Nghị quyết Hội nghị toàn quốc lần thứ ba về việc chuyển mạnh sang tổng phản công (21/1 - 3/2/1950)

I - Xúc tiến việc chuẩn bị để chuyển mạnh sang tổng phản công

1. Trong hai nǎm cầm cự và chuẩn bị tổng phản công, thế cầm cự về mọi mặt (quân sự, hành chính, kinh tế, v.v.) giữa ta và địch diễn ra rõ rệt và ngày càng có lợi cho ta. Địch đã mở rộng phạm vi chiếm đóng một phần nào trên chiến trường Bắc Bộ; chúng đã tuyển mộ thêm được nhiều nguỵ binh. Nhưng ta tiêu diệt được một phần sinh lực của địch, bồi dưỡng lực lượng của ta, củng cố và phát triển cơ sở trong miền tạm bị chiếm, gây được phong trào ở các thành phố lớn, giải phóng những vùng rộng lớn ở Việt - Miên - Lào. Địch lập nguỵ quyền; ta phá tề và cô lập bù nhìn, đặt lại và phát triển chính quyền của ta trong vùng tạm bị chiếm. Địch phá hoại kinh tế ta, ta bao vây và phá hoại kinh tế địch, làm cho địch thất bại trong kế hoạch lấy chiến tranh nuôi chiến tranh.

2. Hai nǎm cầm cự đã chỉ cho thấy rõ những khả nǎng cũng như những khó khǎn của ta và của địch. Ta càng đánh, chính quyền nhân dân càng thêm vững chắc, tinh thần quân và dân càng cao, các lực lượng hoà bình và dân chủ thế giới càng ủng hộ nhiệt liệt; nhưng đồng thời càng thấy rõ mấy nhược điểm lớn: thiếu vũ khí nặng, thiếu quân chính quy, thiếu cán bộ, kinh tế và vǎn hoá phát triển chậm so với quân sự và chính trị. Địch được Mỹ - Anh giúp đỡ nhiều, nhưng quân đội viễn chinh của địch tinh thần sút kém, tiếp tế khó khǎn, bổ sung có hạn, bố trí phân tán. Hiện nay, ngoài những khó khǎn trên chiến trường Đông Dương, địch gặp hai khó khǎn lớn nhất bên nước chúng là: tài chính nước Pháp ngày một quẫn bách và phong trào phản chiến của nhân dân Pháp ngày một cao.

3. Tình hình hiện thời của ta và địch đại khái như sau:

a) Do cố gắng của bản thân ta và sự giúp đỡ của các lực lượng hoà bình dân chủ thế giới, ta đã tiến bộ nhiều về phương diện tác chiến cũng như về phương diện xây dựng lực lượng. Cơ sở chính trị của ta mạnh, hậu phương ta vững, Mặt trận dân tộc của ta thống nhất, tinh thần quân và dân ta cao.

b) Lực lượng hoà bình và dân chủ thế giới phát triển nhanh chóng, cách mạng Trung Quốc thành công, Liên Xô và các nước dân chủ nhân dân công nhận Chính phủ Cộng hoà Dân chủ Việt Nam, những việc đó làm cho thế của ta thêm mạnh .

c) Mặc dầu cố gắng nhiều để tǎng viện và được Mỹ - Anh giúp đỡ, thực dân Pháp càng ngày càng lúng túng và suy nhược, tài chính nước Pháp khô kiệt, nhân dân phản đối chiến tranh xâm lược Việt Nam và đòi cải thiện sinh hoạt, chống chính sách thân Mỹ; nước Pháp biến thành thuộc địa của Mỹ, quyền lợi nước Pháp bị Mỹ lũng đoạn; Pháp bị lép vế trên trường ngoại giao.

d) Đông Dương hiện là nơi hai thế lực dân chủ chống đế quốc và đế quốc phản dân chủ tranh chấp nhau. Nên phe dân chủ càng sốt sắng ủng hộ ta, và bọn đế quốc Mỹ - Anh cũng đang ra sức xúc tiến việc giúp đỡ thực dân Pháp và can thiệp thẳng vào Đông Dương hòng biến Đông Dương thành một cǎn cứ chống cộng ở Đông Nam châu á và một cứ điểm chiến lược trong kế hoạch chuẩn bị chiến tranh đánh phá Liên Xô và các nước dân chủ nhân dân.

Do đó, ta cần phải nhân đà tiến bộ của bản thân ta, dựa vào sức giúp đỡ của các lực lượng bạn, lợi dụng sự lúng túng của địch, trước mưu mô của đế quốc Mỹ - Anh, mà gấp rút hoàn thành nhiệm vụ chuẩn bị chuyển mạnh sang tổng phản công trong nǎm 1950 này.

4. So sánh thế lực giữa ta và địch hiện nay, ta thấy:

a) Thế của ta mạnh hơn địch, vì nội bộ địch lủng củng, còn toàn dân ta đoàn kết kháng chiến; vì hậu phương địch lung lay, còn cơ sở của ta phát triển trong miền tạm bị chiếm, hậu phương của ta vững và rộng; vì địch bị phụ thuộc vào Mỹ - Anh, đồng thời mâu thuẫn với Mỹ - Anh, còn ta được lực lượng hoà bình dân chủ thế giới, kể cả nhân dân Pháp, nhiệt liệt ủng hộ.

b) Lực của ta hiện còn kém địch về vật chất nhưng hơn địch về tinh thần. Nhưng lực lượng vật chất của ta có cơ phát triển mau, lực lượng vật chất của địch cũng có thể phát triển nữa, nhưng không bù lại được, lực lượng tinh thần của chúng sút kém mau chóng.

Thế và lực mật thiết liên kết với nhau, ảnh hưởng lẫn nhau. Thế mạnh có thể chuyển thành lực mạnh. Ta phải tích cực phát huy khả nǎng của ta, triệt để lợi dụng nhược điểm của địch, làm cho thế lực của ta lớn mạnh hơn, để trong nǎm 1950 ta có thể chuyển sang tổng phản công được.

