Nghị quyết số 06-NQ/TW ngày 7/1/1978, Hội nghị lần thứ ba Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khoá IV) về nhiệm vụ kinh tế năm 1978

I- Về tình hình kinh tế qua hai năm 1976-1977 

Nghị quyết Đại hội lần thứ IV của Đảng và Nghị quyết Hội nghị lần thứ hai của Ban Chấp hành Trung ương Đảng đang thúc đẩy mạnh mẽ mọi mặt hoạt động sản xuất và công tác. Qua hai năm thực hiện kế hoạch 5 năm 1976-1980, tình hình kinh tế bước đầu có chuyển biến tốt, có những nhân tố tích cực mới xuất hiện, cho thấy thêm những khả năng mới để vượt qua khó khăn và đưa sản xuất tiến lên mạnh mẽ. Nổi bật nhất là khí thế cách mạng của quần chúng làm thuỷ lợi và phục hoá, khai hoang, thâm canh và tăng vụ. Tổng diện tích gieo trồng tăng thêm một triệu hécta. Sản xuất nông nghiệp năm 1976 tăng 10,2% so với năm 1975; thời tiết năm 1977 rất khắc nghiệt nhưng diện tích gieo trồng vẫn tăng, màu phát triển khá. Công nghiệp cố gắng phục vụ nông nghiệp, có một số mặt hàng mới về cơ khí; giá trị tổng sản lượng công nghiệp trong hai năm qua, mỗi năm tăng 12-13%. Công cuộc phát triển sản xuất và xây dựng trong hai năm qua đã thu hút khoảng 4 triệu lao động vào các ngành kinh tế và văn hoá; đã đưa nửa triệu lao động với một triệu nhân khẩu ở thành thị và vùng đông dân đi xây dựng các vùng kinh tế mới, giải quyết một phần nạn thất nghiệp ở các thành thị miền Nam, bước đầu phân bố lại lao động và tổ chức lại sản xuất trên quy mô cả nước. Về đời sống nhân dân, tuy còn nhiều khó khăn do thiên tai, nhưng ta đã tích cực giải quyết tình trạng khẩn trương về lương thực bằng những biện pháp cấp bách. Vươn lên trong khó khăn, nhân dân và quân đội ta trong cả nước đã chủ động, sáng tạo lập được những thành tích bước đầu có ý nghĩa quan trọng, mở ra triển vọng tiến lên cho những năm sau. Một số huyện, qua việc tổ chức lại sản xuất và đời sống, thực hiện phân công lại lao động, điều hành lao động trên địa bàn huyện, đã làm được một số công việc lớn trong một thời gian ngắn, tạo điều kiện thuận lợi để phát huy tác dụng của ba cuộc cách mạng, từng bước đưa nông nghiệp đi lên sản xuất lớn xã hội chủ nghĩa và xây dựng nông thôn xã hội chủ nghĩa. Việc chế tạo thử và sản xuất trong nước một số thiết bị, máy móc, nguyên liệu, vật liệu trước đây vẫn phải nhập của nước ngoài, những cố gắng của hàng chục vạn chiến sĩ quân đội nhân dân làm nhiệm vụ xây dựng kinh tế cũng là những nhân tố tích cực trong công cuộc xây dựng kinh tế của nước ta. 

Trong điều kiện nền kinh tế sau chiến tranh có nhiều khó khăn và chưa ổn định, miền Bắc lại gặp thiên tai lớn, những thắng lợi và những nhân tố tích cực trong sản xuất và xây dựng nói trên là rất quý. Đó là xu thế chủ yếu của sự nghiệp xây dựng nước nhà. Song những kết quả và tiến bộ đạt được trong hai năm qua còn thấp so với yêu cầu và tiềm lực của nền kinh tế quốc dân. 

Việc xây dựng cơ sở vật chất - kỹ thuật của nền kinh tế trong hai năm 1976-1977 mới thực hiện được 25% mức dự kiến về khối lượng xây lắp của kế hoạch 5 năm. Khối lượng công tác thuỷ lợi, khai hoang và trồng rừng còn lại trong ba năm tới rất nặng. Hầu hết công trình công nghiệp, giao thông đều không thực hiện đúng tiến độ thi công và thời hạn đưa vào sử dụng. Tình trạng xây dựng kéo dài và phân tán làm cho hiệu quả của vốn đầu tư càng giảm sút và nền kinh tế chậm có thêm cơ sở sản xuất mới để tăng nhanh tổng sản phẩm xã hội. Giao thông vận tải vẫn là khâu rất yếu làm trở ngại lớn đến sản xuất, xây dựng và giao lưu kinh tế giữa các vùng, giữa trong nước và ngoài nước. Sản xuất phát triển chậm, công cuộc cải tạo xã hội chủ nghĩa ở miền Nam tiến hành chậm, tổ chức lưu thông phân phối lại có nhiều khuyết điểm càng làm cho giá cả, thị trường, tiền tệ biến động, tác động tiêu cực đến sản xuất và đời sống. 

Nhìn chung, tiềm lực kinh tế cả nước khá lớn, số dân tăng nhanh, nhưng sản phẩm xã hội tăng chậm. Điều đáng quan tâm nhất là: năng suất lao động xã hội rất thấp, lực lượng lao động dồi dào của xã hội chưa được dùng hết, trong khi đất, rừng, biển và các tài nguyên khác chưa được khai thác tốt, cơ sở vật chất - kỹ thuật đã có chưa được tận dụng có hiệu quả. Những khuyết điểm kéo dài trong khâu tổ chức quản lý kinh tế và chỉ đạo thực hiện, từ các cơ quan ở trung ương, các địa phương đến các đơn vị cơ sở, vẫn chậm được sửa chữa. 

Các ngành, các cấp chưa nhận thức đầy đủ và vận dụng tốt Nghị quyết Đại hội lần thứ IV của Đảng và Nghị quyết Hội nghị lần thứ hai của Ban Chấp hành Trung ương Đảng vào công tác xây dựng kế hoạch và chỉ đạo thực hiện kế hoạch. Trước hết là chưa nắm chắc nguồn lao động xã hội dồi dào và các năng lực sản xuất hiện có để khai thác tốt đất đai, rừng, biển và các tài nguyên khác của nước ta. Chưa thật sự tập trung cao độ lực lượng của toàn Đảng, toàn dân, các ngành, các cấp đẩy mạnh sản xuất nông nghiệp, đặc biệt là sản xuất lương thực; còn xem nhẹ sản xuất và chế biến màu. Tinh thần tự lực, tự cường chưa cao, tư tưởng ỷ lại, trông chờ vào bên ngoài và bên trên còn nặng. Nhiều ngành ở trung ương, nhiều địa phương và đơn vị cơ sở chưa ra sức khai thác nguồn nguyên liệu, vật liệu trong nước, tự sản xuất lấy máy móc, thiết bị và phụ tùng để thay thế hàng nhập khẩu, chưa chú ý thu hồi và sử dụng phế liệu, phế phẩm để sản xuất và tăng thêm của cải vật chất. Chưa tích cực tổ chức khai thác tốt các khả năng xuất khẩu. 

Việc cải tiến quản lý kinh tế và thống nhất quản lý trong cả nước thực hiện chậm trễ, nghiên cứu cải tiến chậm và thiếu cụ thể, thi hành những điều đã quyết định không nghiêm chỉnh, không đến nơi đến chốn. 

Các ngành, các địa phương, các đơn vị cơ sở chưa hạch toán chặt chẽ và kiểm kê, kiểm soát thường xuyên các chi phí về lao động, vật tư, thiết bị, vốn đầu tư, nhằm sử dụng tiết kiệm với hiệu quả kinh tế cao; chưa coi trọng các chỉ tiêu chất lượng. Cho đến nay, nhiều ngành, nhiều đơn vị vẫn chưa đạt được mức chỉ tiêu về năng suất lao động, hiệu suất sử dụng máy móc, thiết bị, tiêu hao vật tư như trước chiến tranh. 

Các chính sách và chế độ quản lý kinh tế chưa được chấp hành đầy đủ. Pháp chế kinh tế còn thiếu nhiều và không được tôn trọng. Việc thực hiện hợp đồng kinh tế còn lỏng lẻo. Một số chính sách và chế độ quản lý không phù hợp với thực tế chậm được sửa đổi, bổ sung. Công tác xây dựng và thực hiện các tiêu chuẩn, định mức về kinh tế, kỹ thuật bị buông lỏng. 

Chức năng chỉ đạo, quản lý theo ngành và theo cấp đều không được thực hiện tốt. Quan hệ về phân công, phân cấp quản lý giữa trung ương, địa phương và cơ sở, giữa các ngành trung ương, giữa cấp tỉnh, cấp huyện còn có nhiều vướng mắc chưa được giải quyết đúng đắn và kịp thời. 

