Bài nói của đồng chí Tổng Bí thư Lê Duẩn tại Hội nghị lần thứ tám ban Chấp hành Trung ương Đảng

Thưa các đồng chí, 

Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương chúng ta đã thảo luận báo cáo của Bộ Chính trị do đồng chí Trường Chinh trình bày, đã góp nhiều ý kiến quan trọng về bản dự thảo Hiến pháp mới sẽ trình Quốc hội phê chuẩn, cũng như về những việc phải làm để bảo đảm cho Hiến pháp được thi hành nghiêm chỉnh sau khi Quốc hội thông qua. Hôm nay, trong buổi kết thúc hội nghị, tôi xin phát biểu một số ý kiến. 

I - Hiến pháp xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ tổ quốc xã hội chủ nghĩa 

Dân tộc ta có một lịch sử hết sức vẻ vang. Trong 4.000 năm đã có hơn 20 thế kỷ đấu tranh kiên cường bất khuất cho nền độc lập tự chủ, với nhiều chiến công oanh liệt tuyệt vời, nhưng vào giữa thế kỷ trước, dân tộc ta phải chịu thảm hoạ mất nước bởi sự xâm lược của chủ nghĩa thực dân. Biết bao xương máu đã đổ để cứu nước, cứu nhà, song sự nghiệp giải phóng dân tộc vẫn không thành! 

Năm 1930, Đảng ta ra đời. Kế thừa truyền thống chiến đấu chống ngoại xâm của dân tộc và tiếp thu ánh sáng chủ nghĩa Mác - Lênin, chân lý của thời đại ngày nay, Đảng xác lập quyền lãnh đạo của giai cấp công nhân Việt Nam đối với cách mạng, dựa chắc vào lực lượng to lớn của nhân dân, đưa vào phong trào cứu nước của dân tộc ta một nội dung mới, một chất lượng mới. Đó là: độc lập tự do cho dân tộc gắn liền với xoá bỏ ách áp bức giai cấp, xoá bỏ chế độ người bóc lột người, đưa đất nước tiến lên con đường xã hội chủ nghĩa; cách mạng giải phóng dân tộc gắn liền với cách mạng vô sản thế giới, hướng theo ngọn cờ tiên phong mà Liên Xô đã phất lên từ Cách mạng Tháng Mười. Đường lối chiến lược giương cao hai ngọn cờ độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội mà Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nêu lên và được cụ thể hoá trong cương lĩnh đầu tiên của Đảng, vạch một hướng đi mới cho cách mạng Việt Nam, thúc đẩy cuộc đấu tranh cách mạng phát triển với một sức mạnh kỳ diệu, bảo đảm cho nhân dân ta giành được thắng lợi huy hoàng trong Cách mạng Tháng Tám năm 1945 và trong hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ, mở ra một bước ngoặt căn bản trong lịch sử hiện đại của nước nhà. 

Hiến pháp mới của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam chính là sản phẩm của cuộc chiến đấu lâu dài và anh dũng của nhân dân ta vì giải phóng dân tộc và giải phóng xã hội dưới sự lãnh đạo của Đảng, đồng thời là vũ khí sắc bén để toàn dân ta tiếp tục cuộc đấu tranh nhằm bảo vệ, củng cố vững chắc độc lập dân tộc và giành thắng lợi quyết định cho chủ nghĩa xã hội trên Tổ quốc ta. 

Hiện nay, đất nước ta tuy có hoà bình, song phải luôn luôn chuẩn bị chống chiến tranh xâm lược của bọn phản động... 

Trong tình hình đó, chúng ta phải đề cao cảnh giác, chăm lo tăng cường quốc phòng, đặt một phần đất nước trong tình trạng sẵn sàng chiến đấu, đồng thời phải có những cố gắng cao nhất nhằm đưa nước nhà tiến lên chủ nghĩa xã hội, xây dựng Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam thành một nước vững mạnh về mọi mặt chính trị, kinh tế, văn hoá, quốc phòng, một nước có kinh tế công nông nghiệp hiện đại, có văn hoá, khoa học, kỹ thuật tiên tiến, có đời sống văn minh, hạnh phúc. 

Sứ mệnh lịch sử của Nhà nước và nhân dân ta là xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội và bảo vệ vững chắc Tổ quốc xã hội chủ nghĩa. Hai nhiệm vụ cơ bản đó xuyên suốt toàn bộ bản Hiến pháp mới. Đó cũng là nghĩa vụ và quyền lợi cao nhất của mọi công dân Việt Nam. Thi hành Hiến pháp mới, nói một cách bao quát, là làm tròn sứ mệnh cao cả đó. Hiện nay, nhân dân ta đứng trước một tình hình có nhiều khó khăn, phức tạp; song chưa lúc nào đất nước và dân tộc ta lớn mạnh về mọi mặt như ngày nay. Đoàn kết chặt chẽ dưới lá cờ bách chiến bách thắng của Đảng Cộng sản Việt Nam, ra sức thực hiện những nghị quyết của Đại hội lần thứ IV của Đảng, nhân dân ta nhất định giành thắng lợi to lớn hơn nữa trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa. 

Sự gắn bó giữa chủ nghĩa xã hội và độc lập dân tộc là chân lý lớn nhất của thời đại ngày nay. Cả loài người đang được lôi cuốn vào cuộc đấu tranh quyết liệt "ai thắng ai" trên phạm vi toàn thế giới, giữa một bên là chủ nghĩa đế quốc và phản động quốc tế với một bên là các lực lượng của chủ nghĩa xã hội và độc lập dân tộc, các lực lượng hoà bình và dân chủ. Mặc dầu việc chủ nghĩa đế quốc và... xúc tiến liên minh với nhau đang gây ra một tình hình nguy hiểm trong nền chính trị thế giới, cuộc đấu tranh của nhân dân các nước cho hoà bình, độc lập dân tộc, dân chủ và chủ nghĩa xã hội vẫn tiến bước vững chắc với thế mạnh, thế thắng ngày càng rõ rệt. 

Nhân dân ta đã giành được thắng lợi vĩ đại là vì cách mạng Việt Nam luôn luôn giương cao ngọn cờ độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, luôn luôn đứng cùng một tuyến chiến đấu với nhân dân Lào và nhân dân Campuchia anh em, với tất cả các lực lượng cách mạng trên thế giới, mà cộng đồng xã hội chủ nghĩa là trung tâm và Liên Xô là trụ cột. 

Trong lúc này, hơn bao giờ hết, chúng ta càng phải giương cao ngọn cờ Tổ quốc và chủ nghĩa xã hội, nắm vững đường lối chung do Đại hội lần thứ IV của Đảng vạch ra, một đường lối phản ánh đúng quy luật phát triển của dân tộc ta trong thời đại mới. Chỉ có đi theo con đường đó thì nước ta mới có đủ sức mạnh giữ vững độc lập dân tộc, nhân dân ta mới có đời sống ấm no, hạnh phúc. Trong lúc này, hơn bao giờ hết, chúng ta càng phải kết hợp chặt chẽ chủ nghĩa yêu nước với chủ nghĩa quốc tế vô sản, ra sức tăng cường quan hệ đặc biệt Việt Nam - Lào - Campuchia, tăng cường tình đoàn kết hữu nghị và sự hợp tác toàn diện giữa Việt Nam với Liên Xô và cộng đồng xã hội chủ nghĩa. Đó là một điều kiện tất yếu, bảo đảm vững chắc cho thắng lợi vĩnh viễn của độc lập, tự do và chủ nghĩa xã hội ở nước ta. 

