Xây dựng nền quốc phòng toàn dân vững mạnh

Trong khi đặt nhiệm vụ phát triển kinh tế là trung tâm, xây dựng Ðảng là then chốt, Ðảng ta luôn chú trọng đến nhiệm vụ quốc phòng, xem tăng cường quốc phòng, giữ vững an ninh quốc gia và toàn vẹn lãnh thổ là nhiệm vụ trọng yếu thường xuyên. Nhiệm vụ trọng yếu đó thể hiện ở ba nội dung chính. 

1. Nắm vững quan điểm, nâng cao nhận thức, trách nhiệm đối với xây dựng nền quốc phòng toàn dân vững mạnh, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ trong điều kiện mới 

Trước hết cần hiểu quốc phòng là gì, những tư duy mới về quốc phòng và bảo vệ Tổ quốc của Ðảng ta? 

Quốc phòng là: công cuộc giữ nước của một quốc gia gồm tổng thể các hoạt động đối nội, đối ngoại cả về quân sự, chính trị, kinh tế, văn hóa, khoa học - công nghệ... của Nhà nước và nhân dân để phòng thủ đất nước, tạo sức mạnh toàn diện, cân đối, trong đó sức mạnh quân sự là đặc trưng nhằm giữ vững hòa bình, đẩy lùi, ngăn chặn các hoạt động gây chiến của kẻ thù, sẵn sàng đánh thắng chiến tranh xâm lược dưới mọi hình thức, mọi quy mô. 

Như vậy hiểu quốc phòng, xây dựng nền QPTD là hoạt động của cả nước, trên mọi lĩnh vực, lấy lực lượng vũ trang (LLVT) là lực lượng nòng cốt. Quốc phòng không đồng nghĩa với quân sự, với chiến tranh, nó được thực hiện trong thời bình nhằm mục đích tự vệ, phòng thủ đất nước, nhưng không thụ động phải chủ động ngăn chặn, đẩy lùi, làm thất bại mọi âm mưu của kẻ thù và sẵn sàng đánh thắng khi chiến tranh xảy ra. Chiến lược quốc phòng tối ưu là chiến lược giữ nước mà không phải tiến hành chiến tranh, là chiến lược giải quyết hợp lý các mối quan hệ giữa kinh tế với quốc phòng và các mặt hoạt động khác của xã hội. Vì vậy, Nghị quyết Ðại hội X của Ðảng đã xác định rõ: "Xây dựng nền quốc phòng toàn dân và an ninh nhân dân vững mạnh toàn diện; bảo vệ vững chắc Tổ quốc, độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ; bảo vệ Ðảng, Nhà nước, nhân dân và chế độ xã hội chủ nghĩa; bảo vệ an ninh chính trị, an ninh kinh tế, an ninh tư tưởng văn hóa và an ninh xã hội; duy trì trật tự, kỷ cương, an toàn xã hội; giữ vững ổn định chính trị của đất nước, ngăn ngừa, đẩy lùi và làm thất bại mọi âm mưu, hoạt động chống phá, thù địch, không để bị động, bất ngờ". Tinh thần Nghị quyết Ðại hội X của Ðảng đã chỉ rõ: 

- Về mục tiêu, nhiệm vụ của nền quốc phòng toàn dân 

Theo quan điểm của Ðảng, mục tiêu của nền quốc phòng toàn dân nước ta hiện nay không chỉ làm nhằm bảo vệ độc lập chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ... mà còn phải gắn chặt với bảo vệ vững chắc chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ Ðảng, Nhà nước và nhân dân; không chỉ có đối ngoại mà còn cả đối nội; quốc phòng luôn gắn bó chặt chẽ với an ninh và đối ngoại. Quốc phòng không chỉ nhằm đối phó với chiến tranh, mà điều quan trọng là nó phải ngăn chặn và đẩy lùi chiến tranh, không để đất nước xảy ra chiến tranh, xử lý có hiệu quả mọi tình huống liên quan đến quốc phòng, an ninh của quốc gia, bảo đảm môi trường ổn định, hòa bình cho sự phát triển của đất nước. 