Bộ máy quản lý nhà nước, quản lý kinh tế cồng kềnh, kém hiệu lực, chưa thật sự phát huy quyền làm chủ tập thể của nhân dân lao động. Chế độ trách nhiệm không rõ, chế độ làm việc và kỷ luật không nghiêm, thiếu kiên quyết đấu tranh loại trừ những hiện tượng tiêu cực trong công tác quản lý nhà nước, quản lý kinh tế, văn hoá và trong đời sống xã hội. Bộ máy chỉ đạo và quản lý của các ngành, các cấp chậm được chấn chỉnh và không ổn định đã ảnh hưởng lớn đến việc thực hiện nhiệm vụ. 

Công tác xây dựng đảng, công tác tư tưởng, công tác tổ chức và cán bộ, công tác vận động quần chúng đều chưa theo kịp tình hình, không bảo đảm tốt nhiệm vụ chính trị và yêu cầu quản lý kinh tế trong thời kỳ mới, chưa tích cực nêu cao tư tưởng, phẩm chất và tác phong cách mạng, gương mẫu của cán bộ, đảng viên trong việc chấp hành đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước. 

ở miền Nam, nhiệm vụ cải tạo xã hội chủ nghĩa chưa được tiến hành khẩn trương và chưa kết hợp chặt chẽ với xây dựng chủ nghĩa xã hội; lực lượng kinh tế quốc doanh phát triển chậm. Nhà nước chưa làm chủ được một bộ phận tư liệu sản xuất quan trọng trong nông nghiệp, lâm nghiệp, ngư nghiệp, công nghiệp, vận tải; không tập trung được đúng mức nguồn hàng nông sản, hải sản, lâm sản và công nghiệp phẩm để làm chủ thị trường, nắm chắc khâu lưu thông phân phối, điều hành guồng máy kinh tế theo đúng các yêu cầu của kế hoạch. 

II- Nhiệm vụ kinh tế cấp bách của kế hoạch 

nhà nước năm 1978 


Đại hội lần thứ IV của Đảng đã quyết định 15 chỉ tiêu lớn của kế hoạch 5 năm (1976-1980) phát triển và cải tạo kinh tế, văn hoá, phát triển khoa học - kỹ thuật, nhằm hai mục tiêu vừa cơ bản, vừa cấp bách: xây dựng cơ sở vật chất - kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội, cải thiện một bước đời sống vật chất và văn hoá của nhân dân. 

Hội nghị lần thứ hai của Ban Chấp hành Trung ương Đảng đã cụ thể hoá thêm một bước phương hướng, nhiệm vụ phát triển nông nghiệp trong giai đoạn mới và đã xác định thêm một số chỉ tiêu về nông nghiệp đến năm 1980 phải đạt cho được. 

Năm 1978 là năm bản lề của kế hoạch 5 năm 1976-1980. Kế hoạch nhà nước năm 1978 phải quán triệt và thực hiện một bước quan trọng những nhiệm vụ cơ bản mà Đại hội Đảng đã đề ra cho kế hoạch 5 năm 1976-1980. Năm 1978 phải tạo ra cho được một bước chuyển biến mạnh mẽ của nền kinh tế, làm đà cho việc thực hiện kế hoạch trong những năm còn lại của kế hoạch 5 năm lần thứ hai này. Kết quả phấn đấu của năm 1978 sẽ tác động mạnh mẽ đến sự phát triển của nền kinh tế trong hai năm sau. Do đó, năm 1978 có một vị trí đặc biệt quan trọng đối với sự chuyển biến của tình hình kinh tế và đối với việc hoàn thành kế hoạch 5 năm 1976-1980. 

Phải phấn đấu để khắc phục cho được tình trạng trì trệ trong những năm qua, đạt được chuyển biến thực sự mạnh mẽ từ năm 1978 để hoàn thành nhiệm vụ của ba năm còn lại. Chuyển biến đó phải thể hiện ở tinh thần phấn đấu và cách làm việc mới của tất cả các ngành, các cấp, của tất cả cán bộ, đảng viên, sự tiến bộ về chỉ đạo và quản lý của Nhà nước, phong trào cách mạng của quần chúng ở khắp các ngành, các địa phương, làm cho năng suất lao động xã hội tăng lên nhanh, mang lại nhịp độ phát triển cao trong tất cả các mặt hoạt động. 

Để thực hiện sự chuyển biến đó, công tác lãnh đạo và quản lý kinh tế cần nắm vững quan điểm của Đại hội lần thứ IV của Đảng: 

"Chế độ làm chủ tập thể xã hội chủ nghĩa có cơ sở kinh tế của nó là nền sản xuất lớn xã hội chủ nghĩa. Việc xây dựng và phát triển nền sản xuất lớn xã hội chủ nghĩa phải nhằm mục đích thoả mãn ngày càng tốt hơn nhu cầu vật chất và văn hoá ngày càng tăng của toàn xã hội, bằng cách không ngừng phát triển và hoàn thiện sản xuất, trên cơ sở chế độ làm chủ tập thể và một nền khoa học kỹ thuật hiện đại. 

"Muốn thế, điều có ý nghĩa quyết định là phải thực hiện công nghiệp hoá xã hội chủ nghĩa, tạo ra một cơ cấu kinh tế công - nông nghiệp hiện đại...công nghiệp là nền tảng chủ yếu của nền kinh tế quốc dân, đóng vai trò chủ đạo trong nền kinh tế quốc dân, và nông nghiệp là cơ sở để phát triển công nghiệp. 

Cơ cấu kinh tế ấy là cơ cấu thống nhất cả nước bao gồm kinh tế trung ương và kinh tế địa phương. Phải tập trung cao độ năng lực của cả nước để xây dựng kinh tế trung ương bao gồm những ngành và những cơ sở kinh tế then chốt có tác dụng quyết định nhất đối với sự phát triển của toàn bộ nền kinh tế quốc dân; đồng thời, phát triển mạnh kinh tế địa phương; làm cho mỗi tỉnh, thành phố có một cơ cấu kinh tế hợp lý, một bộ phận cấu thành của nền kinh tế quốc dân, từng bước xây dựng huyện thành đơn vị kinh tế nông - công nghiệp (ở miền núi và miền biển thì huyện có cơ cấu kinh tế phù hợp với điều kiện của địa phương) theo quy hoạch của cả nước và của tỉnh. 

"Phải kết hợp đúng đắn kinh tế với quốc phòng. Xây dựng đất nước phải đi đôi với bảo vệ đất nước... 

"Dựa vào sức mình là chính, thực hiện phân công lao động hợp lý, nâng cao hiệu quả lao động và phát huy năng lực sản xuất trong nước; đồng thờităng cường quan hệ kinh tế với các nước xã hội chủ nghĩa anh em, thực hiện sự phân công, hợp tác, tương trợ trên tinh thần quốc tế xã hội chủ nghĩa.Phát triển quan hệ kinh tế với các nước khác trên cơ sở giữ vững độc lập, chủ quyền và các bên cùng có lợi. Thông qua các quan hệ quốc tế mà tranh thủ kỹ thuật tiên tiến. 

"Quan hệ sản xuất và lực lượng sản xuất luôn luôn gắn bó với nhau, thúc đẩy nhau cùng phát triển.. 

"Xây dựng mối quan hệ đúng đắn giữa tích luỹ và tiêu dùng, để vừa bảo đảm xây dựng nhanh chóng cơ sở vật chất - kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội, vừa cải thiện từng bước đời sống của nhân dân. Tiết kiệm phải trở thành một chính sách lớn của Đảng và Nhà nước, thành hành động cách mạng của đông đảo quần chúng... 

"Nâng cao không ngừng năng suất lao động xã hội, chất lượng sản phẩm, hiệu quả sản xuất và kinh doanh... 

"Chế độ làm chủ tập thể xã hội chủ nghĩa đòi hỏi có những con người mới phù hợp với nó... Con người mới xã hội chủ nghĩa Việt Nam có những đặc trưng nổi bật là: làm chủ tập thể, lao động, yêu nước xã hội chủ nghĩa và có tinh thần quốc tế vô sản"1). 

Kế hoạch kinh tế năm 1978 phải thể hiện tinh thần chủ động và tích cực, dựa vào nguồn vốn dồi dào và quý nhất của chúng ta là lực lượng lao động, kết hợp với khai thác nhanh nhất, tốt nhất đất, rừng, biển, các tài nguyên khác cùng với cơ sở vật chất - kỹ thuật hiện có và sắp có, ra sức phấn đấu tăng năng suất lao động, để tạo ra nhiều giá trị sử dụng theo yêu cầu phát triển kinh tế, đẩy mạnh xuất khẩu và cải thiện đời sống nhân dân. 