II - Xây dựng chế độ làm chủ tập thể xã hội chủ nghĩa - tinh thần và nội dung cơ bản của hiến pháp mới 

Là đạo luật cơ bản của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam, Hiến pháp mới quy định chế độ chính trị, kinh tế, văn hoá, xã hội, quyền và nghĩa vụ của công dân, nguyên tắc tổ chức và hoạt động của các cơ quan nhà nước. Từ lời nói đầu đến tất cả các chương, Hiến pháp mới thể chế hoá chế độ làm chủ tập thể trên các mặt của đời sống xã hội, từ lực lượng sản xuất đến quan hệ sản xuất, từ cơ sở kinh tế đến kiến trúc thượng tầng, từ sự nghiệp dựng nước đến sứ mệnh giữ nước, từ quan hệ của mỗi công dân đối với Tổ quốc, đối với tập thể, từ vị trí của gia đình trong cộng đồng xã hội đến cơ cấu Đảng lãnh đạo, nhân dân làm chủ và Nhà nước quản lý. Hiến pháp mới ghi lại mức độ đã đạt và chỉ ra phương hướng tiến lên trong công cuộc xây dựng chế độ làm chủ tập thể xã hội chủ nghĩa. Hiến pháp đặt nền móng kỷ cương cho nước nhà, trong đó mọi người phải sống và làm việc có pháp luật, có kỷ luật, có tổ chức, phù hợp với lợi ích và nguyện vọng của nhân dân, phù hợp với yêu cầu của một xã hội văn minh, hiện đại mà chúng ta đang từng bước xây dựng. 

Làm chủ tập thể là tinh thần cơ bản, là nội dung nhất quán của Hiến pháp mới, bởi vì đó là mục đích thật sự của độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, là động lực cực kỳ quan trọng của sự nghiệp cách mạng của nhân dân ta. Do đó muốn thực hiện Hiến pháp, cần phải nắm vững tư tưởng của Đảng về làm chủ tập thể. 

Tư tưởng làm chủ tập thể đã được chính các nhà kinh điển nêu ra. Mác, Ăngghen và Lênin đã chỉ rõ chủ nghĩa xã hội là một chế độ, trong đó con người bắt đầu làm chủ xã hội, làm chủ thiên nhiên, làm chủ bản thân, là một chế độ mà yếu tố chủ đạo là "tính cộng đồng", "tính tập thể", là bước phát triển cao nhất trong sự tiến hoá của loài người. Làm chủ tập thể không chỉ là ý thức và tình cảm mà trước hết là một hệ thống quan hệ chính trị, kinh tế, văn hoá, xã hội, thể hiện nhất quán nhân dân lao động là người làm chủ tập thể của nước nhà. Chính hệ thống quan hệ này xác định bản chất và đặc điểm của xã hội mới, xã hội chủ nghĩa, làm cho xã hội mới khác về chất so với mọi xã hội đã từng tồn tại trong lịch sử nước ta. 

Hệ thống quan hệ làm chủ đó làm nổi bật tính hơn hẳn của chế độ mới và tạo ra sức mạnh to lớn để cải tạo và xây dựng kinh tế, phát triển văn hoá, xây dựng cuộc sống mới, con người mới. Từ sản xuất nhỏ tiến thẳng lên chủ nghĩa xã hội, trong điều kiện cơ sở vật chất - kỹ thuật chưa có gì đáng kể thì chỗ dựa to lớn nhất là sức mạnh của làm chủ tập thể. Do đó, đi ngay vào làm chủ tập thể, trước hết là làm chủ đối với đất đai và lao động. Xây dựng ngay những cơ sở ban đầu của chế độ làm chủ tập thể là một vấn đề có tính quy luật trên con đường tiến lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta. 

Nhân đây tôi nhấn mạnh một điểm rất quan trọng trong dự thảo Hiến pháp mới là chuyển toàn bộ đất đai thành sở hữu toàn dân. Đề ra như vậy hoàn toàn đúng với quy luật tiến lên chủ nghĩa xã hội, đúng với thực trạng ruộng đất nước ta, phù hợp với lợi ích toàn xã hội và cũng phù hợp lợi ích của chính nông dân. Thật vậy, nguyên tắc của chủ nghĩa xã hội là tất cả những tư liệu sản xuất cơ bản phải thuộc về của chung. Nhà nước xã hội chủ nghĩa phải thống nhất quy hoạch và có chính sách khai thác hợp lý, đầu tư thích đáng, bảo vệ và bồi bổ đất đai trên phạm vi cả nước cũng như ở từng vùng kinh tế, làm sao cho toàn bộ đất đai bảo đảm nuôi sống hơn 50 triệu người, làm sao đưa nông nghiệp lên sản xuất lớn xã hội chủ nghĩa để phục vụ đắc lực sự nghiệp công nghiệp hoá nước nhà. Chỉ với điều kiện chuyển toàn bộ đất đai thành sở hữu toàn dân mới làm được như thế. Là sở hữu toàn dân, song ruộng đất được giao cho các tập thể hợp tác xã và nông dân lao động cá thể sử dụng và hưởng kết quả lao động của mình theo quy định của pháp luật; những hộ lao động đang sử dụng tất nhiên được tiếp tục sử dụng. Tập thể hoặc cá nhân khi sử dụng đất đai đều có trách nhiệm bảo vệ, bồi bổ và khai thác theo chính sách và kế hoạch của Nhà nước. 

Chỉ có chế độ làm chủ tập thể xã hội chủ nghĩa mới giải quyết đúng mối quan hệ giữa xã hội và cá nhân. ở đây, vừa thiết lập sự làm chủ tập thể của cả cộng đồng xã hội Việt Nam, vừa phát huy cao độ quyền tự do chân chính của cá nhân, khơi dậy mọi năng lực sáng tạo của cá nhân, thống nhất hài hoà cá nhân với xã hội. Không thấy và không kiên quyết dựa vào sức mạnh làm chủ của cả cộng đồng là không đúng, nhưng không thấy tính chất chính đáng, vai trò quan trọng, tất yếu của cá nhân cũng là sai lầm. Kết hợp xã hội, tập thể với cá nhân, dùng hết sức mạnh của cả tập thể cũng như khả năng của từng người là phương hướng đúng đắn để khai thác mọi tiềm năng của đất nước, nhất là trong lĩnh vực tổ chức, sử dụng và quản lý lao động. 

Một nội dung cơ bản của chế độ làm chủ tập thể xã hội chủ nghĩa là kết hợp hữu cơ quyền lợi với nghĩa vụ, nghĩa vụ với quyền lợi. Mọi công dân đều bình đẳng về nghĩa vụ và quyền lợi, đều phải làm tròn những nghĩa vụ nhất định như bảo vệ Tổ quốc, lao động xây dựng đất nước, v.v., đồng thời đều được hưởng những quyền lợi nhất định về các mặt chính trị, kinh tế, văn hoá, xã hội. Ai có sức lao động đều có quyền lao động và phải lao động, đồng thời đều có quyền hưởng thụ tuỳ theo lao động cống hiến. Tách rời nghĩa vụ với quyền lợi, quyền lợi với nghĩa vụ là trái với thực chất của chế độ làm chủ tập thể. Theo tinh thần đó, phải kiên quyết phê phán những hiện tượng sai lệch trong quản lý kinh tế như: vừa xem nhẹ các biện pháp kinh tế, vừa lỏng lẻo trong việc sử dụng các biện pháp hành chính, thiên về mệnh lệnh mà không quan tâm đúng mức đến việc tổ chức đời sống vật chất và văn hoá cho quần chúng, không tạo điều kiện cho quần chúng có việc làm chính đáng, tăng thêm thu nhập và sản xuất thêm của cải cho xã hội. Đồng thời, theo tinh thần đó, phải kiên trì giáo dục cho công dân thái độ lao động mới, giáo dục ý thức trách nhiệm đối với sự nghiệp của đất nước. Thực hiện chế độ làm chủ tập thể đòi hỏi trước hết thực hiện đúng những điều khoản của Hiến pháp về nghĩa vụ và quyền lợi của công dân. 