- Về nhiệm vụ quốc phòng, Ðại hội X của Ðảng đã cụ thể hóa thêm nhiệm vụ của quốc phòng là phải giữ vững an ninh quốc gia kể cả an ninh chính trị, an ninh kinh tế, an ninh văn hóa - an ninh xã hội; duy trì trật tự kỷ cương an toàn xã hội, v.v. Ðây là trách nhiệm của toàn xã hội, của mọi lực lượng. 

- Về tính chất, đặc điểm và phương châm của nền quốc phòng toàn dân 

Ðảng ta luôn có quan điểm đúng đắn về tính chất, đặc điểm của nền quốc phòng toàn dân, toàn diện trong quá trình đổi mới, coi đó là công việc giữ nước của quốc gia, gồm tổng thể các hoạt động về mọi mặt; chính trị, kinh tế, quân sự gắn với an ninh, đối ngoại, văn hóa, xã hội nhằm tạo ra sức mạnh tổng hợp, đáp ứng yêu cầu bảo vệ Tổ quốc cả thời bình và thời chiến, cả đối nội và đối ngoại, cả đấu tranh quân sự và đấu tranh phi quân sự. 

- Phương châm xây dựng nền quốc phòng toàn dân, toàn diện, độc lập tự chủ, tự lực tự cường, từng bước hiện đại ngày càng được nhận thức sâu sắc và cụ thể hơn. Ðó là phương châm cơ bản của sự nghiệp xây dựng nền quốc phòng toàn dân ở nước ta, vừa đáp ứng yêu cầu đấu tranh trong thời bình, tạo sức mạnh ngăn chặn âm mưu gây chiến của kẻ thù, vừa đáp ứng yêu cầu chiến tranh nhân dân bảo vệ Tổ quốc trong điều kiện mới, nếu xảy ra. Các nội dung của phương châm xây dựng nền quốc phòng toàn dân có quan hệ chặt chẽ và thống nhất với nhau, trong đó xây dựng nền quốc phòng toàn dân theo hướng hiện đại là một nội dung rất quan trọng, vừa thể hiện yêu cầu của nền quốc phòng, thể hiện lộ trình hiện đại hóa nền quốc phòng toàn dân vừa phù hợp kinh tế đất nước và yêu cầu mới của sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc XHCN. Trong đó, phát triển công nghiệp quốc phòng đã và đang trở thành một chủ trương lớn trong xây dựng và hiện đại hóa nền quốc phòng toàn dân. Ðó là một nền công nghiệp quốc phòng độc lập, tự chủ, có tiềm lực mạnh, phù hợp sự phát triển của nền kinh tế đất nước; một nền công nghiệp quốc phòng mang tính lưỡng dụng vừa đáp ứng nhu cầu quốc phòng, quân sự vừa tham gia trực tiếp vào sự phát triển kinh tế - xã hội, phục vụ dân sinh. 

- Giải quyết tốt mối quan hệ giữa quốc phòng, an ninh với kinh tế và đối ngoại 

Kết hợp quốc phòng, an ninh với kinh tế - xã hội và đối ngoại trở thành chiến lược quan trọng tạo nên sức mạnh tổng hợp. Trong quá trình đổi mới, tư duy của Ðảng về sự kết hợp quốc phòng, an ninh với kinh tế- xã hội và đối ngoại ngày càng được hoàn thiện trong chiến lược xây dựng sức mạnh tổng hợp quốc gia bảo vệ Tổ quốc. 

Quan điểm "Kết hợp phát triển kinh tế - xã hội với tăng cường sức mạnh quốc phòng và an ninh trên cơ sở phát huy mọi tiềm năng của đất nước", do Ðại hội X của Ðảng đề ra là sự tiếp tục khẳng định, kế thừa, phát triển, hoàn thiện đường lối chiến lược về quốc phòng được Ðảng ta đề ra từ Ðại hội VII. Và việc kết hợp quốc phòng, an ninh với phát triển kinh tế - xã hội và đối ngoại đã được thể chế hóa bằng những chủ trương, chính sách cụ thể. Nhà nước đã từng bước thể chế hóa các chủ trương, chính sách về xây dựng nền quốc phòng toàn dân và an ninh nhân dân, hoàn thiện hệ thống pháp luật về bảo vệ Tổ quốc, tập trung hoàn chỉnh pháp luật về quốc phòng, an ninh và đối ngoại; xây dựng quy chế thống nhất quản lý hoạt động đối ngoại và quy chế phối hợp quốc phòng, đối ngoại. Bởi vì, thế trận bảo vệ Tổ quốc là sự thống nhất và kết hợp hài hòa giữa thế trận quốc phòng toàn dân và thế trận an ninh nhân dân, cùng với các hoạt động đối ngoại nâng cao vị thế của đất nước trên trường quốc tế, tạo ra môi trường thuận lợi cho sự phát triển của đất nước. Thế trận đó phải vừa giữ vững ổn định, hòa bình cho sự phát triển, ngăn chặn và đẩy lùi mọi nguy cơ chiến tranh; vừa sẵn sàng đáp ứng yêu cầu bảo vệ Tổ quốc trong mọi tình huống. 