Tập trung cao độ vào nhiệm vụ phát triển nông nghiệp, đồng thời ra sức phát triển công nghiệp nhẹ và thủ công nghiệp, tích cực xây dựng và phát triển các ngành công nghiệp nặng, trước hết là điện, cơ khí, luyện kim, giao thông vận tải, bảo đảm các quan hệ tỷ lệ hợp lý giữa các ngành kinh tế trong tình hình hiện nay của nền kinh tế quốc dân, nhằm phục vụ tốt cho sự phát triển của nông nghiệp, lâm nghiệp, ngư nghiệp và công nghiệp hàng tiêu dùng. 

Từng đơn vị sản xuất, từng ngành phải nắm chắc lao động và các phương tiện vật chất của mình, căn cứ vào nhiệm vụ sản xuất và yêu cầu phát huy tốt năng lực sản xuất, mà chủ động, tích cực sắp xếp và sử dụng hợp lý lao động theo các định mức tiến bộ để đạt năng suất cao. ở nông thôn, lấy huyện làm địa bàn để cân đối sử dụng lao động và phân bố lại lao động, bảo đảm các nhiệm vụ sản xuất, xây dựng và tổ chức đời sống tại địa phương đồng thời bảo đảm các nhu cầu phát triển kinh tế chung. 

Dựa vào việc đẩy mạnh khai thác đến mức cao nhất nguyên liệu, vật liệu trong nước, phát triển mạnh sản xuất cơ khí, áp dụng các tiến bộ kỹ thuật để sản xuất máy móc, phụ tùng thay thế. Bảo đảm tốt việc cung ứng vật tư và công cụ lao động cho các cơ sở sản xuất, trước hết là cho các cơ sở đang hoạt động để phát huy hết năng lực sản xuất hiện có. 

Ra sức khai thác mọi khả năng trong nước nhằm tăng mạnh xuất khẩu và mở rộng quan hệ kinh tế với các nước để bảo đảm nguồn nhập khẩu cần thiết cho sự phát triển của các ngành sản xuất và xây dựng của nước ta. 

Tích cực chuẩn bị các mặt cho sự phát triển sản xuất và xây dựng trên quy mô lớn trong những năm sau, đặc biệt coi trọng đào tạo công nhân và cán bộ, tăng cường công tác quy hoạch, khảo sát, thiết kế, công tác nghiên cứu khoa học - kỹ thuật và ứng dụng tiến bộ kỹ thuật. 

Nhiệm vụ đặt ra cho ba năm còn lại (1978, 1979, 1980) của kế hoạch 5 năm rất lớn: 

Phải đưa tiếp 1,3 triệu lao động đi mở mang vùng kinh tế mới, khai hoang thêm trên 70 vạn hécta ruộng đất, trồng thêm 96 vạn hécta rừng, thực hiện khối lượng xây dựng cơ bản từ 21 đến 23 tỷ đồng. Trong ba năm tới, tốc độ tăng bình quân hằng năm về sản lượng lương thực phải đạt 17,3%, về chăn nuôi lợn phải đạt 21,9%, về đánh cá biển phải đạt 18,6%, về sản lượng công nghiệp phải đạt 18-20%, về khối lượng vận chuyển hàng hoá trong nước phải đạt 20%; nguồn hàng trong nước do Nhà nước huy động năm 1980 tăng 1,25 lần so với 1977, mức lưu chuyển hàng hoá của thị trường có tổ chức năm 1980 tăng hơn 85% so với năm 1977. 

Nhiệm vụ hoàn thành về cơ bản cải tạo xã hội chủ nghĩa ở miền Nam, củng cố và hoàn thiện quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc phải được đẩy mạnh. 

Cố gắng vượt bậc để đến năm 1980 thu nhập quốc dân sản xuất có thể bảo đảm quỹ tiêu dùng xã hội và đáp ứng được phần quan trọng quỹ tích luỹ; xuất khẩu bảo đảm trang trải phần lớn kim ngạch nhập khẩu; ngân sách nhà nước cân bằng được thu và chi; trên cơ sở đó thực hiện được việc cải tiến chế độ tiền lương cho công nhân viên chức, nâng cao một bước đời sống của nhân dân, đồng thời có điều kiện đẩy mạnh hơn nữa việc xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội. 

Năm 1978, phải tập trung lực lượng thực hiện tốt các nhiệm vụ kinh tế cấp bách sau đây: 

1. Đẩy mạnh sản xuất nông nghiệp, trước hết là lương thực và thực phẩm 

Động viên sức của cả nước đẩy mạnh sản xuất nông nghiệp, đặc biệt là sản xuất lương thực, tăng nhanh sản lượng màu. Bằng mọi biện pháp thâm canh, tăng vụ, mở rộng diện tích, bảo đảm cho kỳ được kế hoạch sản xuất từ 16 đến 16,5 triệu tấn lương thực trong năm 1978. Giải quyết kịp thời các vấn đề về chính sách và tổ chức tốt công tác thu mua để Nhà nước nắm cho được trên 3 triệu tấn lương thực quy ra thóc. 

Từng huyện xác định kế hoạch sản xuất và cân đối lương thực trên địa bàn huyện, từng tỉnh phải thực hiện nhiệm vụ điều hoà và cân đối lương thực trong tỉnh. Các vùng sản xuất lương thực hàng hoá lớn phải phấn đấu tăng mức huy động và giao nộp đầy đủ cho trung ương. Trung ương phụ trách điều hoà và cân đối lương thực cho các thành phố lớn, khu công nghiệp lớn, vùng khai hoang lớn, vùng chuyên canh cây công nghiệp, vùng định cư và chuyển sang lâm nghiệp,... và nhu cầu của quân đội. 

Tổ chức tốt việc chế biến màu và phân phối lương thực một cách chặt chẽ, tiết kiệm, vừa bảo đảm nhu cầu tiêu dùng thường xuyên, vừa bảo đảm các nhu cầu về điều động lao động đi xây dựng các vùng kinh tế mới, về khai hoang, làm thuỷ lợi, trồng rừng, phát triển cây công nghiệp, chăn nuôi, đẩy mạnh nghề cá và các ngành nghề khác. 

2. Ra sức phát triển sản xuất hàng tiêu dùng 

Tất cả các địa phương, các ngành công nghiệp, nông nghiệp, lâm nghiệp, các cơ sở sản xuất của quốc phòng đều có nhiệm vụ tham gia khai thác các nguồn nguyên liệu, vật liệu có thể khai thác và tận dụng để làm ra thật nhiều hàng tiêu dùng, không để thiếu những hàng tiêu dùng thiết yếu hằng ngày của nhân dân. Phải quy hoạch, sắp xếp, mở rộng các cơ sở sản xuất hàng tiêu dùng, tổ chức và sử dụng tốt lực lượng thủ công nghiệp, tiểu công nghiệp để tăng sản xuất, phục vụ nhu cầu trong nước và nhu cầu xuất khẩu; tranh thủ cao nhất khả năng làm gia công xuất khẩu. Phát triển mạnh các cơ sở chế biến thực phẩm, nhất là ở các thành phố lớn. 

Từ năm 1978, ngoài các công trình lớn, nhập thiết bị của nước ngoài, chú trọng xây dựng nhiều xí nghiệp sản xuất hàng tiêu dùng cỡ nhỏ ở các tỉnh, huyện, dùng thiết bị sản xuất trong nước; trang bị máy móc, công cụ cho tiểu công nghiệp và thủ công nghiệp, nhằm tận dụng nguyên liệu phân tán và thu hút được nhiều lao động, đáp ứng nhu cầu tại chỗ, giảm bớt vận chuyển. 

3. Phát triển thêm nguồn điện, bảo đảm ổn định, điều hoà nguồn điện; đẩy mạnh sản xuất cơ khí 

Đẩy mạnh xây dựng các xí nghiệp nhiệt điện và điện tuốcbin khí, điều hoà nguồn điện giữa các vùng, quản lý tốt việc vận hành các nhà máy, kiểm tra chặt chẽ việc phân phối, sử dụng để triệt để tiết kiệm điện, bảo đảm cung cấp điện cho các cơ sở sản xuất và xây dựng, đồng thời khẩn trương chuẩn bị để sớm khởi công xây dựng các công trình lớn về điện lực đã ký kết. 