5. Muốn chuyển sang tổng phản công, ta cần chiếm ưu thế về quân sự trên chiến trường chính, trong khi ở các chiến trường khác, ta đủ sức kiềm chế địch. Ưu thế quân sự đó phải được giữ vững và phát triển để tiếp tục phản công cho đến toàn thắng.

Tổng phản công là phản công trong cả một giai đoạn chiến lược theo một kế hoạch chung cho chiến trường Đông - Dương, là phản công từng đợt cho đến khi địch hoàn toàn thất bại, ta hoàn toàn thắng lợi. Mục đích của tổng phản công là:

a) Tiêu diệt sinh lực của địch.

b) Thu hồi toàn bộ lãnh thổ của Việt, Miên, Lào.

c) Đè bẹp ý chí xâm lược của địch.

Phương châm chiến lược của cả giai đoạn tổng phản công là: vận động chiến đóng vai trò chủ yếu, du kích chiến và trận địa chiến đóng vai trò bổ trợ. Vận động chiến trên chiến trường Đông Dương sẽ còn nặng thành phần du kích trong một thời gian khá lâu và sớm có thành phần trận địa. Tuy đóng vai trò bổ trợ, nhưng du kích chiến vẫn giữ một địa vị khá trọng yếu và phải được phát triển đến cực độ. Trận địa chiến sẽ rõ rệt trong thời kỳ cuối cùng của giai đoạn tổng phản công, còn lúc đầu thì xuất hiện lẻ tẻ trong các cuộc chiến đấu.

Giai đoạn tổng phản công sẽ gay go nhất, vì là giai đoạn quyết định thắng bại cuối cùng. Có hai giả thuyết: giai đoạn tổng phản công có thể kéo dài vì bọn đế quốc Mỹ - Anh tích cực can thiệp vào vấn đề Đông Dương. Song cũng có thể rút ngắn nếu lực lượng dân chủ thế giới phát triển vượt bực và tích cực giúp đỡ ta, nếu song song với những thắng lợi của ta, những thắng lợi của lực lượng hoà bình dân chủ ở Pháp làm cho nội tình nước Pháp rối loạn, quân đội thực dân Pháp tan rã. Dù sao ta phải chuẩn bị đối phó với mọi tình thế khó khǎn, đồng thời ra sức cố gắng để rút ngắn giai đoạn tổng phản công lại.

6. Nǎm 1950, ta cần gấp rút hoàn thành việc chuẩn bị để chuyển mạnh sang tổng phản công. Muốn làm tròn nhiệm vụ đó, toàn Đảng phải thi hành chương trình công tác gồm 10 điểm dưới đây:

a) Xây dựng bộ đội chủ lực, hợp với khả nǎng và tình thế mới; tǎng cường bộ đội địa phương; phát triển dân quân và xúc tiến việc xây dựng các đội quân ngầm. Phát triển chiến tranh du kích đến cực độ, đẩy mạnh vận động chiến lên địa vị chủ yếu. Xây dựng và củng cố các cǎn cứ địa, đặc biệt cǎn cứ địa Việt Bắc.

b) Đánh mạnh vào tinh thần địch bằng cách mở rộng địch vận, đặc biệt vận động nguỵ binh - theo một quy mô lớn. Liên kết chặt chẽ công tác địch vận với kế hoạch tác chiến, công tác vận động nguỵ binh với công tác dân vận. Kiện toàn và phối hợp các cơ quan địch vận của các ngành.

c) Tổng động viên nhân lực, vật lực, tài lực và tinh thần của toàn dân theo khẩu hiệu "Tất cả cho tiền tuyến, tất cả để chiến thắng", triệt để thi hành sắc lệnh tổng động viên của chính quyền. Phối hợp việc thi hành lệnh tổng động viên và thi đua ái quốc.

d) Củng cố chính quyền nhân dân dân chủ chuyên chính Việt Nam, chỉnh đốn chính quyền kháng chiến ở Lào, Miên. Tích cực phòng gian, trừ gian. Chống chính sách gián điệp của địch. Phát triển và củng cố cơ sở chính quyền của ta trong miền tạm bị chiếm; kiên quyết triệt phá "chính quyền" bù nhìn.

đ) ở Việt Nam, củng cố và tǎng cường khối đoàn kết toàn dân trên cơ sở công nông liên hiệp; hoàn thành việc thống nhất Việt Minh - Liên Việt trong phạm vi toàn quốc; xây dựng Mặt trận dân tộc thống nhất ở Lào, Miên, tiến tới thành lập Mặt trận thống nhất các dân tộc Đông Dương. Chỉnh đốn các tổ chức quần chúng.

e) Tích cực tham gia và hưởng ứng cuộc vận động bảo vệ hoà bình thế giới. Xúc tiến ngoại giao và đẩy mạnh tuyên truyền quốc tế để giành lấy sự giúp đỡ của các lực lượng dân chủ trên thế giới về vật chất cũng như về tinh thần, nâng cao địa vị của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà trên trường quốc tế làm cho kháng chiến Lào và Miên được thế giới giúp đỡ.

g) Phát triển kinh tế dân chủ nhân dân, tǎng gia sản xuất, phát triển hợp tác xã; mở mang các xí nghiệp quốc gia, thiết thực chuẩn bị điều kiện để kế hoạch hoá bộ phận kinh tế nhà nước, chấn chỉnh vận tải tiếp tế, kiến lập ngoại thương; cải thiện đời sống cho dân, đặc biệt cho công nông; thi hành chính sách ruộng đất cho đúng mức (hoàn thành giảm tô; thực hiện giảm tức, tiếp tục tạm cấp ruộng đất của Pháp và Việt gian cho dân cày nghèo, tiến hành điều tra nông thôn, phát triển phong trào hiến ruộng, v. v.).

h) Siết chặt vòng vây kinh tế địch, phá hoại kinh tế địch một cách thường xuyên, nhằm đúng vào những yếu điểm và những nguồn lợi lớn của địch (cao su, than, gạo, xi mǎng...), phá giá đồng bạc Đông Dương một cách có kế hoạch.

i) Chấn chỉnh và phát triển giáo dục để đào tạo và bổ túc cán bộ, nhất là cán bộ công nông, để cung cấp cho nhu cầu kháng chiến, đặt cơ sở nền giáo dục dân chủ nhân dân, đẩy mạnh phát minh sáng tác và hướng vǎn nghệ vào việc phụng sự công nông binh, vào công tác địch vận và tuyên truyền quốc tế.

l) Kiện toàn sự chỉ đạo về mọi mặt, chấn chỉnh tổ chức và cách làm việc của các cơ quan chỉ đạo, làm cho sự lãnh đạo được thống nhất và nhanh chóng. Ra sức củng cố đảng: có kế hoạch chỉnh đốn tư tưởng và học tập lý luận, kiện toàn tổ chức và đào tạo cán bộ, làm cho Đảng mạnh để lãnh đạo cho đúng.