Trong chế độ làm chủ tập thể, lợi ích toàn xã hội, lợi ích từng tập thể và lợi ích của từng người lao động là nhất trí. Sự nhất trí giữa ba lợi ích, một đặc điểm cơ bản của chế độ làm chủ tập thể xã hội chủ nghĩa, là một động lực rất quan trọng để xây dựng xã hội mới, phát triển kinh tế, đẩy mạnh sản xuất. Các điều khoản của Hiến pháp cũng như các chính sách cụ thể về quản lý kinh tế và quản lý xã hội, phải thể hiện cho được đặc điểm cơ bản này. Không quan tâm thực hiện sự nhất trí giữa ba lợi ích là một khuyết điểm kéo dài trong công tác quản lý kinh tế, quản lý xã hội, đã gây ra nhiều mặt tiêu cực trong lao động sản xuất, chẳng những không phát huy mà còn làm lu mờ bản chất tốt đẹp và sức mạnh to lớn của chế độ làm chủ tập thể.

Để bảo đảm trọn vẹn lợi ích của quần chúng, đồng thời để phát huy hết sức mạnh của làm chủ tập thể, chế độ làm chủ tập thể phải được thực hiện đồng thời trên ba khâu cơ bản: cả nước, địa phương và cơ sở. Đó là một tất yếu khách quan của tồn tại xã hội. Kết hợp làm chủ trong cả nước với làm chủ trong từng địa phương và từng cơ sở là kết hợp sự thống nhất, tập trung với việc mở rộng dân chủ, vừa tránh tình trạng phân tán, chia cắt, vừa chống tập trung quan liêu; vừa phù hợp với quá trình sản xuất, vừa đáp ứng được yêu cầu của chế độ phân phối xã hội chủ nghĩa; là kết hợp sức mạnh chung của cả nước với sức mạnh cụ thể của từng địa phương, từng đơn vị. Các điều khoản của Hiến pháp nói về chức năng, nhiệm vụ của các cấp chính quyền cần được cụ thể hoá và bổ sung bằng những chính sách về tổ chức sản xuất và quản lý kinh tế, quản lý xã hội về bảo đảm đời sống nhân dân, bảo đảm xây dựng cơ sở vật chất - kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội, thể hiện đầy đủ chế độ làm chủ trên ba khâu cơ bản, khắc phục những sự chồng chéo, vướng mắc hiện nay giữa trung ương, địa phương và cơ sở. 

Chế độ làm chủ tập thể phải dựa trên cơ sở của nền kinh tế mới xã hội chủ nghĩa. Chưa có nền tảng vật chất là nền sản xuất lớn xã hội chủ nghĩa, thì chế độ làm chủ tập thể chưa có điều kiện thực hiện đầy đủ, bởi vì, như Lênin đã nói: trình độ dân chủ không thể vượt quá trình độ phát triển của kinh tế. Vì vậy, ra sức xây dựng nền kinh tế mới là nhiệm vụ quan trọng bậc nhất của nhân dân ta, của tất cả các cấp chính quyền từ trung ương đến cơ sở. Đi đôi với xây dựng kinh tế, Nhà nước vô sản có trách nhiệm xây dựng từng bước nền văn hoá mới và con người mới xã hội chủ nghĩa, lấy đó làm những động lực quan trọng thúc đẩy sự nghiệp cách mạng xã hội chủ nghĩa. 

III - Hoàn thiện cơ cấu đảng lãnh đạo, nhân dân làm chủ, nhà nước quản lý 

Chế độ làm chủ tập thể xã hội chủ nghĩa được thể hiện bằng một cơ cấu, trong đó Đảng lãnh đạo, nhân dân làm chủ, Nhà nước quản lý. Ba mặt ấy vừa phân biệt rõ về nội dung, chức năng, nhiệm vụ, vừa có quan hệ hữu cơ với nhau, hợp thành một chỉnh thể thống nhất. 

Sự lãnh đạo của Đảng là bảo đảm cao nhất cho chế độ làm chủ tập thể xã hội chủ nghĩa bởi mục đích của Đảng là thiết lập chủ nghĩa xã hội, đem lại quyền làm chủ tập thể cho nhân dân lao động. Điều đó được ghi rõ trong dự thảo Hiến pháp mới. Và đó là lẽ tự nhiên. Nhân dân ta trải qua hơn một nửa thế kỷ đấu tranh vì giải phóng và tiến lên cuộc đời làm chủ, hiểu và tin sâu sắc rằng sự nghiệp lớn lao của mình không thể nào thành công được nếu không có Đảng lãnh đạo. ý nguyện và tình cảm nhân dân bắt nguồn sâu xa từ quy luật khách quan của lịch sử. Thật vậy, trong thời đại ngày nay, chỉ có giai cấp công nhân là giai cấp duy nhất có khả năng đi đầu trong cuộc giải phóng xã hội khỏi ách áp bức dân tộc và áp bức giai cấp; chỉ có giai cấp công nhân mới tiêu biểu được cho chế độ làm chủ tập thể xã hội chủ nghĩa. Bởi vì, đó là giai cấp gắn liền với nền công nghiệp lớn hiện đại, mà chỉ với lực lượng sản xuất tiên tiến và hùng mạnh này thì mới cải tạo được triệt để xã hội cũ và mới thiết lập được nền tảng vật chất vững chắc cho chế độ mới. Vì đó là giai cấp có một đội tiền phong chiến đấu được trang bị bằng lý luận cách mạng và khoa học nhất là chủ nghĩa Mác - Lênin, giúp soi sáng quy luật phát triển khách quan của xã hội; không có lý luận đó nhân dân sẽ mãi mãi chìm trong đêm tối không thấy đường đi. Đảng ta, đội tiên phong của giai cấp công nhân Việt Nam, chính là một đội ngũ như thế. 

Sự lãnh đạo của Đảng, như vậy, tuyệt đối không phải là sự áp đặt chủ quan, trái lại bắt nguồn một cách khách quan từ tính tất yếu lịch sử, từ chính lợi ích giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp, từ nhu cầu thiết thân của nhân dân đấu tranh giành độc lập, tự do và xây dựng cuộc sống mới. Đảng ta quyết làm tròn sứ mệnh cao cả đó. 

Trong giai đoạn hiện nay, sự lãnh đạo của Đảng bao trùm phạm vi rất rộng lớn, quán xuyến tất cả các mặt hoạt động và đời sống của dân tộc, đi vào những lĩnh vực ngày càng mới mẻ, phức tạp và khó khăn của công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội. Đảng ta đang đứng trước yêu cầu phải vươn lên nắm vững hơn nữa lý luận Mác - Lênin về các quy luật phát triển xã hội, nhất là trong điều kiện tiến từ sản xuất nhỏ lên sản xuất lớn xã hội chủ nghĩa, làm chủ các kiến thức khoa học, kỹ thuật hiện đại, vận dụng sáng tạo vào điều kiện thực tế nước ta để cụ thể hoá và phát triển hơn nữa đường lối cách mạng xã hội chủ nghĩa. Đảng phải nhìn lại từ Đại hội IV đến nay, đánh giá chính xác những việc đã làm được và những việc chưa làm được, tổng kết sâu sắc những kinh nghiệm, kinh nghiệm thành công cũng như kinh nghiệm không thành công, nhất là trong lĩnh vực tổ chức là khâu yếu nhất trong sự lãnh đạo của Đảng hiện nay, trên cơ sở đó vạch ra một cách có căn cứ khoa học phương hướng và chủ trương cụ thể cho thời kỳ cách mạng tới. 

Đi đôi với việc nâng cao năng lực lãnh đạo về đường lối, chủ trương, Đảng phải rất coi trọng tăng cường sức chiến đấu, giữ cho đội ngũ của Đảng luôn luôn trong sạch và gắn bó máu thịt với quần chúng, xây dựng đảng bộ cơ sở vững mạnh, kiên quyết đưa những người không đủ tư cách đảng viên ra khỏi Đảng, đồng thời không ngừng bồi dưỡng, rèn luyện, nâng cao năng lực và phẩm chất cho cán bộ, đảng viên. 