Tập trung chỉ đạo việc sắp xếp lực lượng, phân công và hiệp tác sản xuất, kết hợp các lực lượng cơ khí quốc doanh, (kể cả cơ khí quốc phòng) cơ khí hợp tác xã và các cơ sở cơ khí của tư nhân, để phát triển mạnh sản xuất cơ khí nhằm phục vụ đắc lực cho nông nghiệp, lâm nghiệp, ngư nghiệp và công nghiệp nhẹ, bảo đảm cung ứng đủ công cụ lao động thông thường cho các ngành kinh tế; tăng cường cơ khí sửa chữa, sản xuất phụ tùng, phục hồi hoạt động các máy hỏng. 

Vừa cải tạo và mở rộng cơ sở hiện có, vừa hoàn thành nhanh việc xây dựng và đưa vào sản xuất một số cơ sở mới, chú trọng các cơ sở cơ khí của thành phố Hồ Chí Minh và các tỉnh miền Nam, chăm lo tốt hơn các điều kiện bảo đảm sản xuất của các xí nghiệp đó. Đồng thời phải coi trọng ngành luyện kim, bảo đảm thực hiện chỉ tiêu kế hoạch nhà nước về sản lượng thép và gang. 

4. Tăng nhanh số lượng và mặt hàng xuất khẩu 

Đẩy mạnh xuất khẩu trên cơ sở tổ chức lại các khâu sản xuất, thu mua, chế biến, bảo quản và vận chuyển. Hết sức coi trọng nâng cao chất lượng hàng xuất khẩu. Quản lý và chỉ đạo tốt các vùng sản xuất tập trung cây công nghiệp, rau quả, hải sản, lâm sản và gỗ chế biến để tăng nhanh nguồn hàng trong thời gian trước mắt, phát triển mạnh việc làm hàng mỹ nghệ, hàng gia công, tăng thêm hàng khoáng sản cho xuất khẩu. Đưa kim ngạch xuất khẩu năm 1978 tăng 45% so với năm 1977. Phấn đấu giảm sự chênh lệch trong cân đối thanh toán quốc tế đến mức thấp nhất. 

Xác định trách nhiệm của từng ngành, từng cấp, từng đơn vị cơ sở đối với nhiệm vụ xuất khẩu. Động viên nhân dân hết sức tiết kiệm tiêu dùng những thứ hàng có giá trị xuất khẩu và những hàng phải nhập khẩu. Ban hành trong thời hạn sớm nhất các chính sách khuyến khích xuất khẩu đối với các ngành, địa phương, đơn vị sản xuất. 

Đi đôi với tăng xuất nhập, phải soát lại chặt chẽ các nhu cầu về hàng nhập khẩu. 

5. Phát triển giao thông vận tải; giải quyết tốt việc tiếp nhận hàng nhập khẩu và vận tải Bắc Nam 

Tập trung sức để trong thời gian ngắn nhất giải quyết xong việc chấn chỉnh tổ chức, cải tiến quản lý trong giao thông vận tải, đồng thời khẩn trương tăng cường cơ sở vật chất, tăng thêm phương tiện vận tải của đường biển, đường sắt, đường sông và đường bộ, để bảo đảm vững chắc việc tiếp nhận hàng nhập khẩu và nhiệm vụ vận tải Bắc Nam. Ngay từ đầu năm 1978, phải đạt được chuyển biến rõ rệt trong việc tiếp nhận hàng nhập khẩu ở khu vực Hải Phòng - Quảng Ninh, tăng nhanh hiệu suất sử dụng các phương tiện vận tải. 

Phát triển mạnh giao thông vận tải địa phương, tăng cường các phương tiện vận tải thô sơ trên đường bộ, đường thuỷ. Hết sức hạn chế tình trạng ách tắc trong vận chuyển. Nhà nước và nhân dân ra sức phát triển giao thông vận tải ở miền núi. 

Nâng cao năng lực vận chuyển vật tư phục vụ sản xuất nông nghiệp. Tổ chức những chiến dịch vận chuyển lao động đi xây dựng các vùng kinh tế mới kịp thời vụ sản xuất. 

áp dụng những biện pháp kiên quyết để chặn đứng tình trạng lấy cắp vật tư, hàng hoá trong khâu vận tải, đặc biệt là ở các cảng và dọc các đường vận chuyển quan trọng. 

6. Chấn chỉnh và đẩy mạnh công tác xây dựng cơ bản 

Tập trung thi công và hoàn thành dứt điểm các công trình đến thời hạn phải huy động trong năm 1978. Cố gắng khắc phục nhanh tình trạng đầu tư phân tán, xây dựng kéo dài đã gây nhiều lãng phí lớn trong thời gian qua. Hết sức coi trọng đầu tư chiều sâu để tăng nhanh năng lực sản xuất của các cơ sở hiện có. Bảo đảm các điều kiện vật chất cho các công trình xây dựng mới. Kiên quyết khôi phục lại các định mức về xây dựng cơ bản trước chiến tranh và ban hành các đơn giá vật liệu xây dựng; ban hành các quy định về thiết kế, các thiết kế mẫu và chính sách sử dụng vật liệu cho từng loại công trình, quản lý chặt các quy định về trình tự đầu tư và xây dựng cơ bản, đấu tranh chống hiện tượng lãng phí lao động và lãng phí nguyên liệu, vật liệu trong công tác xây dựng. Coi trọng việc áp dụng các tiến bộ khoa học - kỹ thuật để bảo đảm xây dựng nhanh, tốt và rẻ. Phát huy mạnh lực lượng quân đội làm công tác xây dựng cơ bản. 

Chỉ đạo chặt công tác chuẩn bị đầu tư để khởi công sớm một số công trình có quy mô lớn của kế hoạch 5 năm này và kế hoạch 5 năm sau. 

7. Cải tiến và tăng cường công tác lưu thông phân phối 

Phát triển nhanh thương nghiệp quốc doanh và hợp tác xã mua bán, tăng cường quản lý thị trường, xoá bỏ tư sản thương nghiệp ở miền Nam, cải tạo thương nghiệp và tiểu thương, chống đầu cơ, buôn bán trái phép. 

Tăng cường thu mua nắm nguồn hàng, bảo đảm Nhà nước nắm toàn bộ sản phẩm của các xí nghiệp quốc doanh và các cơ sở sản xuất bằng nguyên liệu do Nhà nước cung ứng. Tăng cường công tác tuyên truyền, giáo dục và cải tiến phương thức thu mua, giải quyết kịp thời vấn đề giá cả, thực hiện tốt hợp đồng kinh tế hai chiều đối với nông dân, ngư dân, thợ thủ công để có thể thu mua đại bộ phận sản lượng hàng hoá. 

Cải tiến và chấn chỉnh công tác phân phối hàng hoá, thực hiện ưu tiên thích đáng cho người sản xuất, nhất là các ngành nghề nặng nhọc và phải tiếp xúc với môi trường độc hại, mở rộng mạng lưới bán lẻ, mạng lưới phục vụ sinh hoạt thuận tiện cho nhân dân lao động ở thành thị và các vùng nông thôn, vùng kinh tế mới. Kiên quyết loại trừ nạn ăn cắp, móc ngoặc, cửa quyền trong việc thu mua và phân phối hàng hoá. 

Đề cao tiết kiệm trong sản xuất và đời sống. 

Thống nhất chế độ tài chính, thực hành nghiêm chỉnh chế độ hạch toán kinh tế, nhanh chóng khắc phục chế độ bao cấp tài chính. Thực hiện ngay trong năm 1978 việc phân cấp quản lý tài chính đối với các huyện. 

Cải tiến công tác ngân hàng, công tác tiền tệ, tín dụng và mở rộng việc cho vay trong xây dựng cơ bản. 

8. Xúc tiến cải tạo xã hội chủ nghĩa ở miền Nam, hoàn thiện quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc. Tăng cường và cải tiến quản lý kinh tế trong cả nước 

Tiến hành đồng thời ba cuộc cách mạng, kết hợp chặt chẽ việc cải tạo xã hội chủ nghĩa, củng cố và hoàn thiện quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa với việc phát triển lực lượng sản xuất và tổ chức lại sản xuất theo hướng đi lên sản xuất lớn xã hội chủ nghĩa. 

ở miền Nam, xúc tiến mạnh mẽ công tác cải tạo xã hội chủ nghĩa trong tất cả các ngành kinh tế, theo đúng các nghị quyết của Trung ương Đảng và Chính phủ. Từng ngành phải nắm chắc công tác cải tạo thuộc ngành mình để kết hợp chặt chẽ với xây dựng, thực hiện được yêu cầu phát triển sản xuất và quản lý toàn ngành. 

