Bài phát biểu của đồng chí Tổng Bí thư Lê Duẩn tại Hội nghị lần thứ 10 Ban Chấp hành Trung ương Đảng, ngày 12/10/1981

Thưa các đồng chí Trung ương, 

Hơn 5 năm qua, dưới ánh sáng đường lối Đại hội lần thứ IV của Đảng và nghị quyết của các hội nghị Trung ương, nhân dân cả nước ta đã nỗ lực phấn đấu giành được những thắng lợi rất to lớn. Song sự nghiệp của chúng ta đang đứng trước rất nhiều khó khăn, đặc biệt là tình hình kinh tế và đời sống hiện nay rất nghiêm trọng. 

Đại hội lần thứ V của Đảng ta có nhiệm vụ kiểm điểm lại việc chấp hành đường lối của Đại hội IV, đánh giá cho đúng thực trạng kinh tế - xã hội hiện nay, phân tích rõ nguyên nhân của tình hình, căn cứ vào đó, vạch ra những mục tiêu kinh tế - xã hội trong thời kỳ 1981 - 1985 kéo dài cho đến năm 1990, đề ra những chủ trương, biện pháp đưa nền kinh tế thoát khỏi khó khăn và tiến lên một cách vững chắc, để chuẩn bị cho đại hội, dự kiến sẽ họp ba hội nghị toàn thể của Ban Chấp hành Trung ương. Hội nghị lần thứ 10 này sẽ thảo luận và góp ý kiến vào dự thảo Báo cáo chính trị và dự thảo Báo cáo về xây dựng Đảng. 

Dự thảo Báo cáo chính trị được chuẩn bị theo tinh thần để làm sáng tỏ và giải đáp trúng những vấn đề do cuộc sống đặt ra. Trong dự thảo, sau khi đánh giá kết quả thực hiện Nghị quyết của Đại hội IV trong 5 năm qua, Bộ Chính trị đã tự phê bình những sai lầm, khuyết điểm trong việc đánh giá tình hình khi bước vào kế hoạch 1976- 1980, trong việc cụ thể hoá và chấp hành đường lối, trong công tác quản lý kinh tế và xã hội và trong việc tổ chức thực hiện. Dự thảo vạch ra nhiệm vụ của cách mạng Việt Nam trong thời gian sắp tới. Về mặt kinh tế, dự thảo vạch ra chiến lược kinh tế trong chặng đầu của thời kỳ quá độ và phương hướng nhiệm vụ của thời kỳ 1981- 1985. Tuy nhiên, về những chủ trương, biện pháp để ứng phó với tình hình kinh tế trước mắt, thì dự thảo không đề ra cụ thể; bởi vì cho đến nay, Thường vụ Hội đồng Bộ trưởng vẫn chưa tính toán xong kế hoạch nhà nước năm 1982 và 5 năm; vả chăng, đối với các vấn đề như ăn, mặc, nguyên vật liệu để sản xuất hàng tiêu dùng, sắp xếp lại xây dựng cơ bản, đẩy mạnh xuất khẩu, cung ứng điện, than, bảo đảm giao thông vận tải, thiết lập trật tự mới trên mặt trận phân phối lưu thông, v.v. thì phải nghiên cứu chuyên đề, lập phương án riêng từng mặt, rồi lại làm phương án kinh tế tổng hợp, thì mới tìm ra được những giải pháp cụ thể. Vì vậy, ở hội nghị này chỉ mới trình ra Trung ương những phương hướng và nhiệm vụ để các đồng chí thảo luận. 

Hôm nay, tôi xin trình bày thêm một vài vấn đề trong Báo cáo chính trị, với hy vọng góp phần vào việc thảo luận của hội nghị chúng ta. 

I - Về nhiệm vụ sẵn sàng chiến đấu bảo vệ Tổ quốc 

Nước ta đang ở trong tình hình vừa có hoà bình vừa có thể xẩy ra chiến tranh. Hội nghị lần thứ tư của Trung ương họp năm 1978 đã nhận định như vậy. Hiện nay và trong nhiều năm sắp tới, tình hình nước ta cũng sẽ như vậy. Đó là một nhận định rất quan trọng... 

Như vậy, nhân dân ta càng phải nắm thật vững và làm tốt hai nhiệm vụ chiến lược: 

Một là, xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội. 

Hai là, bảo đảm cho đất nước luôn luôn sẵn sàng chiến đấu và đánh thắng bất kỳ quy mô chiến tranh nào của địch. 

Nhiệm vụ sẵn sàng chiến đấu bảo vệ Tổ quốc cùng với nghĩa vụ quốc tế mà chúng ta đang gánh vác đối với hai nước Lào và Campuchia, đặt đất nước ta trước những khó khăn rất lớn. Một phần rất quan trọng nhân lực và của cải vật chất, tất nhiên bị hút vào công cuộc quốc phòng, khiến cho những mất cân đối trong kinh tế càng thêm gay gắt. Mặc dù vậy, chúng ta không thể lơi lỏng nhiệm vụ củng cố quốc phòng, sẵn sàng chiến đấu vì đây là việc sống còn của cả dân tộc. 

Hơn hai năm nay với sự giúp đỡ của Liên Xô, công cuộc phòng thủ đất nước ta đã được tăng cường một bước quan trọng, nhất là ở các tuyến dọc biên giới phía Bắc. Lực lượng vũ trang của chúng ta, cả quân chủ lực và quân địa phương, được trang bị mạnh hơn và được huấn luyện kỹ hơn so với khi kháng chiến chống Mỹ. Tất nhiên, còn có những nhược điểm và khuyết điểm, có mặt khuyết điểm nghiêm trọng phải sửa chữa rất kiên quyết, rất nghiêm túc, song chúng ta có thực tế để khẳng định một cách chắc chắn rằng hiện nay chúng ta có thế chiến lược tốt hơn bao giờ hết để bảo vệ Tổ quốc, rằng quân và dân ta có đủ tinh thần, lực lượng và biết cách đánh thắng bọn xâm lược mới, nếu chúng liều lĩnh gây chiến tranh chống nhân dân ta một lần nữa. 

Về cách đánh, chúng ta có bài học thành công trong kháng chiến chống Mỹ, cứu nước. Đó là bài học mà Đại hội lần thứ IV của Đảng đã tổng kết, nay thấy cần nhắc lại để chúng ta nắm vững và vận dụng một cách thuần thục khi tiến hành chiến tranh nhân dân bảo vệ Tổ quốc. 

Vì sao ta đánh thắng được đế quốc Mỹ? 

Ta thắng mỹ là do Đảng ta có đường lối cách mạng và phương pháp cách mạng đúng đắn và sáng tạo. Đường lối cách mạng là giương cao hai ngọn cờ độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội. Đó là nguồn gốc mọi sức mạnh của cách mạng nước ta. Đó cũng là chân lý, là sức mạnh của thời đại. Phương pháp cách mạng là vận dụng chiến lược tiến công đồng thời biết thắng từng bước. Với đường lối và phương pháp đó, Đảng và nhân dân ta đã pháp huy được lực lượng tổng hợp của cả nước ta và kết hợp lực lượng của cách mạng Việt Nam với lực lượng cách mạng của thời đại mới, tạo ra được sức mạnh tổng hợp lớn hơn sức mạnh của Mỹ và tay sai trên chiến trường để đánh thắng chúng. 

Bài học về đường lối và phương pháp cách mạng của Đảng ta trong kháng chiến chống Mỹ cũng tức là bài học về tạo ra sức mạnh tổng hợp của chiến tranh nhân dân cứu nước và giữ nước.Trong chiến tranh kẻ nào mạnh hơn thì kẻ đó thắng, tuyệt nhiên không có một sự tình cờ nào. Nói mạnh, yếu ở đây là nói so sánh lực lượng một cách tổng hợp, trong không gian và thời gian nhất định, chứ không chỉ so sánh về trang bị kỹ thuật của quân đội, hoặc chỉ xét thuần về phương diện đấu tranh quân sự, kinh tế. Lãnh đạo chiến tranh, nói cho cùng, là tạo ra cho được sức mạnh tổng hợp mạnh hơn đối phương để đánh thắng đối phương. 

Thật vậy, nếu so sánh Mỹ với ta, thì đế quốc Mỹ mạnh hơn ta hàng trăm, thậm trí hàng nghìn lần về kinh tế, về số lượng và chất lượng vũ khí, khí tài quân sự, khi chiến tranh mới bắt đầu. Nhưng Mỹ yếu hơn ta một cách tuyệt đối về chính trị, về văn hoá đồng thời cũng kém hơn ta về khoa học và nghệ thuật quân sự. 

Về chính trị, chiến tranh của Mỹ là chiến tranh xâm lược, chiến tranh phi nghĩa; đi liền theo đó là văn hoá thực dân, văn hoá biến con người thành cái máy, thành con thú, thành tay sai và nô lệ. Chiến tranh của ta là vì độc lập dân tộc, vì chủ nghĩa xã hội, là chiến tranh chính nghĩa, hợp lòng người, hợp trào lưu của thời đại. Văn hoá của ta là văn hoá yêu nước, chống đế quốc, văn hoá nhân bản và vì con người. Với nền chính trị và văn hoá như vậy, chúng ta đã tận dụng được sức mạnh của thời đại, tranh thủ được sự giúp đỡ của anh em, bầu bạn trên thế giới để khắc phục chỗ yếu về kinh tế và về trang thiết bị kỹ thuật của bộ đội ta. 

Khoa học, nghệ thuật chiến tranh nhân dân của ta ưu việt hơn khoa học và nghệ thuật chiến tranh xâm lược thực dân mới của Mỹ. Khoa học, nghệ thuật quân sự của Mỹ chỉ dựa vào sức mạnh quân sự và hoàn toàn ỷ lại vào vũ khí, vào kỹ thuật. Trái lại, nhờ vận dụng khoa học quân sự của chủ nghĩa Mác - Lênin và kinh nghiệm tiên tiến của quân đội các nước anh em, nhờ biết kế thừa và phát huy tài thao lược của tổ tiên thuở trước, Đảng ta đã sáng tạo ra một khoa học và nghệ thuật quân sự mang sắc thái độc đáo Việt Nam, phù hợp với chiến trường Việt Nam và phát huy những đức tính của con người Việt Nam. Cái cốt lõi của khoa học và nghệ thuật quân sự của ta là thực hành chiến lược tiến công. Khi Mỹ mới vào miền Nam gây chiến tranh xâm lược, ta không rút lui, không phòng ngự, mà ta tiến công theo cách của ta. Trên phạm vi cả nước, ta đẩy mạnh cách mạng ở miền Nam, bảo vệ và phòng thủ miền Bắc. Trên tiền tuyến miền Nam ta vừa tiến công vừa phòng ngự, tiến công bằng đấu tranh quân sự và đấu tranh chính trị song song, bằng đấu tranh "hai chân, ba mũi" với mức độ thích hợp trên ba vùng chiến lược: nông thôn đồng bằng, rừng núi và thành thị; bằng cách căng địch ra, chia cắt và bao vây địch lại để đánh; bằng thực hành phương châm: làm chủ để tiêu diệt địch, tiêu diệt địch để làm chủ. Trong quá trình đánh Mỹ, ta còn dùng phản công để tiến công, bẻ gãy các mũi hành quân tìm diệt của địch, đánh ngay vào sào huyệt và đầu não của Mỹ - ngụy. Khi cách mạng đã có ưu thế áp đảo và có thời cơ, thì lập tức chuyển sang tiến công, bằng cả sức mạnh quân sự và sức mạnh chính trị, đánh tan rã toàn bộ quân địch, bằng những chiến dịch tiến công liên tục, dồn dập, để giành thắng lợi hoàn toàn. 

Chúng ta còn có bài học lớn về xây dựng hậu phương, "Hậu phương là nhân tố thường xuyên quyết định thắng lợi của chiến tranh ". Trong những năm chống Mỹ, miền Nam là tiền tuyến, miền Bắc là hậu phương. Miền Bắc tiến hành cách mạng xã hội chủ nghĩa để làm cơ sở cho sự nghiệp đấu tranh thống nhất nước nhà. Miền Bắc là nơi cung cấp sức người, sức của không bao giờ cạn cho tiền tuyến miền Nam. Làm được điều đó là nhờ có chế độ làm chủ tập thể sau khi thiết lập quan hệ sản xuất mới, dưới hai hình thức sở hữu: toàn dân và tập thể. 