2. Xây dựng lực lượng và thế trận quốc phòng toàn dân, tăng cường sức mạnh bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam XHCN 

Quan điểm của Ðảng về sức mạnh của nền quốc phòng toàn dân là sức mạnh tổng hợp, không phải đơn thuần hoặc chủ yếu là sức mạnh quân sự. Trong quá trình đổi mới đất nước, Ðảng ta luôn có nhận thức đúng đắn về thế trận và lực lượng của nền quốc phòng toàn dân. Xây dựng tiềm lực quốc phòng mạnh phải đồng bộ, nhiều lực lượng, nhiều lĩnh vực cả tiềm lực kinh tế, tiềm lực quân sự, đặc biệt là tiềm lực chính trị tinh thần. 

- Xây dựng thế trận quốc phòng toàn dân. Sức mạnh quốc phòng được tạo ra bởi sự kết hợp chặt chẽ giữa lực lượng và thế trận quốc phòng; được tổ chức, bố trí hợp lý trên phạm vi cả nước kết hợp với từng hướng, từng địa bàn chiến lược, từng địa phương, cơ sở. Nghị quyết Ðại hội X của Ðảng đã chỉ rõ: "Xây dựng thế trận quốc phòng toàn dân kết hợp chặt chẽ với thế trận an ninh nhân dân. Ðẩy mạnh xây dựng các khu vực phòng thủ tỉnh, thành phố. Tiếp tục phát triển các khu kinh tế - quốc phòng, xây dựng các khu quốc phòng - kinh tế với mục tiêu tăng cường quốc phòng - an ninh là chủ yếu, tập trung vào các địa bàn trọng điểm chiến lược và những khu vực nhạy cảm trên biên giới đất liền, biển đảo". 

- Xây dựng khu vực phòng thủ tỉnh (thành phố) vững chắc là một nội dung quan trọng trong xây dựng thế trận, tạo nên sức mạnh của nền quốc phòng toàn dân. Trong hai mươi năm đổi mới đất nước, trước yêu cầu của sự nghiệp củng cố quốc phòng, bảo vệ Tổ quốc Việt Nam XHCN, vấn đề xây dựng khu vực phòng thủ tỉnh (thành phố) đã trở thành một vấn đề quan trọng trong chiến lược quốc phòng, an ninh của nước ta, được Ðảng ta nhận thức và chỉ đạo trong thực tiễn ngày càng đầy đủ và cụ thể hơn. 

Xây dựng khu vực phòng thủ là xây dựng tỉnh (thành phố) vững mạnh không chỉ về quốc phòng, an ninh mà còn cả về chính trị, kinh tế, xã hội, văn hóa. Khu vực phòng thủ vừa phải bảo đảm được yêu cầu bảo vệ và tác chiến trên địa bàn toàn tỉnh (thành phố), vừa nằm trong thế trận liên hoàn phòng thủ quốc gia, góp phần củng cố sự vững chắc thế trận quốc phòng toàn dân của đất nước, tạo nên sức mạnh tổng hợp của nền quốc phòng, bảo vệ vững chắc Tổ quốc XHCN trong mọi tình huống. 