Tích cực chuẩn bị cho việc mở rộng phong trào hợp tác hoá nông nghiệp ở miền Nam; làm thật tốt các thí điểm hợp tác xã sản xuất nông nghiệp, đồng thời nhanh chóng đưa đại bộ phận nông dân đi vào các hình thức hiệp tác lao động sản xuất quá độ (tổ đổi công, vần công, tổ đoàn kết sản xuất, tập đoàn sản xuất). 

Phát triển lực lượng kinh tế quốc doanh, đặc biệt là các tổ chức thương nghiệp quốc doanh và hợp tác xã mua bán, để Nhà nước có thể tác động mạnh và trực tiếp đến sản xuất, lưu thông, phân phối, huy động được đại bộ phận sản lượng hàng hoá. 

ở miền Bắc, củng cố và tăng cường các cơ sở kinh tế quốc doanh và kinh tế tập thể, phát huy vai trò chủ đạo của kinh tế quốc doanh trong nền kinh tế cả nước. Kiên quyết đấu tranh bằng các biện pháp kinh tế, giáo dục, hành chính để quản lý thị trường, loại trừ mọi hành động phi pháp trong các hoạt động kinh tế. 

Khẩn trương đào tạo và tăng cường cán bộ cho các tổ chức kinh tế tập thể. 

Việc hợp nhất các hợp tác xã thành hợp tác xã lớn ở miền Bắc phải làm đúng theo những điều kiện mà Trung ương đã đề ra và phải có sự lãnh đạo chặt chẽ của cấp trên. Khi hợp nhất hợp tác xã phải hợp nhất cả quỹ không chia, tuyệt đối không được phân tán quỹ không chia. Phải chấm dứt việc lấy đất tập thể khoán cho hộ xã viên, có kế hoạch thu hồi, quản lý và sử dụng tốt những đất ấy. 

Cải tạo xã hội chủ nghĩa, hoàn thiện quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa phải dựa trên phong trào cách mạng của quần chúng, thúc đẩy sự phát triển của phong trào quần chúng làm chủ tập thể xã hội chủ nghĩa, thi đua lao động có kỷ luật, có kỹ thuật, có năng suất lao động và hiệu quả kinh tế ngày càng cao, kiên quyết đấu tranh xoá bỏ những hiện tượng tiêu cực, hư hỏng trong hoạt động kinh tế và trong đời sống xã hội. 

Cải tiến một số khâu quan trọng và cấp bách trong công tác quản lý kinh tế, tăng cường sự lãnh đạo và quản lý kinh tế của các cấp, các ngành đi đôi với tổ chức và đẩy mạnh phong trào cách mạng của quần chúng. Coi trọng công tác giáo dục xã hội chủ nghĩa, tăng cường công tác thanh tra, hướng dẫn của Nhà nước, kịp thời uốn nắn những lệch lạc trong quá trình thực hiện kế hoạch. 

III- Những biện pháp chính về lãnh đạo và quản lý để bảo đảm thực hiện kế hoạch năm 1978 

1. Cải tiến một số khâu quan trọng và cấp bách trong công tác quản lý kinh tế 

a) Năm 1978, phải đổi mới ngay công tác kế hoạch hoá theo hướng phát huy cao nhất mọi năng lực hiện có và khả năng tiềm tàng trong nước, trước hết là lực lượng lao động, đất đai, tài nguyên thiên nhiên phong phú, các cơ sở vật chất, kỹ thuật, công cụ sản xuất và vật tư sẵn có của ta, để khắc phục các khó khăn và các mặt mất cân đối của nền kinh tế. 

Tất cả các ngành, các cấp phải soát lại phương án kế hoạch năm 1978 từ đơn vị cơ sở và từ cấp huyện trở lên. Phải căn cứ vào kết quả điều tra, kiểm kê lực lượng lao động, đất đai, lực lượng vật chất - kỹ thuật và áp dụng các tiêu chuẩn định mức tiến bộ mà xây dựng, bổ sung, điều chỉnh kế hoạch cả năm và từng quý, từng tháng một cách tích cực và vững chắc. 

Tập trung làm tốt công tác kế hoạch hoá ở cấp huyện và ở các xí nghiệp, các liên hiệp xí nghiệp, các công ty, các hợp tác xã nông nghiệp, hợp tác xã tiểu công nghiệp, thủ công nghiệp. Phải hoàn thành trong năm 1978 việc cải tiến công tác kế hoạch hoá ở cấp huyện, xây dựng cấp huyện thành cấp kế hoạch toàn diện, có ngân sách gắn liền với việc xây dựng và xét duyệt quy hoạch huyện. Đối với các xí nghiệp và các liên hiệp xí nghiệp, việc xây dựng kế hoạch gắn chặt với quy hoạch phát triển của từng ngành kinh tế - kỹ thuật và từng vùng lãnh thổ, từng địa phương. 

Phải thực hiện nghiêm chỉnh việc xây dựng kế hoạch từ dưới lên, phát huy quyền làm chủ tập thể của quần chúng, nâng cao trách nhiệm và quyền chủ động của các ngành, các địa phương và cơ sở trong việc xây dựng kế hoạch. Uỷ ban Kế hoạch Nhà nước và các cơ quan chủ quản ngành trung ương, các tỉnh, thành phố phải xuống các huyện và các đơn vị cơ sở, nắm chắc kế hoạch của các huyện và các xí nghiệp, liên hiệp xí nghiệp để làm tốt việc tổng hợp kế hoạch từng ngành, từng địa phương, trên cơ sở đó mà xây dựng kế hoạch tổng hợp của nền kinh tế quốc dân. 

b) Trong năm 1978, Trung ương Đảng và Chính phủ phải tập trung giải quyết việc bổ sung, sửa đổi một số chính sách, chế độ cấp thiết trong quản lý kinh tế như: 

- Chính sách về nghĩa vụ lao động. 

- Quy chế cụ thể về phân cấp quản lý kinh tế giữa trung ương và địa phương trong các lĩnh vực: sản xuất, xây dựng cơ bản, quản lý xí nghiệp, quản lý thị trường, ngân sách, giá cả, đời sống... 

- Chính sách thu mua bằng hợp đồng kinh tế hai chiều nhằm bảo đảm cho Nhà nước nắm được đại bộ phận hàng hoá nông sản và công nghiệp phẩm, đồng thời kích thích người sản xuất hăng hái lao động sản xuất. 

- Chính sách khuyến khích sản xuất hàng xuất khẩu và làm gia công xuất khẩu. 

- Một số vấn đề cấp bách về chính sách giá cả, chế độ tiền lương, tiền thưởng, tiêu chuẩn cung ứng lương thực thực phẩm, nhằm thực hiện tốt nguyên tắc phân phối xã hội chủ nghĩa, thúc đẩy tăng năng suất lao động, nâng cao chất lượng sản phẩm, hạ giá thành sản phẩm. 

- Chính sách về tín dụng, đầu tư xây dựng cơ bản. 

- Chính sách về phát triển kinh tế và văn hoá ở miền núi. 

- Chính sách cán bộ đối với miền núi. 

Trung ương Đảng và Chính phủ phân công một đồng chí Uỷ viên Bộ Chính trị, Phó Thủ tướng Chính phủ, trực tiếp chỉ đạo Viện Nghiên cứu quản lý kinh tế và các ngành ở trung ương tiến hành khẩn trương việc nghiên cứu bổ sung, sửa đổi một số chính sách và chế độ quản lý kinh tế. Ngay từ đầu năm 1978, phải soát lại các chính sách, chế độ quản lý kinh tế hiện hành, sửa ngay những chính sách, chế độ đã ban hành từ lâu không còn phù hợp với tình hình mới hoặc mới ban hành nhưng không sát, không đúng; huỷ bỏ ngay những thủ tục, thể lệ không hợp lý, phiền hà, gò bó, đang gây trở ngại cho các hoạt động sản xuất, kinh doanh. Từng bộ, uỷ ban, tổng cục có trách nhiệm kiểm tra lại các chính sách, chế độ thuộc phạm vi hoạt động của mình, chủ động nghiên cứu và kiến nghị cụ thể với Trung ương Đảng và Chính phủ về những vấn đề cấp thiết nói trên. 

c) Thực hiện tốt việc phân cấp quản lý kinh tế, tăng cường trách nhiệm và quyền hạn quản lý của các ngành, các địa phương và các đơn vị cơ sở 

Trước mắt, phải làm gấp một số việc sau đây: 

- Các bộ, uỷ ban, tổng cục phải căn cứ vào phương hướng và nhiệm vụ chung của kế hoạch nhà nước, chịu trách nhiệm toàn diện về xây dựng kế hoạch và thực hiện kế hoạch của toàn ngành trong cả nước, bao gồm cả các xí nghiệp do trung ương trực tiếp quản lý và các xí nghiệp do địa phương quản lý. Đối với các xí nghiệp do địa phương quản lý, các bộ, uỷ ban, tổng cục phải cùng các uỷ ban nhân dân địa phương bàn bạc, phối hợp chặt chẽ để có sự chỉ đạo thống nhất về xây dựng kế hoạch và thực hiện kế hoạch. 