Ngày nay, trong việc tiến hành chiến tranh nhân dân bảo vệ Tổ quốc... chúng ta cần nắm vững và vận dụng sáng tạo những bài học về phát huy sức mạnh tổng hợp, về thực hành chiến lược tiến công, về xây dựng và củng cố hậu phương. Với chế độ làm chủ tập thể xã hội chủ nghĩa đang được thiết lập và ngày càng củng cố, chúng ta đang xây dựng và nhất định sẽ xây dựng được thế trận chiến tranh nhân dân làm chủ vững chắc, tiến công mạnh mẽ. 

II- Mấy vấn đề trong đường lối cách mạng xã hội chủ nghĩa và đường lối kinh tế ở nước ta 

Đảng ta là một đảng theo chủ nghĩa Mác - Lênin. Vì vậy, trong suốt quá trình lãnh đạo cách mạng Việt Nam, Đảng ta luôn luôn làm theo những lời dạy của những bậc thày của chúng ta là Mác, Ăngghen và Lênin. Đồng thời, Đảng ta luôn luôn phải sáng tạo, bởi vì chân lý là cụ thể. Chúng ta cố gắng vận dụng chủ nghĩa Mác - Lênin cho sát hợp với hoàn cảnh cụ thể của nước ta. Bản chất cách mạng và khoa học của chủ nghĩa Mác - Lênin đòi hỏi chúng ta như thế. 

Mùa Xuân 1975, ngay sau toàn thắng của sự nghiệp chống Mỹ, cứu nước, Đảng ta cho rằng giai đoạn cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân trong cả nước đã kết thúc; và Đảng ta đề ra một chiến lược mới cho cách mạng Việt Nam: chiến lược cách mạng xã hội chủ nghĩa, đưa cả nước độc lập, thống nhất cùng tiến lên chủ nghĩa xã hội. 

Chuyển chiến lược cách mạng như vậy là hoàn toàn làm đúng theo chủ nghĩa Mác - Lênin. Chúng ta biết trước đây Mác đã kết luận rằng cách mạng xã hội chủ nghĩa sẽ nổ ra ở những nước tư bản phát triển cao nhất, đến mức mà ở đó quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa mâu thuẫn gay gắt với tính chất của lực lượng sản xuất, không còn chứa đựng nổi những lực lượng sản xuất mới và đòi hỏi phải được phá bỏ, để thay thế bằng quan hệ sản xuất mới phù hợp hơn, quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa. Quy luật ấy là một sự phát hiện rất vĩ đại của Mác. Nhưng sau đó, căn cứ vào điều kiện mới của lịch sử, khi chủ nghĩa tư bản đã chuyển thành chủ nghĩa đế quốc, thì Lênin, người học trò lỗi lạc nhất của Mác, đã kết luận rằng cách mạng xã hội chủ nghĩa không nhất thiết nổ ra trước tiên ở nước tư bản phát triển cao nhất như Mác đã dự kiến, mà có thể nổ ra và thắng lợi trước tiên ở một số nước, thậm chí ở một nước tư bản có trình độ phát triển trung bình, hoặc có khi còn thấp. Đó là một quy luật mới, nhưng cũng hoàn toàn mácxít, một phát hiện vĩ đại của Lênin. Sau thắng lợi của Cách mạng xã hội chủ nghĩa Tháng Mười Nga, Lênin lại đề ra luận điểm nổi tiếng: với sự giúp đỡ của giai cấp vô sản ở những nước tiên tiến, những nước lạc hậu cũng có thể tiến lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa. Chính chúng ta đã và đang làm đúng luận điểm này của Lênin. 

Chuyển chiến lược cách mạng như vậy cũng là hoàn toàn theo đúng cương lĩnh chính trị của Đảng từ năm 1930, trong đó đã đề ra chủ trương: sau khi cách mạng chống đế quốc, chống phong kiến giành được thắng lợi, thì "tranh đấu thẳng lên chủ nghĩa xã hội, bỏ qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa". 

Chuyển chiến lược cách mạng như vậy cũng là hoàn toàn phù hợp với đòi hỏi khách quan của tình hình, với xu thế tất yếu của cách mạng, với nguyện vọng của nhân dân, không thể nào khác được. Cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân ở nước ta ngay từ đầu do Đảng ta lãnh đạo. Ngay từ đầu, cuộc cách mạng ấy được tiến hành dưới hai ngọn cờ độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội. Nhân dân ta kiên cường và bền bỉ đấu tranh chống mấy đế quốc, không chỉ vì độc lập của Tổ quốc, mà còn vì chủ nghĩa xã hội nữa. Khi sự nghiệp chống Mỹ, cứu nước giành được toàn thắng, thì giai đoạn cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân trong cả nước kết thúc, cách mạng nước ta chuyển sang một giai đoạn mới. Giai đoạn cách mạng mới ấy, lẽ đương nhiên, chỉ có thể là cách mạng xã hội chủ nghĩa, là cả nước tiến lên chủ nghĩa xã hội, không thể có con đường nào khác, cũng không thể có một giai đoạn trung gian nào nữa. 

Chuyển sang giai đoạn cách mạng xã hội chủ nghĩa, câu hỏi lớn đặt ra trước Đảng ta và nhân dân ta là: làm thế nào để đưa đất nước ta tiến thẳng lên chủ nghĩa xã hội? Đặc biệt là câu hỏi: làm thế nào tạo ra được nền sản xuất lớn xã hội chủ nghĩa, là nền tảng vật chất vững chắc cho chủ nghĩa xã hội, cũng là cơ sở vật chất kỹ thuật vững chắc cho công cuộc bảo vệ Tổ quốc? 

Như chúng ta đã nói, Mác vạch ra rằng chủ nghĩa xã hội chỉ có thể ra đời khi đã có nền đại công nghiệp cơ khí hoá. Đó là quy luật khách quan của lịch sử xã hội loài người. Sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân là, dưới sự lãnh đạo của chính đảng của mình, tiến hành cách mạng lật đổ chế độ tư bản, xoá bỏ quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa, thiết lập quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa, làm cho quan hệ sản xuất phù hợp với lực lượng sản xuất đã được tạo ra trong lòng chế độ tư bản. Cùng với việc ấy là xây dựng kiến trúc thượng tầng mới cho phù hợp với hạ tầng cơ sở mới. Mác nêu rõ rằng để thực hiện sự chuyển biến cách mạng ấy, từ xã hội tư bản sang xã hội cộng sản, cần có một thời kỳ quá độ, thời kỳ quá độ ấy không thể là gì khác ngoài nền chuyên chính cách mạng của giai cấp vô sản. 

Lênin đã nói đến khả năng tiến hành cách mạng xã hội chủ nghĩa trước tiên ở một nước tư bản chủ nghĩa có trình độ phát triển trung bình, thậm chí thấp - và cuộc Cách mạng xã hội chủ nghĩa Tháng Mười Nga vĩ đại đã chứng thực sự đúng đắn của luận điểm ấy. Nhưng mặt khác, Lênin cũng khẳng định quy luật lịch sử khách quan mà Mác đã phát hiện là quy luật cần được tuân thủ nghiêm ngặt. Do đó, Lênin nhấn mạnh rằng cơ sở vật chất - kỹ thuật duy nhất của chủ nghĩa xã hội là nền đại công nghiệp cơ khí hoá. Chỉ có điều khác là nếu Mác nói rằng chủ nghĩa xã hội chỉ có thể xây dựng trên cơ sở của nền đại công nghiệp cơ khí hoá mà chủ nghĩa tư bản đã tạo ra trong lòng nó rồi, thì Lênin nói rằng, sau khi có được chính quyền, thiết lập được chuyên chính vô sản, ở trong một nước chủ nghĩa tư bản phát triển ở mức trung bình như nước Nga, thì giai cấp vô sản phải tạo ra nền đại công nghiệp cơ khí hoá ấy, thông qua công cuộc công nghiệp hoá xã hội chủ nghĩa. Theo tinh thần ấy, Lênin đã nêu ra công thức nổi tiếng: chủ nghĩa cộng sản là chính quyền xôviết cộng với điện khí hoá cả nước. Trong những năm lãnh đạo nhà nước xã hội chủ nghĩa đầu tiên, Lênin đề ra kế hoạch xây dựng chủ nghĩa xã hội, mà những nét chính có thể tóm tắt là: nắm vững nội dung toàn diện của chuyên chính vô sản (chính trị, kinh tế, văn hoá, tư tưởng, hoà bình, bạo lực, cưỡng bức, giáo dục, v.v.), thực hiện công nghiệp hoá xã hội chủ nghĩa nước nhà, đưa nông dân vào con đường chủ nghĩa xã hội bằng hợp tác hoá, kế hoạch hoá sự phát triển nền kinh tế quốc dân, sử dụng quan hệ hàng hoá - tiền tệ để xây dựng chủ nghĩa xã hội, tiến hành cách mạng văn hoá. Về vấn đề tiến lên chủ nghĩa xã hội của những nước lạc hậu bỏ qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa, tuy Lênin đã đề ra luận điểm về khả năng ấy với điều kiện cần thiết là có sự giúp đỡ của giai cấp vô sản các nước tiên tiến; song Lênin chưa có điều kiện để vạch ra quy luật của quá trình tiến lên ấy. 

Sau khi Lênin qua đời, Đảng Cộng sản Liên Xô đứng đầu là Xtalin đã kiên quyết thực hiện di huấn của Lênin, lãnh đạo nhân dân Liên Xô xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội ở Liên Xô. Những quy luật kinh tế của xã hội xã hội chủ nghĩa mới được nghiên cứu nhiều và tổng kết ở Liên Xô sau chiến tranh; bản thân Xtalin cũng tham gia tích cực vào việc nghiên cứu và tổng kết ấy. Từ đó đến nay, hệ thống các quy luật của chủ nghĩa xã hội, trong đó có quy luật kinh tế cơ bản do Xtalin nêu lên năm 1951, đang tiếp tục được xem xét, bổ sung và hoàn chỉnh. Sau Chiến tranh thế giới lần thứ hai, hệ thống xã hội chủ nghĩa thế giới được hình thành, và đến nay, công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội đã có gần 65 năm kinh nghiệm ở Liên Xô, 35 năm kinh nghiệm ở nhiều nước khác. Những kinh nghiệm này đã được từng bước tổng kết. Năm 1957, Văn kiện của Hội nghị các Đảng Cộng sản và Công nhân ở Mátxcơva đã nêu 9 điểm có tính chất như những quy luật của cách mạng xã hội chủ nghĩa. 

Tuy nhiên, các nước anh em đã bước vào thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội với một trình độ kinh tế xuất phát khác hẳn nước ta; hoặc từ một nền sản xuất tư bản chủ nghĩa phát triển cao, như Tiệp Khắc và Cộng hoà dân chủ Đức; hoặc từ một nền sản xuất tư bản chủ nghĩa phát triển trung bình, có trường hợp thấp, như nước Nga năm 1917 và một số nước Đông Âu khác năm 1945. 

Đặc điểm cơ bản của cách mạng xã hội chủ nghĩa ở nước ta là: từ một xã hội mà nền kinh tế còn phổ biến là sản xuất nhỏ, tiến thẳng lên chủ nghĩa xã hội. Đó là một tình hình rất đặc biệt, có thể nói là chưa có tiền lệ trong lịch sử. Cái khó nhất cũng là từ đặc điểm cơ bản ấy. Tất nhiên còn có khó khăn do 30 năm chiến tranh, khó khăn do tình hình quốc tế phức tạp,... nhưng cái khó cơ bản nhất vẫn là sản xuất nhỏ. Như đã nói, chủ nghĩa Mác - Lênin đã phát hiện quy luật: chủ nghĩa xã hội chỉ có thể tồn tại trên một nền sản xuất lớn với kỹ thuật hiện đại. Nước ta có khả năng tiến từ sản xuất nhỏ lên chủ nghĩa xã hội, nhưng sự phát triển của nước ta cũng phải phục tùng quy luật lớn ấy của lịch sử: chỉ khi nào nước ta có một nền sản xuất lớn dựa trên một nền kỹ thuật hiện đại thì nước ta mới trở thành một nước xã hội chủ nghĩa với đầy đủ ý nghĩa của nó. Mà muốn có nền sản xuất lớn ấy thì phải tiến hành công nghiệp hoá xã hội chủ nghĩa. Mà muốn công nghiệp hoá thì phải có tích luỹ. 