- Xây dựng cơ sở chính trị-xã hội là nội dung quan trọng của việc xây dựng thế trận quốc phòng toàn dân, được Ðảng ta hoạch định ngày càng cụ thể và sâu sắc hơn trong quá trình đổi mới. Nội dung xây dựng cơ sở chính trị - xã hội ngày càng được đề cập rõ hơn và cụ thể hơn qua các kỳ Ðại hội của Ðảng. Tại Ðại hội IX, Ðảng ta nhấn mạnh: "Xây dựng cơ sở chính trị - xã hội, thế trận quốc phòng toàn dân và an ninh nhân dân; coi trọng xây dựng thế trận trên các địa bàn chiến lược trọng yếu;xây dựng lực lượng dân quân, tự vệ và công an, bảo vệ cơ sở". Trong xây dựng cơ sở chính trị - xã hội của nền quốc phòng toàn dân, vấn đề xây dựng các tổ chức chính trị, nhất là các cơ sở, vùng sâu, vùng xa, biên giới, hải đảo và tăng cường công tác giáo dục bồi dưỡng kiến thức quốc phòng là những nội dung rất quan trọng được Ðảng ta thường xuyên quan tâm lãnh đạo. Xây dựng cơ sở chính trị - xã hội phản ánh sâu sắc nguồn sức mạnh to lớn của nền quốc phòng toàn dân nước ta là từ nhân dân, của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân. 

- Xây dựng "Thế trận lòng dân" là nội dung cơ bản, là vấn đề mấu chốt của việc xây dựng thế trận quốc phòng toàn dân của Ðảng trong điều kiện mới. Nghị quyết Ðại hội X của Ðảng chỉ rõ: "Xây dựng thế trận lòng dân làm nền tảng phát huy sức mạnh tổng hợp của toàn dân tộc, trong đó Quân đội nhân dân và Công an nhân dân là nòng cốt". Có thể nói, vấn đề này có tầm quan trọng hàng đầu trong lịch sử giữ nước, chống ngoại xâm của dân tộc được Ðảng ta kế thừa xuất sắc trong thực tiễn chỉ đạo xây dựng sức mạnh quốc phòng bảo vệ Tổ quốc trong quá trình đổi mới. 

Yêu cầu cơ bản có ý nghĩa quyết định của xây dựng sức mạnh quốc phòng, của "thế trận lòng dân" là: Khi chưa xảy ra chiến tranh thì toàn dân hăng hái lao động sản xuất, mọi công dân đều có trách nhiệm xây dựng và bảo vệ Tổ quốc; khi xảy ra chiến tranh thì thực hiện chiến tranh nhân dân "Cả nước một lòng, toàn dân đánh giặc", tạo ra những "Tấm lưới sắt", "Bức thành đồng", "Thiên la địa võng" đánh giặc bảo vệ Tổ quốc. Xây dựng "Thế trận lòng dân" là nội dung cơ bản nhằm hướng vào đáp ứng yêu cầu trên và cũng chỉ trên cơ sở xây dựng "Thế trận lòng dân" vững mạnh mới có điều kiện và khả năng làm thất bại âm mưu "diễn biến hòa bình", bạo loạn lật đổ của các thế lực thù địch, mới nâng cao khả năng tự bảo vệ của mỗi người, của từng tổ chức, cơ quan, đơn vị. Ðó là sức mạnh của nền quốc phòng toàn dân, là bí quyết chiến thắng của nhân dân ta. 

- Xây dựng quân đội nhân dân và công an nhân dân cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại 

Tại Ðại hội IX, quan điểm xây dựng Quân đội nhân dân và Công an nhân dân được Ðảng ta xác định rõ phương hướng: "Xây dựng Quân đội nhân dân và Công an nhân dân cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại...". Văn kiện Ðại hội X vẫn trên quan điểm cơ bản như Ðại hội IX, Ðảng ta đã có sự cụ thể hơn nội hàm của phương hướng xây dựng Quân đội nhân dân và Công an nhân dân. Nghị quyết nêu rõ: "Xây dựng Quân đội nhân dân và Công an nhân dân cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại. Nâng cao chất lượng tổng hợp, sức chiến đấu để lực lượng vũ trang thật sự là lực lượng chính trị trong sạch, vững mạnh, tuyệt đối trung thành với Tổ quốc, với Ðảng, Nhà nước và nhân dân, được nhân dân tin cậy, yêu mến. Ðổi mới tổ chức, nội dung, phương pháp huấn luyện, đào tạo đi đôi với cải tiến, đổi mới vũ khí, trang bị, phương tiện phù hợp với yêu cầu tác chiến mới; phát triển khoa học quân sự, khoa học công an, nghệ thuật chiến tranh nhân dân; cải tiến phương thức hoạt động của lực lượng chuyên trách, bán chuyên trách; phối hợp với các tổ chức nhân dân trong bảo vệ an ninh quốc gia, bảo đảm trật tự an toàn xã hội". 