Đặc biệt cấp bách là Đảng phải phấn đấu nâng cao năng lực tổ chức, làm tốt công tác kiểm tra, ra sức khắc phục những mặt yếu kém và sai lầm trong lĩnh vực tổ chức thực tiễn công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội. Nói đến lĩnh vực này là nói đến vấn đề quản lý nhà nước, quản lý kinh tế, quản lý xã hội, vấn đề Đảng phải làm gì và làm thế nào để phát huy được mạnh mẽ vai trò và hiệu lực của Nhà nước. 

Nhà nước chuyên chính vô sản là nơi biểu hiện tập trung sự lãnh đạo của Đảng và quyền làm chủ tập thể của nhân dân lao động. Đảng cầm quyền phải biết sử dụng Nhà nước, coi đó là một công cụ hùng mạnh và sắc bén để thực hiện quyền làm chủ thật sự của nhân dân và sự lãnh đạo của Đảng trên quy mô toàn xã hội. Sau khi giành được chính quyền, thiết lập Nhà nước vô sản thì sự nghiệp cách mạng quan trọng nhất là cải tạo và phát triển kinh tế, phát triển văn hoá, xây dựng đất nước theo chủ nghĩa xã hội. Và đi liền với sự nghiệp đó, phải tổ chức công cuộc bảo vệ Tổ quốc, bảo vệ thành quả cách mạng, chống sự xâm lược từ bên ngoài và đập tan các thế lực chống đối từ bên trong. Chính vì vậy, Nhà nước chuyên chính vô sản coi nhiệm vụ hàng đầu của mình là động viên, đoàn kết và tổ chức nhân dân xây dựng kinh tế, văn hoá và quản lý mọi mặt đời sống xã hội. Về nhiệm vụ này, Lênin đã nói: "Đó là nhiệm vụ khó khăn nhất, vì vấn đề là phải tổ chức một cách mới mẻ những cơ sở sâu xa nhất, những cơ sở kinh tế của đời sống hàng chục và hàng chục triệu con người. Đó cũng là nhiệm vụ cao cả nhất, vì chỉ có sau khi đã thực hiện được nhiệm vụ ấy (trên những nét cơ bản của nó) người ta mới có thể nói rằng nước Nga đã trở thành một nước cộng hoà không những là Xôviết, mà còn là xã hội chủ nghĩa nữa"1. 

Nếu như phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa tự phát hình thành từ trong lòng xã hội phong kiến, thì phương thức sản xuất xã hội chủ nghĩa do Nhà nước chuyên chính vô sản chủ động tạo ra. Điều đó càng đúng với nước ta đi thẳng lên chủ nghĩa xã hội, bỏ qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa. Nếu như bản chất của chuyên chính tư sản là cai trị, là đàn áp, là bạo lực, thì bản chất chủ yếu của chuyên chính vô sản là tổ chức, xây dựng. Đó là điều phổ biến ở tất cả các nước xã hội chủ nghĩa; điều đó càng đúng với nước ta, từ sản xuất nhỏ mà đi lên. 

Nói tổ chức, xây dựng là nói tổ chức xây dựng kinh tế, văn hoá nhằm thoả mãn nhu cầu vật chất và văn hoá ngày càng tăng của nhân dân trên cơ sở kỹ thuật ngày càng cao và quyền làm chủ tập thể ngày càng đầy đủ của nhân dân lao động. Sự nghiệp vĩ đại ấy không thể nào hoàn thành nếu không có một Nhà nước thể hiện đầy đủ sự lãnh đạo của Đảng và quyền làm chủ tập thể của nhân dân, một Nhà nước nắm trong tay những lực lượng sản xuất chủ yếu của xã hội, lao động và tài nguyên đất nước, một Nhà nước nắm được và ngày càng thành thạo khoa học quản lý, đủ sức tổ chức và quản lý có hiệu quả mọi mặt hoạt động kinh tế, văn hoá và đời sống nhân dân. Nếu không có Nhà nước, không có vai trò tổ chức và quản lý của Nhà nước, không thể có chủ nghĩa xã hội. Có Nhà nước vững mạnh trong tay nhân dân và dưới sự lãnh đạo của Đảng, chúng ta sẽ có tất cả. 

Mấy chục năm qua, Nhà nước chuyên chính vô sản của ta chẳng những đã tỏ rõ là một vũ khí sắc bén trong công cuộc bảo vệ Tổ quốc và trấn áp các thế lực thù địch, mà còn là một công cụ rất quan trọng trong việc xây dựng xã hội mới. Tuy nhiên, trong sự nghiệp xã hội chủ nghĩa ngày càng phát triển về quy mô, về chiều sâu và về tính chất phức tạp trên phạm vi cả nước, Nhà nước ta đang bộc lộ những mặt non kém, làm giảm một cách nghiêm trọng hiệu lực của nó, khiến cho tình hình kinh tế và đời sống vốn đã khó khăn do những nguyên nhân khách quan lại càng khó khăn thêm do những khuyết điểm chủ quan trong việc vận dụng đường lối của Đảng, trong việc tổ chức sản xuất, tiến hành kế hoạch hoá và vận dụng quan hệ thị trường, trong việc đề ra và thi hành các chính sách và chế độ quản lý kinh tế, quản lý xã hội, v.v.. 

Nhà nước ta cần nhanh chóng khắc phục những khuyết điểm ấy; đồng thời Đảng phải nghiêm túc tổng kết kinh nghiệm, không ngừng học tập để thành thục trong việc lãnh đạo Nhà nước, xứng đáng với trách nhiệm một đảng cầm quyền. 

Để thi hành Hiến pháp mới nói chung, để làm tốt chức năng tổ chức, xây dựng kinh tế nói riêng, khâu quyết định hiện nay là phải khẩn trương kiện toàn các cơ quan nhà nước từ trung ương đến địa phương và cơ sở, từ các cơ quan lập pháp, hành pháp đến bộ máy quản lý kinh tế, văn hoá. Báo cáo của Bộ Chính trị đã nói rõ về các cơ quan trong bộ máy hành chính. ở đây, tôi nhấn mạnh phải cấp bách chấn chỉnh, tăng cường bộ máy quản lý kinh tế, vì nếu không cải tiến tổ chức và quản lý kinh tế, nhất là ở cấp trung ương và cấp tỉnh, thành phố, thì không một chủ trương kinh tế nào có thể thực hiện đến nơi đến chốn, không một kế hoạch kinh tế nào có thể hoàn thành mỹ mãn. 

Trong bộ máy kinh tế ở trung ương, trước hết phải kiện toàn các cơ quan tổng hợp như Uỷ ban Kế hoạch Nhà nước, Bộ Tài chính, Uỷ ban Vật giá, Ngân hàng, Bộ Vật tư, Bộ Lao động, Uỷ ban Khoa học kỹ thuật Nhà nước, Tổng cục Thống kê, là những cơ quan có tác dụng cực kỳ quan trọng đối với việc xây dựng một nền kinh tế có kế hoạch. Việc này rất cần thiết, vì trong thời gian qua, Đảng và Nhà nước ta phạm khuyết điểm, sai lầm trước hết và lớn hơn hết là trong việc kế hoạch hoá kinh tế và trong lĩnh vực phân phối, lưu thông. 

Phải nâng cao chức năng nghiên cứu kế hoạch và chính sách, chức năng thống nhất quản lý từng lĩnh vực liên ngành, và chức năng kiểm tra của các cơ quan tổng hợp, nhằm tạo ra quỹ đạo phát triển đúng đắn và những điều kiện hoạt động thuận lợi cho các ngành, các địa phương, các cơ sở. Bắt đầu từ kế hoạch 5 năm tới, phải tìm ra hình thức tổ chức và chỉ đạo thích hợp, bảo đảm quy tụ được lực lượng và phối hợp được nhịp nhàng giữa nhiều ngành, nhiều địa phương dưới sự quản lý thống nhất của Chính phủ, nhằm thực hiện một số chương trình mục tiêu có ý nghĩa cả nước, như: lương thực, dầu khí, điện - than, giao thông vận tải, v.v.. 

