Nghị quyết số 02-NQ/HNTW ngày 09/4/1987, Hội nghị lần thứ hai Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khoá VI) giải quyết những vấn đề cấp bách về phân phối, lưu thông

Từ sau cuộc tổng điều chỉnh giá, lương, tiền cuối năm 1985, tình hình kinh tế - xã hội nước ta, trước hết là tình hình phân phối, lưu thông, ngày càng xấu đi. Bộ Chính trị và Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khoá V) đã phân tích sai lầm, khuyết điểm trên lĩnh vực này và đề ra các biện pháp khắc phục, nhưng nhìn chung, tình hình không được cải thiện mà còn trở nên căng thẳng, rối ren hơn. Nền kinh tế càng lâm vào tình trạng lạm phát trầm trọng, bội chi ngân sách lớn, giá cả tăng vọt, đồng tiền mất giá nhanh, tiền lương thực tế giảm sút, đời sống của nhân dân lao động, trước hết là của công nhân, viên chức và lực lượng vũ trang gặp nhiều khó khăn, công bằng xã hội bị vi phạm, các hiện tượng tiêu cực tiếp tục phát triển. Tình hình đó tác động rất xấu tới toàn bộ các hoạt động sản xuất, kinh doanh và sinh hoạt xã hội.

Thực trạng nói trên là hậu quả tổng hợp của nhiều yếu tố cùng tác động trong nền kinh tế và đời sống xã hội mà nguyên nhân chủ yếu, vừa sâu xa, vừa trực tiếp là việc duy trì quá lâu cơ chế tập trung quan liêu, bao cấp, vi phạm quy luật khách quan trong quản lý kinh tế.

Phân phối, lưu thông vẫn đang là mặt trận nóng bỏng của nền kinh tế. Phương hướng vừa cơ bản, vừa cấp bách để giải quyết tình hình này là xoá bỏ cơ chế tập trung quan liêu, bao cấp, chuyển hẳn hoạt động của nền kinh tế sang hạch toán kinh doanh xã hội chủ nghĩa, đúng nguyên tắc tập trung dân chủ, làm cho toàn bộ hệ thống sản xuất, lưu thông hoạt động theo quy luật khách quan, tăng nhanh sản phẩm xã hội. Chính thực trạng phân phối, lưu thông nói trên đang gây khó khăn cho việc thực hiện hạch toán kinh doanh xã hội chủ nghĩa và cản trở sản xuất phát triển. Báo cáo chính trị tại Đại hội lần thứ VI của Đảng đã nêu rõ: "Trước mắt, thực hành những biện pháp có hiệu quả để hãm bớt lạm phát và tốc độ tăng giá, giảm bớt khó khăn về đời sống của người ăn lương. Có làm được việc đó mới tạo được những tiền đề về kinh tế, xã hội và tâm lý cho việc đẩy mạnh quá trình cải cách". Đó cũng là điều kiện cần thiết để từng bước đưa tình hình kinh tế, xã hội vào thế ổn định và phát triển.

Phần I

Mục tiêu, chính sách và biện pháp giải quyết một bước những vấn đề cấp bách Về phân phối, lưu thông

Để thực hiện những nhiệm vụ mà Đại hội lần thứ VI của Đảng đã vạch ra, việc giải quyết những vấn đề cấp bách về phân phối, lưu thông phải nắm vững mục tiêu: giảm tỉ lệ bội chi ngân sách, giảm nhịp độ tăng giá, giảm tốc độ lạm phát, giảm khó khăn về đời sống của nhân dân lao động, trên cơ sở xoá bỏ cơ chế tập trung quan liêu, bao cấp, chuyển các hoạt động kinh tế sang hạch toán kinh doanh xã hội chủ nghĩa, nâng cao vai trò chủ đạo của kinh tế quốc doanh trong nền kinh tế và phát huy khả năng tích cực của các thành phần kinh tế khác, mở rộng giao lưu hàng hoá, giải phóng sức sản xuất.

Phải thấu suốt tư tưởng chỉ đạo sau đây:

Một là, đổi mới cơ chế, chính sách và tổ chức phân phối, lưu thông theo hướng vận dụng đúng đắn các quy luật kinh tế, lấy kế hoạch hoá làm trung tâm, mở rộng quan hệ hàng hoá - tiền tệ, chuyển hẳn sang hạch toán kinh doanh xã hội chủ nghĩa, gắn liền với đổi mới các khâu khác trong cơ chế quản lý.

Hai là, bước đi phải phù hợp với điều kiện thực tế, vừa tích cực, vừa vững chắc. Khẩn trương thực hiện những biện pháp đã thấy rõ là cần thiết và có điều kiện làm; mặt khác, tránh lối làm nóng vội, giản đơn, nhất loạt, thiếu chuẩn bị, gây ra những biến động lớn, những hậu quả xấu về kinh tế và về xã hội. Trong mỗi bước đi phải có sự đồng bộ về chính sách, biện pháp và tổ chức, đồng thời tập trung giải quyết khâu then chốt để xoay chuyển tình hình.

Ba là, tăng cường hiệu lực lãnh đạo tập trung thống nhất của Trung ương đi đôi với phát huy mạnh mẽ tính năng động, sáng tạo của các cơ sở, địa phương và ngành. Tạo thành phong trào cách mạng của nhân dân lao động trong việc giải quyết những vấn đề cấp bách về phân phối, lưu thông. Gắn với cuộc vận động làm trong sạch tổ chức đảng và bộ máy nhà nước, làm lành mạnh các quan hệ xã hội.

Bốn là, sử dụng có hiệu quả và mở rộng các hình thức hợp tác quốc tế về kinh tế, nhất là với Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa khác, để có thêm điều kiện góp phần giải quyết những vấn đề kinh tế cấp bách.

I. CHÍNH SÁCH GIÁ CẢ VÀ LƯU THÔNG VẬT TƯ, HÀNG HOÁ.

1- Chính sách trao đổi hàng hoá giữa Nhà nước và nông dân.

Để góp phần tích cực phát triển nông nghiệp là mặt trận hàng đầu, thực hiện tốt ba chương trình kinh tế, trước hết là chương trình lương thực - thực phẩm, tăng cường liên minh công nông, đi đôi với việc thực hiện những chủ trương lớn mà Đại hội VI đã đề ra, cần áp dụng những chính sách, biện pháp dưới đây:

a) Ngoài thuế là nghĩa vụ đóng góp bắt buộc, từ nay nghiêm cấm các ngành, các cấp tuỳ tiện giao thêm cho các hợp tác xã, tập đoàn sản xuất và hộ nông dân "nghĩa vụ nộp sản phẩm" hoặc đặt thêm các khoản đóng góp gây thiệt hại cho dân. Cần rút kinh nghiệm và chỉ đạo chặt chẽ để thực hiện tốt hơn phương châm "Nhà nước và nhân dân cùng làm".

Cải tiến chính sách thuế nông nghiệp theo hướng khuyến khích sản xuất, bảo đảm sự đóng góp công bằng, buộc mọi tập thể và cá nhân phải sử dụng đất tiết kiệm và có hiệu quả; trên cơ sở đó, ổn định mức thuế đến năm 1990.

Các hợp tác xã và tập đoàn sản xuất cần xác định mức khoán hợp lý, sửa đổi các khoản phân phối mang tính bao cấp không hợp lý, đưa ra Đại hội xã viên bàn bạc và quyết định. ổn định mức khoán đến năm 1990.

b) Mọi quan hệ trao đổi giữa các tổ chức kinh tế của Nhà nước với hợp tác xã, tập đoàn sản xuất nông nghiệp và các hộ nông dân phảitheo nguyên tắc bình đẳng, thuận mua vừa bán, bảo đảm củng cố liên minh công nông.

Xoá bỏ chế độ trao đổi hiện vật giữa Nhà nước và nông dân, thực hiện chế độ hợp đồng kinh tế trong việc mua nông sản và bán vật tư với nông dân. Nhà nước và nông dân đều có nghĩa vụ làm đúng hợp đồng kinh tế đã ký kết.

c) Nhà nước xác định lại tỉ giá trao đổi hợp lý giữa vật tư và nông sản trong hợp đồng, trước hết là giữa thóc với phân đạm, theo hướng khuyến khích sản xuất theo kế hoạch. Mức giá mua thóc và các nông sản khác trong hợp đồng cũng như ngoài hợp đồng đều phải theo nguyên tắc thoả thuận, bảo đảm cho nông dân trong điều kiện sản xuất bình thường bù đắp được chi phí xã hội cần thiết và có lãi 30-40% so với giá thành (tỉ lệ lãi có phân biệt theo loại sản phẩm và theo vùng; đối với thóc là 40%). Mức giá phải phù hợp với sức mua của đồng tiền và tính đến quan hệ cung - cầu.

d) Vận dụng rộng rãi phương thức mua, bán thanh toán ngay bằng tiền, theo giá đã thoả thuận ghi trong hợp đồng. Đối với những nơi chưa có điều kiện có thể vẫn áp dụng phương thức ký hợp đồng ứng vật tư trước và thu sản phẩm sau. Dù theo phương thức nào, việc bán vật tư sản xuất nông nghiệp cũng phải căn cứ vào kế hoạch sản xuất và định mức kinh tế - kỹ thuật. Nhà nước cùng với các hợp tác xã và tập đoàn sản xuất cần giúp đỡ những hộ nông dân nghèo có vốn và vật tư sản xuất, không bị bóc lột vì phải vay nặng lãi. Các công ty kinh doanh lương thực và nông sản cùng các tỉnh, thành phố lựa chọn phương thức mua bán với nông dân phù hợp điều kiện cụ thể của từng nơi.

đ) Chuyển toàn bộ việc mua, bán lương thực của Nhà nước sang cơ chế hạch toán kinh doanh xã hội chủ nghĩa. Tổ chức kinh doanh lương thực có trách nhiệm bảo đảm lương thực cho các đối tượng Nhà nước quy định, được giao đủ quyền hạn, phương tiện tương ứng với trách nhiệm kinh doanh theo cơ chế tự chủ về tài chính, tự bù đắp chi phí, nói chung không lấy lãi trong việc bán lương thực cho những nhu cầu thiết yếu, và Nhà nước không bù lỗ. Phát triển kinh doanh tổng hợp (mua bán, chế biến, xuất nhập khẩu lúa, màu, phụ phẩm, v.v.) lấy lãi ở khâu kinh doanh này bù lỗ cho khâu kinh doanh khác. Trên cơ sở đó, Nhà nước Trung ương định tỉ giá trao đổi giữa một số loại vật tư, hàng hoá và thóc, định khung giá mua thóc, định giới hạn cao nhất về giá bán lẻ gạo ở từng vùng trong từng thời gian, hướng dẫn và giao quyền cho tổ chức kinh doanh lương thực cùng các địa phương định mức giá mua, bán cụ thể. Phải giải quyết đúng đắn mối quan hệ giữa các lợi ích, khuyến khích các tổ chức kinh doanh lương thực từ trên xuống dưới mở rộng kinh doanh, cải tiến quản lý, giảm chi phí, hao hụt; không tuỳ tiện đẩy giá lên.

Việc chuyển sang cơ chế kinh doanh lương thực phải được xúc tiến khẩn trương để thực hiện từ vụ mùa sớm và vụ mùa năm 1987.Trước mắt, việc mua lương thực trong hợp đồng kinh tế đối với vụ đông xuân và hè thu tạm giữ theo tỉ giá và mức giá hiện hành ở các địa phương. Ngoài phần mua theo hợp đồng, các địa phương mua phần nông sản hàng hoá còn lại theo giá thoả thuận, linh hoạt, đấu tranh khắc phục từng bước tính tự phát của giá cả thị trường tự do. Thương nghiệp xã hội chủ nghĩa cần chủ động kinh doanh, mua được nhiều nông sản hàng hoá vào thời điểm nông dân bán ra nhiều nhất để có lực lượng tác động đến quan hệ cung - cầu, vươn lên làm chủ thị trường lương thực và các nông sản chủ yếu khác; kiên quyết ngăn chặn tệ tranh mua, kích giá, tuỳ tiện nâng giá bán vật tư và hàng tiêu dùng; tăng cường vận động nông dân bán nông sản cho Nhà nước; phát hiện và trừng trị nghiêm khắc bọn đầu cơ, buôn bán trái phép.

