắc, đổi mới phải toàn diện, đồng bộ, nhưng cần xác định trọng tâm, khâu đột phá. Các thành tố của hệ thống chính trị cũng như kinh tế có mối quan hệ gắn bó với nhau, thúc đẩy, qui định lẫn nhau. Do vậy, nếu không có sự đồng bộ trong đổi mới tạo sự nhịp nhàng, ăn khớp trong tiến trình vận động thì đôi khi chúng lại cản trở, hạn chế nhau. Chính tính hệ thống của kinh tế và chính trị qui định tính toàn diện và đồng bộ của đổi mới. Tuy nhiên, cũng như trong một guồng máy vận động liên hoàn, cần xác định khâu then chốt, chọn điểm đột phá để thúc đẩy đổi mới. Kiên trì và quyết liệt thực hiện đổi mới nhưng phải theo lộ trình và có bước đi phù hợp, bảo đảm sự đổi mới đồng bộ ở các khâu, các mắt xích của hệ thống. Thực hiện sự đổi mới kết hợp cả từ dưới lên và trên xuống. Trong cuộc sống thực tiễn, cái mới luôn nảy sinh và cần được tổng kết, định hướng để thúc đẩy.
Năm là, về cơ chế giải quyết phải tôn trọng tính biện chứng của mối quan hệ kinh tế và chính trị. Thực hiện kết hợp chặt chẽ ngay từ đầu giữa đổi mới kinh tế với đổi mới chính trị, lấy đổi mới kinh tế làm trọng tâm, đồng thời từng bước đổi mới chính trị. Trong quá trình đổi mới chú trọng bảo đảm sự gắn kết chặt chẽ và đồng bộ giữa ba nhiệm vụ: phát triển kinh tế là trung tâm, xây dựng Đảng là then chốt và phát triển văn hóa - nền tảng tinh thần của xã hội. Đổi mới kinh tế được thực hiện từ đổi mới tư duy đến đổi mới cơ chế chính sách và chỉ đạo hoạt động thực tiễn sẽ tạo nền tảng vật chất bảo đảm và đặt ra yêu cầu cho đổi mới chính trị. Và những bước đổi mới chính trị mở đường và tạo điều kiện chính trị - xã hội thuận lợi cho thực hiện giải pháp đổi mới và phát triển kinh tế.
Sáu là, hiệu quả giải quyết mối quan hệ giữa đổi mới kinh tế với đổi mới chính trị là ở sự tăng trưởng, phát triển bền vững và tiến bộ, công bằng xã hội, cuộc sống người dân được cải thiện và giàu có hơn, đất nước mạnh hơn. Nói cách khác lấy mục tiêu hướng đến xây dựng nước Việt Nam xã hội chủ nghĩa, dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh làm tiêu chí đánh giá hiệu quả của quá trình phối kết hợp đổi mới kinh tế với đổi mới chính trị. Đổi mới phải gắn với yêu cầu thực tiễn, giải quyết những “tắc nghẽn” trong quá trình vận hành của kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Hiệu quả của đổi mới kinh tế thể hiện cụ thể nhất ở mức độ và chất lượng tăng trưởng, tạo cơ sở cho đổi mới chính trị. Và hiệu quả đổi mới chính trị thể hiện cụ thể nhất ở các chính sách và cơ chế được xây dựng, đề xuất bảo đảm giải quyết đúng đắn và kịp thời các vấn đề kinh tế.
___________
1. Đảng Cộng sản Việt Nam. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb Chính trị quốc gia, H 2011, tr 71
2. Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng, “Nội dung chủ yếu của Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 2011-2020 và nhiệm vụ trọng tâm của năm 2011”, Tuổi trẻ online, ngày 4-1-2011
3. Đảng Cộng sản Việt Nam. Văn kiện Hội nghị lần thứ Năm Ban Chấp hành Trung ương Khóa X, Nxb CTQG, H.2007, tr.156 V.I. Lê-nin, Toàn tập, t 42, tr 349
4. “Việc đi sâu cải cách thể chế kinh tế riêng rẽ sau sự kiện 89, sự nhảy vọt của lĩnh vực kinh tế không chỉ chưa tạo điều kiện cho cải cách thể chế chính trị, trái lại đã kìm hãm cải cách thể chế chính trị… và đã xuất hiện hàng loạt vấn đề như tiêu cực, phân hóa xã hội, gia tăng khoảng cách giàu nghèo”. Theo Trương Hiểu Phong và Trương Phóng: Suy nghĩ về cải cách thể chế chính trị ở Trung Quốc, bài phát biểu trong Hội thảo tại Học viện Báo chí và Tuyên truyền ngày 10-10-2009
5. Báo cáo tổng kết 20 năm thực hiện Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (1991-2011), Nxb Chính trị quốc gia, H 2010, tr 29
6. Đảng Cộng sản Việt Nam. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX, Nxb Chính trị quốc gia, H 2001, tr 165
7. Đảng Cộng sản Việt Nam. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X, Nxb Chính trị quốc gia, H 2006, tr 70-71
8. Đảng Cộng sản Việt Nam. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, NXB Chính trị quốc gia, H 2011, tr 99
9,10. Đảng Cộng sản Việt Nam. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb Chính trị quốc gia, H 2011, tr 27