Các cơ quan quản lý ngành phải được kiện toàn để đủ sức quản lý, xây dựng và phát triển các ngành kinh tế - kỹ thuật là những tổ chức then chốt của nền sản xuất lớn xã hội chủ nghĩa. Bộ trưởng là người phụ trách cao nhất đối với toàn ngành, phải làm tốt chức năng quản lý, mà nội dung chính là xây dựng các quy hoạch và kế hoạch phát triển ngành, xác định phương hướng khoa học kỹ thuật, không ngừng cải tiến chính sách, chế độ quản lý đào tạo đội ngũ cán bộ và công nhân cho ngành mình. Phải khẩn trương tổ chức lại sản xuất của ngành trong cả nước, tạo ra cơ cấu mới của ngành, tuỳ điều kiện mà lập các liên hiệp xí nghiệp, công ty, xí nghiệp liên hiệp, nhóm sản phẩm, bảo đảm những tổ chức ấy thực sự là những đơn vị hạch toán kinh tế, đảm nhận chức năng quản lý sản xuất, kinh doanh có hiệu quả cao. Theo hướng đó, cần sửa đổi mạnh cơ cấu tổ chức của bộ: bỏ dần các cơ quan trung gian không cần thiết, và giảm biên chế, chuyển một bộ phận quan trọng cán bộ từ các bàn giấy về sản xuất. 

Phải tiến hành phân cấp quản lý dứt khoát và cụ thể cho địa phương, mở rộng quyền hạn và trách nhiệm của địa phương về kế hoạch hoá, về phân phối và tổ chức đời sống; về quản lý ngân sách, lao động, vật tư, về tổ chức bộ máy và bố trí cán bộ; đồng thời cho địa phương quyền làm công tác xuất nhập khẩu theo chính sách của Nhà nước. Cần giúp đỡ các tỉnh, thành phố, huyện phát triển nông nghiệp và công nghiệp địa phương và giao cho chính quyền địa phương trực tiếp quản lý các cơ sở chế biến thực phẩm vừa và nhỏ, các ngành, nghề tiểu công nghiệp, thủ công nghiệp, các cơ sở thương nghiệp bán lẻ, cơ sở dịch vụ cũng như các cơ sở văn hoá, giáo dục, y tế. 

Các cơ quan trung ương chẳng những phải quản lý tốt ngành mình mà còn có trách nhiệm thiết thực giúp xây dựng, quản lý ở địa phương và cơ sở, tránh quan liêu xa rời cơ sở. Chính quyền địa phương (tỉnh, thành phố, huyện) vừa đại diện cho chính quyền trung ương, vừa đại diện cho nhân dân địa phương, hai mặt đó thống nhất làm một, thể hiện ở chỗ chủ động giải quyết tốt các vấn đề kinh tế, quốc phòng và đời sống ở địa phương, đồng thời làm tốt nghĩa vụ đối với cả nước, một mặt tránh ỷ lại cấp trên, mặt khác phải ngăn ngừa tư tưởng cục bộ, bản vị. 

Phải xây dựng mỗi huyện thành một đơn vị kinh tế nông - công nghiệp, một cơ sở của nền sản xuất lớn xã hội chủ nghĩa và một pháo đài vững chắc về quốc phòng. Phải gấp rút tăng cường cán bộ để xây dựng bộ máy cấp huyện đủ sức chỉ đạo tốt các hợp tác xã, đủ sức quản lý kinh tế trên địa bàn huyện, trước hết là đẩy mạnh sản xuất nông nghiệp, mở mang ngành nghề, phân công lại lao động, nhằm thoả mãn nhu cầu đời sống nhân dân trong huyện, đồng thời góp phần đưa nền nông nghiệp cả nước tiến lên đáp ứng được nhu cầu cấp bách trước mắt và phục vụ sự phát triển lâu dài của nền kinh tế quốc dân. 

Các cơ sở của nền kinh tế quốc dân là tế bào sản xuất, kinh doanh, là nơi trực tiếp diễn ra ba cuộc cách mạng, là nơi thể hiện cụ thể quyền làm chủ tập thể của nhân dân lao động. Cơ sở là nơi Đảng, Nhà nước và quần chúng liên kết thành một cơ cấu chặt chẽ, để hoàn thành mọi nhiệm vụ kinh tế, quốc phòng, văn hoá, xã hội. 

Các cơ sở phải có quyền tự chủ về tài chính, tức là phải thực hiện cho được chế độ hạch toán kinh tế, kinh doanh có lãi, hoàn thành tốt nghĩa vụ đối với Nhà nước, bảo đảm lợi ích của tập thể và nâng cao thu nhập của mỗi người lao động. 

Các ngành và các địa phương chủ quản phải tăng cường chỉ đạo các cơ sở, kiện toàn bộ máy quản lý xí nghiệp, đào tạo giám đốc cho xí nghiệp quốc doanh, chủ nhiệm, kế toán trưởng và cán bộ kỹ thuật cho hợp tác xã. Phải tổ chức lại các mối quan hệ giữa cấp trên với cơ sở và giữa các cấp trên với nhau, để bảo đảm cho hoạt động của cơ sở được thuận lợi. 

Phương hướng cơ bản để tăng cường Nhà nước là thực hiện đầy đủ quyền làm chủ tập thể của nhân dân trong việc quản lý nhà nước, quản lý kinh tế và xã hội. Lênin chỉ rõ, với Nhà nước chuyên chính vô sản, "... lần đầu tiên trong lịch sử các xã hội văn minh, quần chúng nhân dân đứng lên tự tham gia không những các cuộc bầu cử, bỏ phiếu, mà còn trong quản lý hàng ngày..."1. Nghĩa là ở đây không chỉ giản đơn là dân chủ mà còn là làm chủ; và đấy chính là ý nghĩa thực chất trong nhận định của Lênin nói rằng dân chủ vô sản "triệu lần dân chủ hơn bất cứ nền dân chủ tư sản nào". 

Song, đáng tiếc là do những khuyết điểm của chúng ta, mà từ bản chất ưu việt vốn có của chế độ dân chủ vô sản đến sự thực hiện trong thực tiễn bản chất ấy, còn nhiều vấn đề làm cho quần chúng không hài lòng. Để khắc phục tình trạng ấy, phải tìm tòi, xây dựng những chế độ và hình thức thích hợp để quần chúng nhân dân trực tiếp tham gia thật sự vào các công việc của Đảng và Nhà nước, vào các hoạt động xã hội và kinh tế, ở tất cả các cấp, các ngành. 

Điều quan trọng và cấp bách nhất là phải thực hiện cho được làm chủ tập thể ở cơ sở vì đây là nơi trực tiếp đụng chạm đến lợi ích, đến cuộc sống và quyền làm chủ của người dân. Phải thông qua đấu tranh nội bộ trong các tổ chức cơ sở của Đảng và qua phong trào quần chúng góp ý kiến phê bình chi bộ, đảng bộ cơ sở, phê bình cán bộ, đảng viên mà chấm dứt những hiện tượng quan liêu hống hách, những vụ vi phạm quyền công dân và quyền làm chủ tập thể của nhân dân lao động, mà loại bỏ những phần tử thoái hoá, biến chất trong Đảng, lợi dụng chức quyền để ức hiếp quần chúng, ăn cắp của công, hối lộ, móc ngoặc, đầu cơ, trục lợi.... Gần đây, nhiều nơi có những kinh nghiệm tốt, cần tổng kết, phát huy, phổ biến. Những việc đó không chỉ là nhiệm vụ của cơ sở mà là của cả các cấp trung ương và địa phương, bởi vì nhân dân không thật sự làm chủ ở cơ sở thì căn bản không thể làm chủ ở các cấp bên trên, và thật là vô nghĩa nếu nói rằng ở cấp trên đã có chế độ làm chủ trong khi ở cơ sở quần chúng nhân dân không thực hiện được quyền làm chủ. 

Nhằm khắc phục những hiện tượng Đảng bao biện công việc Nhà nước hoặc tách rời một cách máy móc sự quản lý của Nhà nước với sự lãnh đạo của Đảng, chúng ta cần soát xét lại một cách toàn diện từ cơ cấu tổ chức, quyền hạn và trách nhiệm cụ thể, đến chế độ làm việc của mỗi cấp uỷ Đảng và mỗi cấp chính quyền. 