Điều quan trọng hàng đầu là: các tổ chức kinh doanh của Nhà nước phải cố gắng cung ứng đủ vật tư nông nghiệp, dành thêm vật liệu xây dựng và một số hàng tiêu dùng thích hợp để cân đối tiền - hàng trong quan hệ với nông dân; chấn chỉnh ngay việc kinh doanh vật tư, hàng hoá, bảo đảm đưa đến các hợp tác xã, tập đoàn sản xuất và các hộ nông dân một cách kịp thời, đúng giá quy định và không mất mát; nghiêm cấm việc tuỳ tiện cộng thêm các loại phí và lãi không hợp lý qua các cấp trung gian, đẩy giá bán lên cao.

e) Trên nguyên tắc bảo đảm thực hiện đầy đủ nghĩa vụ thuế và các hợp đồng bán sản phẩm đã ký với các tổ chức kinh tế của Nhà nước, các hợp tác xã, tập đoàn sản xuất và hộ nông dân được quyền tự do lưu thông, tiêu thụ lương thực, thực phẩm và các nông sản hàng hoá khác (trừ một số sản phẩm không được tự do lưu thông do Nhà nước quy định). Thương nghiệp quốc doanh liên kết chặt chẽ với các hợp tác xã nông nghiệp, tập đoàn sản xuất, hợp tác xã mua bán để nắm tận gốc đại bộ phận lương thực và nông sản hàng hoá quan trọng, sử dụng tiểu thương, hàng xáo trong phạm vi cần thiết. Mở rộng sự liên kết, tự điều hoà lương thực giữa nơi thừa và nơi thiếu, thu hẹp dần diện đối tượng dân cư mà Nhà nước phải cung ứng lương thực thường xuyên, đồng thời xem xét lại mức cung ứng cho hợp lý. Trung ương tập trung lực lượng bảo đảm cung cấp ổn định lương thực cho quân đội, công an và những khu vực trọng điểm.

2- Đối với các xí nghiệp quốc doanh, chính sách giá cả và lưu thông vật tư, hàng hoá phải nhằm chuyển các xí nghiệp sang hạch toán kinh doanh xã hội chủ nghĩa, phát huy được vai trò chủ đạo trong nền kinh tế, bảo đảm nguồn thu lớn nhất cho ngân sách nhà nước.

a) Tính đúng, tính đủ giá "đầu vào" và "đầu ra" để thúc đẩy hạch toán kinh doanh xã hội chủ nghĩa, song phải xử lý từng bước trên nguyên tắc không cản trở sản xuất, lưu thông, không gây đột biến giá bán lẻ kinh doanh thương nghiệp và phù hợp với sức mua của nhân dân lao động.

Trên cơ sở tỉ giá kết toán hợp lý đối với hàng nhập khẩu, tính đủ giá vật tư, tính khấu hao tài sản cố định với mức độ có phân biệt đối với từng ngành, tuỳ theo loại sản phẩm và loại xí nghiệp mà Nhà nước có cách xử lý khác nhau ở "đầu ra".

- Loại phải bảo đảm có lãi và tích luỹ cho Nhà nước (chủ yếu là xí nghiệp sản xuất hàng tiêu dùng).

- Loại tạm thời chưa phải nộp tích luỹ cho Nhà nước.

- Loại được Nhà nước trợ giá trong thời hạn nhất định (chủ yếu là xí nghiệp công nghiệp nặng và vận tải).

- Loại làm ăn thua lỗ kéo dài phải chuyển hướng sản xuất hoặc chuyển thành cơ sở kinh tế tập thể.

Theo nguyên tắc nói trên, Hội đồng Bộ trưởng thông báo cho các ngành, các xí nghiệp những thông số cần thiết, giao cho giám đốc xí nghiệp cùng tập thể công nhân, các tổ chức cơ sở đảng, công đoàn và đoàn thanh niên ở xí nghiệp dân chủ bàn bạc, thảo luận rộng rãi để xây dựng phương án sản xuất, kinh doanh có hiệu quả. Trên cơ sở đó, các cơ quan có thẩm quyền sẽ xem xét, quyết định cách xử lý giá.

b) Vật tư do Nhà nước quản lý cung ứng cho các xí nghiệp quốc doanh theo chỉ tiêu kế hoạch và định mức, song phải chuyển sang phương thức kinh doanh, mua bán theo hợp đồng, với giá cả được điều chỉnh hợp lý. Giá bán vật tư tính tại nơi giao cho người sử dụng, không cộng thêm phí và lãi không hợp lý qua các cấp trung gian.

c) Giá bán sản phẩm của xí nghiệp sản xuất cho các tổ chức lưu thông được xác định trên cơ sở lấy giá bán lẻ kinh doanh thương nghiệp(đối với hàng tiêu dùng) hoặc giá bán buôn vật tư (đối với tư liệu sản xuất) trừ chiết khấu lưu thông, bảo đảm thu tích luỹ vào ngân sách nhà nước ngay từ khâu sản xuất.

d) Trong năm 1987, đổi mới chế độ thu quốc doanh, bỏ cách tính lợi nhuận định mức dựa trên giá thành của từng xí nghiệp, thực hiện chế độ thu có tác dụng thúc đẩy xí nghiệp phấn đấu hạ giá thành, loại bỏ những chi phí không hợp lý, bảo đảm cho xí nghiệp càng hoạt động có hiệu quả, càng thực hiện tốt kế hoạch nhà nước thì càng có thu nhập cao.

đ) Nhà nước sớm ban hành các quy định cho phép xí nghiệp quốc doanh dùng nhiều hình thức để huy động vốn của mọi tập thể, cá nhân ở trong nước và người Việt Nam ở nước ngoài, chịu trách nhiệm về các cam kết của mình với người góp vốn. Các xí nghiệp được Nhà nước cho phép hợp tác với nước ngoài thì được trực tiếp giao dịch với bạn hàng.

3- Đối với tiểu công nghiệp, thủ công nghiệp.

a) Thể chế hoá và cụ thể hoá chính sách đối với kinh tế cá thể và kinh tế tư bản tư nhân theo tinh thần Nghị quyết Đại hội VI của Đảng để mọi người yên tâm bỏ vốn sản xuất, kinh doanh. Theo sự hướng dẫn của Trung ương, các tỉnh, thành phố quy định những ngành nghề và phạm vi hoạt động của các thành phần kinh tế nói trên. Khuyến khích các hình thức hùn vốn, hợp tác, làm ăn tập thể từ thấp đến cao và các hình thức liên kết với các thành phần kinh tế xã hội chủ nghĩa. Đấu tranh chống những hành vi phi pháp và những hiện tượng tiêu cực trong hoạt động của các thành phần kinh tế tư bản tư nhân và cá thể.

b) Đối với các cơ sở sản xuất tiểu, thủ công nghiệp (tập thể, gia đình, cá thể và tư bản tư nhân), các tổ chức kinh doanh của Nhà nước bán vật tư theo giá kinh doanh (ngang với giá bán cho khu vực quốc doanh) và mua sản phẩm theo giá thoả thuận, chủ yếu thông qua hợp đồng kinh tế trên nguyên tắc bình đẳng. Người sản xuất có quyền tự do tiêu thụ sản phẩm ngoài hợp đồng theo chính sách lưu thông hàng hoá của Nhà nước.

Thu hẹp hình thức gia công thương nghiệp, chỉ áp dụng hình thức này chủ yếu đối với những sản phẩm dùng nguyên liệu quý hiếm. Giá gia công phải theo nguyên tắc thoả thuận, bảo đảm người sản xuất bù đắp được chi phí hợp lý, có thu nhập và lãi thoả đáng; xoá bỏ thói ép buộc, cửa quyền và các hiện tượng tiêu cực khác trong gia công.

Các cơ sở tiểu, thủ công nghiệp được liên kết mua bán vật tư với các xí nghiệp quốc doanh (ngoài diện vật tư Nhà nước cung ứng cho xí nghiệp). Những cơ sở sản xuất hàng xuất khẩu được hưởng quyền sử dụng một phần ngoại tệ thu được để nhập vật tư cho sản xuất.

c) Cải tiến chế độ thuế đối với tiểu, thủ công nghiệp, phân biệt và ưu đãi so với thương nghiệp. Miễn thuế hoặc giảm thuế suất đối với một số sản phẩm xuất khẩu, đối với các cơ sở sản xuất mới xây dựng hoặc mở rộng theo những mục tiêu kinh tế cần ưu tiên. Công bố chính sách thuế thống nhất; cấm các địa phương tự đặt các thứ thuế và phụ thu ngoài quy định của Nhà nước. Thu thuế dứt khoát theo thời gian quy định, bỏ lối "tạm thu". Thực hiện nghiêm ngặt việc kiểm tra kê khai doanh số và nộp thuế, xử phạt theo đúng pháp luật những trường hợp khai man, trốn thuế.

d) Soát xét lại các chính sách kinh tế, xã hội đối với kinh tế tập thể, cá thể, tư bản tư nhân, xoá bỏ mọi định kiến hẹp hòi và những quy định mang tính chất phân biệt đối xử không hợp lý (như trong chế độ tín dụng, cung ứng vật tư, quy định về tuyển sinh, đào tạo cán bộ, công nhân kỹ thuật, tiêu chuẩn gửi con vào nhà trẻ, mẫu giáo...).

4- Lưu thông vật tư và hàng hoá.

Chuyển mạnh hoạt động của các tổ chức kinh tế trong các ngành vật tư, nội thương, ngoại thương, vận tải... sang kinh doanh, tự chủ về tài chính, tự chịu trách nhiệm về lỗ, lãi.

a) Về lưu thông vật tư, chuyển từ chế độ cấp phát theo giá thấp sang kinh doanh theo kế hoạch trên cơ sở giá cả được điều chỉnh hợp lý.

Việc mua bán vật tư, thiết bị và hàng hoá giữa các tổ chức kinh tế Trung ương với các tổ chức kinh tế địa phương và ngành theo kế hoạch được thực hiện thông qua hợp đồng kinh tế trên cơ sở ngang giá và thanh toán, quyết toán sòng phẳng. Đối với miền núi, những địa phương và ngành còn nhiều khó khăn, Trung ương có sự hỗ trợ thích đáng.

Xí nghiệp mua vật tư theo kế hoạch phải bảo đảm thực hiện kế hoạch sản xuất khối lượng sản phẩm tương ứng (về hiện vật và giá trị) và bán những sản phẩm ấy theo địa chỉ quy định trong kế hoạch. Trên nguyên tắc bảo đảm thực hiện hợp đồng sản xuất và tiêu thụ sản phẩm theo kế hoạch nhà nước, xí nghiệp được quyền liên doanh, liên kết, mua bán hàng hoá, vật tư với mọi tổ chức kinh tế khác để phát triển sản xuất, nhưng không được lợi dụng để làm ăn phi pháp. Ngoài những sản phẩm bán theo địa chỉ quy định trong kế hoạch, xí nghiệp được lựa chọn đơn vị thương nghiệp xã hội chủ nghĩa để ký hợp đồng tiêu thụ những sản phẩm còn lại; trường hợp không thoả thuận được với thương nghiệp, xí nghiệp tự tổ chức tiêu thụ những sản phẩm đó theo chính sách lưu thông hàng hoá của Nhà nước.

Khẩn trương sắp xếp lại hệ thống kinh doanh vật tư theo hướng cắt bỏ ngay những tổ chức trung gian vô ích, không nhất loạt tổ chức theo cấp hành chính. Mở rộng phương thức bán trực tiếp vật tư cho những đơn vị sử dụng với khối lượng lớn. Làm thử và rút kinh nghiệm mở rộng từng bước hình thức đấu thầu ký hợp đồng đặt hàng và bán vật tư, trước hết là đối với một số vật tư sản xuất hàng tiêu dùng.