Muốn cho việc thi hành chương trình trên có kết quả, cần nắm vững phương châm công tác gồm mấy điểm như dưới :

- Phối hợp chặt chẽ quân, dân, chính dưới sự lãnh đạo của Đảng.

- Làm cho mệnh lệnh thấu suốt trên dưới, chính sách phổ biến khắp nơi.

- Nâng cao khả nǎng tổ chức ngang hàng với nhu cầu của đường lối chính trị.

- Coi công tác vùng tạm bị chiếm quan trọng ngang công tác vùng tự do.

- Coi kháng chiến trên hết, thắng lợi trên hết.

II- Nhiệm vụ quân sự trước mắt

1. Nhiệm vụ quân sự cụ thể và cần kíp của ta nói chung là: một mặt chiến đấu để tiêu diệt sinh lực địch, một mặt gấp rút bồi dưỡng và xây dựng quân đội nhân dân, để trong nǎm nay thực hiện đầy đủ điều kiện chuyển sang tổng tiến công.

Nhiệm vụ tác chiến và nhiệm vụ xây dựng quân đội nhân dân cần phải liên kết chặt chẽ với nhau và cùng tiến hành.

2. Về tác chiến, phát triển du kích đến cực độ vẫn là nhiệm vụ chính trong lúc này, song đồng thời phải tập đánh vận động thực sự, việc đánh những đội quân ứng chiến của địch và chống càn quét một cách hiệu nghiệm phải đi đôi với việc diệt những vị trí và thu hẹp phạm vi chiếm đóng của địch.

Cần phối hợp tác chiến một cách rộng rãi hơn để quét lực lượng địch ra khỏi miền biên giới Bắc Bộ.

Nguồn tiếp tế chính của ta vẫn là tiền tuyến, song phải tìm đủ điều kiện phát triển kỹ nghệ quốc phòng và đẩy kỹ thuật quân giới tiến cao hơn, đặng võ trang rộng rãi trong nhân dân và tǎng cường hoả lực của quân đội ta một cách chắc chắn.

3. Về xây dựng lực lượng, cần chú ý những điểm dưới đây:

a) Xúc tiến việc khuếch trương bộ đội chủ lực, tǎng cường trang bị, cải thiện cấp dưỡng, huấn luyện ráo riết về kỹ thuật, chiến thuật, tổ chức các trung đoàn mạnh tiến tới đại đoàn, binh đoàn.

b) Khuếch trương và tǎng cường chất lượng của bộ đội địa phương, đủ thay thế bộ đội chủ lực trên những vùng lớn rộng, để bổ sung nhanh chóng cho bộ đội chủ lực một khi cần thiết.

c) Phát triển dân quân xã, tǎng cường các đội du kích xã, huấn luyện cho dân quân về tác chiến (chú trọng địa lôi chiến, đánh nhau trong làng mạc, phá hoại, v.v.), cũng như về công tác hậu phương (đặc biệt chú trọng việc vận tải, tiếp tế cho tiền tuyến). Phối hợp công tác dân quân với công tác đoàn thể nhân dân.

4. Vấn đề đào tạo cán bộ cho quân đội nhân dân là then chốt trong công cuộc xây dựng lực lượng cũng như trong việc tác chiến. Chương trình đào tạo cán bộ quân sự cần liên kết việc giáo dục tư tưởng và việc học tập kỹ thuật. Việc động viên và đào tạo cán bộ cho quân đội cần đi đôi với một chính sách cán bộ thích hợp với nhu cầu tác chiến và sự trưởng thành của quân đội; đề bạt mạnh dạn, bổ túc thực sự, chú trọng cán bộ công nông.

5. Gấp rút xây dựng cơ sở chính trị và quân sự trong lòng địch, đặc biệt trong các vùng chiến lược quan trọng (dọc đường giao thông trọng yếu, vùng mỏ, vùng cao su, v. v.). Xúc tiến việc tổ chức đội quân ngầm trong các đô thị lớn.

Để thực hiện nhiệm vụ trên, cần thống nhất sự chỉ đạo các tổ chức chính trị và vũ trang, cung cấp phương tiện đầy đủ và những cán bộ quen hoạt động bí mật, đề phòng các cuộc khủng bố tàn khốc sắp tới, chú trọng giữ vững cơ sở và tránh manh động.

6. Công tác địch vận, nhất là ngụy vận, là một công tác rất quan trọng, đã được nêu lên nhiều, nhưng làm còn kém. Phải tích cực kiện toàn các cơ quan địch vận, phối hợp công tác địch vận của bộ đội chủ lực với công tác địch vận của bộ đội địa phương, dân quân, của các đoàn thể cứu quốc, phối hợp địch vận với công tác tuyên truyền chung và tác chiến, nhất là với công tác dân vận trong các vùng nhân lực bị địch lợi dụng (công giáo, Hoà Hảo, Cao Đài, một vài vùng thiểu số).

Công tác vận động lính Âu - Phi càng ngày càng quan trọng, cần được liên kết chặt chẽ với phong trào phản chiến của nhân dân Pháp.