- Hoàn thành nhanh việc xây dựng quy chế về quan hệ chỉ đạo của Thường vụ Hội đồng Chính phủ đối với các ngành, về quan hệ phối hợp giữa các cơ quan tổng hợp, nhất là Uỷ ban Kế hoạch, Bộ Tài chính, với các cơ quan chủ quản các ngành sản xuất theo hướng tôn trọng và mở rộng quyền hạn, trách nhiệm của các cơ quan chủ quản, đồng thời phát huy chức năng của các cơ quan tổng hợp, bảo đảm các cân đối chung. 

- Mở rộng quyền hạn cho các địa phương quản lý các cơ sở sản xuất nông nghiệp, lâm nghiệp, ngư nghiệp, công nghiệp chế biến và công nghiệp sản xuất hàng tiêu dùng, những xí nghiệp vận tải nhỏ, những xí nghiệp thương nghiệp phục vụ, xí nghiệp xây dựng, v.v.. Trong khi quản lý, các địa phương phải chấp hành đúng các chính sách, các chỉ tiêu kế hoạch, các tiêu chuẩn về kinh tế và kỹ thuật do Chính phủ và các ngành ở trung ương quy định, đồng thời các địa phương có trách nhiệm cùng với các bộ, tổng cục quản lý tốt các cơ sở trực thuộc trung ương. 

- Trong công nghiệp, ở những ngành có điều kiện, cần tổ chức các liên hiệp xí nghiệp có đủ quyền hạn và trách nhiệm là những đơn vị kế hoạch, đơn vị kinh doanh của ngành. Chính phủ sẽ có chỉ thị hướng dẫn cụ thể về việc này. 

d) Chấn chỉnh việc quản lý sản xuất, quản lý lao động ở cơ sở 

Tất cả các xí nghiệp quốc doanh và các hợp tác xã phải kiểm kê lại tài sản, tổ chức lại sản xuất và lao động, để phát huy hết các tiềm năng về lao động, thiết bị, máy móc, vật tư, ruộng đất. Các cơ quan chủ quản ngành cấp trên phải giải quyết kịp thời những yêu cầu thiết thực về điều kiện sản xuất của xí nghiệp và hợp tác xã, hết sức khuyến khích và thúc đẩy các đơn vị cơ sở phấn đấu phát triển sản xuất. 

Biện pháp quan trọng để chấn chỉnh và cải tiến quản lý sản xuất, quản lý lao động là quản lý chặt theo tiêu chuẩn và định mức tiến bộ, thực hiện tốt công tác hạch toán kinh tế, tạo nên tác phong lao động có kỷ luật, có kỹ thuật, nâng cao chất lượng sản phẩm và tăng năng suất lao động, giảm hao phí vật chất và hạ giá thành sản phẩm. Thực hiện tốt điều lệ xí nghiệp quốc doanh và các chế độ quản lý xí nghiệp ban hành kèm theo điều lệ đó. Hoàn thành trong sáu tháng đầu năm 1978 việc kiểm kê vật tư, thiết bị và các phương tiện vật chất khác hiện có; tiến hành kiểm tra tài chính gắn liền với kiểm kê vật tư hàng hoá. 

Các ngành ở trung ương và các địa phương có nhiệm vụ chỉ đạo các đơn vị cơ sở soát lại và xây dựng, bổ sung hệ thống định mức lao động, định mức tiêu hao vật tư, định mức và chế độ sử dụng máy móc, tiêu chuẩn chất lượng sản phẩm trong phạm vi từng đơn vị, từng ngành. Đối với các đơn vị sản xuất ở miền Nam, phải xem xét các tiêu chuẩn, định mức đã thực hiện trước ngày giải phóng để sửa đổi, bổ sung cho phù hợp với tình hình mới. Bằng mọi biện pháp quản lý và kỹ thuật, trong năm 1978, tất cả các ngành và các cơ sở sản xuất phải phấn đấu đạt và vượt các tiêu chuẩn, định mức về năng suất lao động và các chỉ tiêu kinh tế - kỹ thuật của thời kỳ trước chiến tranh; đặc biệt chú trọng tiết kiệm thời gian lao động. 

Các cơ quan kế hoạch, tài chính, lao động, vật tư, khoa học kỹ thuật phải hướng dẫn và kiểm tra các bộ chủ quản các ngành sản xuất thực hiện khẩn trương và chặt chẽ. Cần tập trung một lực lượng cán bộ kinh tế và kỹ thuật cần thiết để xây dựng, xét duyệt và ban hành nhanh các tiêu chuẩn, định mức, phục vụ ngay cho việc thực hiện kế hoạch năm 1978 và chuẩn bị cho kế hoạch năm sau. Thực hiện nghiêm chỉnh chế độ khen thưởng, xử phạt theo kết quả thực hiện các tiêu chuẩn, định mức. 

Trong các ngành không trực tiếp sản xuất, phải xác định tiêu chuẩn công việc, chức năng rõ ràng để định mức biên chế hợp lý, kiên quyết giảm nhẹ biên chế hành chính, giảm bớt khâu trung gian, chuyển một bộ phận lao động sang khu vực sản xuất hoặc làm các việc khác. 

e) Trong năm 1978, phải làm gấp việc kiện toàn bộ máy quản lý và tăng cường cán bộ cho một số ngành và địa phương trọng điểm như: nông nghiệp, lâm nghiệp, hải sản, giao thông vận tải, xây dựng, nội thương, ngoại thương, vật giá, lao động, Thủ đô Hà Nội, thành phố Hồ Chí Minh và một số tỉnh, thành ở miền Nam. 

Thường vụ Hội đồng Chính phủ và Bộ Nông nghiệp, Ban Nông nghiệp Trung ương phải cùng các ban, các ngành ở trung ương và các tỉnh, thành khẩn trương xây dựng các huyện thành đơn vị kinh tế nông - công nghiệp, hoàn thành nhanh việc xây dựng kế hoạch và ngân sách năm 1978 của các huyện, tăng cường ngay cho các huyện một số cơ sở vật chất - kỹ thuật cần thiết trước mắt để bảo đảm nhiệm vụ sản xuất và tổ chức đời sống, bổ sung cán bộ để kiện toàn huyện uỷ, Uỷ ban nhân dân huyện, các đoàn thể quần chúng và các cơ quan chuyên môn của Đảng và chính quyền, nhất là các tổ chức kinh tế, kỹ thuật của huyện. Đặc biệt chú trọng xây dựng nhanh những huyện có vị trí quan trọng về kinh tế và quốc phòng. 

2. Phát động phong trào cách mạng của quần chúng, tiến hành cuộc vận động tăng năng suất lao động, kết hợp với thực hành tiết kiệm, ra sức xây dựng nền nếp quản lý mới, tác phong lao động và nếp sống mới, kiên quyết đấu tranh chống các hiện tượng tiêu cực, hư hỏng trong tất cả các đơn vị cơ sở, các ngành và các địa phương, trong các tổ chức của Đảng, của Nhà nước, của các đoàn thể nhân dân, của quân đội và trong xã hội 

Trong tình hình hiện nay, muốn khắc phục những khó khăn trước mắt, hoàn thành thắng lợi những nhiệm vụ kinh tế của năm 1978 và những năm sau, nhất thiết phải phát động cho được phong trào cách mạng của quần chúng, phát huy quyền làm chủ tập thể xã hội chủ nghĩa của nhân dân lao động. Cao trào quần chúng lao động sáng tạo với ý thức làm chủ tập thể cao là kết quả tổng hợp của công tác lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện, công tác quản lý kinh tế và công tác tuyên truyền, giáo dục, tổ chức quần chúng. Mục tiêu cụ thể trước mắt của phong trào quần chúng trong cả nước là thi đua lao động với năng suất cao, chất lượng tốt, thực hành tiết kiệm triệt để trong sản xuất và đời sống, xây dựng nền nếp quản lý, tác phong lao động và nếp sống mới của những con người mới xã hội chủ nghĩa, kiên quyết đấu tranh chống các hiện tượng tiêu cực trong các tổ chức của Đảng, của Nhà nước, của các đoàn thể nhân dân, của quân đội và trong xã hội. 