Tăng cường trách nhiệm vật chất trong khâu bảo quản, vận chuyển, sử dụng vật tư. Đẩy mạnh cuộc vận động chống tiêu cực trong hệ thống phân phối và kinh doanh vật tư. Cấm tư nhân kinh doanh những vật tư do Nhà nước thống nhất quản lý.

b) Giải toả lưu thông hàng hoá, chuyển mạnh thương nghiệp xã hội chủ nghĩa sang kinh doanh, phấn đấu chiếm lĩnh thị trường xã hội, trước hết về những mặt hàng thiết yếu.

Tiếp tục xoá bỏ ngay tất cả các hình thức cấm đoán lưu thông, chia cắt thị trường theo địa giới hành chính: thực hiện tốt chủ trương giải thể các trạm kiểm soát hàng hoá trên các đường giao thông trong cả nước.

Thực hiện rộng rãi việc bán lẻ theo giá kinh doanh thương nghiệp của Nhà nước; cá biệt có mặt hàng chịu lỗ, nhưng tính chung kinh doanh thương nghiệp không lỗ và có lãi. Soát xét lại giá kinh doanh thương nghiệp hiện hành, điều chỉnh những giá cao, thấp không hợp lý, bảo đảm hiệu quả kinh tế - xã hội; làm có cân nhắc, không làm ào ạt, gây đột biến và phải có tác dụng hãm tốc độ tăng giá trên thị trường xã hội. Ngành thương nghiệp không được tuỳ tiện nâng giá để hưởng chênh lệch giá ngoài chiết khấu thương nghiệp.

Chuyển giá bán các mặt hàng cung cấp có định lượng và không định lượng sang giá bán lẻ kinh doanh thương nghiệp đi đôi với bù giá vào lương và bảo đảm có hàng bán. Chuyển dần những mặt hàng thuộc diện chính sách xã hội sang bán lẻ theo giá kinh doanh, nói chung không lấy lãi nhưng cũng không để lỗ, đi đôi với áp dụng chế độ trợ cấp trực tiếp cho các đối tượng được hưởng thay cho việc trợ cấp qua giá. Việc chuyển các mặt hàng nói trên sang bán theo giá kinh doanh thương nghiệp phải được tính toán chặt chẽ và tiến hành từng bước phù hợp với khả năng cân đối tiền - hàng và ngân sách, không để tác động xấu đến đời sống công nhân, viên chức, lực lượng vũ trang.

Tổ chức lại hoạt động của thương nghiệp quốc doanh, loại bỏ những tầng nấc trung gian vô ích, giảm mạnh phí lưu thông bất hợp lý. Các tổng công ty Trung ương đưa thẳng hàng hoá từ trung tâm bán buôn đến các xí nghiệp thương nghiệp bán lẻ. Xoá bỏ ngay các tổ chức buôn bán của các cơ quan, đơn vị không có chức năng và không được phép kinh doanh thương nghiệp. Mở rộng kinh doanh của các hợp tác xã và tập đoàn sản xuất nông nghiệp, hợp tác xã tiểu, thủ công nghiệp và hợp tác xã mua bán. Tiếp tục đẩy mạnh cải tạo xã hội chủ nghĩa đối với thương nghiệp tư doanh. Sắp xếp, cải tạo và sử dụng tiểu thương trong những ngành hàng cần thiết. Đối với số tiểu thương không cần thiết trong lĩnh vực lưu thông, Nhà nước giúp đỡ họ chuyển sang sản xuất, dịch vụ. Xoá bỏ thương nghiệp tư bản tư nhân. Quy định rõ những ngành hàng cho phép những người buôn bán loại vừa hoạt động. Dựa vào quần chúng phát hiện kịp thời và trừng trị đích đáng bọn đầu cơ, buôn lậu, bọn ăn cắp trong hoạt động thương nghiệp và bộ máy nhà nước.

c) Thực hiện phân cấp định giá một cách hợp lý: Trung ương quyết định giá hoặc khung giá bán các loại vật tư quan trọng nhất; tỉ giá giữa vật tư với nông sản và khung giá mua về một số nông sản quan trọng nhất; giới hạn cao nhất về giá bán lương thực; giá hoặc khung giá bán lẻ thực phẩm và hàng công nghiệp tiêu dùng quan trọng lưu thông trong cả nước hoặc trong phạm vi vùng rộng. Trên cơ sở đó, mở rộng quyền định giá cho các tổ chức sản xuất, kinh doanh, các ngành và các địa phương. Các cơ quan và tổ chức được giao quyền định giá phải chịu trách nhiệm kịp thời xử lý giá trong từng thời gian cho phù hợp với tình hình thực tế, tạo điều kiện thuận lợi cho hạch toán kinh doanh. Xử lý nghiêm khắc những trường hợp tuỳ tiện nâng giá, tranh mua, tranh bán gây rối loạn giá cả và thị trường.

d) Đổi mới cơ chế quản lý giao thông vận tải theo hướng hạch toán kinh doanh, đáp ứng yêu cầu mở rộng lưu thông vật tư, hàng hoá.

Điều chỉnh từng bước giá cước vận tải hàng hoá và hành khách, giá cước bưu điện để giảm lỗ và đi tới kinh doanh có lãi.

Trên cơ sở bảo đảm thực hiện vận tải theo kế hoạch, các đơn vị quốc doanh, tập thể và cá nhân có phương tiện vận tải được quyền ký hợp đồng vận chuyển với mọi chủ hàng được phép lưu thông.

áp dụng chính sách giá đi đôi với biện pháp hành chính để hạn chế vận tải bằng ô tô đối với những loại hàng có thể sử dụng những phương tiện vận chuyển khác rẻ hơn; có chính sách và biện pháp khuyến khích vận tải hai chiều.

Quy định rõ chính sách khuyến khích kinh tế tập thể, kinh tế gia đình, cá thể, tư nhân mua, đóng phương tiện và đăng ký kinh doanh vận tải, chủ yếu là vận tải đường ngắn.

Tích cực xoá bỏ những hành vi tiêu cực trong công nhân, viên chức ngành vận tải bằng biện pháp kinh tế và hành chính.

5- Về chính sách xuất nhập khẩu và tỉ giá hối đoái.

Các cơ sở sản xuất có quy mô xuất khẩu tương đối lớn được trực tiếp giao dịch với khách hàng nước ngoài, tham gia hội chợ quốc tế.

Sửa đổi chế độ điều tiết ngoại tệ và phương thức phân phối vật tư, hàng hoá nhập khẩu để bảo đảm cho những người làm hàng xuất khẩu sang khu vực I có lợi bằng hoặc hơn so với xuất khẩu sang khu vực II.

Công bố danh mục một số mặt hàng xuất khẩu, nhập khẩu giao cho tổ chức ngoại thương Trung ương độc quyền kinh doanh. Việc tập trung đầu mối xuất nhập khẩu đối với một số mặt hàng cần thiết khác được thực hiện theo hướng Trung ương và địa phương cùng có lợi, khuyến khích các địa phương và cơ sở đẩy mạnh sản xuất hàng xuất khẩu và bảo đảm cho việc xuất khẩu qua đầu mối thống nhất có lợi hơn là từng địa phương tự mình xuất khẩu. Sắp xếp hợp lý các tổ chức xuất khẩu, nhập khẩu, giảm các tổ chức kinh doanh kém hiệu quả, loại bỏ các khâu trung gian.

Các địa phương, các ngành và cơ sở sản xuất chưa được phép hoặc chưa có điều kiện xuất, nhập khẩu trực tiếp có quyền lựa chọn bất kỳ tổ chức xuất, nhập khẩu nào của Nhà nước để ký hợp đồng uỷ thác việc xuất, nhập khẩu.

Sửa đổi thủ tục cấp giấy phép xuất, nhập khẩu, tạo điều kiện cho hoạt động xuất khẩu, nhập khẩu được thuận lợi, kịp thời.

Nhà nước thu thuế xuất khẩu đối với một số mặt hàng có hiệu suất thu ngoại tệ cao và có chính sách trợ giá đối với một số mặt hàng khác. Bằng chính sách giá và thuế đi đôi với các biện pháp tổ chức và hành chính, kiên quyết ngăn chặn tình trạng tranh mua, kích giá mua hàng xuất khẩu.

Ban hành chính sách thuế đối với hàng nhập khẩu theo hướng khuyến khích nhập khẩu nguyên liệu, phụ tùng, thiết bị, hạn chế việc nhập hàng tiêu dùng xa xỉ và những mặt hàng trong nước đã sản xuất được.

Xác định tỉ giá kết toán nội bộ hàng xuất khẩu theo nhóm hàng, bảo đảm cho các cơ sở làm hàng xuất khẩu với chi phí tương đối hợp lý không bị lỗ và được khuyến khích đúng mức. Tỉ giá hàng nhập khẩu phải xác định hợp lý, loại trừ những chi phí tiêu cực, tính đến mặt bằng giá trong nước và phân biệt theo nhóm hàng.

Tỉ giá kiều hối cần định một cách linh hoạt theo hướng người Việt Nam ở nước ngoài gửi tiền về nước có lợi hơn hẳn so với gửi hàng tiêu dùng có chịu thuế. Giảm hoặc miễn thuế đối với vật tư, phụ tùng, thiết bị, một số thuốc chữa bệnh cần thiết. Bãi bỏ những hạn chế về định lượng (số lượng và số lần) đối với hàng của người Việt Nam từ nước ngoài gửi về (trừ mặt hàng cấm nhập).

Sớm ban hành Luật đầu tư.

Phát triển mạnh việc gia công xuất khẩu, hợp tác sản xuất hàng xuất khẩu, kinh doanh du lịch, các dịch vụ thu ngoại tệ  việc đưa chuyên gia và lao động đi làm việc ở các nước ngoài.

II. CHÍNH SÁCH VÀ BIỆN PHÁP GIẢI QUYẾT TIỀN LƯƠNG VÀ ĐỜI SỐNG CỦA CÔNG NHÂN, VIÊN CHỨC VÀ LỰC LƯỢNG VŨ TRANG.

Yêu cầu bức thiết là giảm bớt khó khăn, dần dần ổn định đời sống của công nhân, viên chức, lực lượng vũ trang, giải quyết một cách tích cực và vững chắc, từng bước, phù hợp với kết quả sản xuất, với khả năng cân đối ngân sách, cân đối tiền - hàng.

Phải có những biện pháp toàn diện để đáp ứng yêu cầu đó, quan trọng nhất là việc giải quyết lương phải gắn với giảm được nhịp độ tăng giá trên thị trường xã hội; khuyến khích và giúp đỡ phát triển kinh tế gia đình trong sản xuất và dịch vụ; cho phép công nhân, viên chức được lao động cá thể ngoài giờ chính quyền.

Tình hình hiện nay chưa cho phép sửa đổi ngay chế độ tiền lương ban hành tháng 9-1985, mà chỉ có thể điều chỉnh bộ phận, chủ yếu là đối với một số thang, bậc lương công nhân kỹ thuật và cán bộ khoa học, kỹ thuật, đồng thời dùng hình thức lương sản phẩm và tiền thưởng để khắc phục một phần tính chất bình quân và những chỗ không hợp lý trong chế độ lương hiện hành.

1- Đối với quân đội và công an:

Bảo đảm cung cấp cho chiến sĩ và hạ sĩ quan đủ lương thực, thực phẩm, quân trang quân dụng, theo định lượng, đúng thời gian và địa điểm; ưu tiên cho các lực lượng ở tuyến đầu và ở những nơi khó khăn. Đối với sĩ quan và quân nhân chuyên nghiệp, thực hiện bù giá vào lương như công nhân, viên chức. Chấn chỉnh công tác hậu cần, bảo đảm phân phối công bằng, thực hiện có nền nếp chế độ hạch toán và báo cáo công khai với cán bộ và chiến sĩ.

2- Đối với công nhân, viên chức khu vực sản xuất:

Phấn đấu khôi phục tiền lương thực tế ngang mức đã quy định tháng 9-1985 và hạch toán đầy đủ vào giá thành sản phẩm hoặc phí lưu thông trên cơ sở xí nghiệp phát triển và nâng cao hiệu quả sản xuất, tự trang trải quỹ tiền lương, bảo đảm thực hiện kế hoạch nhà nước, trong đó có các khoản nộp ngân sách; chấm dứt việc dùng sản phẩm hoặc các khoản thu nhập không chính đáng để trả lương, thưởng, phân phối nội bộ. Đối với một số xí nghiệp chưa đủ sức tự trang trải, thì Nhà nước sẽ xử lý từng trường hợp riêng biệt.