Phải cải tiến lề lối hoạt động của Quốc hội và Hội đồng nhân dân các cấp, khiến các tổ chức dân cư đó thật sự là những cơ quan quyền lực của nhân dân, thật sự chịu trách nhiệm trước nhân dân. 

Phải ra sức nâng cao chất lượng và phát huy vai trò các đoàn thể quần chúng, xây dựng Công đoàn, Đoàn Thanh niên, tổ chức nông dân tập thể, Hội Phụ nữ, thành những tổ chức mạnh trong cơ chế làm chủ tập thể xã hội chủ nghĩa. Các đoàn thể phải tổ chức một cách thường xuyên, sâu rộng phong trào cách mạng của quần chúng, đưa hội viên tích cực tham gia sự nghiệp xây dựng, phát triển kinh tế, văn hoá, qua đó làm cho đoàn thể thật sự là tổ chức chiến đấu của người lao động, là trường học rèn luyện con người mới xã hội chủ nghĩa. 

Một phương hướng nữa rất quan trọng hiện nay để củng cố Nhà nước và phát huy hiệu lực của nó là tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa. Điều này càng phải nhấn mạnh khi Nhà nước ta xây dựng và ban hành Hiến pháp mới. 

Sử dụng pháp chế là định ra các luật lệ nhà nước, phổ biến và giải thích pháp luật, kiểm tra nghiêm ngặt việc thi hành pháp luật, cưỡng bức đối với những người không tự giác, và trừng trị đích đáng bất kỳ ai vi phạm. Bằng việc kiên quyết thực hiện pháp chế xã hội chủ nghĩa, Nhà nước tỏ rõ quyền lực và hiệu quả quản lý của mình, bảo đảm chế độ làm chủ tập thể của nhân dân, tạo ra cuộc sống cộng đồng có kỷ cương, trật tự, ngăn chặn và loại trừ mọi sự hà lạm, mọi biểu hiện tiêu cực, mọi tệ nạn và thói xấu trong xã hội. 

Trên nền tảng Hiến pháp mới, phải xây dựng một hệ thống pháp luật hoàn chỉnh và nhất quán, trong đó một bộ phận quan trọng hàng đầu là các pháp luật, thể lệ, chế độ về kinh tế. Hệ thống pháp luật hiện nay của chúng ta chưa phát triển, nhiều mặt hoạt động chưa được chế định thành luật lệ, và phần luật lệ đã có rồi thì còn những chỗ chưa thể hiện đúng quyền làm chủ tập thể của nhân dân lao động, nhiều cái đã lạc hậu, nhiều chỗ thiếu ăn khớp, đặc biệt là trong lĩnh vực kinh tế. Nhà nước ta phải sớm xây dựng, ban hành và kịp thời bổ sung, điều chỉnh pháp luật về các mặt hoạt động và đời sống xã hội, đưa mọi lĩnh vực vào tổ chức, quy củ. Trong lĩnh vực kinh tế, phải bổ sung pháp luật và thể lệ về kế hoạch hoá, về hạch toán kinh tế, về lao động, vật tư, tài chính, về hợp đồng kinh tế và hội đồng trọng tài, về nghĩa vụ và quyền lợi mỗi công dân, mỗi đơn vị cơ sở, mỗi ngành, mỗi cấp. 

Pháp chế xã hội chủ nghĩa phải hoàn toàn thống nhất với nhau, từ luật của Nhà nước cho đến các quy định của các cơ quan chính quyền các cấp. Quyền làm chủ tập thể của nhân dân lao động không chỉ thu hẹp trong các quyền chính trị của công dân, mà phải được thể chế hoá đầy đủ trong sản xuất, phân phối, lưu thông và tiêu dùng, về kinh tế, chính trị và văn hoá, ở cơ sở, địa phương và trong cả nước. Quy định không đầy đủ, không rõ, không chính xác, không cụ thể, là mở đường cho sự tuỳ tiện trong việc xử lý vấn đề của các cơ quan quản lý cũng như của những người có chức, có quyền. Những sự thiếu sót về luật lệ, cộng thêm sự buông lỏng quản lý đang là một nguyên nhân quan trọng gây ra nhiều vụ vi phạm pháp chế xã hội chủ nghĩa, làm giảm, thậm chí trong nhiều trường hợp làm mất hẳn hiệu lực của các chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước. 

Nhà nước ta cần thu hút đông đảo quần chúng vào việc thảo luận các dự thảo pháp luật, làm cho quần chúng được góp ý kiến, đồng thời qua đó hiểu rõ ý nghĩa các đạo luật, khiến cho quần chúng đồng tình sâu sắc và nghiêm chỉnh thực hiện khi pháp luật được ban bố. Như vậy, là làm cho pháp luật xã hội chủ nghĩa vừa là công cụ quản lý của Nhà nước, vừa là vũ khí làm chủ của nhân dân, trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa. 

Đi đôi với việc giải thích, giáo dục, phải cưỡng chế thi hành pháp luật, kiểm soát chặt chẽ và xử trí đích đáng đối với hành vi phạm pháp. Các cơ quan có trách nhiệm trực tiếp về việc này như viện kiểm sát nhân dân, các cơ quan thanh tra nhà nước, công an và toà án, cần phải tăng cường hoạt động bảo vệ có hiệu lực pháp chế xã hội chủ nghĩa, bảo vệ công lý và trật tự. 

Sống theo pháp luật, làm đúng pháp luật là yêu cầu chung đối với toàn thể nhân dân, là nghĩa vụ, là bổn phận trước nhất của cán bộ và nhân viên nhà nước. Những người thừa hành pháp luật, được trao quyền lực lớn, nếu không trước hết tự khép mình vào pháp luật, đi đến chỗ lộng quyền, thì hành động sai phạm của họ gây ra những tổn thất đặc biệt lớn cho xã hội, cho nhân dân. Phải làm cho tất cả cán bộ, nhân viên nhà nước nắm được và làm đúng pháp luật, tiêu biểu cho pháp luật. Người giữ cương vị càng cao, được trao quyền lực càng lớn, thì càng phải gương mẫu thi hành pháp luật, và càng bị xử phạt nặng nếu vi phạm pháp chế. 

Cũng như trong mọi lĩnh vực khác, việc thực hiện Hiến pháp mới, tăng cường nền pháp chế xã hội chủ nghĩa, phụ thuộc một cách quyết định vào sự lãnh đạo của Đảng, đặc biệt vào việc làm của cán bộ, đảng viên. Chi bộ Đảng phải bảo đảm quyền làm chủ tập thể của nhân dân, bảo đảm pháp luật xã hội chủ nghĩa được thi hành nghiêm chỉnh, đó là một thước đo quan trọng về chất lượng lãnh đạo của chi bộ. Đảng viên phải gương mẫu làm đúng pháp luật, phải coi đó vừa là nghĩa vụ đối với công dân, vừa là kỷ luật đối với đảng viên cộng sản. Những người vi phạm quyền làm chủ tập thể của nhân dân, không tôn trọng pháp chế xã hội chủ nghĩa, thì không đủ tư cách đảng viên, phải đưa ra khỏi Đảng. 

Thưa các đồng chí, 

Hiến pháp mới của chúng ta được định ra cho cả thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Cũng như chế độ làm chủ tập thể được xây dựng từ thấp đến cao. Hiến pháp mới được thực hiện từng bước, từng phần, chứ không thể thực hiện đầy đủ ngay sau khi được Quốc hội phê chuẩn. 

Điều quan trọng là phải thực hiện Hiến pháp một cách thiết thực, đem lại những thắng lợi, những thành quả, những tiến bộ từng năm, từng tháng, mang lại lợi ích cụ thể cho quần chúng, làm cho quần chúng phấn khởi, tin tưởng, và qua mỗi bước, lại có thêm lực lượng để tiến lên bước cao hơn. 