Để bảo đảm và thúc đẩy phong trào thi đua lao động với năng suất cao, tất cả các ngành ở trung ương và các tỉnh, thành phải tổ chức với mức cố gắng cao nhất việc cung ứng kịp thời, đều đặn năng lượng, nguyên liệu, vật liệu, phụ tùng sửa chữa và lương thực, thực phẩm cho các cơ sở sản xuất. Phải nêu rõ yêu cầu tiết kiệm năng lượng, giảm mức tiêu hao vật tư, nâng cao hiệu suất sử dụng và bảo quản tốt thiết bị, máy móc, tìm nguyên liệu, vật liệu thay thế, bảo đảm các chỉ tiêu chất lượng sản phẩm. 

Phải kịp thời ban hành và thực hiện chính sách giải quyết việc làm và đời sống đối với số lao động dôi ra ngoài dây chuyền sản xuất ở các đơn vị cơ sở, khi phát động phong trào tăng năng suất lao động. 

Các cơ quan lãnh đạo và quản lý phải thực sự chăm lo đời sống của những người sản xuất, nhất thiết phải bảo đảm trước hết cho những người lao động có kỹ thuật cao, tay nghề giỏi, những người lao động nặng nhọc và phải tiếp xúc với môi trường độc hại, được ăn đủ no, mặc đủ ấm và có điều kiện khá hơn về nhà ở, hàng tiêu dùng, về đi lại và bảo vệ sức khoẻ. Chăm lo tổ chức tốt đời sống ở các khu vực tập trung công nhân sản xuất và xây dựng, các đơn vị quân đội làm nhiệm vụ ở những địa bàn xung yếu, các lực lượng lao động ở những vùng kinh tế mới. 

Từng ngành phải đi sâu vào công tác khoa học kỹ thuật, làm tốt công tác thông tin khoa học và kỹ thuật, phát động phong trào quần chúng học tập về khoa học kỹ thuật, kịp thời áp dụng các tiến bộ khoa học kỹ thuật vào sản xuất và công tác. Khuyến khích lao động giỏi và có năng suất cao, sử dụng đúng lực lượng cán bộ khoa học kỹ thuật và nghiệp vụ, kể cả những anh chị em đã làm việc dưới chế độ cũ ở miền Nam. 

Thực hiện đúng đắn chế độ phân phối theo lao động, xoá bỏ các chế độ cung cấp không công bằng, không hợp lý. Trong năm 1978, phải khẩn trương sửa đổi, cải tiến một số điểm cấp bách về chế độ tiền lương và tiền thưởng, áp dụng phổ biến trong các cơ sở sản xuất chế độ lương theo sản phẩm dựa trên những định mức tiến bộ. Thực hiện nghiêm chỉnh các quy định của Nhà nước về giá thu mua, về hợp đồng kinh tế hai chiều, nhằm khuyến khích nông dân hăng hái sản xuất, làm nghĩa vụ và bán nhiều nông sản cho Nhà nước. 

Ra sức làm tốt công tác tư tưởng nhằm làm quán triệt sâu sắc đường lối, chính sách, quan điểm của Đảng từ trên xuống dưới, nâng cao giác ngộ xã hội chủ nghĩa, tinh thần tự lực tự cường và ý thức trách nhiệm, xây dựng tư tưởng và tác phong làm chủ tập thể xã hội chủ nghĩa, nghiêm khắc phê phán và khắc phục thái độ hoài nghi, tư tưởng thụ động, ỷ lại, trông chờ trước những khó khăn trước mắt, tư tưởng cá nhân chủ nghĩa, cục bộ, bản vị, đấu tranh kiên quyết chống những hiện tượng tiêu cực đang có chiều hướng lan rộng. Phải tiến hành cuộc đấu tranh này từ trong Đảng ra ngoài nhân dân, trong các tổ chức đảng, chính quyền, quân đội, đoàn thể quần chúng ở tất cả các ngành, các cấp và đơn vị cơ sở. 

Các tổ chức của Đảng ở các cấp phải tăng cường công tác kiểm tra nội bộ, thường xuyên thực hành tự phê bình và phê bình, nêu cao tính tiền phong gương mẫu của đảng viên. Các cơ quan của Đảng và Chính phủ ở trung ương, các cán bộ có trách nhiệm lãnh đạo và quản lý ở các cấp, các ngành phải nghiêm khắc với mình và phải nêu gương tốt cho cấp dưới. 

Tăng cường chỉ đạo việc xây dựng, củng cố các tổ chức cơ sở đảng trong cả nước. Nâng cao chất lượng của chi bộ và đảng bộ cơ sở về mọi mặt, khẩn trương đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, kiện toàn các đảng uỷ và chi uỷ, làm tốt công tác phát triển Đảng và kiên quyết đưa những người không đủ tư cách đảng viên ra khỏi Đảng. 

Các cấp uỷ đảng và cơ quan chính quyền phải thi hành đến nơi đến chốn Nghị quyết 228 của Bộ Chính trị. Tập trung bộ máy kiểm tra của Đảng cùng với cơ quan thanh tra và các cơ quan có chức năng điều tra, xét xử của Nhà nước về thực hiện có kết quả tốt, có tác dụng rõ rệt ngay trong năm 1978. Nghiêm khắc thi hành kỷ luật của Đảng và pháp luật của Nhà nước đối với những phần tử ăn cắp của công, móc ngoặc, hối lộ, lợi dụng chức vụ ức hiếp quần chúng, vi phạm nghiêm trọng pháp chế xã hội chủ nghĩa và quyền dân chủ thông thường của người dân và quyền làm chủ tập thể của nhân dân lao động, bất kỳ những phần tử ấy ở trong tổ chức của Đảng hoặc chính quyền, trong quân đội, công an hoặc đoàn thể quần chúng. Động viên dư luận mạnh mẽ lên án, xoá bỏ các hiện tượng làm ăn phi pháp, buộc những người có sức lao động phải lao động, ngăn chặn và bài trừ những hiện tượng tiêu cực trong xã hội, đồng thời đẩy mạnh việc nêu gương người tốt, việc tốt. 

Phát động và tổ chức tốt lực lượng đảng viên, đoàn viên thanh niên và nhân dân tham gia bảo vệ trật tự an ninh ở đường phố và xã, ấp. 

3. Tiếp tục cải tiến và tăng cường sự lãnh đạo, chỉ đạo công tác kinh tế của Đảng và Nhà nước 

Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị và Ban Bí thư cần dành phần lớn thời gian trong chương trình hoạt động của mình để giải quyết các vấn đề kinh tế, tài chính. 

Trước mắt, sự lãnh đạo của Bộ Chính trị phải tập trung nhiều hơn, mạnh hơn nữa vào việc giải quyết một cách toàn diện và kịp thời các vấn đề quan trọng về xây dựng các kế hoạch kinh tế, về chính sách kinh tế, về tổ chức bộ máy quản lý kinh tế, về bố trí cán bộ lãnh đạo và quản lý để bảo đảm thực hiện thắng lợi các nhiệm vụ kinh tế. 

Ban Bí thư cần tăng cường đôn đốc và kiểm tra các ngành các cấp thực hiện nghị quyết của Đảng, tăng cường lãnh đạo công tác tư tưởng, công tác xây dựng đảng, công tác cán bộ, công tác vận động quần chúng, chỉ đạo chặt chẽ cuộc vận động tăng năng suất lao động, thực hành tiết kiệm và chống các hiện tượng tiêu cực, hư hỏng trong Đảng và trong nhân dân. Các cấp uỷ đảng phải đặc biệt nắm vững công tác xây dựng tổ chức cơ sở của Đảng gắn chặt với nhiệm vụ kinh tế và văn hoá, dựa trên phong trào cách mạng của quần chúng mà củng cố chi bộ, rèn luyện đảng viên, phát triển Đảng và đưa những người không đủ tư cách đảng viên ra khỏi Đảng. 

Hội đồng Chính phủ với bộ phận thường trực là Thường vụ Hội đồng Chính phủ cần tập trung vào việc chỉ đạo xây dựng kế hoạch và tổ chức thực hiện kế hoạch kinh tế, tổ chức hiệp đồng tác chiến của các lực lượng trên mặt trận kinh tế, điều hành công việc sát sao, giải quyết kịp thời các mắc mứu của các ngành các cấp, tổ chức việc nghiên cứu khẩn trương và ban hành kịp thời các chính sách và chế độ quản lý kinh tế, dự thảo những dự án pháp luật đề nghị với Quốc hội và Uỷ ban Thường vụ Quốc hội. 