Thực hiện rộng rãi chế độ lương khoán, lương sản phẩm đi đôi với soát xét lại định mức và thực hiện chặt chẽ việc nghiệm thu sản phẩm.

Đối với tiền thưởng cuối năm ngoài quỹ lương, cần tạm thời quy định giới hạn tối đa để hạn chế mức chênh lệch quá đáng về thu nhập giữa các xí nghiệp. Đặc biệt khuyến khích việc thưởng sáng chế, sáng kiến cải tiến kỹ thuật; tiền thưởng này tính theo tỉ lệ so với số tiền tiết kiệm hoặc lợi nhuận do các sáng chế, sáng kiến đó mang lại, không giới hạn số tuyệt đối.

3- Đối với công nhân, viên chức khu vực hành chính, sự nghiệp.

Từng bước khôi phục tiền lương thực tế ngang mức quy định tháng 9-1985.

Những nơi có điều kiện thì thực hiện bù giá vào lương theo cơ cấu hiện vật của tiền lương tối thiểu đã quy định tháng 9-1985, và tính theo giá kinh doanh thương nghiệp; trước mắt mức bù đạt được bao nhiêu % tiền lương thực tế tháng 9-1985 sẽ do các tỉnh, thành phố quyết định tuỳ điều kiện cụ thể về cân đối tiền - hàng, cân đối ngân sách của địa phương và thoả thuận với Bộ Tài chính để giải quyết thống nhất cho công nhân, viên chức thuộc ngân sách Trung ương sống trên đất địa phương. Hội đồng Bộ trưởng chỉ đạo, hướng dẫn chặt chẽ mức bù giá để không gây ra những biến động xấu và tránh tình trạng quá chênh lệch giữa các địa phương và các ngành.

Đối với những nơi trước mắt chưa bù giá vào lương hoặc chỉ bù giá vào lương trong phạm vi sáu mặt hàng định lượng, thực hiện trợ cấp khó khăn theo khả năng ngân sách.

- Đối với cán bộ khoa học, kỹ thuật: khuyến khích và tạo điều kiện cho các cơ sở nghiên cứu khoa học, kỹ thuật, các cán bộ khoa học kỹ thuật quan hệ trực tiếp với các tổ chức và cơ sở sản xuất, kinh doanh bằng nhiều hình thức (ký kết hợp đồng nghiên cứu và triển khai, bán sáng chế); qua đó, tăng thêm thu nhập theo hiệu quả cống hiến đối với sản xuất. Chuyển dần các cơ sở nghiên cứu ứng dụng và triển khai kỹ thuật sang chế độ hạch toán kinh tế, tự bù đắp một phần hoặc toàn bộ chi phí.

- Đối với công nhân, viên chức ngành giáo dục, y tế: ngoài những biện pháp chung, được phép mở lớp dạy học và khám bệnh ngoài giờ do trường học và bệnh viện tổ chức để góp phần cải thiện đời sống của công nhân, viên chức hai ngành này.

Đối với các cơ quan quản lý hành chính và bộ phận gián tiếp sản xuất: sắp xếp lại tổ chức bộ máy và giảm mạnh biên chế trên cơ sở phân rõ chức năng quản lý hành chính nhà nước với chức năng quản lý sản xuất, kinh doanh. Thực hiện việc khoán quỹ lương cho những cơ quan đã định lại tổ chức và biên chế. Định tỉ lệ hợp lý số người gián tiếp sản xuất. Giúp đỡ về vật tư, tiền vốn và thực hiện các chính sách khuyến khích người dôi ra trong khu vực hành chính và trong bộ máy gián tiếp sản xuất chuyển sang trực tiếp sản xuất và hoạt động dịch vụ, kể cả chuyển sang khu vực kinh tế tập thể.

Đối với cán bộ xã và phường, điều chỉnh tiền phụ cấp hiện hành theo thời giá, khẩn trương nghiên cứu để sớm có chính sách đãi ngộ thoả đáng hơn.

Trợ cấp đối với  người về hưu và những người hưởng trợ cấp xã hội được điều chỉnh tương ứng với mức giải quyết về tiền lương cho công nhân, viên chức ở khu vực hành chính, sự nghiệp. Tìm mọi biện pháp giúp đỡ những người đang gặp nhiều khó khăn trong đời sống, đặc biệt là thương binh nặng, gia đình liệt sĩ neo đơn và những cán bộ cách mạng lão thành đã về hưu.

III. CHÍNH SÁCH VÀ BIỆN PHÁP TĂNG THU, HẠN CHẾ BỘI  CHI NGÂN SÁCH VÀ GIẢM NHỊP ĐỘ LẠM PHÁT.

1- Biện pháp tăng thu ngân sách nhà nước.

Chính sách tài chính phải tác động tích cực đến việc tạo ra nguồn thu theo hướng thúc đẩy kinh tế xã hội chủ nghĩa, trước hết là kinh tế quốc doanh chuyển sang hạch toán kinh doanh, đạt hiệu quả cao, khuyến khích các thành phần kinh tế khác ra sức phát triển sản xuất.

Đổi mới chế độ thu quốc doanh đi đôi với chấn chỉnh công tác kế toán, tài chính xí nghiệp, thực hiện cơ chế xí nghiệp tự trang trải các chi phí, giảm bù giá, bù lỗ qua ngân sách, không ngừng tăng tích luỹ ở khu vực này, bảo đảm nguồn thu chủ yếu của ngân sách nhà nước.

Thu đủ các loại thuế hiện hành theo đúng chính sách, các khoản nợ về thuế, đồng thời nghiên cứu ban hành bổ sung một số loại thuế. Cùng với việc giải thể các trạm kiểm soát dọc đường giao thông, cần thực hiện tốt việc thu thuế từ nơi sản xuất và ở nơi bán hàng, chống thất thu thuế. Chấn chỉnh bộ máy và cán bộ ngành thuế; phát huy vai trò tích cực của các cấp uỷ đảng và chính quyền địa phương trong việc chỉ đạo công tác thuế.

Nghiên cứu, đề nghị Quốc hội cho phép thực hiện chế độ thu học phí, viện phí (có chính sách bù đắp cho những đối tượng cần thiết) đồng thời xoá bỏ những khoản đóng góp ngoài quy định của Nhà nước; dùng nguồn thu này để bổ sung kinh phí cho sự nghiệp giáo dục, y tế.

Mở rộng việc thu các loại lệ phí, phát triển các hình thức kinh doanh bảo hiểm.

áp dụng nhiều hình thức linh hoạt, có sức thu hút mạnh để vay tiền mặt, ngoại tệ, kim loại quý, thóc, nông sản... của nhân dân, phát hành công trái không ghi tên, được tự do chuyển nhượng có nhiều thời hạn khác nhau (ngắn hạn và dài hạn), có lãi suất thoả đáng và có quay số dự thưởng; bảo hiểm giá trị tiền vay theo giá vàng.

Dành thêm một số vật tư, vật liệu xây dựng và nhập một số hàng tiêu dùng để bán cho nhân dân theo giá kinh doanh, tăng thu cho ngân sách và thu bớt tiền mặt trên thị trường.

2- Biện pháp tiết kiệm chi tiêu ngân sách.

Phấn đấu giảm tỉ lệ bội chi ngân sách, giảm việc phát hành tiền để chi cho ngân sách.

Soát xét lại kế hoạch đầu tư xây dựng cơ bản theo tinh thần Nghị quyết Đại hội VI của Đảng, tập trung cho các công trình trực tiếp phục vụ ba chương trình kinh tế, triệt để tiết kiệm, giảm mạnh chi xây lắp và chi xây dựng cơ bản khác. Nghiêm cấm việc xây dựng ngoài kế hoạch (kể cả ở Trung ương và ở địa phương).

Xoá dần việc bù lỗ, bù giá trong sản xuất, vận tải, nội thương, ngoại thương...

Chống việc chuyển từ bao cấp qua ngân sách nhà nước sang bao cấp qua tín dụng ngân hàng dưới các dạng tạm ứng cấp phát xây dựng cơ bản, cho vay bù lỗ, bù giá...

Giảm mạnh biên chế và chi tiêu hành chính; hết sức hạn chế việc thuê nhân công hợp đồng xây dựng, dịch vụ trong khi chưa sử dụng hết lao động trong biên chế nhà nước.

Trong hai năm 1987-1988, các cơ quan hành chính ngừng mua sắm mới một số loại hàng tiêu dùng, góp phần tăng quỹ hàng hoá bán cho nhân dân. Cắt giảm các kinh phí hội nghị, lễ tân, các chi phí hành chính. Cấm ngặt việc dùng tiền của công để chè chén, biếu xén. Sửa đổi, bổ sung hợp lý các định mức chi tiêu hành chính, sự nghiệp và giao khoán các khoản chi này cho các ngành, các cấp, các cơ quan.

Giảm những khoản chi phúc lợi quá khả năng của ngân sách.

Hội đồng Bộ trưởng nghiên cứu những khoản mục tiết kiệm chi trong sản xuất và tiêu dùng để trình Hội đồng Nhà nước ban hành thành văn bản pháp quy và triển khai thực hiện ngay.

Điều chỉnh tỉ lệ điều tiết giữa ngân sách Trung ương và ngân sách địa phương, quy định chặt chẽ các nguyên tắc chi tiêu ngân sách, thực hiện cơ chế điều hoà trong hệ thống ngân sách nhà nước một cách hợp lý để thực hiện cân đối ngân sách trong cả nước. Chỉ sau khi không tự điều hoà được trong hệ thống ngân sách nhà nước, Bộ Chính trị mới xem xét và quyết định việc Ngân hàng Nhà nước cho vay để bù đắp thiếu hụt của ngân sách nhà nước.

3- Bảo đảm nhu cầu tiền tệ lưu thông đi đôi với giảm tốc độ lạm phát.

Đi đôi với những biện pháp tổng hợp ngăn chặn lạm phát, Ngân hàng Nhà nước cần chủ động chuẩn bị khối lượng và cơ cấu tiền mặt cần thiết để đáp ứng yêu cầu giải quyết những vấn đề cấp bách, nhất là bảo đảm tiền mặt cho sản xuất, mua nông sản, trả lương, không để thiếu tiền mặt trong hệ thống ngân hàng. Phương án chủ động phát hành tiền phải đi liền với mức phấn đấu cụ thể tăng nhanh vòng quay hàng hoá qua hệ thống thương nghiệp xã hội chủ nghĩa và vòng quay của đồng tiền qua hệ thống ngân hàng.

Cải tiến và mở rộng các hình thức thu tiền mặt vào hệ thống ngân hàng, đáp ứng đầy đủ, kịp thời, thuận tiện nhu cầu về tiền mặt của các tổ chức kinh tế và dân cư. Trên cơ sở đó, thúc đẩy các tổ chức kinh tế giao nhanh tiền mặt vào quỹ ngân hàng và tôn trọng kỷ luật quản lý tiền mặt.

Mở rộng kinh doanh vàng, bạc, đá quý, kinh doanh ngoại tệ qua kiều hối. áp dụng trong cả nước và ở từng địa phương nhiều hình thức thanh toán không dùng tiền mặt.

Tiếp tục huy động tiền tiết kiệm với lãi suất cao trong một thời gian ngắn.

Ngân hàng cho vay theo khả năng động viên các nguồn vốn nhàn rỗi trong xã hội, hạn chế phát hành tiền để cho vay.

Vốn tín dụng phải được sử dụng tập trung phục vụ ba chương trình kinh tế lớn. Ngăn chặn việc vay tín dụng để buôn bán kiếm lời không chính đáng. Sửa đổi lãi suất tiền gửi và cho vay của ngân hàng, tăng cường tác động đòn bẩy của lãi suất tín dụng. Không cho vay đối với những công trình xây dựng cơ bản không được ghi vào kế hoạch.

Sử dụng có hiệu quả các nguồn ngoại tệ vay được, bảo đảm tái tạo được ngoại tệ để trả nợ và sử dụng cho các vòng tiếp theo.