Quan điểm Ðại hội X của Ðảng thể hiện trên các nội dung chính sau: 

- Kiên trì và từng bước cụ thể hóa phương châm xây dựng quân đội nhân dân và công an nhân dân cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại. Ðây là phương châm cơ bản trong quá trình xây dựng quân đội và công an. Các nội dung của phương châm này đã được Ðảng ta đề cập qua các kỳ Ðại hội trong quá trình đổi mới và hoàn chỉnh, nhấn mạnh tại Ðại hội X. 

Tư tưởng xuyên suốt trong quá trình xây dựng quân đội nhân dân và công an nhân dân của Ðảng là không ngừng nâng cao chất lượng tổng hợp, lấy xây dựng quân đội và công an vững mạnh về chính trị làm cơ sở để xây dựng các lĩnh vực khác. Vì thế, trong quá trình đổi mới, Ðảng ta luôn chỉ đạo tập trung xây dựng những nội dung cơ bản, những vấn đề cốt lõi trong xây dựng quân đội và công an về chính trị. Ðó là vấn đề bản chất giai cấp công nhân, tính nhân dân, tính dân tộc của quân đội và công an; lòng trung thành tuyệt đối của quân đội và công an đối với Ðảng, Nhà nước, nhân dân và chế độ XHCN... Trong xây dựng quân đội và công an về chính trị, vấn đề giữ vững, tăng cường nguyên tắc Ðảng lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt đối với quân đội và công an được Ðảng ta quan tâm hàng đầu, bảo đảm cho quân đội và công an luôn là lực lượng chính trị trung thành với Tổ quốc, với Ðảng, với nhân dân, vững vàng trong mọi tình huống, hoàn thành xuất sắc mọi nhiệm vụ. 

Ðể nâng cao chất lượng đội ngũ, nâng cao khả năng sẵn sàng chiến đấu của lực lượng quân đội và công an phải thường xuyên đổi mới nội dung, chương trình, phương pháp đào tạo, huấn luyện; đổi mới vũ khí trang bị, phương tiện; nâng cao khả năng nghiên cứu, ứng dụng khoa học công nghệ, có phương thức hoạt động phù hợp để sẵn sàng đánh thắng khi có chiến tranh và giữ vững an ninh quốc gia, ổn định chính trị xã hội tạo điều kiện phát triển kinh tế. 

3. Tiếp tục hoàn thiện cơ chế Ðảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, điều hành đối với xây dựng nền quốc phòng toàn dân. Với vai trò là chủ thể lãnh đạo, mặt khác xuất phát từ tính đặc thù của lĩnh vực quân sự - quốc phòng, Ðảng đã thực hiện nguyên tắc lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt đối với xây dựng nền quốc phòng toàn dân (QPTD). Nguyên tắc này thể hiện ở chỗ Ðảng trực tiếp quyết định chủ trương, đường lối; trực tiếp lãnh đạo tổ chức thực hiện, kiểm tra, đánh giá quá trình thực hiện xây dựng nền QPTD trong mọi hoạt động. Những chủ trương, quan điểm, đường lối của Ðảng phải được quán triệt sâu sắc trong nội bộ Ðảng, Nhà nước, các tổ chức chính trị - xã hội đặc biệt là các tổ chức có liên quan trực tiếp đến xây dựng nền QPTD. 

Xuất phát từ những nhận thức mới về quốc phòng, xây dựng nền QPTD và kết quả thực hiện cơ chế theo Nghị quyết 02 của Bộ Chính trị. Nghị quyết Ðại hội X xác định cần tập trung vào một số nội dung cơ bản sau: 

+ Tiếp tục bổ sung, hoàn thiện đường lối quân sự, đường lối xây dựng nền QPTD, xây dựng LLVTND trên cơ sở những nhận thức mới và điều kiện mới về xây dựng nền QPTD. 