Phát huy quyền làm chủ tập thể của nhân dân lao động, ra sức khai thác các thế mạnh của chúng ta để khắc phục khó khăn, tạo thế cân đối mới về kinh tế, thông qua việc cải tiến phương thức quản lý, kiện toàn tổ chức bộ máy quản lý, hoàn thiện pháp chế xã hội chủ nghĩa, đó là một phần rất quan trọng của công cuộc phấn đấu thực hiện nghị quyết của Đại hội lần thứ IV của Đảng và nghị quyết của các hội nghị Trung ương; đồng thời đó cũng chính là nội dung thiết thực của việc thực hiện Hiến pháp mới. 

Như vậy, việc thực hiện Hiến pháp mới không tách rời mà còn đòi hỏi đẩy mạnh toàn bộ hoạt động của chúng ta, trong đó cơ bản nhất, quyết định nhất hiện nay là đẩy mạnh phát triển kinh tế. 

Chúng ta sẽ bàn kỹ về công tác kinh tế trong các kỳ họp sau. ở đây, tôi sơ bộ nêu lên một số ý lớn về phương hướng, nhiệm vụ phát triển kinh tế trong những năm sắp tới để các đồng chí Trung ương suy nghĩ trước. 

Phương hướng chung là: 

- Đẩy mạnh phát triển kinh tế quốc dân, trên cơ sở đó, ổn định và nâng cao từng bước mức sống của nhân dân. 

- Củng cố quốc phòng và an ninh, sẵn sàng chiến đấu bảo vệ Tổ quốc. Sử dụng lực lượng vũ trang tích cực tham gia xây dựng kinh tế. 

- Kiên quyết tập trung lực lượng (tiền vốn, vật tư, lao động) vào những công tác cấp bách, vào những khâu bức thiết của việc xây dựng cơ sở vật chất - kỹ thuật. Nhằm nâng cao hiệu quả đầu tư, hạn chế xây dựng dở dang, cần xem xét kỹ danh mục các công trình xây dựng cơ bản, chú trọng đầu tư chiều sâu, không xây dựng những công trình xét ra chưa có đủ điều kiện hoặc không bảo đảm hiệu quả kinh tế. 

- Củng cố quan hệ hợp tác đặc biệt với hai nước Lào và Campuchia; đẩy mạnh hợp tác toàn diện với Liên Xô, liên kết kinh tế với các nước trong Hội đồng Tương trợ kinh tế, tăng cường giúp đỡ và hợp tác kinh tế với các nước xã hội chủ nghĩa khác, mở rộng quan hệ kinh tế với các nước trên thế giới. 

Dựa theo phương hướng chung đó, nhiệm vụ kinh tế trong thời gian tới là: 

1. Bảo đảm bằng được lương thực, thực phẩm cho xã hội, nhất là cho nhân khẩu phi nông nghiệp do Nhà nước cung ứng, bằng cách đẩy mạnh sản xuất nông nghiệp, cải tiến hệ thống thu mua và phân phối, tiết kiệm gắt gao trong tiêu dùng. Phát triển sản xuất hàng tiêu dùng bằng nguyên liệu trong nước nhằm đáp ứng một phần nhu cầu về mặc và các hàng hoá thiết yếu khác. Cố gắng xây dựng nhà ở và cải thiện điều kiện ở của nhân dân tại các thành phố, các trung tâm công nghiệp, các vùng kinh tế mới và các vùng bị chiến tranh tàn phá. 

2. Ra sức phát triển điện, than, dầu khí và các ngành sản xuất nguyên liệu, vật liệu, khắc phục tình trạng mất cân đối trong lĩnh vực này. Chấn chỉnh công tác cung ứng vật tư kỹ thuật, thực hành tiết kiệm nghiêm ngặt về điện, than, xăng dầu, nguyên liệu, vật liệu, theo hướng tập trung cho các khu vực trọng yếu để sử dụng tốt hơn công suất các xí nghiệp hiện có. Cần tiến hành quy hoạch và xây dựng ngành cơ khí thích hợp với điều kiện hiện nay, khai thác tốt hơn nữa khả năng của những xí nghiệp hiện có; đồng thời chuẩn bị cho những bước tiến lên của cơ khí đáp ứng được nhu cầu phát triển của nền kinh tế. 

3. Sử dụng tốt các nguồn lao động, tạo đủ việc làm; phân bố mạnh lực lượng lao động trong phạm vi cả nước, nhằm đẩy mạnh khai hoang và thâm canh sản xuất nông nghiệp, mở rộng ngành nghề tiểu công nghiệp và thủ công nghiệp, tạo thêm nhiều sản phẩm cho đời sống và xuất khẩu. Tăng năng suất lao động trong tất cả các ngành và các xí nghiệp sản xuất thuộc khu vực nhà nước và tập thể. Giảm biên chế bộ máy quản lý, tăng cường kỷ luật lao động. Gửi thanh niên đi các nước xã hội chủ nghĩa để học tập và tham gia sản xuất, nhằm nâng cao tay nghề và học thêm kinh nghiệm lao động. 

4. Phát triển mọi năng lực, kể cả năng lực gia công nguyên liệu nhập, để tăng mạnh hàng xuất khẩu, mở rộng mặt hàng và nâng cao chất lượng hàng, giảm dần chênh lệch giữa nhập và xuất. 

5. Tăng cường phương tiện vận tải các loại, cải tiến quản lý giao thông vận tải, bảo đảm tiếp nhận kịp thời hàng nhập, vận chuyển hàng xuất, cũng như chuyên chở hàng hoá giữa miền Bắc và miền Nam, giữa các vùng của nước ta với các nước anh em Lào và Campuchia. 

6. Hoàn thành cải tạo xã hội chủ nghĩa ở miền Nam, đồng thời hoàn thiện và củng cố quan hệ xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc, kết hợp chặt chẽ với tổ chức lại sản xuất và phát triển sản xuất. Củng cố các hợp tác xã và tập đoàn sản xuất nông nghiệp sẵn có; gắn liền việc xây dựng tập đoàn với điều chỉnh ruộng đất. Công việc này phải làm vững chắc, có hình thức và bước đi đúng để bảo đảm sản xuất nông nghiệp phát triển mạnh, làm ăn tập thể hơn hẳn làm ăn cá thể. Kiên quyết sửa chữa những khuyết điểm, sai lầm trong phong trào hợp tác hoá nông nghiệp. Tiếp tục cải tạo công thương nghiệp, kiểm tra và sửa chữa khuyết điểm, củng cố và tăng cường thành phần xã hội chủ nghĩa trong mọi lĩnh vực. Củng cố cho được những hợp tác xã yếu kém ở miền Bắc, xây dựng một chế độ quản lý thích hợp nhằm bảo đảm sự nhất trí giữa ba lợi ích: nhà nước, tập thể và cá nhân. 

7. Hoàn thiện công tác tài chính, ngân hàng, thương nghiệp, giá cả và tiền lương, nhằm phân phối lại hợp lý thu nhập quốc dân, ổn định và cải thiện đời sống của người lao động. Mở rộng khu vực quốc doanh và tập thể, tập trung vật tư và hàng hoá trong tay nhà nước, ổn định tài chính và tiền tệ, kích thích tăng năng suất lao động, kiên quyết đấu tranh với các hiện tượng tiêu cực trong đời sống xã hội. 

8. Cải tiến quản lý kinh tế nhằm phát triển sản xuất, tăng năng suất lao động, nâng cao chất lượng và hiệu quả trong tất cả các ngành kinh tế quốc dân. Cải tiến mạnh mẽ công tác kế hoạch, nâng cao vai trò của các phương pháp kinh tế và đòn bẩy kinh tế, thi hành rộng rãi hạch toán kinh tế, kiện toàn cơ cấu tổ chức quản lý, sửa đổi chế độ làm việc, hoàn thiện phương pháp công tác. 