Kiện toàn Ngân hàng Nhà nước làm nhiệm vụ phát hành và quản lý nhà nước về tiền tệ, tín dụng. Phát triển các ngân hàng chuyên nghiệp, là tổ chức kinh doanh tín dụng và dịch vụ ngân hàng, được hoạt động theo phương thức góp cổ phần, bán cổ phiếu và tham gia hùn vốn vào các tổ chức sản xuất, kinh doanh khác. Ngoài những ngân hàng chuyên nghiệp đã thành lập (Ngân hàng Ngoại thương, Ngân hàng đầu tư), quỹ tiết kiệm xã hội chủ nghĩa, cần hình thành thêm các ngân hàng chuyên nghiệp khác như Ngân hàng Nông nghiệp, Ngân hàng Công, Thương nghiệp, v.v..

 Phần II

Tổ chức chỉ đạo thực hiện

 1- Thực hiện đúng nguyên tắc tập trung dân chủ. Toàn Đảng và bộ máy nhà nước phải nghiêm chỉnh chấp hành, thống nhất ý chí và hành động từ trên xuống dưới. Mọi việc thể chế hoá, phổ biến, chỉ đạo, thi hành đều phải theo đúng Nghị quyết.

Bộ máy đảng và chính quyền các cấp phối hợp chặt chẽ và hành động thống nhất. Bộ Chính trị trực tiếp quyết định những chủ trương lớn cụ thể hoá Nghị quyết của Ban Chấp hành Trung ương. Ban Bí thư và Thường vụ Hội đồng Bộ trưởng có kế hoạch chỉ đạo và tổ chức thực hiện những nghị quyết của Trung ương và Bộ Chính trị.

Thường vụ Hội đồng Bộ trưởng cụ thể hoá và thể chế hoá các chủ trương của Bộ Chính trị và Ban Bí thư, tổ chức chỉ đạo chặt chẽ việc thực hiện Nghị quyết này. Ban Bí thư có trách nhiệm kiểm tra và kịp thời uốn nắn những lệch lạc nảy sinh, cùng với Thường vụ Hội đồng Bộ trưởng chỉ đạo việc sơ kết từng thời gian.

Trong quá trình chuẩn bị ban hành chính sách cụ thể, trong phạm vi nghiên cứu và tham khảo ý kiến, cần tổ chức lấy ý kiến rộng rãi của các ngành, các cấp, các chuyên gia, các nhà khoa học và của quần chúng ở một số đơn vị cơ sở. Mỗi cán bộ, đảng viên phải thể hiện tinh thần trách nhiệm cao, góp phần vào việc cụ thể hoá và thực hiện thắng lợi Nghị quyết của Đảng. Những người cố tình làm trái Nghị quyết phải bị xử lý, người có sai phạm nặng trong việc thực hiện Nghị quyết hoặc không đủ năng lực thực hiện, phải kịp thời được thay thế.

Khi thực hiện, cấp dưới thấy điều gì cần làm khác với quy định chung phải xin ý kiến cấp trên. Cấp trên có trách nhiệm trả lời trong thời hạn 15 ngày; khi cấp trên đã có chỉ thị thì cấp dưới phải chấp hành nghiêm chỉnh, nhưng nếu quá thời hạn đó mà cấp trên không trả lời thì cấp dưới được phép thi hành theo ý kiến của mình và báo cho cấp trên biết.

2- Tổ chức phổ biến sâu rộng Nghị quyết này của Trung ương. Nói rõ với dân những khó khăn của đất nước, chủ trương giải quyết của Đảng và Nhà nước, trách nhiệm của mỗi người, của các tổ chức đảng và đoàn thể quần chúng trong việc thực hiện. Làm cho mọi người hiểu rằng: điều cốt lõi để thực hiện tốt Nghị quyết này là các cấp, các ngành, các cơ sở phải chuyển mạnh sang hạch toán kinh doanh xã hội chủ nghĩa, ra sức phát triển sản xuất với năng suất, chất lượng và hiệu quả cao, trên cơ sở đó bảo đảm lợi ích của cả Nhà nước, tập thể và người lao động.

Tổ chức, hướng dẫn nhân dân kiểm tra các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện Nghị quyết và chính sách của Đảng; khuyến khích nhân dân kiến nghị với Đảng và Nhà nước những biện pháp xây dựng, phát hiện các việc làm sai, tố giác những hành động chống đối, phá hoại. Bộ máy thông tin đại chúng phải phát huy vai trò tích cực trong những việc này. Cán bộ lãnh đạo các ngành, các cấp cần trực tiếp giải thích chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước với đảng viên quần chúng trên đài, báo, trong các cuộc sinh hoạt và gặp gỡ ở cơ sở.

3- Làm tốt công tác cán bộ có ý nghĩa hàng đầu để bảo đảm thực hiện Nghị quyết của Trung ương. Cần kiểm tra, đánh giá lại đội ngũ cán bộ, phát hiện, bồi dưỡng những cán bộ đủ năng lực và phẩm chất thực hiện những chủ trương đổi mới theo tinh thần Đại hội VI của Đảng và Nghị quyết Hội nghị Trung ương lần này, kịp thời điều chỉnh, bố trí lại đội ngũ cán bộ, bảo đảm thống nhất hành động trong toàn Đảng.

4- Việc chỉ đạo thực hiện Nghị quyết phải được chuẩn bị chu đáo, tiến hành một cách đồng bộ, có bước đi vững chắc. Các ngành, các cấp, trước hết là các cơ quan tổng hợp của Nhà nước cần có những phương án cụ thể, lường trước và xử lý nhanh những hệ quả kinh tế, chính trị và xã hội bất lợi nhất thời có thể xảy ra.

Các ngành, các cấp cần đặc biệt coi trọng việc làm thử, nghiên cứu tổng kết, rút kinh nghiệm điển hình.

5- Hợp đồng kinh tế có vị trí đặc biệt quan trọng trong cơ chế quản lý mới, trong việc thực hiện các chính sách mới về phân phối lưu thông. Vì vậy, cần coi trọng hoàn thiện chế độ hợp đồng kinh tế và hệ thống trọng tài kinh tế nhà nước, làm cho hợp đồng kinh tế ngày càng trở thành công cụ pháp lý đắc lực trong quản lý kinh tế, trong xây dựng và thực hiện kế hoạch.

6- Việc thực hiện các giải pháp cấp bách về phân phối, lưu thông gắn liền với đổi mới các khâu khác trong cơ chế quản lý, mang tính cách mạng sâu sắc, vì vậy phải dựa trên cơ sở phát động phong trào hành động cách mạng của quần chúng, gắn với cuộc vận động làm trong sạch các tổ chức đảng và bộ máy nhà nước, làm lành mạnh các quan hệ xã hội. Quá trình cải cách phải đi liền với việc hoàn thiện chính sách xã hội của Đảng theo quan điểm giai cấp đã được đề ra ở Đại hội VI của Đảng: "Xây dựng toàn diện giai cấp công nhân, giai cấp nông dân tập thể và tầng lớp trí thức xã hội chủ nghĩa, làm cho nền tảng chính trị - xã hội của xã hội mới ngày càng vững chắc, ưu thế của lực lượng xã hội chủ nghĩa trong cuộc đấu tranh giữa hai con đường ngày càng phát huy mạnh mẽ".

 

*

*       *

 

Các biện pháp cấp bách về phân phối, lưu thông lần này thực hiện trong hoàn cảnh có nhiều khó khăn, phức tạp hơn so với thời kỳ tháng 10-1985, song cũng có những thuận lợi mới.

Toàn Đảng, toàn dân ta nhận rõ tình hình, nhiệm vụ, đồng tâm nhất trí, quyết tâm thực hiện bằng được trong bước đi trước mắt những chủ trương, biện pháp cấp bách về phân phối, lưu thông nêu trong Nghị quyết này, góp phần thực hiện mục tiêu ổn định tình hình kinh tế - xã hội do Nghị quyết Đại hội lần thứ VI của Đảng đã nêu ra.

 

T/M BAN CHẤP HÀNH TRUNG ƯƠNG

Tổng Bí thư

 Nguyễn Văn Linh

Từ sau cuộc tổng điều chỉnh giá, lương, tiền cuối năm 1985, tình hình kinh tế - xã hội nước ta, trước hết là tình hình phân phối, lưu thông, ngày càng xấu đi. Bộ Chính trị và Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khoá V) đã phân tích sai lầm, khuyết điểm trên lĩnh vực này và đề ra các biện pháp khắc phục, nhưng nhìn chung, tình hình không được cải thiện mà còn trở nên căng thẳng, rối ren hơn. Nền kinh tế càng lâm vào tình trạng lạm phát trầm trọng, bội chi ngân sách lớn, giá cả tăng vọt, đồng tiền mất giá nhanh, tiền lương thực tế giảm sút, đời sống của nhân dân lao động, trước hết là của công nhân, viên chức và lực lượng vũ trang gặp nhiều khó khăn, công bằng xã hội bị vi phạm, các hiện tượng tiêu cực tiếp tục phát triển. Tình hình đó tác động rất xấu tới toàn bộ các hoạt động sản xuất, kinh doanh và sinh hoạt xã hội.

Thực trạng nói trên là hậu quả tổng hợp của nhiều yếu tố cùng tác động trong nền kinh tế và đời sống xã hội mà nguyên nhân chủ yếu, vừa sâu xa, vừa trực tiếp là việc duy trì quá lâu cơ chế tập trung quan liêu, bao cấp, vi phạm quy luật khách quan trong quản lý kinh tế.

Phân phối, lưu thông vẫn đang là mặt trận nóng bỏng của nền kinh tế. Phương hướng vừa cơ bản, vừa cấp bách để giải quyết tình hình này là xoá bỏ cơ chế tập trung quan liêu, bao cấp, chuyển hẳn hoạt động của nền kinh tế sang hạch toán kinh doanh xã hội chủ nghĩa, đúng nguyên tắc tập trung dân chủ, làm cho toàn bộ hệ thống sản xuất, lưu thông hoạt động theo quy luật khách quan, tăng nhanh sản phẩm xã hội. Chính thực trạng phân phối, lưu thông nói trên đang gây khó khăn cho việc thực hiện hạch toán kinh doanh xã hội chủ nghĩa và cản trở sản xuất phát triển. Báo cáo chính trị tại Đại hội lần thứ VI của Đảng đã nêu rõ: "Trước mắt, thực hành những biện pháp có hiệu quả để hãm bớt lạm phát và tốc độ tăng giá, giảm bớt khó khăn về đời sống của người ăn lương. Có làm được việc đó mới tạo được những tiền đề về kinh tế, xã hội và tâm lý cho việc đẩy mạnh quá trình cải cách". Đó cũng là điều kiện cần thiết để từng bước đưa tình hình kinh tế, xã hội vào thế ổn định và phát triển.

Phần I

Mục tiêu, chính sách và biện pháp giải quyết một bước những vấn đề cấp bách Về phân phối, lưu thông

Để thực hiện những nhiệm vụ mà Đại hội lần thứ VI của Đảng đã vạch ra, việc giải quyết những vấn đề cấp bách về phân phối, lưu thông phải nắm vững mục tiêu: giảm tỉ lệ bội chi ngân sách, giảm nhịp độ tăng giá, giảm tốc độ lạm phát, giảm khó khăn về đời sống của nhân dân lao động, trên cơ sở xoá bỏ cơ chế tập trung quan liêu, bao cấp, chuyển các hoạt động kinh tế sang hạch toán kinh doanh xã hội chủ nghĩa, nâng cao vai trò chủ đạo của kinh tế quốc doanh trong nền kinh tế và phát huy khả năng tích cực của các thành phần kinh tế khác, mở rộng giao lưu hàng hoá, giải phóng sức sản xuất.

Phải thấu suốt tư tưởng chỉ đạo sau đây:

Một là, đổi mới cơ chế, chính sách và tổ chức phân phối, lưu thông theo hướng vận dụng đúng đắn các quy luật kinh tế, lấy kế hoạch hoá làm trung tâm, mở rộng quan hệ hàng hoá - tiền tệ, chuyển hẳn sang hạch toán kinh doanh xã hội chủ nghĩa, gắn liền với đổi mới các khâu khác trong cơ chế quản lý.