Nhưng nói sản xuất nhỏ là nói năng suất lao động xã hội rất thấp. Với năng suất lao động xã hội thấp ấy, xã hội ta sản xuất chưa đủ tiêu dùng, tích luỹ hoàn toàn không có. 

Trong lịch sử trước kia, sản xuất nhỏ tự phát chuyển lên sản xuất lớn tư bản chủ nghĩa, phải trải qua một thời gian dài hàng thế kỷ. Đó là một quá trình bóc lột và tước đoạt thậm tệ nhân dân lao động, một quá trình đầy rẫy những tội ác ghê tởm mà giai cấp tư sản đã gây ra trong nước và đối với nhiều dân tộc khác, để có nguồn tích luỹ cần thiết. Nước ta khác hẳn, do nhân dân lao động làm chủ. Những phương pháp tàn bạo và dã man mà giai cấp tư sản đã dùng để có được tích luỹ không thể đem ra áp dụng đối với nước ta. Trái lại, chúng ta phải từng bước cải thiện đời sống của nhân dân, hơn nữa lại phải đáp ứng những yêu cầu hết sức cấp bách của đời sống nhân dân sau chiến tranh, lại còn phải gánh vác những chi phí quốc phòng rất lớn để bảo vệ vững chắc đất nước. Và cùng với những việc ấy, chúng ta nhất thiết phải tạo ra được tích luỹ từ nội bộ nền kinh tế. Vượt qua những khó khăn to lớn chồng chất, đảm nhận những nhiệm vụ lịch sử nặng nề như vậy, chúng ta giải quyết như thế nào? 

Cố nhiên, nói rằng nước ta tiến thẳng lên chủ nghĩa xã hội từ một nền kinh tế còn phổ biến là sản xuất nhỏ, đó là nói một cách tổng quát, cốt nêu bật bản chất có tính đặc trưng nhất, để từ đó tìm ra các quan hệ cơ bản, các quy luật của con đường tiến lên; nói như thế không hề có ý phủ nhận rằng nền kinh tế nước ta sau khi cả nước độc lập và thống nhất là một tổng thể kinh tế phức tạp, trong đó có những yếu tố của sản xuất lớn xã hội chủ nghĩa và tư bản chủ nghĩa. Đặc điểm "sản xuất nhỏ còn phổ biến" thể hiện như thế nào, chúng ta đã phân tích trong Báo cáo chính trị trình bày tại Đại hội IV. 

Trong lịch sử trước đây, sản xuất nhỏ chỉ có hai khả năng: hoặc dẫm chân tại chỗ, hoặc phát triển một cách tự phát thành sản xuất lớn tư bản chủ nghĩa. Thời đại ngày nay có những yếu tố mới, trong đó những nét nổi bật nhất là: 

1. Chủ nghĩa xã hội đã trở thành hệ thống thế giới, thành một cộng đồng quốc tế có công nghiệp hiện đại và khoa học - kỹ thuật tiên tiến. 

2. Cách mạng khoa học - kỹ thuật đang phát triển dồn dập, tạo ra lực lượng sản xuất mới đồ sộ chưa từng có. Mọi dân tộc đều có khả năng nắm lấy những thành tựu của cuộc cách mạng ấy, bằng con đường đi tắt, tiến lên ngang trình độ các nước phát triển. 

3. Ba dòng thác cách mạng của thời đại đang ở thế tiến công và thắng lợi. Lịch sử chứng kiến một sự thức tỉnh cách mạng về quyền làm chủ trên quy mô cả loài người. Độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội ngày càng gắn liền nhau, và trở thành một sự đòi hỏi bức bách của các dân tộc. 

4. Cả thế giới là một thị trường, song song tồn tại với hai hệ thống thị trường xã hội chủ nghĩa và tư bản chủ nghĩa, cùng các thị trường khu vực. Trong phạm vi từng loại thị trường ấy có sự phân công lao động, trao đổi buôn bán. 

Trong những điều kiện lịch sử như vậy, đã xuất hiện một khả năng phát triển mới của sản xuất nhỏ: tiến thẳng lên sản xuất lớn xã hội chủ nghĩa. Và trong điều kiện cách mạng do đảng của giai cấp công nhân lãnh đạo thì sự phát triển của sản xuất nhỏ lên chủ nghĩa xã hội là tất yếu, là một vấn đề có tính quy luật. Song, chỉ có điều là sự phát triển ấy không thể là một quá trình tự phát, mà chỉ có thể là một quá trình do con người hoàn toàn tự giác và chủ động điều khiển. Sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội bao giờ và ở bất kỳ nước nào cũng là một quá trình tự giác, - chủ nghĩa tư bản dù thối nát đến đâu, những mâu thuẫn chứa đựng trong lòng nó gay gắt đến mức như thế nào, nó cũng không thể tự phát chuyển thành chủ nghĩa xã hội. Từ sản xuất nhỏ tiến lên, tạo lập ra cả xã hội xã hội chủ nghĩa hầu như từ không đến có, từ cơ sở kinh tế đến kiến trúc thượng tầng, quá trình ấy lại càng mang tính tự giác, chủ động và sáng tạo cao hơn nữa. 

Con người tự giác và chủ động điều khiển một quá trình lịch sử, không có nghĩa là con người có thể hành động một cách chủ quan, tuỳ tiện. Con người phải hành động theo đúng quy luật của sự vật. Đối với Đảng ta, điều vô cùng quan trọng là tìm cho được quy luật của quá trình cách mạng tiến từ sản xuất nhỏ lên chủ nghĩa xã hội. Có như vậy thì mới lãnh đạo được cách mạng xã hội chủ nghĩa đi đến thắng lợi. Vấn đề đặt ra là: nếu ngày nay, việc sản xuất nhỏ tiến thẳng lên chủ nghĩa xã hội là một vấn đề có tính quy luật, thì bản thân quá trình ấy có những quy luật chi phối nó hay không? Chúng ta khẳng định là có. 

Tất nhiên không thể trong một thời gian ngắn, phát hiện được toàn bộ hệ thống các quy luật. Tuy vậy, có khả năng tìm ra những quy luật và những vấn đề có tính quy luật cơ bản nhất, và trong thực tiễn cách mạng sẽ dần dần bổ sung và hoàn thiện sự nhận thức của chúng ta. Và để tìm tòi và phát hiện những quy luật hoặc những vấn đề có tính quy luật của quá trình tiến từ sản xuất nhỏ lên chủ nghĩa xã hội, ngoài việc suy nghĩ sâu sắc trên những gì mà những bậc thầy của chúng ta đã viết về chủ nghĩa xã hội và về quá trình cách mạng xã hội chủ nghĩa, chúng ta phải tham khảo những quy luật của quá trình phát triển tự phát từ sản xuất nhỏ lên chủ nghĩa tư bản, những quy luật của thời kỳ quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội, cũng như những quy luật của chủ nghĩa tư bản và của chủ nghĩa xã hội. Chúng ta phải tham khảo những hiểu biết mới nhất về chủ nghĩa tư bản cũng như về chủ nghĩa xã hội. Chúng ta phải tham khảo những ý kiến, những kết luận của các đảng anh em đã phát biểu về vấn đề tiến lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa. Nghĩa là phải tham khảo những tri thức của loài người đã tích luỹ được liên quan đến vấn đề mà chúng ta phải giải quyết. Căn cứ vào những tri thức ấy, chúng ta phải tìm tòi và phát hiện những khả năng và động lực nội tại của xã hội ta, làm sáng tỏ cơ chế kết hợp với nhau, tác động đến nhau giữa các khả năng, các động lực trong lòng xã hội, và giữa các yếu tố bên trong ấy với các yếu tố mới của thời đại đã nêu lên ở trên kia. 

Những kết quả nghiên cứu của chúng ta về các quy luật và những vấn đề có tính quy luật của quá trình tiến từ sản xuất nhỏ lên chủ nghĩa xã hội đã được trình bày dưới dạng đường lối, trong văn kiện của Đại hội lần thứ IV của Đảng: đường lối chung của cách mạng xã hội chủ nghĩa và đường lối xây dựng nền kinh tế xã hội chủ nghĩa. Đó là đường lối, đồng thời đó cũng là quy luật, là những vấn đề có tính quy luật. 

ở đây tôi xin nói rõ một số điểm: 

Trong đường lối cách mạng xã hội chủ nghĩa và đường lối kinh tế do Đại hội lần thứ IV nêu ra, có nhiều điểm các bậc thầy của chúng ta đã nói, có nhiều điểm đã được các đảng anh em kết luận; đồng thời có những điểm do chúng ta đề ra. 

1. Hai vấn đề cốt lõi của đường lối là làm chủ tập thể và công nghiệp hoá xã hội chủ nghĩa. Có thể coi đó là quy luật. Và điều này không ra ngoài công thức nổi tiếng của Lênin: chủ nghĩa cộng sản là chính quyền xôviết cộng với điện khí hoá cả nước. Khái niệm chính quyền xôviết ở đây chủ yếu là nóiquyền làm chủ của nhân dân lao động, làm chủ không chỉ về chính trị mà cả về kinh tế, văn hoá, xã hội; bởi vì nói xôviết là nói công nhân làm chủ xí nghiệp, nông dân làm chủ ruộng đất, thôn xóm. Và khái niệm điện khí hoá cả nước ở đây đồng nghĩa với công nghiệp hoá. 

2. Chúng ta nói ba cuộc cách mạng cũng không ra ngoài những điều các bậc thầy của chúng ta đã nói, không khác với những việc các nước xã hội chủ nghĩa anh em đã làm, đang làm và đã tổng kết. Chúng ta nêu cách mạng khoa học - kỹ thuật là then chốt, điều đó hoàn toàn đúng đối với đất nước ta, vì vấn đề trung tâm là công nghiệp hoá xã hội chủ nghĩa, vấn đề then chốt nhất là chuyển biến nền kỹ thuật của nước ta từ lạc hậu thành hiện đại, từ đó tạo ra năng suất lao động cao. Chúng ta nêu lên ba cuộc cách mạng phải được tiến hành đồng thời vì các cuộc cách mạng tác động lẫn nhau, thúc đẩy lẫn nhau, tạo điều kiện cho nhau. Có tiến hành đồng thời, trong sự quan hệ mật thiết với nhau thì mới đưa lại kết quả. 

3. Các đảng các nước xã hội chủ nghĩa anh em trong các nghị quyết của mình đều nêu ra, và trên thực tế đang làm là: xây dựng chế độ, xây dựng nền kinh tế, xây dựng nền văn hoá và xây dựng con người. Về điểm này ta cũng nói như các đảng anh em. 

Song chúng ta không dừng lại ở đó. Có một số luận điểm do chúng ta phát triển, xuất phát từ những căn cứ mà chúng ta đã trình bày ở trên. Nhưng luận điểm ấy là gì? 

4. Trong chiến tranh giải phóng, là một nước nhỏ chống các đế quốc to, chúng ta đã biết phân tích những chỗ mạnh chỗ yếu của ta và của địch, từ đó phát huy các thế mạnh của ta, hạn chế các thế mạnh của địch, tạo ra một lực lượng tổng hợp mạnh hơn địch. Do đó, chúng ta đã lần lượt đánh thắng oanh liệt nhiều đế quốc, trong đó có tên đầu sỏ là Mỹ. 

Ngày nay, nhiệm vụ chiến lược đã thay đổi, phương thức tổ chức và hoạt động, nhất là trong lĩnh vực kinh tế, có nhiều điều khác hẳn trong chiến tranh. Song, bài học về phát huy lực lượng tổng hợp vẫn giữ nguyên giá trị. Chúng ta chỉ có thể hoàn thành thắng lợi nhiệm vụ lịch sử hết sức khó khăn đưa đất nước ta từ sản xuất nhỏ tiến thẳng lên chủ nghĩa xã hội, bằng cách tạo ra cho được một lực lượng tổng hợp của cách mạng xã hội chủ nghĩa. Đường lối chung và đường lối xây dựng kinh tế chính là lực lượng tổng hợp cần thiết ấy. Đường lối đó phát huy sức mạnh của độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, phát huy những khả năng đã có và đang tiềm tàng của đất nước, và bằng sự gắn bó nước ta với Liên Xô và cộng đồng xã hội chủ nghĩa, với ba dòng thác cách mạng cho phép chúng ta tận dụng các khả năng mới của thời đại. 