Qua 20 năm đổi mới cùng với những thành tựu về đổi mới tư duy lý luận nói chung, trên lĩnh vực xây dựng nền QPTD, Ðảng ta cũng đã có nhiều đổi mới nhận thức khá toàn diện trong quá trình xây dựng nền QPTD. Ðây chính là những luận cứ làm cơ sở để xây dựng, bổ sung đường lối quân sự, đường lối xây dựng nền QPTD, xây dựng LLVT. Ðảng coi trọng việc nghiên cứu những diễn biến của tình hình thế giới và trong nước; dự báo chính xác các tình huống cơ bản liên quan nhiệm vụ quốc phòng - an ninh để chủ động lãnh đạo xây dựng chiến lược bảo vệ Tổ quốc, chiến lược tổ chức lực lượng, chiến lược trang bị, nghệ thuật chỉ đạo tác chiến, chiến lược bảo vệ các khu trọng điểm quốc gia... phù hợp với các loại hình tác chiến trong chiến tranh sử dụng vũ khí công nghệ cao và tác chiến phi vũ trang chống "diễn biến hòa bình", giữ vững an ninh quốc gia, duy trì trật tự, kỷ cương, an toàn xã hội. 

- Tăng cường sự lãnh đạo của Ðảng đối với Nhà nước trong quản lý, điều hành quá trình xây dựng nền QPTD trong tình hình mới. Sự lãnh đạo của Ðảng đối với Nhà nước nói chung, đối với quản lý Nhà nước về quốc phòng, bảo vệ Tổ quốc nói riêng là vấn đề có tính nguyên tắc. Tuy nhiên ở mỗi thời kỳ cần phải xác định đúng những yêu cầu, nội dung và phương thức lãnh đạo của Ðảng đối với Nhà nước. Yêu cầu phải tiến hành đồng bộ trong quá trình đổi mới gắn với hệ thống chính trị, với phát huy dân chủ cơ sở, kiện toàn và củng cố hoạt động của các tổ chức, đồng thời phải cụ thể hóa, thể chế hóa thành luật, điều lệ, quy chế, nguyên tắc... 

Phương thức lãnh đạo của Ðảng đối với Nhà nước trong thực hiện nhiệm vụ quốc phòng, bảo vệ Tổ quốc cần phân biệt có sự khác nhau giữa sự lãnh đạo của Ðảng với sự quản lý của Nhà nước, sự khác nhau này xuất phát từ vai trò, chức năng xã hội của mỗi tổ chức, đồng thời cần thấy rõ mối liên hệ, tính phụ thuộc lẫn nhau trong một cơ cấu chính trị - xã hội thống nhất. Nhà nước có chức năng, nhiệm vụ thể chế hóa quan điểm, đường lối, chính sách của Ðảng thành hệ thống pháp luật, pháp lệnh, nghị định, chính sách và tổ chức triển khai thực hiện trên phạm vi toàn xã hội về nhiệm vụ quân sự quốc phòng. Ðây là những văn bản mang tính pháp quy buộc hệ thống chính quyền các cấp, các tổ chức chính trị - xã hội, các lực lượng có liên quan phải chấp hành theo đúng chức năng, quyền hạn của mình. 

Ðể tăng cường vai trò quản lý Nhà nước trong xây dựng nền quốc phòng theo tinh thần Nghị quyết Ðại hội X của Ðảng, cần tập trung thực hiện tốt một số vấn đề cơ bản đó là: 

- Ðẩy mạnh việc xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật, các thể chế, quy định, phương thức hoạt động trong quá trình xây dựng nền QPTD, bảo vệ Tổ quốc Việt Nam XHCN, tiếp tục bổ sung, hoàn thiện luật pháp, pháp lệnh về bảo vệ Tổ quốc và hệ thống chính sách đối với công tác quốc phòng. Xác định rõ quyền lợi và nghĩa vụ của mỗi công dân, trách nhiệm của các tổ chức chính trị - xã hội. Ngoài các luật, pháp lệnh Dân quân tự vệ - Pháp lệnh Quân dự bị động viên - Pháp lệnh Bộ đội Biên phòng - Pháp lệnh Cảnh sát biển - Pháp lệnh Phòng không nhân dân - Pháp lệnh động viên công nghiệp khi có chiến tranh - Quy định Ðộng viên cục bộ và tổng động viên lực lượng, v.v. cần khẩn trương sửa đổi, bổ sung và hoàn thiện các văn bản quy phạm pháp luật có hiệu lực pháp quy cao như Luật Quốc phòng, Luật An ninh quốc gia, Luật Biên giới quốc gia, Luật Giới nghiêm và thiết quân luật, v.v. 