Hai là, bước đi phải phù hợp với điều kiện thực tế, vừa tích cực, vừa vững chắc. Khẩn trương thực hiện những biện pháp đã thấy rõ là cần thiết và có điều kiện làm; mặt khác, tránh lối làm nóng vội, giản đơn, nhất loạt, thiếu chuẩn bị, gây ra những biến động lớn, những hậu quả xấu về kinh tế và về xã hội. Trong mỗi bước đi phải có sự đồng bộ về chính sách, biện pháp và tổ chức, đồng thời tập trung giải quyết khâu then chốt để xoay chuyển tình hình.

Ba là, tăng cường hiệu lực lãnh đạo tập trung thống nhất của Trung ương đi đôi với phát huy mạnh mẽ tính năng động, sáng tạo của các cơ sở, địa phương và ngành. Tạo thành phong trào cách mạng của nhân dân lao động trong việc giải quyết những vấn đề cấp bách về phân phối, lưu thông. Gắn với cuộc vận động làm trong sạch tổ chức đảng và bộ máy nhà nước, làm lành mạnh các quan hệ xã hội.

Bốn là, sử dụng có hiệu quả và mở rộng các hình thức hợp tác quốc tế về kinh tế, nhất là với Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa khác, để có thêm điều kiện góp phần giải quyết những vấn đề kinh tế cấp bách.

I. CHÍNH SÁCH GIÁ CẢ VÀ LƯU THÔNG VẬT TƯ, HÀNG HOÁ.

1- Chính sách trao đổi hàng hoá giữa Nhà nước và nông dân.

Để góp phần tích cực phát triển nông nghiệp là mặt trận hàng đầu, thực hiện tốt ba chương trình kinh tế, trước hết là chương trình lương thực - thực phẩm, tăng cường liên minh công nông, đi đôi với việc thực hiện những chủ trương lớn mà Đại hội VI đã đề ra, cần áp dụng những chính sách, biện pháp dưới đây:

a) Ngoài thuế là nghĩa vụ đóng góp bắt buộc, từ nay nghiêm cấm các ngành, các cấp tuỳ tiện giao thêm cho các hợp tác xã, tập đoàn sản xuất và hộ nông dân "nghĩa vụ nộp sản phẩm" hoặc đặt thêm các khoản đóng góp gây thiệt hại cho dân. Cần rút kinh nghiệm và chỉ đạo chặt chẽ để thực hiện tốt hơn phương châm "Nhà nước và nhân dân cùng làm".

Cải tiến chính sách thuế nông nghiệp theo hướng khuyến khích sản xuất, bảo đảm sự đóng góp công bằng, buộc mọi tập thể và cá nhân phải sử dụng đất tiết kiệm và có hiệu quả; trên cơ sở đó, ổn định mức thuế đến năm 1990.

Các hợp tác xã và tập đoàn sản xuất cần xác định mức khoán hợp lý, sửa đổi các khoản phân phối mang tính bao cấp không hợp lý, đưa ra Đại hội xã viên bàn bạc và quyết định. ổn định mức khoán đến năm 1990.

b) Mọi quan hệ trao đổi giữa các tổ chức kinh tế của Nhà nước với hợp tác xã, tập đoàn sản xuất nông nghiệp và các hộ nông dân phảitheo nguyên tắc bình đẳng, thuận mua vừa bán, bảo đảm củng cố liên minh công nông.

Xoá bỏ chế độ trao đổi hiện vật giữa Nhà nước và nông dân, thực hiện chế độ hợp đồng kinh tế trong việc mua nông sản và bán vật tư với nông dân. Nhà nước và nông dân đều có nghĩa vụ làm đúng hợp đồng kinh tế đã ký kết.

c) Nhà nước xác định lại tỉ giá trao đổi hợp lý giữa vật tư và nông sản trong hợp đồng, trước hết là giữa thóc với phân đạm, theo hướng khuyến khích sản xuất theo kế hoạch. Mức giá mua thóc và các nông sản khác trong hợp đồng cũng như ngoài hợp đồng đều phải theo nguyên tắc thoả thuận, bảo đảm cho nông dân trong điều kiện sản xuất bình thường bù đắp được chi phí xã hội cần thiết và có lãi 30-40% so với giá thành (tỉ lệ lãi có phân biệt theo loại sản phẩm và theo vùng; đối với thóc là 40%). Mức giá phải phù hợp với sức mua của đồng tiền và tính đến quan hệ cung - cầu.

d) Vận dụng rộng rãi phương thức mua, bán thanh toán ngay bằng tiền, theo giá đã thoả thuận ghi trong hợp đồng. Đối với những nơi chưa có điều kiện có thể vẫn áp dụng phương thức ký hợp đồng ứng vật tư trước và thu sản phẩm sau. Dù theo phương thức nào, việc bán vật tư sản xuất nông nghiệp cũng phải căn cứ vào kế hoạch sản xuất và định mức kinh tế - kỹ thuật. Nhà nước cùng với các hợp tác xã và tập đoàn sản xuất cần giúp đỡ những hộ nông dân nghèo có vốn và vật tư sản xuất, không bị bóc lột vì phải vay nặng lãi. Các công ty kinh doanh lương thực và nông sản cùng các tỉnh, thành phố lựa chọn phương thức mua bán với nông dân phù hợp điều kiện cụ thể của từng nơi.

đ) Chuyển toàn bộ việc mua, bán lương thực của Nhà nước sang cơ chế hạch toán kinh doanh xã hội chủ nghĩa. Tổ chức kinh doanh lương thực có trách nhiệm bảo đảm lương thực cho các đối tượng Nhà nước quy định, được giao đủ quyền hạn, phương tiện tương ứng với trách nhiệm kinh doanh theo cơ chế tự chủ về tài chính, tự bù đắp chi phí, nói chung không lấy lãi trong việc bán lương thực cho những nhu cầu thiết yếu, và Nhà nước không bù lỗ. Phát triển kinh doanh tổng hợp (mua bán, chế biến, xuất nhập khẩu lúa, màu, phụ phẩm, v.v.) lấy lãi ở khâu kinh doanh này bù lỗ cho khâu kinh doanh khác. Trên cơ sở đó, Nhà nước Trung ương định tỉ giá trao đổi giữa một số loại vật tư, hàng hoá và thóc, định khung giá mua thóc, định giới hạn cao nhất về giá bán lẻ gạo ở từng vùng trong từng thời gian, hướng dẫn và giao quyền cho tổ chức kinh doanh lương thực cùng các địa phương định mức giá mua, bán cụ thể. Phải giải quyết đúng đắn mối quan hệ giữa các lợi ích, khuyến khích các tổ chức kinh doanh lương thực từ trên xuống dưới mở rộng kinh doanh, cải tiến quản lý, giảm chi phí, hao hụt; không tuỳ tiện đẩy giá lên.

Việc chuyển sang cơ chế kinh doanh lương thực phải được xúc tiến khẩn trương để thực hiện từ vụ mùa sớm và vụ mùa năm 1987.Trước mắt, việc mua lương thực trong hợp đồng kinh tế đối với vụ đông xuân và hè thu tạm giữ theo tỉ giá và mức giá hiện hành ở các địa phương. Ngoài phần mua theo hợp đồng, các địa phương mua phần nông sản hàng hoá còn lại theo giá thoả thuận, linh hoạt, đấu tranh khắc phục từng bước tính tự phát của giá cả thị trường tự do. Thương nghiệp xã hội chủ nghĩa cần chủ động kinh doanh, mua được nhiều nông sản hàng hoá vào thời điểm nông dân bán ra nhiều nhất để có lực lượng tác động đến quan hệ cung - cầu, vươn lên làm chủ thị trường lương thực và các nông sản chủ yếu khác; kiên quyết ngăn chặn tệ tranh mua, kích giá, tuỳ tiện nâng giá bán vật tư và hàng tiêu dùng; tăng cường vận động nông dân bán nông sản cho Nhà nước; phát hiện và trừng trị nghiêm khắc bọn đầu cơ, buôn bán trái phép.

Điều quan trọng hàng đầu là: các tổ chức kinh doanh của Nhà nước phải cố gắng cung ứng đủ vật tư nông nghiệp, dành thêm vật liệu xây dựng và một số hàng tiêu dùng thích hợp để cân đối tiền - hàng trong quan hệ với nông dân; chấn chỉnh ngay việc kinh doanh vật tư, hàng hoá, bảo đảm đưa đến các hợp tác xã, tập đoàn sản xuất và các hộ nông dân một cách kịp thời, đúng giá quy định và không mất mát; nghiêm cấm việc tuỳ tiện cộng thêm các loại phí và lãi không hợp lý qua các cấp trung gian, đẩy giá bán lên cao.

e) Trên nguyên tắc bảo đảm thực hiện đầy đủ nghĩa vụ thuế và các hợp đồng bán sản phẩm đã ký với các tổ chức kinh tế của Nhà nước, các hợp tác xã, tập đoàn sản xuất và hộ nông dân được quyền tự do lưu thông, tiêu thụ lương thực, thực phẩm và các nông sản hàng hoá khác (trừ một số sản phẩm không được tự do lưu thông do Nhà nước quy định). Thương nghiệp quốc doanh liên kết chặt chẽ với các hợp tác xã nông nghiệp, tập đoàn sản xuất, hợp tác xã mua bán để nắm tận gốc đại bộ phận lương thực và nông sản hàng hoá quan trọng, sử dụng tiểu thương, hàng xáo trong phạm vi cần thiết. Mở rộng sự liên kết, tự điều hoà lương thực giữa nơi thừa và nơi thiếu, thu hẹp dần diện đối tượng dân cư mà Nhà nước phải cung ứng lương thực thường xuyên, đồng thời xem xét lại mức cung ứng cho hợp lý. Trung ương tập trung lực lượng bảo đảm cung cấp ổn định lương thực cho quân đội, công an và những khu vực trọng điểm.

2- Đối với các xí nghiệp quốc doanh, chính sách giá cả và lưu thông vật tư, hàng hoá phải nhằm chuyển các xí nghiệp sang hạch toán kinh doanh xã hội chủ nghĩa, phát huy được vai trò chủ đạo trong nền kinh tế, bảo đảm nguồn thu lớn nhất cho ngân sách nhà nước.

a) Tính đúng, tính đủ giá "đầu vào" và "đầu ra" để thúc đẩy hạch toán kinh doanh xã hội chủ nghĩa, song phải xử lý từng bước trên nguyên tắc không cản trở sản xuất, lưu thông, không gây đột biến giá bán lẻ kinh doanh thương nghiệp và phù hợp với sức mua của nhân dân lao động.

Trên cơ sở tỉ giá kết toán hợp lý đối với hàng nhập khẩu, tính đủ giá vật tư, tính khấu hao tài sản cố định với mức độ có phân biệt đối với từng ngành, tuỳ theo loại sản phẩm và loại xí nghiệp mà Nhà nước có cách xử lý khác nhau ở "đầu ra".

- Loại phải bảo đảm có lãi và tích luỹ cho Nhà nước (chủ yếu là xí nghiệp sản xuất hàng tiêu dùng).

- Loại tạm thời chưa phải nộp tích luỹ cho Nhà nước.

- Loại được Nhà nước trợ giá trong thời hạn nhất định (chủ yếu là xí nghiệp công nghiệp nặng và vận tải).

- Loại làm ăn thua lỗ kéo dài phải chuyển hướng sản xuất hoặc chuyển thành cơ sở kinh tế tập thể.