Nếu như trong quá trình phát triển của chủ nghĩa tư bản, những nhân tố của sản xuất lớn thường tách rời nhau, đối lập nhau, thì trái lại, đường lối chung và đường lối xây dựng kinh tế Đảng ta đề ra đòi hỏi gắn liền ngay từ đầu những nhân tố ấy với nhau, tạo ra một cách đi hợp lý, không lặp lại những trình tự trước sau có tính chất tự phát của tiến trình từ sản xuất nhỏ lên sản xuất lớn tư bản chủ nghĩa. 

Đường lối của ta không cắt rời từng mặt hoạt động chính trị, kinh tế, văn hoá, xã hội, không cô lập từng phần của sự nghiệp cách mạng thành từng lĩnh vực khép kín. Nó không mở ra cánh kéo giữa công nghiệp và nông nghiệp, không đối lập thành thị và nông thôn, không để xẩy ra mâu thuẫn gay gắt giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất, không tách rời tập trung và dân chủ, thị trường địa phương và thị trường cả nước. Nó không phân chia đứt đoạn các bước hiệp tác giản đơn, công trường thủ công và đại công nghiệp cơ khí, các quy mô lớn, vừa và nhỏ, các trình độ kỹ thuật thủ công, nửa cơ giới và cơ giới. 

Đường lối của ta là một tổng thể hoàn chỉnh trong đó có sự kết hợp, sự quy định lẫn nhau, sự ảnh hưởng lẫn nhau rất chặt chẽ, sự tác động và thúc đẩy lẫn nhau có sự thâm nhập vào nhau và trong một chừng mực nào đó có sự đồng nhất với nhau giữa mục tiêu với phương tiện và biện pháp, giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất, giữa cơ sở kinh tế và kiến trúc thượng tầng, giữa kinh tế với quốc phòng, giữa cải tạo và xây dựng, giữa ba cuộc cách mạng, giữa xây dựng chế độ mới, xây dựng nền kinh tế mới và xây dựng nền văn hoá mới và con người mới, giữa điều kiện khách quan và tính năng động chủ quan, giữa nguyên nhân và kết quả. Lực lượng tổng hợp được tạo ra từ sự đồng thời ra đời và tác động lẫn nhau giữa các yếu tố ấy. 

Nếu cần nhắc lại thì lực lượng tổng hợp đó là: nắm vững chuyên chính vô sản, phát huy quyền làm chủ tập thể của nhân dân lao động, tiến hành đồng thời ba cuộc cách mạng, trong đó cách mạng khoa học - kỹ thuật là then chốt, xây dựng chế độ mới, nền kinh tế mới, nền văn hoá mới, con người mới xã hội chủ nghĩa. Trong kinh tế, lực lượng tổng hợp đó là lực lượng của cả ba cuộc cách mạng, của cả chế độ mới, nền kinh tế mới, nền văn hoá mới, con người mới; trực tiếp về kinh tế là lực lượng của sự gắn bó công - nông nghiệp thành cơ cấu ngay từ đầu, kết hợp hài hoà kinh tế trung ương và kinh tế địa phương, làm kế hoạch ba cấp, theo tinh thần hạch toán kinh tế và kinh doanh, nắm cả giá trị sử dụng lẫn giá trị và quy luật giá trị, thống nhất lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất, kết hợp chặt chẽ kinh tế với quốc phòng, dính liền phân công lao động và mở rộng thị trường trong nước với phát triển kinh tế đối ngoại, trước hết là với Liên Xô và cộng đồng xã hội chủ nghĩa. 

5. Làm chủ tập thể của nhân dân lao động là nội dung của chế độ xã hội chủ nghĩa. Nó vừa là mục đích, vừa là động lực của sự nghiệp cách mạng xã hội chủ nghĩa. Làm chủ tập thể là yếu tố quan trọng nhất trong lực lượng tổng hợp. Không thực hiện được quyền làm chủ tập thể của nhân dân lao động thì không thể tiến hành công nghiệp hoá xã hội chủ nghĩa, không thể đưa sản xuất nhỏ lên chủ nghĩa xã hội. Trong thời kỳ quá độ, quyền làm chủ tập thể của nhân dân lao động, mà nòng cốt là liên minh công - nông, thực hiện bằng nhà nước, dưới sự lãnh đạo của đảng tiền phong của giai cấp công nhân, đó là chuyên chính vô sản. Hoàn toàn không có gì đối lập nhau, mà chính là có sự thống nhất giữa chuyên chính vô sản và làm chủ tập thể của nhân dân lao động. Thực hiện quyền làm chủ tập thể của nhân dân lao động là thực hiện chuyên chính vô sản một cách đúng đắn, chứ không phải là làm việc gì khác. 

Chúng ta lấy khái niệm làm chủ tập thể từ trong tác phẩm của Mác và ăngghen. Các vị thầy này đã nói đến xã hội xã hội chủ nghĩa như là xã hội mà đặc trưng cơ bản là : 1) yếu tố tập thể (chung, cộng đồng) là yếu tố chủ đạo, đối lập với các xã hội có giai cấp đối kháng, trong đó yếu tố cá thể là chủ đạo - 2) con người làm chủ xã hội, làm chủ thiên nhiên và làm chủ bản thân, trở thành tự do. 

Làm chủ tập thể không chỉ giới hạn trong lĩnh vực sinh hoạt chính trị và trong các quyền tự do chính trị mà có nội dung toàn diện: làm chủ thiên nhiên, xã hội và bản thân, làm chủ về chính trị, kinh tế, văn hoá, xã hội. Về kinh tế, làm chủ tập thể vừa là quan hệ sản xuất mới, vừa là một lực lượng sản xuất mạnh, bởi vì làm chủ tập thể về kinh tế chính là làm chủ và sử dụng tốt lao động, đất đai và các tư liệu sản xuất khác, đạt năng suất, chất lượng và hiệu quả cao. 

Làm chủ tập thể là kết hợp sức mạnh làm chủ của nhân dân lao động ở ba cấp: cả nước, địa phương và cơ sở. Điều đó không có nghĩa là nhân dân và cán bộ ở cấp nào thì làm chủ cấp đó, không biết gì đến các cấp khác, gây ra phân tán, chia cắt cả xã hội, cả nền kinh tế, và dẫn đến tranh chấp giữa các cấp với nhau. Trái lại, ở mỗi cấp đều có cả ba cấp cùng làm chủ theo một sự phân công nhiệm vụ, phân định quyền hạn và phân phối lợi ích hợp lý. 

Làm chủ tập thể là coi trọng trước hết phát huy sức mạnh của cộng đồng, làm sáng tỏ tính hơn hẳn của cộng đồng, đi đôi với khuyến khích mạnh mẽ sáng kiến cá nhân, động lực cá nhân, với nhận thức rằng: ưu thế của chủ nghĩa xã hội là sức mạnh của tập thể. Đó là cái mà chủ nghĩa tư bản không có - nhưng ưu thế của chủ nghĩa xã hội còn là cá nhân, sức mạnh của cá nhân. Phải kết hợp và phát huy cả hai sức mạnh ấy thì chủ nghĩa xã hội sẽ hơn hẳn, về mọi mặt, chủ nghĩa tư bản. Chỉ có chủ nghĩa xã hội mới phát huy được cá nhân đầy đủ nhất, mới động viên được mỗi người ngày đêm suy nghĩ đem hết tâm lực làm cho Tổ quốc giàu mạnh. 

Làm chủ tập thể là vận dụng sự thống nhất hài hoà giữa ba lợi ích: lợi ích xã hội, lợi ích tập thể và lợi ích từng người lao động, là thực hiện sự tương ứng chặt chẽ giữa dân chủ và kỷ luật, giữa quyền hạn, lợi ích và nghĩa vụ. Làm như thế này cũng là theo tinh thần điều ta vừa nói ở trên. 

Làm chủ tập thể là chăm lo chu đáo và đòi hỏi nghiêm ngặt đối với từng cá nhân, mỗi gia đình và toàn xã hội, coi đó là ba đơn vị cơ bản gắn bó chặt chẽ với nhau của sự tồn tại, của cuộc sống. 

Làm chủ tập thể có cơ sở vật chất là cơ cấu kinh tế công - nông nghiệp hợp lý, được bảo đảm bằng một cơ chế quản lý kinh tế - xã hội thích hợp và bằng hệ thống tổ chức bao gồm Đảng lãnh đạo, nhân dân làm chủ, Nhà nước quản lý, được thiết lập đúng đắn ở các cấp. Làm chủ tập thể được thể hiện rõ rệt khi phát động được phong trào sôi nổi của đông đảo quần chúng tiến hành ba cuộc cách mạng tại các cơ sở, các địa phương, thành thị, nông thôn, và trong cả nước. 

6. Công nghiệp hoá xã hội chủ nghĩa là nhiệm vụ trung tâm của cả thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, nhằm tạo ra cơ cấu kinh tế công - nông nghiệp hiện đại, với nền đại công nghiệp cơ khí đủ sức trang bị kỹ thuật mới cho toàn bộ kinh tế quốc dân, với nền nông nghiệp sản xuất lớn xã hội chủ nghĩa tiên tiến. Đó là cơ sở vật chất kỹ thuật nhất thiết phải có để thực sự xây dựng được chủ nghĩa xã hội, nhất thiết phải có để củng cố quốc phòng, bảo vệ vững chắc Tổ quốc ta. Đó cũng chính là cái mà chúng ta thiếu nhất, sự thiếu thốn này hàng ngày đè nặng trên hoạt động kinh tế và đời sống của nhân dân ta. Vấn đề là tiến hành công nghiệp hoá xã hội chủ nghĩa ở nước ta bắt đầu từ đâu, qua những chặng đường như thế nào; và trong chặng đường đầu tiên hiện nay, nội dung chủ yếu của công nghiệp hoá xã hội chủ nghĩa là gì? 

Đường lối của ta đã nêu : "ưu tiên phát triển công nghiệp nặng một cách hợp lý trên cơ sở phát triển nông nghiệp và công nghiệp nhẹ, kết hợp xây dựng công nghiệp và nông nghiệp thành một cơ cấu". Vừa qua có sự hiểu không thống nhất về luận điểm ấy, nên nay trong Báo cáo chính trị đã nói lại, mong rằng sẽ có sự nhận thức thống nhất. ở đây có vấn đề thứ tự ưu tiên giữa nông nghiệp, công nghiệp nhẹ và công nghiệp nặng; lại còn có vấn đề kết hợp công nghiệp và nông nghiệp thành một cơ cấu. Chúng ta xin nói tinh thần của vấn đề này trong dự thảo Báo cáo chính trị. 

Đương nhiên, chúng ta phải bắt đầu công nghiệp hoá xã hội chủ nghĩa từ những cái mà chúng ta sẵn có, và trong những cái đó, chúng ta phải phát huy trước tiên những gì là vốn quý nhất, là thế mạnh nhất, có khả năng đáp ứng tốt hơn cả những nhu cầu trước mắt, đồng thời có khả năng tạo ra được lực lượng mạnh hơn cả để tiến lên trong chặng đường tiếp sau. 

Chủ nghĩa tư bản bắt đầu công nghiệp hoá bằng cách tích tụ và tập trung tiền thành tư bản, làm cho tư bản - tiền trở thành phương tiện sản xuất. 

Đối với chúng ta, cái vốn (tư bản) quý nhất của chúng ta là lao động. Năng lực tiềm tàng lớn có thể phát huy ngay, đối tượng lao động có khả năng thu hút lực lượng lao động đông đảo nhất là đất đai (kể cả rừng và biển). Một khả năng to lớn của chúng ta là ngành nghề. Sức mạnh to lớn của chúng ta là chế độ làm chủ tập thể xã hội chủ nghĩa. Chế độ làm chủ tập thể tạo điều kiện cho phép kết hợp lao động với đất đai. Chế độ làm chủ tập thể tạo điều kiện cho phép, cùng với và từ sự kết hợp lao động với đất đai, mở mang mạnh các ngành, nghề. Do đó, sớm tạo ra lực lượng sản xuất mới, năng suất lao động mới, với cơ cấu mặt hàng phù hợp với yêu cầu trước mắt của sản suất và đời sống. 