7. Để thoả mãn nhu cầu ngày càng lớn của tiền tuyến, việc xây dựng và củng cố cǎn cứ địa trở nên quan trọng. Cần xây dựng và củng cố về cả các phương diện chính trị, quân sự, kinh tế, vǎn hoá. Chú trọng kỹ nghệ quốc phòng, giao thông vận tải, tǎng gia sản xuất, v.v..

Tránh khuynh hướng đại quy mô quá sớm trong công cuộc kiến thiết cǎn cứ địa, luôn luôn đề phòng các cuộc tấn công bất ngờ của địch.

Cần có kế hoạch xây dựng lại các khu vực mới được giải phóng về mọi phương diện.

8. Chiến trường chính hiện nay là Bắc Việt Nam. Nhưng việc tập trung lực lượng vào chiến trường chính phải đi đôi với việc tǎng cường đúng mức cho chiến trường miền Nam, để sự phối hợp có hiệu lực và lợi dụng triệt để những điều kiện thuận lợi của ta ở miền Nam.

9. Trên chiến trường Miên và Lào, cần áp dụng các nhiệm vụ nói trên một cách thích hợp.

Chú trọng:

a) Xây dựng cǎn cứ địa chính cho Miên, Lào và mở rộng cơ sở quần chúng, gắn liền các cǎn cứ địa với nhau.

b) Tích cực xây dựng quân đội quốc gia cho Miên và Lào.

c) Đào tạo cán bộ cho Miên và Lào.

Tất cả các đồng chí trong Đảng, đặc biệt là các cấp uỷ đều phải học tập quân sự, đi sát nhiệm vụ và kế hoạch quân sự, hiểu rõ nhu cầu của tiền tuyến, học tập lãnh đạo chiến tranh.

III- Củng cố mặt trận dân tộc và xúc tiến công tác dân vận

1. Trong hai nǎm cầm cự, nhất là trong nǎm 1949, thực dân Pháp đã tích cực tiến hành chính sách bù nhìn chia rẽ. Chúng ký kết hiệp định với Bảo Đại, bù nhìn Lào, Miên, vận động cho bọn này có địa vị trên trường quốc tế. Chúng đánh chiếm những miền công giáo, dựa vào bọn phản động trong Cao Đài, Hoà Hảo, dùng chiêu bài chống cộng để chia rẽ Mặt trận dân tộc thống nhất của ta.

2. Để huy động toàn dân đẩy mạnh cuộc kháng chiến sang giai đoạn tổng phản công và phá tan chính quyền bù nhìn và chia rẽ của địch, chúng ta cần ra sức thi hành những phương sách cụ thể dưới đây:

a) Triệt để phá chính quyền bù nhìn, đồng thời củng cố tổ chức và đề cao uy tín của chính quyền nhân dân ở Việt, Miên, Lào trong vùng tạm bị chiếm cũng như vùng tự do.

b) Tích cực vận động đồng bào các tôn giáo (công giáo, Cao Đài, Hoà Hảo, v.v.) đặc biệt chú trọng vùng công giáo tạm bị chiếm, ra sức vận động sư sãi ở Cao Miên và Lào, vạch mặt nạ bọn phản động tôn giáo, tránh sự khiêu khích chia rẽ của giặc.

c) Thống nhất phong trào đấu tranh của nhân dân vùng tự do và vùng tạm bị chiếm.

d) Hoàn thành việc thống nhất Việt Minh - Liên Việt, sửa đổi lối làm việc của Mặt trận, chống khuynh hướng đoàn kết một chiều. Thực tế củng cố sự liên minh giữa công nông và trí thức tiến bộ, làm nền tảng cho Mặt trận dân tộc thống nhất.

e) Phát triển mạnh mẽ Hội ítxara Miên và Hội ítxarắc Lào, để xúc tiến việc xây dựng Mặt trận dân tộc thống nhất ở Miên và Lào, tiến tới lập Mặt trận các dân tộc thống nhất Đông Dương.

3. Một mặt khác, cần chấn chỉnh tổ chức các giới và cải tiến công tác dân vận theo mấy hướng sau đây:

a) Các tổ chức quần chúng phải vận động nhân dân thực sự tham gia vào việc củng cố chính quyền, giúp sức chính quyền trong công việc tổng động viên nhân lực, vật lực, tài lực, dốc vào cuộc kháng chiến, đồng thời cải thiện đời sống cho toàn dân.

b) Phải hướng quần chúng về những tổ chức thích hợp với quyền lợi giai cấp của họ và xây dựng các tổ chức công, nông, thanh, phụ cho có hệ thống chặt chẽ.

c) Về các đoàn thể quần chúng nhân dân, cần chú trọng những việc dưới đây:

- Tổ chức viên chức lao động trí thức và công nhân nông nghiệp (công nhân làm thuê ở đồn điền, chứ không phải cố nông rải rác, lẻ tẻ ở các xã) vào công đoàn.

- Coi công tác nông vận là trọng tâm trong công tác dân vận. Hội Nông dân cứu quốc phải bao gồm cả thanh niên và phụ nữ nông thôn, đặc biệt chú trọng kết nạp bần, cố nông và đưa họ vào cơ quan chỉ đạo của Hội.

- Tích cực củng cố Đoàn Thanh niên cứu quốc. Nếu cần, có thể đặt cho nó một tên khác cho đúng với nội dung mới của nó - để nó có thể thực sự là tổ chức trụ cột của mặt trận thanh niên Việt Nam. Mục đích mới của đoàn này là góp sức vào việc xây dựng chế độ dân chủ nhân dân và tiến lên chủ nghĩa xã hội.

- Hoà hợp Đoàn Phụ nữ cứu quốc vào Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam, giản đơn tổ chức và thống nhất lực lượng phụ nữ.

- Tổ chức Hội Việt Nam Hoa kiều dân chủ liên hiệp để kết nạp rộng rãi những tổ chức Hoa kiều. Chấn chỉnh các Lý sự hội. Định một chính sách mới đối với Hoa kiều cho thích hợp với tình thế mới và định quy chế Hoa kiều.