Theo nguyên tắc nói trên, Hội đồng Bộ trưởng thông báo cho các ngành, các xí nghiệp những thông số cần thiết, giao cho giám đốc xí nghiệp cùng tập thể công nhân, các tổ chức cơ sở đảng, công đoàn và đoàn thanh niên ở xí nghiệp dân chủ bàn bạc, thảo luận rộng rãi để xây dựng phương án sản xuất, kinh doanh có hiệu quả. Trên cơ sở đó, các cơ quan có thẩm quyền sẽ xem xét, quyết định cách xử lý giá.

b) Vật tư do Nhà nước quản lý cung ứng cho các xí nghiệp quốc doanh theo chỉ tiêu kế hoạch và định mức, song phải chuyển sang phương thức kinh doanh, mua bán theo hợp đồng, với giá cả được điều chỉnh hợp lý. Giá bán vật tư tính tại nơi giao cho người sử dụng, không cộng thêm phí và lãi không hợp lý qua các cấp trung gian.

c) Giá bán sản phẩm của xí nghiệp sản xuất cho các tổ chức lưu thông được xác định trên cơ sở lấy giá bán lẻ kinh doanh thương nghiệp(đối với hàng tiêu dùng) hoặc giá bán buôn vật tư (đối với tư liệu sản xuất) trừ chiết khấu lưu thông, bảo đảm thu tích luỹ vào ngân sách nhà nước ngay từ khâu sản xuất.

d) Trong năm 1987, đổi mới chế độ thu quốc doanh, bỏ cách tính lợi nhuận định mức dựa trên giá thành của từng xí nghiệp, thực hiện chế độ thu có tác dụng thúc đẩy xí nghiệp phấn đấu hạ giá thành, loại bỏ những chi phí không hợp lý, bảo đảm cho xí nghiệp càng hoạt động có hiệu quả, càng thực hiện tốt kế hoạch nhà nước thì càng có thu nhập cao.

đ) Nhà nước sớm ban hành các quy định cho phép xí nghiệp quốc doanh dùng nhiều hình thức để huy động vốn của mọi tập thể, cá nhân ở trong nước và người Việt Nam ở nước ngoài, chịu trách nhiệm về các cam kết của mình với người góp vốn. Các xí nghiệp được Nhà nước cho phép hợp tác với nước ngoài thì được trực tiếp giao dịch với bạn hàng.

3- Đối với tiểu công nghiệp, thủ công nghiệp.

a) Thể chế hoá và cụ thể hoá chính sách đối với kinh tế cá thể và kinh tế tư bản tư nhân theo tinh thần Nghị quyết Đại hội VI của Đảng để mọi người yên tâm bỏ vốn sản xuất, kinh doanh. Theo sự hướng dẫn của Trung ương, các tỉnh, thành phố quy định những ngành nghề và phạm vi hoạt động của các thành phần kinh tế nói trên. Khuyến khích các hình thức hùn vốn, hợp tác, làm ăn tập thể từ thấp đến cao và các hình thức liên kết với các thành phần kinh tế xã hội chủ nghĩa. Đấu tranh chống những hành vi phi pháp và những hiện tượng tiêu cực trong hoạt động của các thành phần kinh tế tư bản tư nhân và cá thể.

b) Đối với các cơ sở sản xuất tiểu, thủ công nghiệp (tập thể, gia đình, cá thể và tư bản tư nhân), các tổ chức kinh doanh của Nhà nước bán vật tư theo giá kinh doanh (ngang với giá bán cho khu vực quốc doanh) và mua sản phẩm theo giá thoả thuận, chủ yếu thông qua hợp đồng kinh tế trên nguyên tắc bình đẳng. Người sản xuất có quyền tự do tiêu thụ sản phẩm ngoài hợp đồng theo chính sách lưu thông hàng hoá của Nhà nước.

Thu hẹp hình thức gia công thương nghiệp, chỉ áp dụng hình thức này chủ yếu đối với những sản phẩm dùng nguyên liệu quý hiếm. Giá gia công phải theo nguyên tắc thoả thuận, bảo đảm người sản xuất bù đắp được chi phí hợp lý, có thu nhập và lãi thoả đáng; xoá bỏ thói ép buộc, cửa quyền và các hiện tượng tiêu cực khác trong gia công.

Các cơ sở tiểu, thủ công nghiệp được liên kết mua bán vật tư với các xí nghiệp quốc doanh (ngoài diện vật tư Nhà nước cung ứng cho xí nghiệp). Những cơ sở sản xuất hàng xuất khẩu được hưởng quyền sử dụng một phần ngoại tệ thu được để nhập vật tư cho sản xuất.

c) Cải tiến chế độ thuế đối với tiểu, thủ công nghiệp, phân biệt và ưu đãi so với thương nghiệp. Miễn thuế hoặc giảm thuế suất đối với một số sản phẩm xuất khẩu, đối với các cơ sở sản xuất mới xây dựng hoặc mở rộng theo những mục tiêu kinh tế cần ưu tiên. Công bố chính sách thuế thống nhất; cấm các địa phương tự đặt các thứ thuế và phụ thu ngoài quy định của Nhà nước. Thu thuế dứt khoát theo thời gian quy định, bỏ lối "tạm thu". Thực hiện nghiêm ngặt việc kiểm tra kê khai doanh số và nộp thuế, xử phạt theo đúng pháp luật những trường hợp khai man, trốn thuế.

d) Soát xét lại các chính sách kinh tế, xã hội đối với kinh tế tập thể, cá thể, tư bản tư nhân, xoá bỏ mọi định kiến hẹp hòi và những quy định mang tính chất phân biệt đối xử không hợp lý (như trong chế độ tín dụng, cung ứng vật tư, quy định về tuyển sinh, đào tạo cán bộ, công nhân kỹ thuật, tiêu chuẩn gửi con vào nhà trẻ, mẫu giáo...).

4- Lưu thông vật tư và hàng hoá.

Chuyển mạnh hoạt động của các tổ chức kinh tế trong các ngành vật tư, nội thương, ngoại thương, vận tải... sang kinh doanh, tự chủ về tài chính, tự chịu trách nhiệm về lỗ, lãi.

a) Về lưu thông vật tư, chuyển từ chế độ cấp phát theo giá thấp sang kinh doanh theo kế hoạch trên cơ sở giá cả được điều chỉnh hợp lý.

Việc mua bán vật tư, thiết bị và hàng hoá giữa các tổ chức kinh tế Trung ương với các tổ chức kinh tế địa phương và ngành theo kế hoạch được thực hiện thông qua hợp đồng kinh tế trên cơ sở ngang giá và thanh toán, quyết toán sòng phẳng. Đối với miền núi, những địa phương và ngành còn nhiều khó khăn, Trung ương có sự hỗ trợ thích đáng.

Xí nghiệp mua vật tư theo kế hoạch phải bảo đảm thực hiện kế hoạch sản xuất khối lượng sản phẩm tương ứng (về hiện vật và giá trị) và bán những sản phẩm ấy theo địa chỉ quy định trong kế hoạch. Trên nguyên tắc bảo đảm thực hiện hợp đồng sản xuất và tiêu thụ sản phẩm theo kế hoạch nhà nước, xí nghiệp được quyền liên doanh, liên kết, mua bán hàng hoá, vật tư với mọi tổ chức kinh tế khác để phát triển sản xuất, nhưng không được lợi dụng để làm ăn phi pháp. Ngoài những sản phẩm bán theo địa chỉ quy định trong kế hoạch, xí nghiệp được lựa chọn đơn vị thương nghiệp xã hội chủ nghĩa để ký hợp đồng tiêu thụ những sản phẩm còn lại; trường hợp không thoả thuận được với thương nghiệp, xí nghiệp tự tổ chức tiêu thụ những sản phẩm đó theo chính sách lưu thông hàng hoá của Nhà nước.

Khẩn trương sắp xếp lại hệ thống kinh doanh vật tư theo hướng cắt bỏ ngay những tổ chức trung gian vô ích, không nhất loạt tổ chức theo cấp hành chính. Mở rộng phương thức bán trực tiếp vật tư cho những đơn vị sử dụng với khối lượng lớn. Làm thử và rút kinh nghiệm mở rộng từng bước hình thức đấu thầu ký hợp đồng đặt hàng và bán vật tư, trước hết là đối với một số vật tư sản xuất hàng tiêu dùng.

Tăng cường trách nhiệm vật chất trong khâu bảo quản, vận chuyển, sử dụng vật tư. Đẩy mạnh cuộc vận động chống tiêu cực trong hệ thống phân phối và kinh doanh vật tư. Cấm tư nhân kinh doanh những vật tư do Nhà nước thống nhất quản lý.

b) Giải toả lưu thông hàng hoá, chuyển mạnh thương nghiệp xã hội chủ nghĩa sang kinh doanh, phấn đấu chiếm lĩnh thị trường xã hội, trước hết về những mặt hàng thiết yếu.

Tiếp tục xoá bỏ ngay tất cả các hình thức cấm đoán lưu thông, chia cắt thị trường theo địa giới hành chính: thực hiện tốt chủ trương giải thể các trạm kiểm soát hàng hoá trên các đường giao thông trong cả nước.

Thực hiện rộng rãi việc bán lẻ theo giá kinh doanh thương nghiệp của Nhà nước; cá biệt có mặt hàng chịu lỗ, nhưng tính chung kinh doanh thương nghiệp không lỗ và có lãi. Soát xét lại giá kinh doanh thương nghiệp hiện hành, điều chỉnh những giá cao, thấp không hợp lý, bảo đảm hiệu quả kinh tế - xã hội; làm có cân nhắc, không làm ào ạt, gây đột biến và phải có tác dụng hãm tốc độ tăng giá trên thị trường xã hội. Ngành thương nghiệp không được tuỳ tiện nâng giá để hưởng chênh lệch giá ngoài chiết khấu thương nghiệp.

Chuyển giá bán các mặt hàng cung cấp có định lượng và không định lượng sang giá bán lẻ kinh doanh thương nghiệp đi đôi với bù giá vào lương và bảo đảm có hàng bán. Chuyển dần những mặt hàng thuộc diện chính sách xã hội sang bán lẻ theo giá kinh doanh, nói chung không lấy lãi nhưng cũng không để lỗ, đi đôi với áp dụng chế độ trợ cấp trực tiếp cho các đối tượng được hưởng thay cho việc trợ cấp qua giá. Việc chuyển các mặt hàng nói trên sang bán theo giá kinh doanh thương nghiệp phải được tính toán chặt chẽ và tiến hành từng bước phù hợp với khả năng cân đối tiền - hàng và ngân sách, không để tác động xấu đến đời sống công nhân, viên chức, lực lượng vũ trang.

Tổ chức lại hoạt động của thương nghiệp quốc doanh, loại bỏ những tầng nấc trung gian vô ích, giảm mạnh phí lưu thông bất hợp lý. Các tổng công ty Trung ương đưa thẳng hàng hoá từ trung tâm bán buôn đến các xí nghiệp thương nghiệp bán lẻ. Xoá bỏ ngay các tổ chức buôn bán của các cơ quan, đơn vị không có chức năng và không được phép kinh doanh thương nghiệp. Mở rộng kinh doanh của các hợp tác xã và tập đoàn sản xuất nông nghiệp, hợp tác xã tiểu, thủ công nghiệp và hợp tác xã mua bán. Tiếp tục đẩy mạnh cải tạo xã hội chủ nghĩa đối với thương nghiệp tư doanh. Sắp xếp, cải tạo và sử dụng tiểu thương trong những ngành hàng cần thiết. Đối với số tiểu thương không cần thiết trong lĩnh vực lưu thông, Nhà nước giúp đỡ họ chuyển sang sản xuất, dịch vụ. Xoá bỏ thương nghiệp tư bản tư nhân. Quy định rõ những ngành hàng cho phép những người buôn bán loại vừa hoạt động. Dựa vào quần chúng phát hiện kịp thời và trừng trị đích đáng bọn đầu cơ, buôn lậu, bọn ăn cắp trong hoạt động thương nghiệp và bộ máy nhà nước.

c) Thực hiện phân cấp định giá một cách hợp lý: Trung ương quyết định giá hoặc khung giá bán các loại vật tư quan trọng nhất; tỉ giá giữa vật tư với nông sản và khung giá mua về một số nông sản quan trọng nhất; giới hạn cao nhất về giá bán lương thực; giá hoặc khung giá bán lẻ thực phẩm và hàng công nghiệp tiêu dùng quan trọng lưu thông trong cả nước hoặc trong phạm vi vùng rộng. Trên cơ sở đó, mở rộng quyền định giá cho các tổ chức sản xuất, kinh doanh, các ngành và các địa phương. Các cơ quan và tổ chức được giao quyền định giá phải chịu trách nhiệm kịp thời xử lý giá trong từng thời gian cho phù hợp với tình hình thực tế, tạo điều kiện thuận lợi cho hạch toán kinh doanh. Xử lý nghiêm khắc những trường hợp tuỳ tiện nâng giá, tranh mua, tranh bán gây rối loạn giá cả và thị trường.

d) Đổi mới cơ chế quản lý giao thông vận tải theo hướng hạch toán kinh doanh, đáp ứng yêu cầu mở rộng lưu thông vật tư, hàng hoá.