Vì vậy, điều quan trọng nhất, việc có thể và cần phải làm ngay, là làm chủ tập thể để sử dụng hợp lý, với hiệu quả cao lao động, đất đai và phát triển các ngành, nghề, phân bổ lại và phân công mới lao động tại từng cơ sở, trên từng địa phương và trong cả nước; để mọi người lao động đều có việc làm, để khai thác tốt nhất đất đai mà ta có, không tấc đất nào bị bỏ phí. 

Chính theo tinh thần ấy, dự thảo Báo cáo chính trị đã trình bày rõ chiến lược kinh tế từ nay đến cuối những năm 80: Trong kế hoạch 5 năm 1981-1985 và những năm 80, nội dung chủ yếu của công nghiệp hoá xã hội chủ nghĩa là thực hiện một bước quan trọng việc đưa nông nghiệp lên sản xuất lớn xã hội chủ nghĩa, lấy việc đưa nông nghiệp lên sản xuất lớn xã hội chủ nghĩa làm tiêu điểm để xây dựng cơ cấu công - nông nghiệp, kết hợp đúng đắn nông nghiệp, công nghiệp nhẹ và công nghiệp nặng. 

Trong khi hướng công nghiệp nặng chủ yếu và trước hết nhằm thúc đẩy nông nghiệp và công nghiệp hàng tiêu dùng phát triển, chúng ta không ngừng suy nghĩ, tìm mọi cách xây dựng một số ngành công nghiệp nặng then chốt: điện, than, dầu và khí, cơ khí, luyện kim, hoá chất, đặc biệt là cơ khí. Bởi vì chúng ta không được bao giờ quên rằng cơ sở vật chất kỹ thuật duy nhất của chủ nghĩa xã hội là nền đại công nghiệp cơ khí hoá, rằng điều quyết định để tạo ra năng suất lao động cao là chuyển lao động thủ công thành lao động cơ khí hoá, là trang bị kỹ thuật mới chẳng những cho nông nghiệp mà cho toàn bộ kinh tế quốc dân. 

Vấn đề kết hợp nông nghiệp và công nghiệp thành một cơ cấu là một sự phát hiện mới của các nước trong phe xã hội chủ nghĩa chúng ta. Có kinh nghiệm của Liên Xô, của Bungari và của một số nước khác. Cộng với kinh nghiệm của các nước anh em, chúng ta cũng có sự nghiên cứu riêng của chúng ta về quá trình kết hợp và tách ra giữa nông nghiệp và công nghiệp trong lịch sử, và từ kinh nghiệm thực tế của ta về vấn đề này, chúng ta đã rút ra kết luận cho mình. 

7. Về vấn đề vừa xây dựng kinh tế trung ương, vừa phát triển kinh tế địa phương trong một cơ cấu kinh tế quốc dân thống nhất cả nước 

Vấn đề kinh tế địa phương là vấn đề của nước ta. Trước đây các nước anh em chưa đặt ra; nay một số nước đang đặt ra. Tất nhiên, kinh tế trung ương là xương sống của nền kinh tế quốc dân, có tầm quan trọng sống còn đối với kinh tế của cả nước. Về vấn đề này, nhận thức của chúng ta nhất trí với cách đặt vấn đề của tất cả các nước anh em. Cái chúng ta muốn làm rõ là vai trò của kinh tế địa phương. 

Kinh tế trung ương cũng như kinh tế địa phương đều gồm có công nghiệp nặng, công nghiệp nhẹ và nông nghiệp. Song, kinh tế trung ương chủ yếu là những cơ sở quan trọng nhất trong các ngành công nghiệp, nông nghiệp, đặc biệt là hệ thống then chốt trong công nghiệp nặng; còn kinh tế địa phương chủ yếu là nông nghiệp và công nghiệp hàng tiêu dùng, dính liền với lao động, tài nguyên và ngành, nghề ở địa phương, dính với đời sống của nhân dân địa phương. Kinh tế trung ương được xây dựng lớn mạnh, các ngành kinh tế - kỹ thuật sớm được hình thành, thì kinh tế địa phương càng có điều kiện phát triển mạnh. Và phát triển mạnh kinh tế địa phương là nhằm bảo đảm đời sống của nhân dân tại chỗ, đồng thời góp sức xây dựng kinh tế trung ương. 

Là tổ chức cơ bản của sản xuất lớn hiện đại, các ngành kinh tế - kỹ thuật có tác dụng chuyển lao động thủ công thành lao động cơ khí, tạo ra máy móc, công cụ và vật liệu mới, thúc đẩy chuyên môn hoá, hợp tác hoá và liên hiệp sản xuất, nâng cao trình độ khoa học - kỹ thuật, tăng năng suất lao động, làm ra sản phẩm với chất lượng và hiệu quả ngày càng cao. Tích cực và chủ động xây dựng các ngành kinh tế - kỹ thuật theo những hình thức thích hợp, sát với đặc điểm từng ngành, là một chủ trương chiến lược trước mắt và lâu dài. 

Suốt quá trình tiến lên sản xuất lớn xã hội chủ nghĩa, kinh tế địa phương có vai trò cực kỳ quan trọng trong việc sử dụng lao động, đất đai và mở mang ngành, nghề, trong việc gắn bó ngay từ đầu công nghiệp và nông nghiệp thành cơ cấu, trong việc liên kết các thành phần kinh tế, kết hợp phát triển lực lượng sản xuất với cải tạo quan hệ sản xuất, đặc biệt là trong việc thực hiện tích luỹ, tích tụ và cung ứng nguồn vốn tập trung cho trung ương, trong việc đẩy mạnh sản xuất hàng xuất khẩu, trong việc phân phối của cải vật chất và tổ chức đời sống của nhân dân, trong việc kết hợp kinh tế với quốc phòng. Kinh tế địa phương là địa bàn quan trọng quy tụ cả ba cấp làm chủ tập thể, cả sức mạnh từ cơ sở vươn lên, sức mạnh từ trung ương toả về, và sức mạnh bung ra ngay tại chỗ. 

Từ một số năm nay, trong khi tìm con đường và biện pháp đi lên, chúng ta đã thấy được một địa bàn kinh tế có vai trò cực kỳ trọng yếu, đó là huyện. Địa bàn kinh tế huyện dính liền với các hợp tác xã, nằm trong cơ cấu kinh tế tỉnh, thành phố và gắn bó chặt chẽ với các ngành kinh tế - kỹ thuật của cả nước. Với số lượng lao động và quy mô đất đai thích hợp, huyện là địa bàn rất cơ bản để thực hiện làm chủ tập thể, thực hiện phân công lao động kết hợp lao động với đất đai, mở mang ngành nghề, để phát triển kinh tế, văn hoá, để bảo đảm đời sống của nhân dân và đóng góp cho cả nước. Chỉ có thông qua huyện, trung ương mới nắm được và kết hợp được lao động với đất đai. 

Kinh tế trung ương là phần kinh tế quốc dân do cấp trung ương trực tiếp quản lý, kinh tế địa phương là phần kinh tế quốc dân do cấp địa phương trực tiếp quản lý. Song vừa xây dựng kinh tế trung ương, vừa phát triển kinh tế địa phương là một bộ phận trong đường lối kinh tế của Đảng, thể hiện quy luật tiến thẳng từ sản xuất nhỏ lên sản xuất lớn xã hội chủ nghĩa, chứ không phải chỉ là một cách thức, một biện pháp quản lý, một vấn đề phân công trong bộ máy nhà nước giữa cấp trung ương và cấp địa phương. Cơ cấu kinh tế địa phương như thế nào là đúng đắn, điều đó chủ yếu được quyết định bởi yêu cầu tất yếu của việc bố trí cơ cấu kinh tế quốc dân hợp lý trong từng chặng đường, bởi điều kiện lao động, tài nguyên và thế mạnh từng địa phương, bởi đặc điểm kinh tế - kỹ thuật của các ngành kinh tế, chứ không phải chủ yếu được quyết định bởi tình hình chủ quan của bộ máy quản lý và sự thuận tiện của công tác quản lý. Thí dụ: nếu trình độ của cấp lãnh đạo ở địa phương còn yếu so với tầm quan trọng và quy mô cần thiết của kinh tế địa phương, thì cấp trung ương phải tăng cường cấp lãnh đạo địa phương để nó có đủ sức làm nhiệm vụ, chứ không phải vì thế mà thu hẹp kinh tế địa phương lại. 

Cần ban hành sớm các chính sách, chế độ cụ thể, xoá bỏ ngay các quy định gò bó, trói buộc không hợp lý, giải quyết dứt khoát và không cầu toàn các vướng mắc hiện nay giữa một số địa phương và một số ngành trung ương, bổ sung lực lượng và tăng cường giúp đỡ cho các địa phương. Tóm lại, phải rất khẩn trương làm mọi việc cần thiết để mạnh dạn mở rộng quyền hạn và trách nhiệm cho cấp huyện, quận và cấp tỉnh, thành, làm cho mỗi cấp địa phương có phạm vi chủ động rộng rãi để phát triển kinh tế địa phương đúng quy hoạch và kế hoạch cả nước, phát huy sáng kiến, khai thác tiềm năng, nâng cao tính năng động trong kinh doanh, để tự cân đối nhu cầu và đóng góp ngày càng nhiều cho cả nước. Đương nhiên, mở rộng quyền đi đôi tương ứng với nâng cao trách nhiệm và tăng cường kỷ luật, đúng nguyên tắc tập trung dân chủ. 

8. Vấn đề phát triển kinh tế có kế hoạch. Ngay từ đầu của quá trình tiến thẳng từ sản xuất nhỏ lên sản xuất lớn xã hội chủ nghĩa, vì đã xác lập chế độ làm chủ tập thể, cho nên phải tuân thủ quy luật phát triển kinh tế có kế hoạch. Điều quan trọng là vận dụng quy luật phát triển có kế hoạch sao cho sát với điều kiện của nước ta là sản xuất nhỏ còn phổ biến, đang ở chặng đầu tiên của quá trình từ sản xuất nhỏ tiến lên chủ nghĩa xã hội. 

Nhất thiết phải thực hiện ba cấp cơ bản làm kế hoạch: cả nước, địa phương và cơ sở. Cấp kế hoạch cả nước là rất quan trọng, đó là ưu thế của chế độ xã hội chủ nghĩa; về mặt này, nước ta và các nước anh em giống nhau. Nhưng đối với nước ta, còn là sản xuất nhỏ, kế hoạch cấp cơ sở và cấp địa phương cũng rất quan trọng. Đây không phải chỉ là một vấn đề phương pháp nghiệp vụ làm kế hoạch, mà là vấn đề vận dụng trong kế hoạch hoá quy luật tiến thẳng từ sản xuất nhỏ lên chủ nghĩa xã hội, là vấn đề thể hiện trong kế hoạch hoá chế độ làm chủ tập thể trên ba cấp cơ bản. Các nước xã hội chủ nghĩa anh em nói chung đều có ba cấp cơ bản làm kế hoạch. Điều đặc biệt của ba cấp kế hoạch ở nước ta là thực hiện một chế độ kế hoạch hoá trên cơ sở xem địa phương là một cơ cấu kinh tế, chế độ kế hoạch hoá ấy cho phép phát huy được khả năng lao động, đất đai và các năng lực sản xuất khác, liên kết được các thành phần kinh tế, phát triển được các mối quan hệ kinh tế hợp lý ngang và dọc, trong nước và với nước ngoài, làm cho những nhân tố của sản xuất lớn xã hội chủ nghĩa nảy nở khắp toàn thân của nền kinh tế, từ các cơ sở, các địa phương, các ngành và trong cả nước. 