- Tăng cường hiệu lực thực thi pháp luật về quốc phòng, quân sự và an ninh, phối hợp chặt chẽ giữa quân đội và công an, điều chỉnh cơ cấu tổ chức quản lý Nhà nước về quốc phòng từ Trung ương đến cơ sở. Xác định cụ thể cơ chế vận hành, chức năng, nhiệm vụ của các cơ quan, cán bộ chuyên trách và bán chuyên trách về công tác quốc phòng ở các bộ, ngành, địa phương. Ðối với các cơ quan chức năng cần tổ chức phân công cán bộ chuyên trách tăng cường bồi dưỡng, hướng dẫn để phát huy vai trò làm tham mưu trong tổ chức xây dựng và quản lý quốc phòng. 

Tiếp tục nâng cao chất lượng và hiệu quả trong hoạt động lãnh đạo của Ðảng, quản lý của Nhà nước và trách nhiệm của toàn Ðảng, toàn dân và toàn quân là yêu cầu tất yếu của sự nghiệp củng cố quốc phòng, bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam XHCN. 

Trung tướng, PGS Lê Minh Vụ Giám đốc Học viện Chính trị quân sự

Phản hồi

Thông tin người gửi phản hồi

Hướng dẫn kiểm tra, giám sát phục vụ đại hội đảng bộ các cấp tiến tới Đại hội XIV của Đảng

(ĐCSVN) - Tại văn bản số 08-HD/UBKTTW ngày 18/11/2024, Ủy ban Kiểm tra Trung ương hướng dẫn công tác kiểm tra, giám sát phục vụ đại hội đảng bộ các cấp tiến tới Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIV của Đảng.

Phương án nghiên cứu sắp xếp, sáp nhập các bộ, cơ quan thuộc Chính phủ

(ĐCSVN) - Theo phương án nghiên cứu sắp xếp, sáp nhập được Trưởng Ban Tổ chức Trung ương Lê Minh Hưng nêu tại Hội nghị toàn quốc sáng 1/12, sẽ tối thiểu giảm được 5 bộ, 2 cơ quan trực thuộc Chính phủ.

Phương án sáp nhập các ủy ban của Quốc hội và cơ quan thuộc Ủy ban Thường vụ Quốc hội

(ĐCSVN) - Sáng 1/12, Trưởng Ban Tổ chức Trung ương Lê Minh Hưng thông báo chuyên đề về các nội dung chính, trọng tâm việc triển khai tổng kết Nghị quyết 18. Theo phương án định hướng được nêu sẽ giảm 4 ủy ban của Quốc hội và 1 cơ quan trực thuộc Ủy ban Thường vụ Quốc hội.

Phương án giảm 4 cơ quan Đảng, 25 ban cán sự đảng, 16 đảng đoàn trực thuộc Trung ương

(ĐCSVN) - Sáng 1/12, đồng chí Lê Minh Hưng, Uỷ viên Bộ Chính trị, Bí thư Trung ương Đảng, Trưởng ban Tổ chức Trung ương đã trình bày các nội dung chính, trọng tâm việc triển khai tổng kết Nghị quyết 18-NQ/TW của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XII.

Quy trình kỷ luật đảng viên thuộc thẩm quyền của Trung ương Đảng, Bộ Chính trị, Ban Bí thư

(ĐCSVN) - Thay mặt Bộ Chính trị, Thường trực Ban Bí thư Lương Cường vừa ký Quyết định số 165-QĐ/TW ngày 6/6/2024 của Bộ Chính trị ban hành Quy trình xem xét, thi hành kỷ luật đối với tổ chức Đảng, đảng viên thuộc thẩm quyền của Ban Chấp hành Trung ương Đảng, Bộ Chính trị, Ban Bí thư.

Liên kết website