- Đối với đồng bào thiểu số, ở những nơi tương đối tập trung thì tổ chức theo giới: nông dân, thanh niên, phụ nữ... Nhưng cũng cần có sự phối hợp sinh hoạt và công tác để tránh những phiền phức cho quần chúng. ở những nơi dân cư rải rác lẻ tẻ, thì chỉ nên tổ chức một hội nông dân đồng thời là Hội Liên Việt.

- Tổ chức các Hội Việt - Hoa hữu nghị, Việt - Xô hữu nghị, v.v. để tǎng tình thân thiện giữa Việt Nam và các nước bạn trên thế giới.

IV- củng cố chính quyền nhân dân

1. Bộ máy chính quyền nhân dân của ta chưa tiến kịp với nhu cầu của tình thế mới. Chúng ta quan niệm chế độ dân chủ nhân dân chuyên chính Việt Nam chưa được cụ thể. Vì vậy, chính quyền của ta chưa làm tròn việc điều khiển chiến tranh. Đó là một điều bất lợi, nhất là trong lúc chuyển mạnh sang tổng phản công này.

2. Chúng ta cần nhận rõ rằng chính quyền dân chủ nhân dân ở Việt Nam là chính quyền của công, nông, tiểu tư sản thành thị, tư sản dân tộc và những thân sĩ yêu nước và tiến bộ dựa trên sự liên minh công nông do giai cấp công nhân và Đảng Cộng sản lãnh đạo. Nó phải hoàn thành nhiệm vụ phản đế và thổ địa, tiến lên kiến thiết chủ nghĩa xã hội.

3. Trước tình thế mới, chính quyền Việt Nam phải được kịp thời kiện toàn, bao gồm những phần tử tiến bộ, đại diện thực sự cho quyền lợi của nhân dân; chính quyền ta có mạnh thì mới thi hành được mau lẹ chính sách tổng động viên nhân lực, vật lực, tài lực cho công cuộc kháng chiến và kiến quốc.

4. Chính quyền nhân dân cần gấp rút tẩy trừ những tàn tích của nhà nước phản động cũ, đổi mới tư tưởng và lề lối làm việc của những công chức cũ, đào tạo cán bộ mới, nhằm thành phần công nông nắm vững quyền điều khiển và kiểm soát chặt chẽ các ngành chuyên môn, làm cho nhà nước dân chủ nhân dân phụng sự đắc lực cho chiến tranh, cho nhân dân và đặc biệt chú trọng đến quyền lợi của tuyệt đại đa số nhân dân là công nông.

5. Phải do nơi thi hành chính sách và mệnh lệnh của Chính phủ mà kiểm tra sự trưởng thành và nǎng lực cán bộ chính quyền, kẻ nào không chịu thi hành chính sách của Chính phủ hoặc phá hoại chính sách đó bằng cách này hay cách khác, đều phải loại ra khỏi các cơ quan chính quyền nhân dân.

6. Đảng ta là đảng lãnh đạo chính quyền, có trách nhiệm xây dựng và củng cố chính quyền để thực hiện triệt để chế độ dân chủ nhân dân. Đảng đoàn chính quyền các cấp cần được kiện toàn, cách lãnh đạo cần phải sửa đổi cho hợp lý, lý luận chính quyền dân chủ nhân dân cần được phổ biến và chính quyền cần phải kết hợp mật thiết với công tác dân vận.

7. ở Miên, Lào cần xây dựng và củng cố chính quyền kháng chiến: chấn chỉnh và thống nhất chính quyền trung ương theo hình thức quốc gia liên hiệp chống thực dân Pháp, xây dựng và phát triển cơ sở chính quyền nhân dân ở các khu giải phóng.

V- đấu tranh cho hoà bình thế giới

Cuộc kháng chiến của chúng ta tiến hành trong lúc thế giới đang bị chiến tranh đe dọa.

1. Để tìm cách thoát nạn khủng hoảng kinh tế đã bắt đầu, để làm bá chủ hẳn thị trường thế giới, bọn đế quốc Mỹ đã đặt ra kế hoạch Mácsan, Hiệp ước Đại Tây Dương, kế hoạch giúp đỡ binh bị, kế hoạch phòng cộng ở Đông Nam châu á; chúng đã liên kết với bọn đế quốc Anh - Pháp - Hà cùng những chính phủ phản động và bọn bù nhìn, gian tế ở các nước, để chia rẽ, đàn áp các phong trào thợ thuyền và giải phóng dân tộc, đồng thời gấp rút chuẩn bị tấn công Liên Xô và các nước dân chủ nhân dân.

2. Phong trào đấu tranh cho hoà bình dân chủ do Liên Xô lãnh đạo đang lan khắp thế giới. Cuộc Đại hội hoà bình thế giới tháng 4-1949 đã đề cao khẩu hiệu: "Chống mưu chiến bảo vệ hoà bình".

Cuộc Hội nghị Cục Thông tin cộng sản tháng 11-1949 đã nhấn mạnh ba nhiệm vụ:

a) Tích cực chống chính sách gây chiến của Mỹ - Anh, bảo vệ hoà bình;

b) Thống nhất giai cấp công nhân, chống bọn xã hội dân chủ hữu khuynh và bọn lãnh tụ công hội cải lương;

.....

3. Đông Dương hiện nay là một tiền đồn của khối dân chủ ở Đông Nam châu á chống đế quốc. Cuộc kháng chiến của các dân tộc Đông Dương mật thiết gắn bó với cuộc tranh đấu bảo vệ hoà bình của nhân dân các nước trên thế giới. Nhân dân Đông Dương đánh thực dân Pháp không những để giành tự do, độc lập thật sự cho mình mà còn để bảo vệ hoà bình dân chủ thế giới.

4. Việc Liên Xô, Trung Hoa và các nước dân chủ nhân dân khác công nhận Việt Nam là một thắng lợi lớn về chính trị của ta; do thắng lợi này, nhân dân Việt Nam sẽ vô cùng phấn khởi, và các nước bạn sẽ tích cực giúp đỡ Việt Nam hơn. Song cũng phải đề phòng bọn đế quốc xúc tiến việc can thiệp thẳng vào vấn đề Đông Dương và giúp bọn bù nhìn Việt, Miên, Lào một cách ráo riết hơn.