Chúng ta phát huy ngay từ đầu tính hơn hẳn của chủ nghĩa xã hội về kế hoạch hoá từ trung ương đối với toàn bộ kinh tế quốc dân, tập trung về trung ương một bộ phận lớn nguồn tích luỹ để xây dựng những công trình then chốt, nắm vững từ trung ương những cân đối lớn và những chỉ tiêu chủ yếu quyết định việc hình thành cơ cấu kinh tế mới, việc hình thành những ngành kinh tế - kỹ thuật quan trọng có liên quan đến những nhu cầu cơ bản của sản xuất, của việc xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật, của đời sống và của nhu cầu phòng thủ đất nước. Đồng thời, cũng ngay từ đầu, chúng ta mạnh dạn mở rộng quyền hạn và trách nhiệm kế hoạch hoá cho các địa phương: huyện, quận và tỉnh, thành, mở rộng quyền hạn và trách nhiệm kế hoạch hoá cho các đơn vị cơ sở của kinh tế quốc doanh (xí nghiệp) và kinh tế tập thể (hợp tác xã). Tiềm năng nằm tại địa phương và cơ sở. Chế độ kế hoạch hoá đúng đắn tạo điều kiện cho mọi địa phương, mọi cơ sở đều khai thác được mọi khả năng, phát huy được rộng rãi tính chủ động và sáng tạo, tự cân đối được nhu cầu và đóng góp vào sự nghiệp phát triển của cả nước. 

Chế độ kế hoạch hoá của chúng ta gắn liền với hạch toán kinh tế và kinh doanh xã hội chủ nghĩa. Kế hoạch phải được xây dựng trên tinh thần hạch toán kinh tế, tức là phải nêu cao năng suất, chất lượng và hiệu quả kinh tế xã hội. Hạch toán là một vấn đề có tính quy luật, một sự đòi hỏi khoa học và lịch sử. Còn là sản xuất nhỏ, thì sản xuất phải có lãi, có như vậy mới có tích luỹ, mới có điều kiện để công nghiệp hoá xã hội chủ nghĩa. Những năm trước mắt, nhiều xí nghiệp chưa đủ điều kiện để thực hiện chế độ hạch toán kinh tế một cách đầy đủ, song chúng ta không cầu toàn, mà phải thực hiện hạch toán kinh tế bằng được, theo nội dung và mức độ thích hợp rồi tiến lên từng bước. Ngay ở bước đầu, phải nắm thực chất của chế độ hạch toán kinh tế là mở rộng quyền chủ động sản xuất, kinh doanh của các đơn vị kinh tế, trên cơ sở kế hoạch nhà nước, khuyến khích mạnh mẽ và đòi hỏi nghiêm ngặt các đơn vị kinh tế phải khai thác mọi tiềm năng, phát huy sáng kiến, sản xuất và kinh doanh có hiệu quả cao, tự bù đắp được mọi chi phí, thu được nhiều lợi nhuận, và thực hiện sự phân phối lợi nhuận thỏa đáng, bảo đảm cả ba loại lợi ích. 

Trong kế hoạch hoá và quản lý, chúng ta phải biết kinh doanh xã hội chủ nghĩa. Phải kinh doanh trong nước bằng cách nắm vững và đáp ứng đúng nhu cầu thị trường cả nước và ở từng địa phương, mở rộng thị trường trong nước, phát triển các quan hệ kinh tế giữa các cơ sở và địa phương theo kế hoạch và bằng hợp đồng, không để các quan hệ hành chính quan liêu lấn át và ràng buộc hoạt động kinh tế. Phải kinh doanh xuất nhập một cách nhanh nhạy, đặc biệt là phải biết quay vòng linh hoạt, qua nhiều loại hàng, qua nhiều thị trường, đề xuất được những thứ ta có thể xuất, và nhập được những thứ ta cần nhập. 

Một cơ chế kế hoạch hoá thấm nhuần tinh thần hạch toán kinh tế và kinh doanh xã hội chủ nghĩa, như vậy là vừa nắm vững giá trị sử dụng đồng thời rất coi trọng giá trị và quy luật giá trị. Cần gắn liền kế hoạch sản xuất với kế hoạch tài chính, vận dụng tốt các quan hệ hàng hoá - tiền tệ, các quan hệ thị trường. Đối với chúng ta, vận dụng quan hệ thị trường chủ yếu là ngay trong kế hoạch, và thị trường chủ yếu là thị trường có tổ chức; đồng thời, chúng ta ra sức sử dụng và quản lý tốt thị trường tự do. Trong toàn bộ công tác quản lý, chúng ta rất chú ý phát huy tác dụng của các đòn bẩy kinh tế. 

Ưu thế của chủ nghĩa xã hội, như phần trên đã nói là sức mạnh của tập thể, trước hết là sức mạnh của cả nước, của từng địa phương, của từng đơn vị cơ sở; sức mạnh ấy phải được phát huy bằng kế hoạch, kết hợp với hạch toán và kinh doanh. Song ưu thế của chủ nghĩa xã hội còn là kết hợp sức mạnh của tập thể với sức mạnh của từng cá nhân. Không phát huy được sức mạnh của cá nhân, ưu thế của chủ nghĩa xã hội giảm đi một nửa. Phải bằng nhiều biện pháp hành chính, tổ chức, tư tưởng, kinh tế, v.v. phát huy sức mạnh của cá nhân, trong đó có biện pháp dùng các đòn bẩy kinh tế. Đặc biệt khi lao động phần lớn còn là thủ công hoặc nửa cơ khí, khi máy móc chưa đủ để đóng vai trò là kẻ tổ chức sản xuất, là kẻ bắt buộc người lao động phải sản xuất theo đúng những nhịp điệu nhất định, những quy định về kỹ thuật nhất định, thì vai trò của các đòn bẩy kinh tế lại càng quan trọng.

Chế độ kế hoạch hoá của chúng ta rất coi trọng tính khoa học và cách mạng. Chúng ta có chế độ kế hoạch hoá đúng, đồng thời tích cực xây dựng các căn cứ khoa học cho kế hoạch, từ điều tra cơ bản, dự đoán kinh tế - xã hội, lập quy hoạch, đến xây dựng các cân đối liên ngành, xây dựng hệ thống tiêu chuẩn, định mức kinh tế - kỹ thuật cho công tác kế hoạch hoá. 

9. Mở rộng hợp tác quốc tế là một vấn đề có tính quy luật. Ngày nay đối với mọi nước, quan hệ quốc tế về kinh tế là một vấn đề có tính quy luật, bởi vì trên thế giới có sự phân công lao động quốc tế: phân công trong phạm vi từng thị trường (xã hội chủ nghĩa và tư bản chủ nghĩa) và phân công trong phạm vi thị trường thống nhất thế giới. Chúng ta cần tham gia sự phân công lao động quốc tế, trước hết với Liên Xô và các nước trong Hội đồng tương trợ kinh tế và với các nước khác để nhập những vật tư cần thiết cho sản xuất và đời sống mà chúng ta chưa tạo ra được, bằng cách xuất những sản phẩm mà nước ta có ưu thế, như nông sản nhiệt đới, một số khoáng sản, hàng tiêu dùng và thủ công mỹ nghệ. 

Song điều chủ yếu làm cho hợp tác quốc tế đối với ta thành quy luật là: 

Một: Như Lênin đã nói, những nước lạc hậu muốn tiến thẳng lên chủ nghĩa xã hội, bỏ qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa, cần có sự giúp đỡ của giai cấp vô sản các nước tiên tiến. Đây chưa phải là điều kiện đủ, nhưng là điều kiện cần thiết. Đối với ta, sự giúp đỡ của Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa anh em khác là rất quan trọng. 

Hai: Ta phải công nghiệp hoá xã hội chủ nghĩa, phải nhập kỹ thuật. Phải qua hợp tác quốc tế, chủ yếu là qua xuất nhập để làm việc ấy. 

10. Phát triển khoa học - kỹ thuật, ứng dụng thành tựu khoa học - kỹ thuật tiên tiến là một vấn đề có tính quy luật. 

Ta tiến lên chủ nghĩa xã hội trong thời đại cách mạng khoa học - kỹ thuật. Đó là điều kiện rất thuận lợi. áp dụng những thành tựu khoa học - kỹ thuật hiện đại cho phép đi lên sản xuất lớn bằng những con đường ngắn hơn. 

Việc này gắn liền với một loạt biện pháp, trong đó phổ cập giáo dục phổ thông là một biện pháp đặc biệt quan trọng. 

III- Vấn đề chấp hành đường lối và tổ chức thực hiện 

Thực tiễn cách mạng 5 năm qua, tuy không phải là một thời gian dài, nhưng có nội dung phong phú về các hoạt động kinh tế, đã giúp chúng ta khẳng định chắc chắn rằng: đường lối của Đảng là đúng đắn. Thắng lợi đạt được là do đã thấu suốt đường lối, quyết tâm, nghiêm chỉnh thực hiện đường lối, cụ thể hoá đường lối một cách đúng đắn và sáng tạo. Khuyết điểm và sai lầm là do chưa thấu suốt, chưa cụ thể hoá hoặc cụ thể hoá chưa đúng đường lối. Đồng thời trong thành tựu và khuyết điểm, sai lầm, quản lý và tổ chức thực hiện cũng có phần trách nhiệm rất lớn. 

A. Có một vấn đề quan trọng cần làm rõ: như thế nào là chấp hành và cụ thể hoá đường lối của Đảng trong từng chặng đường của sự nghiệp cách mạng, trong từng kế hoạch 5 năm? 

Đường lối chung và đường lối kinh tế của Đảng là đúng đắn cho suốt thời kỳ quá độ đưa nước ta tiến thẳng lên chủ nghĩa xã hội. Nghĩa là đường lối ấy phải được chấp hành ngay từ khi nước ta vừa bước vào thời kỳ quá độ, qua tất cả các chặng đường, từ chặng đầu đến chặng cuối, đến khi thời kỳ quá độ kết thúc, chủ nghĩa xã hội được xây dựng thành công. Qua thực tiễn chấp hành đường lối mà dần dần bổ sung, làm cho đường lối ngày càng phong phú hơn, hoàn thiện hơn. 

Cụ thể hoá đường lối của Đảng trong chặng đường đầu tiên hiện nay, kể từ khi cả nước cùng tiến lên chủ nghĩa xã hội, hoàn toàn không phải là đặt ra một đường lối nào khác, ngoài đường lối chung và đường lối kinh tế. Đặt vấn đề như vậy thì khác nào cho rằng đường lối của Đảng chỉ đúng chung chung cho thời gian dài, nhưng hiện nay chưa thích hợp, chưa dùng được; do đó, phải tạm gác đường lối chung ấy sang một bên, để xác định một đường lối cụ thể khác, sát với chặng đường đầu tiên này ! Rõ ràng cách đặt vấn đề như vậy là không đúng, là không chấp nhận được. 

Trong công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội, về kinh tế, cụ thể hoá đường lối của Đảng bao gồm những nội dung chính như sau: 

Một là: Hoàn toàn phù hợp với đường lối chung và đường lối kinh tế, căn cứ vào đường lối ấy và nhằm thực hiện đường lối ấy, phải vạch ra chiến lược kinh tế – xã hội cho từng chặng đường của thời kỳ quá độ (thời gian chừng 15 năm1). Ba bộ phận hợp thành chủ yếu của chiến lược kinh tế – xã hội là: hệ thống các mục tiêu và các biện pháp lớn bảo đảm thực hiện mục tiêu. Những biện pháp này bao gồm chính sách phát triển (có thể coi như chính sách cơ cấu) và các chính sách kinh tế. 

Chiến lược kinh tế – xã hội được cụ thể hoá thành các kế hoạch 5 năm và kế hoạch hằng năm. Chính theo ý nghĩa ấy, chúng ta thường nói rằng: “Kế hoạch nhà nước là cương lĩnh thứ hai của Đảng”. Sự hình thành cơ cấu kinh tế quốc dân hợp lý, sự vận động của các mối quan hệ kinh tế lớn, phương hướng đầu tư, chủ trương sản xuất, chính sách phân phối lưu thông, chính sách tiêu dùng..., tất cả những điều đó đều phải được xác định đúng đắn trong chiến lược kinh tế – xã hội và trong các kế hoạch nhà nước. 