Để phát huy hiệu quả lãnh đạo, chỉ đạo của Trung ương Đảng và Chính phủ trong lĩnh vực kinh tế, phải tiếp tục xây dựng và cải tiến chế độ làm việc.ở tất cả các cấp và các ngành, phải thực hiện nghiêm chỉnh nguyên tắc tập trung dân chủ, chế độ làm việc tập thể và chế độ trách nhiệm cá nhân, chế độ thủ trưởng và chế độ kỷ luật trong công tác quản lý kinh tế, chế độ chuẩn bị chu đáo, đúng thời hạn đã quy định để cơ quan có thẩm quyền có cơ sở quyết định đúng đắn, kịp thời và dứt khoát các vấn đề kinh tế, kỹ thuật quan trọng. 

Phải đặc biệt đề cao chế độ trách nhiệm cá nhân. Mỗi khi quyết định về chủ trương, phải quyết định ngay các biện pháp cụ thể để thực hiện, định rõ trách nhiệm của các tổ chức và các cá nhân, định rõ thời gian phải hoàn thành. Mỗi công việc đều phải có người chịu trách nhiệm rõ ràng, kết quả công việc tốt hay là xấu phải được kiểm tra và kết luận dứt khoát. 

Việc thực hiện chế độ trách nhiệm cá nhân, chế độ kỷ luật phải đi đôi với việc chấn chỉnh, kiện toàn bộ máy lãnh đạo và quản lý, giải quyết tốt vấn đề cán bộ trong quản lý kinh tế. 

Kiên quyết điều chỉnh, tăng cường cán bộ cho các ngành kinh tế; bố trí những cán bộ thực sự có ý thức trách nhiệm và có năng lực, biết lắng nghe ý kiến của quần chúng và dám giải quyết, dám chịu trách nhiệm phụ trách những ngành kinh tế, những địa phương và cơ sở kinh tế quan trọng; kịp thời thay thế những cán bộ không đảm đương nổi nhiệm vụ. 

Từ đầu năm 1978, mở những lớp bồi dưỡng ngắn hạn có tính chất tập huấn về cải tiến quản lý kinh tế cho đội ngũ cán bộ lãnh đạo và quản lý, chú trọng các lớp của bộ trưởng, thứ trưởng, chủ tịch và phó chủ tịch tỉnh, cán bộ lãnh đạo cấp huyện, giám đốc xí nghiệp. Bằng cách mở lớp liên tục và cử cán bộ luân phiên đi học, bảo đảm trong một thời gian ngắn, mọi cán bộ thuộc diện nói trên đều được qua huấn luyện về quản lý kinh tế. 

Việc cải tiến tác phong lãnh đạo và chế độ làm việc của bộ máy đảng và nhà nước phải nhằm bảo đảm cho guồng máy kinh tế từ trung ương đến cơ sở hoạt động có hiệu quả cao, công việc được giải quyết nhanh, không qua nhiều tầng nhiều nấc trung gian. Tăng cường hệ thống thông tin về kinh tế từ cơ sở lên trung ương để nắm chắc tình hình, kịp thời phát hiện và giải quyết các vấn đề về sản xuất và đời sống. Thường vụ Hội đồng Chính phủ và các cơ quan nhà nước ở trung ương phải làm việc trực tiếp nhiều hơn nữa với các tỉnh và thành phố, phải giải quyết nhanh, trả lời nhanh các yêu cầu, kiến nghị của các địa phương và cơ sở. Trong công tác chỉ đạo cụ thể, phải thực hiện đúng phương hướng tăng cường trách nhiệm quản lý và quyền chủ động của các bộ, uỷ ban, tổng cục, các uỷ ban nhân dân địa phương và các đơn vị cơ sở. 

Ban Bí thư, Thường vụ Hội đồng Chính phủ và các ngành ở trung ương, các tỉnh uỷ, thành uỷ cần làm tốt hơn việc chỉ đạo trọng điểm, trực tiếp chỉ đạo cụ thể một số huyện và đơn vị cơ sở để đạt cho được kết quả vững chắc, có những kết luận rõ ràng về ưu điểm và khuyết điểm của các trọng điểm và các đơn vị điển hình, rút được những kinh nghiệm tốt cho sự chỉ đạo chung. Tăng cường công tác kiểm tra việc chấp hành chỉ thị, nghị quyết của Đảng và Chính phủ ở tất cả các ngành, các cấp, đặc biệt chú ý hình thức cấp trên kiểm tra trực tiếp tại chỗ. Việc kiểm tra phải nhằm đạt hiệu quả thiết thực, rõ rệt, có kết luận chính xác, xử lý kịp thời, đi tới nhanh chóng phát huy ưu điểm, sửa chữa khuyết điểm, cải tiến công tác, đẩy mạnh sản xuất. 

Hội nghị toàn thể lần thứ ba của Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khoá IV) nhiệt liệt biểu dương đồng bào, chiến sĩ và cán bộ cả nước đang nỗ lực thi hành Nghị quyết Đại hội Đảng và Nghị quyết Hội nghị lần thứ hai của Trung ương, đang phấn đấu hết sức mình để đạt năng suất lao động và hiệu quả kinh tế ngày càng cao, đang kiên cường tiến lên giành thắng lợi mới trên mặt trận lương thực, trên mọi mặt hoạt động sản xuất và công tác. 

Hội nghị Trung ương lần này đặc biệt tỏ thái độ trân trọng đối với những nhân tố tích cực và những tấm gương sáng về tinh thần tự lực tự cường, dám nghĩ, dám làm theo đường lối của Đảng, về ý thức tôn trọng và phát huy quyền làm chủ tập thể xã hội chủ nghĩa của nhân dân lao động. 

Đứng trước những nhiệm vụ kinh tế cấp bách của năm 1978, nhằm những mục tiêu quan trọng mà Đại hội Đảng đã đề ra, toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta hãy hăng hái vươn lên, đạt những thành tích mới trong công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa yêu quý của chúng ta! 

Các cấp uỷ và các tổ chức đảng, các cơ quan chính quyền các cấp hãy luôn luôn ghi lòng tạc dạ và nghiêm chỉnh làm theo lời dạy của Chủ tịch Hồ Chí Minh vĩ đại: "Đảng phải có kế hoạch thật tốt để phát triển kinh tế và văn hoá nhằm không ngừng nâng cao đời sống của nhân dân"! Phải ra sức phát huy ưu điểm, có thái độ nghiêm khắc đối với khuyết điểm và quyết tâm khắc phục khuyết điểm, nêu cao kỷ luật trong sản xuất và công tác. 

Tất cả cho sản xuất, tất cả để xây dựng chủ nghĩa xã hội, tất cả vì Tổ quốc giàu mạnh, vì hạnh phúc của nhân dân! 

T/M Ban Chấp hành Trung ương
Tổng Bí thư
Lê Duẩn



Lưu tại Kho Lưu trữ 
Trung ương Đảng.

Phản hồi

Thông tin người gửi phản hồi

Các tin khác

Chỉ thị của Ban Bí thư về công tác an toàn, vệ sinh lao động trong tình hình mới

(ĐCSVN) - Ngày 19/3/2024, đồng chí Trương Thị Mai ký ban hành Chỉ thị số 31-CT/TW về tiếp tục tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác an toàn, vệ sinh lao động trong tình hình mới.

Sớm đưa vào sử dụng các công trình, dự án hạ tầng cấp bách, trọng điểm về giao thông

(ĐCSVN) - Bộ Chính trị yêu cầu tập trung đầu tư, sớm đưa vào sử dụng các công trình, dự án hạ tầng cấp bách, trọng điểm về giao thông đường bộ, đường sắt, đường biển, đường thuỷ nội địa, đường hàng không kết nối các địa phương, vùng và khu vực, quốc tế.

Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác thực hành tiết kiệm, chống lãng phí

(ĐCSVN) - Các cấp uỷ, tổ chức đảng, chính quyền, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các tổ chức chính trị - xã hội cần quán triệt, nâng cao nhận thức, tổ chức thực hiện nghiêm chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước về công tác thực hành tiết kiệm, chống lãng phí; xem đây là nhiệm vụ trọng tâm, thường xuyên của cả hệ thống chính trị và xã hội; là văn hoá ứng xử của mỗi cán bộ, đảng viên, công chức, viên chức và mỗi người dân, nhất là người đứng đầu, cán bộ lãnh đạo, quản lý.

Bộ Chính trị ban hành quy định phòng chống tham nhũng, tiêu cực trong điều tra, xét xử

(ĐCSVN) – Ngày 27/10/2023, Bộ Chính trị đã ban hành Quy định số 132-QĐ/TW về kiểm soát quyền lực, phòng, chống tham nhũng, tiêu cực trong hoạt động điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án.

Liên kết website