Cho nên, trong khi tích cực chuẩn bị chuyển mạnh sang tổng phản công, chúng ta phải:

a) Tố cáo bằng đủ mọi cách mưu mô gây chiến của bọn đế quốc do Mỹ cầm đầu.

b) Tố cáo chính sách can thiệp của Mỹ - Anh giúp thực dân Pháp và bọn bù nhìn ở Đông Dương.

c) Ra sức tuyên truyền ủng hộ Liên Xô và các nước dân chủ nhân dân, củng cố tình hữu nghị giữa các dân tộc Đông Dương và nhân dân các nước đó.

d) Liên kết chặt chẽ cuộc chiến đấu của ta với phong trào tranh đấu cho hoà bình và dân chủ thế giới, hưởng ứng phong trào đó bằng mọi cách gây phong trào các chiến sĩ bảo vệ hoà bình thế giới.

e) Liên kết cuộc kháng chiến của ta với phong trào phản chiến của nhân dân Pháp; thống nhất hành động với Đảng Cộng sản Pháp.

g) Thực hiện sự giúp đỡ giữa Liên Xô, cùng các nước dân chủ nhân dân Đông Âu và Việt Nam về mọi mặt, làm cho các nước đó thiết thực giúp đỡ cuộc kháng chiến của Việt Nam, Cao Miên, Lào.

VI- Tổng động viên và thi đua ái quốc

1. Muốn hoàn thành nhiệm vụ chuẩn bị chuyển mạnh sang tổng phản công, cần phải ban hành một sắc lệnh tổng động viên toàn lực, thực hiện khẩu hiệu "Tất cả cho tiền tuyến, tất cả để chiến thắng".

Sắc lệnh này phải bảo đảm việc sử dụng và phát triển được mọi khả nǎng của dân; làm cho người công dân nào cũng tham gia kháng chiến tuỳ theo nǎng lực của mình; người có của góp của, kẻ có công góp công, nhà giàu đóng chịu nhiều, nhà nghèo đóng chịu ít.

Phải phối hợp chặt chẽ quân, dân, chính trong việc thi hành sắc lệnh tổng động viên cho được chu đáo và nghiêm mật; trừng trị kẻ nào trốn tránh hay lợi dụng sắc lệnh đó. Bởi vậy, cần làm cho quần chúng nhân dân tham gia việc kiểm soát thi hành sắc lệnh tổng động viên.

2. Hướng chính của thi đua ái quốc nǎm 1950 là thi đua tổng động viên nhân lực, vật lực, tài lực để phục vụ tiền tuyến. Để thực hiện cuộc tổng động viên, Chính phủ sẽ đề ra những mức cho việc huy động nhân lực, vật lực, tài lực trong nước, rồi cǎn cứ vào những mức đó lập thành một kế hoạch chung. Trong kế hoạch sẽ chia nhiệm vụ cho các địa phương và các ngành, tuỳ theo khả nǎng và điều kiện mỗi nơi. Đối với bộ phận kinh tế nhà nước, cần xây dựng điều kiện để tiến tới kế hoạch hoá thực sự.

Việc tổng kết kinh nghiệm và phổ biến kinh nghiệm rất cần cho sự phát triển của phong trào thi đua. Các đảng bộ nhất là các tỉnh, cần đem kinh nghiệm thi đua phổ biến cho các cấp dưới và trong quần chúng.

Để phát triển phong trào thi đua, nǎm nay cần nêu những đơn vị thi đua khá nhất và những anh hùng thi đua (một anh hùng trong bộ đội, một anh hùng sản xuất vũ khí, một anh hùng sản xuất nông nghiệp), lấy tên những anh hùng ấy mở những cuộc vận động lớn.

Cải tiến kỹ thuật là điều rất cần cho sự phát triển phong trào thi đua. Cần cố gắng cải tiến kỹ thuật trong điều kiện có thể để đẩy thi đua lên một bước mới.

Muốn khuyến khích tinh thần thi đua của nhân dân, đặc biệt là trong giới lao động, cần cải cách chế độ tiền lương cho hợp lý, nghĩa là lương phải trả theo nǎng lực làm việc, tài nǎng chuyên môn và trách nhiệm của mỗi người, bỏ chế độ tiền lương theo lối bình quân, rất trái ngược với thi đua.

VII- Đảng

1. Trong hai nǎm vừa qua, nói chung đường lối chính sách của Đảng ta đúng. Nhờ đó, Đảng đã lãnh đạo các dân tộc Đông Dương kháng chiến, thu được nhiều thắng lợi. Lực lượng và ảnh hưởng Đảng càng ǎn sâu, lan rộng trong quần chúng nhân dân. Đảng đã trưởng thành trong chiến đấu và trở thành một lực lượng mạnh mẽ gồm gần nửa triệu đảng viên. Uy tín của Đảng trong quần chúng nhân dân ngày một tǎng cao, mặc dầu Đảng vẫn ở trong bí mật. Tuy nhiên, kiểm thảo lại sự lãnh đạo của Đảng, ta thấy trong chủ trương có chỗ sai lệch và trong việc thi hành có nhiều khuyết điểm.

a) Lãnh đạo về chính trị

Quan niệm chiến tranh nhân dân không được rõ ngay từ đầu và đến nay cũng vẫn chưa thấm nhuần trong các cấp bộ đảng, nên việc lãnh đạo chiến tranh còn nhiều thiếu sót. Nhiều cấp uỷ đảng chưa nắm lấy việc chỉ đạo chiến tranh, chưa thống nhất chặt chẽ sự chỉ đạo và phối hợp mật thiết các ngành quân, dân, chính để thực hiện chiến tranh nhân dân, thực hiện đường lối chính trị của Đảng trong cuộc chiến tranh cách mạng này.