Hai là: Hoàn toàn phù hợp với đường lối chung và đường lối kinh tế, căn cứ vào đường lối ấy và nhằm thực hiện đường lối ấy, phải vạch ra chiến lược xây dựng, cải tạo và phát triển của từng ngành kinh tế, trước hết là những ngành quan trọng, có vị trí hàng đầu hoặc có vai trò then chốt. Phải dày công nghiên cứu, vạch chiến lược đúng của một loạt ngành: chiến lược nông nghiệp (trong đó có riêng chiến lược lương thực, chiến lược về một số nông sản chính), chiến lược lâm nghiệp, chiến lược thủy sản, chiến lược hàng tiêu dùng (trong đó có riêng chiến lược về vải mặc), chiến lược điện, chiến lược than, chiến lược dầu và khí, chiến lược cơ khí, chiến lược luyện kim, chiến lược hoá chất, chiến lược giao thông vận tải, chiến lược kinh tế đối ngoại. Phải vạch ra những chiến lược và chủ trương cụ thể về thị trường, giá cả, tài chính, cung ứng vật tư, v.v. nghĩa là chiến lược cụ thể về phân phối lưu thông. Cũng có thể xếp vào loại chiến lược bộ phận này một loạt chiến lược rất quan trọng là chiến lược phát triển kinh tế địa phương, đặc biệt là xây dựng 400 huyện. 

Tuy gọi là chiến lược bộ phận, song các chiến lược nói trên đều có ý nghĩa cả nước, sự chính xác hoặc sai sót ở đây có hệ quả sâu rộng đến toàn bộ nền kinh tế quốc dân, đến đời sống của cả xã hội. 

Ba là: Hoàn toàn phù hợp với đường lối chung và đường lối kinh tế, căn cứ vào đường lối ấy và nhằm thực hiện đường lối ấy, phải vạch ra một hệ thống quản lý kinh tế – xã hội đúng đắn. Những bộ phận hợp thành chủ yếu của hệ thống quản lý là hệ thống tổ chức sản xuất và kinh doanh, chế độ kế hoạch hoá, các chính sách đòn bẩy, chế độ hạch toán kinh tế và kinh doanh, tổ chức bộ máy quản lý và chế độ làm việc. Cần nói rõ thêm rằng: việc vạch ra (thiết kế) hệ thống quản lý thì thuộc về lĩnh vực cụ thể hoá đường lối, còn việc áp dụng (vận hành) hệ thống quản lý là thuộc về lĩnh vực tổ chức thực hiện. 

B. Chúng ta đã nhiều lần nhấn mạnh rằng sau khi đã có đường lối, thì công tác quản lý và tổ chức thực hiện có vai trò cực kỳ quan trọng, quyết định bản thân vận mệnh của đường lối. 

Việc tổ chức thực hiện bao gồm những nhân tố chính như sau: 

Một là, ý chí chiến đấu cách mạng, tinh thần hăng hái vươn lên, không ngại khó, ngại khổ, đi đôi với ý thức tổ chức, kỷ luật, thái độ nghiêm chỉnh chấp hành đường lối của Đảng. 

Hai là, thiết lập cho được cơ chế Đảng lãnh đạo, nhân dân làm chủ, Nhà nước quản lý, thành một hệ thống có sức mạnh tổng hợp to lớn, trong đó mỗi bộ phận đều mạnh: Đảng mạnh, Nhà nước mạnh, các đoàn thể quần chúng mạnh, nhân dân thực sự làm chủ tập thể, và giữa các bộ phận có những mối quan hệ đúng đắn, từ cơ sở, các địa phương, các ngành, đến cả nước. ở trên đã nói, việc xây dựng các cơ cấu kinh tế địa phương, trong đó quan trọng vào bậc nhất là 400 huyện. ở đây nói thêm: phải xây dựng các ngành kinh tế - kỹ thuật quan trọng, phải kiện toàn bộ máy nhà nước như Hội đồng Bộ trưởng và các bộ, các uỷ ban nhân dân các cấp. 

Sức mạnh của hệ thống tổ chức là ở tính hợp lý của các chức năng, nhiệm vụ, tính chính xác của các mối quan hệ, đồng thời là ở năng lực và phẩm chất của con người, của cán bộ. Hiện nay, điều quyết định để bảo đảm hiệu lực của tổ chức là thực hiện đầy đủ chính sách cán bộ của Đảng, điều này đòi hỏi cải tiến mạnh mẽ các khâu quy hoạch, lựa chọn, đề bạt, sắp xếp, bồi dưỡng và đào tạo cán bộ. 

Ba là, có một chế độ làm việc thực sự cách mạng và khoa học, về chuẩn bị quyết định, ra quyết định và thực hiện quyết định. ở đây, cần nhấn mạnh vai trò quan trọng và trách nhiệm rất lớn của các ban tham mưu của Đảng và Nhà nước, của việc sử dụng sự hiểu biết của các nhà chuyên môn, các cán bộ khoa học - kỹ thuật trong từng lĩnh vực. Đồng thời nhấn mạnh tầm quan trọng rất lớn của công tác điều hành, công tác kiểm tra, và của việc thưởng, phạt nghiêm minh. 

Những ưu điểm, khuyết điểm và những bài học của chúng ta trong 5 năm qua về cụ thể hoá đường lối của Đảng và về quản lý và tổ chức thực hiện đã được phân tích trong Báo cáo chính trị và trong bản kiểm điểm nội bộ. 

C. Nhân tố quyết định mọi thắng lợi là nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng 


Đảng ta có những ưu điểm rất lớn, đã lãnh đạo nhân dân ta đấu tranh giành được thắng lợi vĩ đại cho cách mạng Việt Nam. Song hiện nay, tình hình tổ chức và tư tưởng trong Đảng có những mặt giảm sút; trình độ của Đảng nói chung chưa ngang tầm của nhiệm vụ trong giai đoạn mới của cách mạng. Nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng là một việc hết sức cần thiết và cấp bách trong lúc này. 

Phải phấn đấu liên tục làm cho Đảng ta được trang bị vững chắc chủ nghĩa Mác - Lênin, nắm vững hơn nữa đường lối cách mạng xã hội chủ nghĩa và đường lối xây dựng kinh tế xã hội chủ nghĩa do Đại hội lần thứ IV vạch ra, loại trừ mọi ảnh hưởng của chủ nghĩa cơ hội. Phải xây dựng Đảng ta đủ sức làm tròn sứ mệnh lịch sử xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội và... bảo vệ vững chắc thành quả của độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, bảo vệ sự trong sáng của chủ nghĩa Mác - Lênin, góp phần giành thắng lợi trong cuộc đấu tranh "ai thắng ai" trên phạm vi thế giới. 

- Phải xây dựng Đảng ta từ chỗ chỉ thành thạo trong cách mạng dân tộc dân chủ, trong lãnh đạo đánh giặc, trở thành một Đảng thành thạo cả trong lãnh đạo cách mạng xã hội chủ nghĩa, lãnh đạo xây dựng kinh tế. Phải nâng cao trình độ hiểu biết của Đảng về quy luật của cách mạng xã hội chủ nghĩa, nhất là quy luật kinh tế. Phải đào tạo một đội ngũ cán bộ biết quản lý kinh tế, quản lý xã hội, đặc biệt là thành thạo về kinh doanh, buôn bán và hiểu biết khá về khoa học - kỹ thuật. 

- Phải đấu tranh khắc phục những khuyết điểm của Đảng về tính cách mạng, tính khoa học, về óc thực tiễn và óc sáng tạo. Đảng viên phải rèn luyện thành những chiến sĩ bônsêvích: trung thành, tận tụy, hy sinh, xả thân. Phải loại trừ cho được những tật bệnh đang đục khoét cơ thể của Đảng, làm giảm phẩm chất cách mạng của người cộng sản. Phải đưa ra khỏi Đảng những phần tử cơ hội, thoái hoá, biến chất, sâu mọt, thu hút vào Đảng những phần tử ưu tú trong nhân dân lao động được rèn luyện và trưởng thành trong sản xuất và chiến đấu. 

- Phải giữ vững nguyên tắc lêninnít trong sinh hoạt đảng, thực hành tự phê bình, phê bình nghiêm túc. 

- Phải kế thừa và giữ vững truyền thống của Đảng, truyền thống của một đảng cách mạng kiên cường, đoàn kết nhất trí, luôn luôn là một ý chí và chỉ một mà thôi, không chồng chềnh nghiêng ngả trước mọi phong ba, bão táp. 



* * 

Năm năm qua, trong cục diện chung của cách mạng, bên cạnh những thắng lợi và thành tựu to lớn, thực trạng kinh tế- xã hội có nhiều khó khăn, và có những khó khăn nghiêm trọng, đồng thời cũng bộc lộ những khuyết điểm, sai lầm của chúng ta trong lãnh đạo và quản lý kinh tế. Hiện nay, vấn đề nóng hổi trong hoạt động và đời sống, trong ý nghĩ và tâm tư của cán bộ và nhân dân là làm sao chuyển biến được tình hình, khắc phục sự chậm chạp của sản xuất, chấm dứt sự lộn xộn của phân phối, lưu thông, đẩy lùi các hiện tượng tiêu cực, giải quyết những thiếu thốn quá đáng trong đời sống và đưa nền kinh tế tiến lên. 

Vì những khó khăn và khuyết điểm sai lầm kéo dài, cho nên trong tâm tư của cán bộ và nhân dân, có sự thiếu tin tưởng vào khả năng chuyển biến tình hình. 

Kỳ này chúng ta cần thảo luận ráo riết để khắc phục tâm tư ấy, tạo ra niềm tin mãnh liệt, trước hết là ở trong chúng ta. 

Khắc phục những khó khăn và khuyết điểm sai lầm, chuyển được tình hình không phải là giản đơn, và cũng không nên nghĩ đến một vài biện pháp giản đơn. Muốn chuyển, phải phấn đấu trên nhiều mặt, phải chuyển toàn diện. Phải chuyển trên tất cả các lĩnh vực từ cụ thể hoá đường lối đến hệ thống quản lý và tổ chức thực hiện, từ trung ương đến cơ sở. Đặc biệt là bản thân Đảng ta phải chuyển. 

Những khó khăn lớn trước mắt về kinh tế xét thực chất và trong một chừng mực rất lớn, là sự thể hiện những khó khăn cơ bản của quá trình tiến thẳng từ sản xuất nhỏ lên sản xuất lớn xã hội chủ nghĩa trong điều kiện cụ thể của nước ta. Đó chính là những khó khăn cơ bản đang diễn ra hằng ngày trong cuộc sống một cách bức xúc. 

Vì vậy, tìm cách vượt qua những khó khăn trước mắt, chúng ta gặp con đường và những biện pháp cơ bản để đưa đất nước, đưa nền kinh tế tiến lên, nhìn chung suốt thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, và nhìn sát hơn cho chặng đường của kế hoạch 5 năm 1981-1985 và những năm 80. 

Hơn bao giờ hết, cần có sự hiểu đúng, sự nhất trí cao, sự cụ thể hoá tốt, sự tổ chức thực hiện nghiêm chỉnh và có hiệu lực đối với đường lối chung và đường lối kinh tế của Đảng. 

Hãy thử đặt câu hỏi: phải chăng có thể tạm gác những vấn đề cơ bản sang một bên, và do đó, cũng tạm chưa thi hành đường lối, chủ trương có tính chất cơ bản, để vạch ra những chủ trương khác - những chủ trương cấp bách mà tình thế đang đòi hỏi - nhằm tập trung toàn bộ lực lượng giải quyết những vấn đề bức xúc của thực trạng kinh tế - xã hội trước mắt, tạo ra những tiền đề cần thiết, sau đó sẽ nói tới những vấn đề cơ bản, sẽ thực hiện đường lối cơ bản để tiến lên? 