9. Nâng cao hiệu quả nghiên cứu khoa học, kỹ thuật, thu hút các nhà khoa học vào việc giải quyết các nhiệm vụ cấp bách của nền kinh tế. Cải tiến công tác kế hoạch hoá và quản lý phát triển khoa học, kỹ thuật. áp dụng các thành tựu khoa học, kỹ thuật vào sản xuất, nâng cao chất lượng sản phẩm và nắm vững sản xuất các loại sản phẩm mới. 

10. Phát triển kinh tế địa phương, kết hợp đúng đắn giữa kinh tế trung ương với kinh tế địa phương. Cải tiến việc phối hợp quản lý kinh tế giữa các bộ và chính quyền địa phương. Đặc biệt chú trọng xúc tiến xây dựng huyện và kiện toàn cấp huyện, nhất là ở những huyện trọng điểm về sản xuất lương thực, thực phẩm, cây công nghiệp xuất khẩu và nguyên liệu cho công nghiệp. 

11. Tiếp tục phát triển văn hoá, giáo dục, y tế. Mở rộng phong trào sinh đẻ có kế hoạch và xây dựng gia đình văn hoá mới. Tiến hành cải cách giáo dục phổ thông. Đào tạo cán bộ và công nhân lành nghề theo quy mô và cơ cấu hợp lý, phù hợp với yêu cầu phát triển kinh tế. Chú trọng sử dụng tốt hơn cán bộ khoa học, kỹ thuật và cán bộ quản lý kinh tế. 

Ngay sau hội nghị Trung ương này, cần phát động một phong trào sản xuất lương thực, rau màu và thực phẩm rất mạnh, để vượt qua vụ giáp hạt sắp tới và tiến lên trong năm 1981; tìm mọi cách cung ứng nguyên liệu và năng lượng cho các xí nghiệp, nâng cao tỷ lệ sử dụng lao động và công suất máy móc, làm thêm hàng hoá; tập trung lực lượng hoàn thành xây dựng các công trình trọng điểm; cải thiện công tác ở các cảng, nhất là cảng Hải Phòng, và trên tuyến đường sắt Bắc - Nam. Về phân phối, lưu thông, cần quyết định sớm các phương án cụ thể về thu mua, tài chính, tiền tệ, thương nghiệp, quản lý thị trường, giá cả, đời sống... để thực hiện Nghị quyết 26 của Bộ Chính trị. Phải sớm kết luận về những điển hình mới, đang thực hiện những cải tiến mạnh dạn trong tổ chức sản xuất, quản lý lao động, chế độ khoán và phân phối sản phẩm để phổ biến những kinh nghiệm tốt cho các nơi khác. 

ở từng cơ sở, phải làm ngay cho được một số việc thiết thực về bảo đảm quyền làm chủ tập thể của nhân dân và tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa, nhất là trong lĩnh vực sản xuất, phân phối và tổ chức đời sống, giữ gìn trật tự, an ninh, từ đó mở rộng sang các lĩnh vực văn hoá, xã hội. 

Việc thực hiện những công tác cấp bách nói trên phải gắn liền với việc đẩy mạnh công tác chính trị tư tưởng một cách sắc bén và kịp thời. Đặc biệt trong lúc này, tất cả các tổ chức Đảng và tổ chức đoàn thể, từng người cán bộ, đảng viên phải bình tĩnh, sáng suốt, làm chủ cho được tình hình chính trị, tư tưởng của xã hội, của đơn vị mình, không một phút nào được lơi lỏng trận địa tư tưởng, kiên quyết phát động phong trào quần chúng đứng lên làm chủ, dấy lên khí thế cách mạng, dựa vào quần chúng để đẩy lùi tư tưởng bi quan, hoài nghi, đập tan chiến tranh tâm lý và mọi âm mưu, hành động phá hoại của địch, khắc phục các hiện tượng tiêu cực, thúc đẩy toàn bộ sự nghiệp cách mạng không ngừng tiến lên. 

Thưa các đồng chí, 

Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương chúng ta đã cho ý kiến về việc hoàn chỉnh Dự thảo Hiến pháp mới. Trong năm nay, Quốc hội họp sẽ thông qua Dự thảo Hiến pháp đó và quyết định thành Hiến pháp chính thức của nước ta. 

Hiện nay, chúng ta đang gặp những khó khăn lớn về kinh tế và đời sống. Song tình hình đó không làm thay đổi cục diện chung của cách mạng nước ta vừa giành được thắng lợi rực rỡ và đang tiếp tục thế đi lên vững chắc. Trong những tháng trước mắt, toàn Đảng, toàn dân ta kiên quyết tập trung lực lượng làm tốt những công tác cấp bách trên các mặt trận kinh tế, xã hội, chính trị, tư tưởng nói trên thì khó khăn hoàn toàn có thể vượt qua được. 

Chúng ta tin rằng Hiến pháp mới ra đời sẽ đánh dấu một bước quan trọng trong việc củng cố kỷ cương của xã hội, xây dựng và hoàn thiện chế độ mới tạo thêm cho nhân dân ta sức mạnh để đấu tranh giành thắng lợi mới trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc, trong việc thực hiện Di chúc thiêng liêng của Chủ tịch Hồ Chí Minh, nhằm xây dựng một nước Việt Nam thật sự hoà bình, độc lập, thống nhất và xã hội chủ nghĩa, góp phần xứng đáng của dân tộc ta vào sự nghiệp cách mạng chung của nhân dân toàn thế giới. 

Lưu tại Kho Lưu trữ 
Trung ương Đảng.

Phản hồi

Thông tin người gửi phản hồi

Các tin khác

Hướng dẫn kiểm tra, giám sát phục vụ đại hội đảng bộ các cấp tiến tới Đại hội XIV của Đảng

(ĐCSVN) - Tại văn bản số 08-HD/UBKTTW ngày 18/11/2024, Ủy ban Kiểm tra Trung ương hướng dẫn công tác kiểm tra, giám sát phục vụ đại hội đảng bộ các cấp tiến tới Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIV của Đảng.

Phương án nghiên cứu sắp xếp, sáp nhập các bộ, cơ quan thuộc Chính phủ

(ĐCSVN) - Theo phương án nghiên cứu sắp xếp, sáp nhập được Trưởng Ban Tổ chức Trung ương Lê Minh Hưng nêu tại Hội nghị toàn quốc sáng 1/12, sẽ tối thiểu giảm được 5 bộ, 2 cơ quan trực thuộc Chính phủ.

Phương án sáp nhập các ủy ban của Quốc hội và cơ quan thuộc Ủy ban Thường vụ Quốc hội

(ĐCSVN) - Sáng 1/12, Trưởng Ban Tổ chức Trung ương Lê Minh Hưng thông báo chuyên đề về các nội dung chính, trọng tâm việc triển khai tổng kết Nghị quyết 18. Theo phương án định hướng được nêu sẽ giảm 4 ủy ban của Quốc hội và 1 cơ quan trực thuộc Ủy ban Thường vụ Quốc hội.

Phương án giảm 4 cơ quan Đảng, 25 ban cán sự đảng, 16 đảng đoàn trực thuộc Trung ương

(ĐCSVN) - Sáng 1/12, đồng chí Lê Minh Hưng, Uỷ viên Bộ Chính trị, Bí thư Trung ương Đảng, Trưởng ban Tổ chức Trung ương đã trình bày các nội dung chính, trọng tâm việc triển khai tổng kết Nghị quyết 18-NQ/TW của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XII.

Quy trình kỷ luật đảng viên thuộc thẩm quyền của Trung ương Đảng, Bộ Chính trị, Ban Bí thư

(ĐCSVN) - Thay mặt Bộ Chính trị, Thường trực Ban Bí thư Lương Cường vừa ký Quyết định số 165-QĐ/TW ngày 6/6/2024 của Bộ Chính trị ban hành Quy trình xem xét, thi hành kỷ luật đối với tổ chức Đảng, đảng viên thuộc thẩm quyền của Ban Chấp hành Trung ương Đảng, Bộ Chính trị, Ban Bí thư.

Liên kết website