Chưa quan niệm thật rõ tính chất cǎn bản của cuộc cách mạng dân chủ nhân dân ở Việt Nam. Vì thế, chưa triệt để động viên nhân dân đặng củng cố chính quyền. Chưa quan niệm rõ chính quyền dân chủ nhân dân chuyên chính, nên chính quyền nhiều khi tỏ ra mềm quá và không tích cực thi hành chính sách và chỉ thị của Đảng (ví dụ: vấn đề tổng động viên, giảm tô, giảm tức, v.v.); về việc thi hành chính sách đại đoàn kết, thường là đoàn kết một chiều, kém phê bình, chỉ trích, thiếu mạnh dạn tuyên truyền chính sách và chủ nghĩa của Đảng. Chưa thực sự kiện toàn vai trò lãnh đạo của giai cấp công nhân và củng cố công nông liên hiệp. Một mặt khác, Đảng thường hay bao biện công tác của mặt trận và của các đoàn thể nhân dân, không chú trọng đến cách làm việc theo lối mặt trận, không khéo lãnh đạo các đoàn thể trong mặt trận bằng đảng đoàn.

Toàn bộ chính sách ruộng đất đề ra chậm và thi hành thiếu tích cực, không mạnh dạn thi hành một chế độ thuế khóa và lương bổng theo tinh thần dân chủ. Việc cải thiện dân sinh nói chung là kém.

Việc vận động cách mạng Miên - Lào còn nhiều thiếu sót. Một số cán bộ Việt Nam còn cho việc vận động cách mạng Miên - Lào là cốt để phụng sự cho bản thân cách mạng Việt Nam, chứ không phải để giải phóng cho các dân tộc Miên - Lào.

Chưa liên kết chặt chẽ cuộc kháng chiến của các dân tộc Đông Dương với công cuộc vận động hoà bình và dân chủ thế giới, ít tuyên truyền chống phản động quốc tế.

Coi nhẹ việc đấu tranh chống những tư tưởng và khuynh hướng sai lầm trong Đảng và trong quần chúng nhân dân.

b) Lãnh đạo về tổ chức

Nói chung, trình độ tổ chức của Đảng ta kém. Nǎng lực tổ chức của chúng ta không tiến kịp nhu cầu của đường lối chính trị.

Về chính quyền, chưa mạnh dạn chấn chỉnh bộ máy và cách làm việc của Nhà nước, theo đúng tinh thần một chính quyền nhân dân chuyên chính.

Về các đoàn thể quần chúng và mặt trận, có nhiều hình thức tổ chức chưa được hợp lý. Về Đảng, gần đây Đảng ta phát triển quá nhanh, sự chọn lọc đảng viên có chỗ không thận trọng, nên thành phần đảng phức tạp. Việc giáo dục đảng viên mới làm không kịp với đà phát triển. Thành phần công nhân và bần, cố nông trong cấp uỷ còn ít.

Nói chung, cấp trên làm việc xa cấp dưới. Chủ nghĩa cá nhân, cách đối xử tiểu tư sản, tư tưởng phong kiến trong Đảng làm cản trở cho việc phê bình và tự phê bình trong Đảng.

Các cơ quan lãnh đạo ít kiểm tra và tổng kết kinh nghiệm. Bệnh sự vụ và bao biện còn nhiều trong các cấp uỷ đảng. Trong lối làm việc, có bệnh hình thức và giấy tờ.

Xét đến cùng, trong Đảng ta có những khuyết điểm kể trên là vì:

1- Thành phần đảng viên phức tạp, ảnh hưởng đến chủ trương và việc thi hành chính sách của Đảng.

2- Việc học tập lý luận trong Đảng ta kém.

2. Muốn cho Đảng ta làm tròn nhiệm vụ chuyển mạnh sang tổng phản công và tổng phản công, cần tích cực sửa chữa những khuyết điểm nói trên. Những việc chính phải làm ngay là:

a) Tǎng cường công tác lý luận và chính trị trong Đảng làm cho mỗi đảng viên hiểu rõ lập trường giai cấp và chính sách của Đảng, làm cho cán bộ hiểu được những điều cǎn bản của chủ nghĩa Mác - Lênin, vận dụng được phương pháp duy vật biện chứng trong công tác hằng ngày và trong việc sửa chữa tư tưởng. Các cấp chỉ đạo phải nghiên cứu kinh nghiệm, sáng kiến của quần chúng, của cấp dưới để bồi bổ cho chủ trương của mình, để tổng kết kinh nghiệm làm giàu cho lý luận của Đảng. Học tập kinh nghiệm mới mẻ của cách mạng thế giới, đặc biệt là của các nước dân chủ nhân dân để bồi bổ cho chính sách của Đảng.

b) Chỉnh đốn tổ chức của Đảng, tǎng gia thành phần công nhân và bần, cố nông trong Đảng và trong các cấp chỉ đạo. Việc kết nạp đảng viên mới phải cǎn cứ vào sự giác ngộ quyền lợi công nhân, thừa nhận lập trường, chủ nghĩa và chính sách của Đảng. Phải kiên quyết bài trừ những lối tổ chức vì cảm tình, tổ chức để đối phó, tổ chức cho nhiều để thi đua, v.v.. Tất cả các đảng viên phải có sinh hoạt quần chúng, phải hoạt động trong tổ chức quần chúng ở nơi mình làm việc.

Đối với những phần tử vô kỷ luật, chống nghị quyết của Đảng, những phần tử lợi dụng, đầu cơ chui vào Đảng, làm hại thanh danh của Đảng, phải khai trừ ra khỏi Đảng. Việc kết nạp đảng viên mới phải hết sức thận trọng, phải tỉnh táo đề phòng bọn khiêu khích, bọn tay sai của địch chui vào Đảng hòng phá hoại Đảng.

Tóm lại, nǎm nay nói chung về việc xây dựng đảng, củng cố phải nặng hơn phát triển, chất lượng phải trọng hơn số lượng.