Những vấn đề bức xúc hiện nay là gì? Là thiếu lương thực, thực phẩm, nhất là phần lương thực của Nhà nước; là thiếu vải mặc, thiếu những hàng tiêu dùng thiết yếu nhất cũng như những hàng tiêu dùng thông thường; là thiếu điện, than, xăng dầu, thiếu vật tư kỹ thuật cho nông nghiệp, thiếu nguyên liệu cho công nghiệp; là sự ì ạch về giao thông vận tải. Từ sự trì trệ, chậm chạp của sản xuất, cộng thêm những sai lầm kéo dài về quản lý và tổ chức thực hiện, đã dẫn đến tình trạng mất cân đối nặng nề về xuất - nhập khẩu và thanh toán quốc tế, bội chi rất nghiêm trọng về tài chính và tiền tệ, có phần rối ren về giá cả và thị trường, các hiện tượng tiêu cực phát triển. Tóm lại, vấn đề bức xúc hiện nay là bảo đảm nhu cầu tối thiểu về ăn, mặc, ở, đồ dùng hằng ngày, đi lại, học hành, chữa bệnh của nhân dân, bảo đảm guồng máy sản xuất xã hội chạy được đều đặn, bình thường, các năng lực sản xuất sẵn có được sử dụng, từ đó mà thiết lập trật tự mới trên mặt trận phân phối, lưu thông, tiêu dùng, đẩy lùi các hiện tượng tiêu cực về kinh tế - xã hội. 

Chỉ cần kể ra những sự thiếu thốn và gọi tên những vấn đề, cũng đủ thấy rõ đây vừa là những yêu cầu cấp bách trước mắt mà cũng chính là những yêu cầu cơ bản, nói đúng hơn, đây là phần cấp bách của nhiều yêu cầu cơ bản. Chính đường lối chung và đường lối kinh tế của Đảng đã được vạch ra nhằm giải quyết những yêu cầu vừa cấp bách vừa cơ bản này, từ đó đưa đất nước tiến lên, chứ không phải để làm gì khác. 

Muốn đáp ứng những yêu cầu vừa cấp bách vừa cơ bản trên đây, phải sắp xếp lại nền kinh tế, bao gồm cả cơ cấu xây dựng cơ bản, cơ cấu sản xuất và cơ cấu phân phối, lưu thông, tiêu dùng. Điều đó là đúng. Song, sắp xếp lại nền kinh tế hoàn toàn không chỉ có nghĩa là soát xét danh mục các công trình xây dựng để đình hoãn một số công trình chưa cần thiết hoặc không có hiệu quả, và phân loại các xí nghiệp sẵn có xem loại nào đáng được ưu tiên cung ứng điện, than và các phương tiện vật chất khác, loại nào được cung ứng một phần, loại nào cần chuyển hướng sản xuất, loại nào quá thua lỗ, nên đóng cửa. Nếu sắp xếp lại nền kinh tế chỉ là như thế thì quá giản đơn, hình như tất cả vấn đề chỉ là sửa chữa một số sai sót về đầu tư, và điều chỉnh các cơ sở cho thích nghi với tình hình thiếu năng lượng và nguyên liệu. Không phải thế. Sắp xếp lại nền kinh tế là công việc chúng ta đã làm ngay từ khi miền Nam được giải phóng, cả nước thống nhất, và hiện nay vẫn phải tiếp tục làm một cách chính xác hơn, vững chắc hơn. Sắp xếp lại nền kinh tế có nội dung cơ bản nhất và quan trọng nhất là cải tạo cả bản chất và chuyển lại cả phương hướng của kinh tế quốc dân, tổ chức lại toàn bộ nền sản xuất xã hội, xoá bỏ tình trạng sản xuất nhỏ, khắc phục hậu quả chiến tranh và sự chia cắt lâu dài của đất nước, loại trừ di sản độc hại của chủ nghĩa thực dân mới, hình thành cơ cấu kinh tế mới theo đúng đường lối của Đảng. 

Chỉ có thấu suốt đường lối của Đảng về cơ cấu kinh tế, thì mới sửa chữa được những sai lầm về đầu tư, và làm cho guồng máy sản xuất, phân phối, lưu thông, tiêu dùng chạy được đều đặn, theo quỹ đạo đúng của sự phát triển. 

Năm năm qua, chúng ta có ngày càng nhiều những xí nghiệp, hợp tác xã, một số huyện, tỉnh và ngành, mà điều kiện và phương tiện không hơn, thậm chí có khi còn kém các đơn vị khác, nhưng đã thu được thành tích xuất sắc trong hoạt động kinh tế, hoặc là thành tích tương đối toàn diện, hoặc là thành tích về từng mặt. Điều rất hay là chính cán bộ và quần chúng ở cơ sở và địa phương đã có những sáng kiến có giá trị lớn, có tác dụng phổ biến, chứng minh và góp phần cụ thể hoá đường lối của Đảng. 

Những đơn vị đạt thành tích tốt có đơn vị ở trong Nam, có đơn vị ở ngoài Bắc, mỗi đơn vị có những đặc điểm và điều kiện riêng, thành tích của các đơn vị có những khía cạnh khác nhau, từng đơn vị có cách làm và bước đi của mình. Song, tất cả các đơn vị ấy đều có một số điểm chung. Đó là: tất cả các đơn vị ấy đều tin tưởng, hăng hái chấp hành đường lối của Đảng, đều thực hiện được - ở mức độ khác nhau - quyền làm chủ tập thể của nhân dân lao động, đều tìm được cách sử dụng tốt lao động, đất đai và các năng lực sẵn có, đều biết coi trọng hiệu quả kinh tế trong kế hoạch, hạch toán và kinh doanh, đều vận dụng được sự thống nhất giữa ba lợi ích, đều nhạy cảm với cái mới và mạnh dạn phát huy sáng kiến, đều phát động được phong trào quần chúng, và trong nhiều trường hợp, nội dung của phong trào đã dần dần bao quát được ba cuộc cách mạng. Tóm lại, các đơn vị xuất sắc đã kiên quyết chấp hành và chấp hành đúng đường lối của Đảng. 

Cần vạch rõ rằng: đường lối chung và đường lối kinh tế của Đảng không thay thế cho kế hoạch nhà nước, không thay thế cho các chủ trương cụ thể. Đường lối và kế hoạch cũng không thay được công tác quản lý và tổ chức thực hiện. Xây dựng kế hoạch 5 năm và hằng năm phải rút bài học kinh nghiệm những năm qua để loại trừ cách làm kế hoạch vừa không thấu suốt đường lối của Đảng, vừa thiếu căn cứ, không xuất phát đầy đủ từ thực tế, không làm ở ba cấp cơ bản, không làm từ cơ sở, không hạch toán kinh tế, không kinh doanh, gây ra những tổn thất không đáng có. Kế hoạch nhà nước phải theo sát những chủ trương cụ thể được xác định đúng đắn cho từng ngành, từng lĩnh vực, từng địa phương và cả đến từng cơ sở. Kế hoạch phải dựa trên những phương án kinh tế - kỹ thuật được lựa chọn kỹ, phải cân đối rất vững chắc, thiết thực và đồng bộ, cân đối cho cả nền kinh tế và cân đối cho từng công việc quan trọng. Kế hoạch phải có hệ thống chỉ tiêu định lượng cụ thể, nêu ra những mức độ phấn đấu được cân nhắc chặt chẽ, rõ ràng có khả năng hiện thực đạt và vượt mức. Tất cả những điều trên đây là hoàn toàn cần thiết và cực kỳ quan trọng. 

Song, toàn bộ kế hoạch nhà nước cũng như các chủ trương cụ thể về từng ngành, từng lĩnh vực phải hoàn toàn phù hợp với đường lối của Đảng, chứ không thể ra ngoài hoặc sai chệch đường lối. 

Trước mắt chúng ta là triển vọng rất tốt đẹp của sự nghiệp cách mạng, đồng thời là những năm phấn đấu rất gian khổ. Phải sản xuất nhiều hơn, tốt hơn, với những phương tiện vật chất bằng hoặc ít hơn trước. Phải hết sức tiết kiệm trong tiêu dùng cho xây dựng, sản xuất, quốc phòng cũng như đời sống, coi mọi sự lãng phí là phạm tội với đất nước, nhất thiết không tiêu dùng quá khả năng sản xuất, nhất thiết phải dành dụm để tăng lực lượng dự trữ, để có tích luỹ từ nội bộ nền kinh tế quốc dân. 

Chúng ta phải ra sức vươn lên, nắm vững đường lối của Đảng, cụ thể hoá đường lối một cách đúng đắn, làm tốt kế hoạch, hạch toán kinh tế và kinh doanh xã hội chủ nghĩa, đổi mới cơ chế quản lý, tổ chức thực hiện và điều hành công việc một cách nghiêm chỉnh, có kỷ luật và hiệu lực cao, phát động cho được phong trào cách mạng của nhân dân lao động ở nông thôn và thành thị. Lúc này hơn bao giờ hết, phải nêu cao ý chí cách mạng, tinh thần chiến đấu kiên cường, nhằm thẳng vào khó khăn và chiến thắng khó khăn. Từ trung ương, các ngành, các địa phương đến cơ sở, phải cùng nhau chuyển, ra sức phát huy mọi khả năng, xoá bỏ những quy định quan liêu, trói buộc, đồng thời giữ vững tập trung dân chủ, khắc phục tình trạng vô kỷ luật và óc bản vị, địa phương chủ nghĩa. Phải dồn sức của tất cả các cấp hướng về cơ sở, chỉ đạo, giúp đỡ và phục vụ cho cơ sở, coi cơ sở sản xuất, kinh doanh là tiền tuyến của mặt trận kinh tế, tạo cho được một phong trào cách mạng sôi nổi ở cơ sở. 

Làm được như vậy, nhất định chúng ta sẽ vượt qua những khó khăn hiện nay, thực hiện được một sự chuyển biến rõ rệt của cục diện kinh tế, thu hẹp những mặt mất cân đối bức bách nhất, đáp ứng những nhu cầu cấp thiết nhất, nâng cao lòng tin tưởng và phấn khởi của cán bộ, đảng viên và quần chúng, sáng tạo điều kiện cho những bước tiến mạnh mẽ trong chặng đường tiếp sau. 

Chúng ta nhất định phấn đấu để đoàn kết toàn Đảng, lãnh đạo toàn dân, toàn quân ta hăng hái tiến lên giành những thắng lợi to lớn hơn nữa trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa. 

Lưu tại Kho Lưu trữ
Trung ương Đảng

Phản hồi

Thông tin người gửi phản hồi

Các tin khác

Ban hành Quy chế bầu cử trong Đảng

(ĐCSVN) - Ngày 10/10, thay mặt Ban Chấp hành Trung ương Đảng, Tổng Bí thư Tô Lâm đã ký Quyết định số 190-QĐ/TW về việc ban hành Quy chế bầu cử trong Đảng.

Kiểm soát quyền lực, phòng, chống tham nhũng, tiêu cực trong quản lý, sử dụng tài chính, tài sản công

(ĐCSVN) - Bộ Chính trị vừa ban hành Quy định số 189-QĐ/TW ngày 08/10/2024 về kiểm soát quyền lực, phòng, chống tham nhũng, tiêu cực trong quản lý, sử dụng tài chính, tài sản công.

Bộ Chính trị ban hành quy định phòng chống tham nhũng, tiêu cực trong điều tra, xét xử

(ĐCSVN) – Ngày 27/10/2023, Bộ Chính trị đã ban hành Quy định số 132-QĐ/TW về kiểm soát quyền lực, phòng, chống tham nhũng, tiêu cực trong hoạt động điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án.

Tập trung tuyên truyền những chủ đề lớn, trọng tâm từ nay đến Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIV của Đảng

(ĐCSVN) - Ban Tuyên giáo Trung ương yêu cầu thông tin chính xác, kịp thời với nhiều hình thức linh hoạt, sáng tạo, phong phú, sinh động gắn với tuyên truyền đại hội đảng bộ các cấp, tiến tới Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIV của Đảng và tuyên truyền kỷ niệm các ngày lễ lớn, sự kiện lịch sử quan trọng của đất nước trong năm 2024, 2025.

Quy trình kỷ luật đảng viên thuộc thẩm quyền của Trung ương Đảng, Bộ Chính trị, Ban Bí thư

(ĐCSVN) - Thay mặt Bộ Chính trị, Thường trực Ban Bí thư Lương Cường vừa ký Quyết định số 165-QĐ/TW ngày 6/6/2024 của Bộ Chính trị ban hành Quy trình xem xét, thi hành kỷ luật đối với tổ chức Đảng, đảng viên thuộc thẩm quyền của Ban Chấp hành Trung ương Đảng, Bộ Chính trị, Ban Bí thư.

Liên kết website