Chấn chỉnh bộ máy và lề lối làm việc của các cấp cho hợp lý, làm cho trên dưới thông suốt để đảm bảo dân chủ và thống nhất của Đảng.

c) Chấn chỉnh tổ chức của các hội quần chúng, của mặt trận và của chính quyền, sao cho hình thức được hợp lý và nội dung thích hợp với nhu cầu của tình thế và trình độ của cán bộ, của nhân dân. Song phải hết sức tránh những khuynh hướng sai lầm về tổ chức như quá đơn giản, hình thức chủ nghĩa, máy móc, v.v.. Kiên quyết bài trừ nạn Đảng bao biện công tác của Mặt trận và của các hội quần chúng, thực hiện đúng cách làm việc lối mặt trận và lãnh đạo các đoàn thể quần chúng và các cơ quan chính quyền bằng đảng đoàn.

d) Đào tạo một lớp cán bộ lý luận và cán bộ chuyên môn các cấp cho Đảng, hướng dẫn cho cán bộ tự học và cung cấp tài liệu cho họ; tích cực hơn trong việc dạy vǎn hoá cho cán bộ công nông và cán bộ phụ nữ. Chú trọng việc tìm hiểu cán bộ một cách có hệ thống, mạnh dạn hơn trong việc cất nhắc cán bộ mới và giúp cán bộ cũ tiến bộ, có kế hoạch điều động, phân phối công tác cho hợp lý.

e) Xúc tiến việc phát triển Đảng bộ Miên - Lào, lấy việc kết nạp đảng viên trong các tầng lớp công nông làm cốt yếu. Đào tạo cán bộ Miên - Lào đưa vào cơ quan chỉ đạo các cấp.

g) Tổ chức việc liên lạc chặt chẽ với các đảng anh em, nhất là với các đảng Pháp, Liên Xô và các đảng Đông Nam châu á.

h) Triệu tập Đại hội lần thứ II của Đảng.

Phong trào dân chủ chống đế quốc trên thế giới đang phát triển mau lẹ. Phe dân chủ do Liên Xô lãnh đạo đang tranh đấu để phá mưu mô gây chiến của chủ nghĩa đế quốc và bảo vệ hòa bình thế giới.

Là một phần tử của đại gia đình dân chủ thế giới, Đông Dương đang anh dũng chiến đấu chống thực dân Pháp và đang tiến gần đến thắng lợi.

Tiền đồ cách mạng thế giới và cách mạng Đông Dương rất sáng sủa.

Tuy nhiên, khó khǎn, gian khổ còn nhiều. Chúng ta cần phải vận dụng mọi khả nǎng của ta, cố gắng vượt qua mọi khó khǎn, trở lực để chuyển cuộc kháng chiến sang tổng phản công trong nǎm nay, thực hiện chỉ thị của Hồ Chủ tịch.

Hội nghị toàn quốc lần này đã kiểm điểm lực lượng của ta và của địch, kiểm thảo mọi mặt công tác và sự lãnh đạo của Đảng, vạch những khuyết điểm và đề ra những phương châm và nhiệm vụ mới.

Để xứng đáng là đội tiên phong của giai cấp và của dân tộc, chúng ta hãy kiên quyết sửa chữa những khuyết điểm, phát triển ưu điểm, nắm vững phương châm công tác, ra sức thi hành nghị quyết này với tinh thần thi đua ái quốc đặng làm tròn nhiệm vụ lịch sử mới trong giai đoạn hiện tại: hoàn thành giải phóng dân tộc, xây dựng chế độ dân chủ nhân dân.

- Tất cả cho tiền tuyến, tất cả để chiến thắng!

- Chuyển mạnh sang tổng phản công!

- Tiêu diệt thực dân Pháp xâm lược!

- Đông Dương giải phóng muôn nǎm!

- Đảng Cộng sản Đông Dương muôn nǎm!

- Hồ Chủ tịch muôn nǎm!

 

Vǎn kiện Đảng 1949-1950,
Ban Nghiên cứu Lịch sử Đảng
Trung ương xuất bản, Hà Nội,
1979, t.II, q.II, tr. 241-263.

Phản hồi

Thông tin người gửi phản hồi

Ban hành Quy chế bầu cử trong Đảng

(ĐCSVN) - Ngày 10/10, thay mặt Ban Chấp hành Trung ương Đảng, Tổng Bí thư Tô Lâm đã ký Quyết định số 190-QĐ/TW về việc ban hành Quy chế bầu cử trong Đảng.

Kiểm soát quyền lực, phòng, chống tham nhũng, tiêu cực trong quản lý, sử dụng tài chính, tài sản công

(ĐCSVN) - Bộ Chính trị vừa ban hành Quy định số 189-QĐ/TW ngày 08/10/2024 về kiểm soát quyền lực, phòng, chống tham nhũng, tiêu cực trong quản lý, sử dụng tài chính, tài sản công.

Bộ Chính trị ban hành quy định phòng chống tham nhũng, tiêu cực trong điều tra, xét xử

(ĐCSVN) – Ngày 27/10/2023, Bộ Chính trị đã ban hành Quy định số 132-QĐ/TW về kiểm soát quyền lực, phòng, chống tham nhũng, tiêu cực trong hoạt động điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án.

Tập trung tuyên truyền những chủ đề lớn, trọng tâm từ nay đến Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIV của Đảng

(ĐCSVN) - Ban Tuyên giáo Trung ương yêu cầu thông tin chính xác, kịp thời với nhiều hình thức linh hoạt, sáng tạo, phong phú, sinh động gắn với tuyên truyền đại hội đảng bộ các cấp, tiến tới Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIV của Đảng và tuyên truyền kỷ niệm các ngày lễ lớn, sự kiện lịch sử quan trọng của đất nước trong năm 2024, 2025.

Quy trình kỷ luật đảng viên thuộc thẩm quyền của Trung ương Đảng, Bộ Chính trị, Ban Bí thư

(ĐCSVN) - Thay mặt Bộ Chính trị, Thường trực Ban Bí thư Lương Cường vừa ký Quyết định số 165-QĐ/TW ngày 6/6/2024 của Bộ Chính trị ban hành Quy trình xem xét, thi hành kỷ luật đối với tổ chức Đảng, đảng viên thuộc thẩm quyền của Ban Chấp hành Trung ương Đảng, Bộ Chính trị, Ban Bí thư.

Liên kết website