Điều chỉnh từng bước giá cước vận tải hàng hoá và hành khách, giá cước bưu điện để giảm lỗ và đi tới kinh doanh có lãi.

Trên cơ sở bảo đảm thực hiện vận tải theo kế hoạch, các đơn vị quốc doanh, tập thể và cá nhân có phương tiện vận tải được quyền ký hợp đồng vận chuyển với mọi chủ hàng được phép lưu thông.

áp dụng chính sách giá đi đôi với biện pháp hành chính để hạn chế vận tải bằng ô tô đối với những loại hàng có thể sử dụng những phương tiện vận chuyển khác rẻ hơn; có chính sách và biện pháp khuyến khích vận tải hai chiều.

Quy định rõ chính sách khuyến khích kinh tế tập thể, kinh tế gia đình, cá thể, tư nhân mua, đóng phương tiện và đăng ký kinh doanh vận tải, chủ yếu là vận tải đường ngắn.

Tích cực xoá bỏ những hành vi tiêu cực trong công nhân, viên chức ngành vận tải bằng biện pháp kinh tế và hành chính.

5- Về chính sách xuất nhập khẩu và tỉ giá hối đoái.

Các cơ sở sản xuất có quy mô xuất khẩu tương đối lớn được trực tiếp giao dịch với khách hàng nước ngoài, tham gia hội chợ quốc tế.

Sửa đổi chế độ điều tiết ngoại tệ và phương thức phân phối vật tư, hàng hoá nhập khẩu để bảo đảm cho những người làm hàng xuất khẩu sang khu vực I có lợi bằng hoặc hơn so với xuất khẩu sang khu vực II.

Công bố danh mục một số mặt hàng xuất khẩu, nhập khẩu giao cho tổ chức ngoại thương Trung ương độc quyền kinh doanh. Việc tập trung đầu mối xuất nhập khẩu đối với một số mặt hàng cần thiết khác được thực hiện theo hướng Trung ương và địa phương cùng có lợi, khuyến khích các địa phương và cơ sở đẩy mạnh sản xuất hàng xuất khẩu và bảo đảm cho việc xuất khẩu qua đầu mối thống nhất có lợi hơn là từng địa phương tự mình xuất khẩu. Sắp xếp hợp lý các tổ chức xuất khẩu, nhập khẩu, giảm các tổ chức kinh doanh kém hiệu quả, loại bỏ các khâu trung gian.

Các địa phương, các ngành và cơ sở sản xuất chưa được phép hoặc chưa có điều kiện xuất, nhập khẩu trực tiếp có quyền lựa chọn bất kỳ tổ chức xuất, nhập khẩu nào của Nhà nước để ký hợp đồng uỷ thác việc xuất, nhập khẩu.

Sửa đổi thủ tục cấp giấy phép xuất, nhập khẩu, tạo điều kiện cho hoạt động xuất khẩu, nhập khẩu được thuận lợi, kịp thời.

Nhà nước thu thuế xuất khẩu đối với một số mặt hàng có hiệu suất thu ngoại tệ cao và có chính sách trợ giá đối với một số mặt hàng khác. Bằng chính sách giá và thuế đi đôi với các biện pháp tổ chức và hành chính, kiên quyết ngăn chặn tình trạng tranh mua, kích giá mua hàng xuất khẩu.

Ban hành chính sách thuế đối với hàng nhập khẩu theo hướng khuyến khích nhập khẩu nguyên liệu, phụ tùng, thiết bị, hạn chế việc nhập hàng tiêu dùng xa xỉ và những mặt hàng trong nước đã sản xuất được.

Xác định tỉ giá kết toán nội bộ hàng xuất khẩu theo nhóm hàng, bảo đảm cho các cơ sở làm hàng xuất khẩu với chi phí tương đối hợp lý không bị lỗ và được khuyến khích đúng mức. Tỉ giá hàng nhập khẩu phải xác định hợp lý, loại trừ những chi phí tiêu cực, tính đến mặt bằng giá trong nước và phân biệt theo nhóm hàng.

Tỉ giá kiều hối cần định một cách linh hoạt theo hướng người Việt Nam ở nước ngoài gửi tiền về nước có lợi hơn hẳn so với gửi hàng tiêu dùng có chịu thuế. Giảm hoặc miễn thuế đối với vật tư, phụ tùng, thiết bị, một số thuốc chữa bệnh cần thiết. Bãi bỏ những hạn chế về định lượng (số lượng và số lần) đối với hàng của người Việt Nam từ nước ngoài gửi về (trừ mặt hàng cấm nhập).

Sớm ban hành Luật đầu tư.

Phát triển mạnh việc gia công xuất khẩu, hợp tác sản xuất hàng xuất khẩu, kinh doanh du lịch, các dịch vụ thu ngoại tệ  việc đưa chuyên gia và lao động đi làm việc ở các nước ngoài.

II. CHÍNH SÁCH VÀ BIỆN PHÁP GIẢI QUYẾT TIỀN LƯƠNG VÀ ĐỜI SỐNG CỦA CÔNG NHÂN, VIÊN CHỨC VÀ LỰC LƯỢNG VŨ TRANG.

Yêu cầu bức thiết là giảm bớt khó khăn, dần dần ổn định đời sống của công nhân, viên chức, lực lượng vũ trang, giải quyết một cách tích cực và vững chắc, từng bước, phù hợp với kết quả sản xuất, với khả năng cân đối ngân sách, cân đối tiền - hàng.

Phải có những biện pháp toàn diện để đáp ứng yêu cầu đó, quan trọng nhất là việc giải quyết lương phải gắn với giảm được nhịp độ tăng giá trên thị trường xã hội; khuyến khích và giúp đỡ phát triển kinh tế gia đình trong sản xuất và dịch vụ; cho phép công nhân, viên chức được lao động cá thể ngoài giờ chính quyền.

Tình hình hiện nay chưa cho phép sửa đổi ngay chế độ tiền lương ban hành tháng 9-1985, mà chỉ có thể điều chỉnh bộ phận, chủ yếu là đối với một số thang, bậc lương công nhân kỹ thuật và cán bộ khoa học, kỹ thuật, đồng thời dùng hình thức lương sản phẩm và tiền thưởng để khắc phục một phần tính chất bình quân và những chỗ không hợp lý trong chế độ lương hiện hành.

1- Đối với quân đội và công an:

Bảo đảm cung cấp cho chiến sĩ và hạ sĩ quan đủ lương thực, thực phẩm, quân trang quân dụng, theo định lượng, đúng thời gian và địa điểm; ưu tiên cho các lực lượng ở tuyến đầu và ở những nơi khó khăn. Đối với sĩ quan và quân nhân chuyên nghiệp, thực hiện bù giá vào lương như công nhân, viên chức. Chấn chỉnh công tác hậu cần, bảo đảm phân phối công bằng, thực hiện có nền nếp chế độ hạch toán và báo cáo công khai với cán bộ và chiến sĩ.

2- Đối với công nhân, viên chức khu vực sản xuất:

Phấn đấu khôi phục tiền lương thực tế ngang mức đã quy định tháng 9-1985 và hạch toán đầy đủ vào giá thành sản phẩm hoặc phí lưu thông trên cơ sở xí nghiệp phát triển và nâng cao hiệu quả sản xuất, tự trang trải quỹ tiền lương, bảo đảm thực hiện kế hoạch nhà nước, trong đó có các khoản nộp ngân sách; chấm dứt việc dùng sản phẩm hoặc các khoản thu nhập không chính đáng để trả lương, thưởng, phân phối nội bộ. Đối với một số xí nghiệp chưa đủ sức tự trang trải, thì Nhà nước sẽ xử lý từng trường hợp riêng biệt.

Thực hiện rộng rãi chế độ lương khoán, lương sản phẩm đi đôi với soát xét lại định mức và thực hiện chặt chẽ việc nghiệm thu sản phẩm.

Đối với tiền thưởng cuối năm ngoài quỹ lương, cần tạm thời quy định giới hạn tối đa để hạn chế mức chênh lệch quá đáng về thu nhập giữa các xí nghiệp. Đặc biệt khuyến khích việc thưởng sáng chế, sáng kiến cải tiến kỹ thuật; tiền thưởng này tính theo tỉ lệ so với số tiền tiết kiệm hoặc lợi nhuận do các sáng chế, sáng kiến đó mang lại, không giới hạn số tuyệt đối.

3- Đối với công nhân, viên chức khu vực hành chính, sự nghiệp.

Từng bước khôi phục tiền lương thực tế ngang mức quy định tháng 9-1985.

Những nơi có điều kiện thì thực hiện bù giá vào lương theo cơ cấu hiện vật của tiền lương tối thiểu đã quy định tháng 9-1985, và tính theo giá kinh doanh thương nghiệp; trước mắt mức bù đạt được bao nhiêu % tiền lương thực tế tháng 9-1985 sẽ do các tỉnh, thành phố quyết định tuỳ điều kiện cụ thể về cân đối tiền - hàng, cân đối ngân sách của địa phương và thoả thuận với Bộ Tài chính để giải quyết thống nhất cho công nhân, viên chức thuộc ngân sách Trung ương sống trên đất địa phương. Hội đồng Bộ trưởng chỉ đạo, hướng dẫn chặt chẽ mức bù giá để không gây ra những biến động xấu và tránh tình trạng quá chênh lệch giữa các địa phương và các ngành.

Đối với những nơi trước mắt chưa bù giá vào lương hoặc chỉ bù giá vào lương trong phạm vi sáu mặt hàng định lượng, thực hiện trợ cấp khó khăn theo khả năng ngân sách.

- Đối với cán bộ khoa học, kỹ thuật: khuyến khích và tạo điều kiện cho các cơ sở nghiên cứu khoa học, kỹ thuật, các cán bộ khoa học kỹ thuật quan hệ trực tiếp với các tổ chức và cơ sở sản xuất, kinh doanh bằng nhiều hình thức (ký kết hợp đồng nghiên cứu và triển khai, bán sáng chế); qua đó, tăng thêm thu nhập theo hiệu quả cống hiến đối với sản xuất. Chuyển dần các cơ sở nghiên cứu ứng dụng và triển khai kỹ thuật sang chế độ hạch toán kinh tế, tự bù đắp một phần hoặc toàn bộ chi phí.

- Đối với công nhân, viên chức ngành giáo dục, y tế: ngoài những biện pháp chung, được phép mở lớp dạy học và khám bệnh ngoài giờ do trường học và bệnh viện tổ chức để góp phần cải thiện đời sống của công nhân, viên chức hai ngành này.

Đối với các cơ quan quản lý hành chính và bộ phận gián tiếp sản xuất: sắp xếp lại tổ chức bộ máy và giảm mạnh biên chế trên cơ sở phân rõ chức năng quản lý hành chính nhà nước với chức năng quản lý sản xuất, kinh doanh. Thực hiện việc khoán quỹ lương cho những cơ quan đã định lại tổ chức và biên chế. Định tỉ lệ hợp lý số người gián tiếp sản xuất. Giúp đỡ về vật tư, tiền vốn và thực hiện các chính sách khuyến khích người dôi ra trong khu vực hành chính và trong bộ máy gián tiếp sản xuất chuyển sang trực tiếp sản xuất và hoạt động dịch vụ, kể cả chuyển sang khu vực kinh tế tập thể.

Đối với cán bộ xã và phường, điều chỉnh tiền phụ cấp hiện hành theo thời giá, khẩn trương nghiên cứu để sớm có chính sách đãi ngộ thoả đáng hơn.

Trợ cấp đối với  người về hưu và những người hưởng trợ cấp xã hội được điều chỉnh tương ứng với mức giải quyết về tiền lương cho công nhân, viên chức ở khu vực hành chính, sự nghiệp. Tìm mọi biện pháp giúp đỡ những người đang gặp nhiều khó khăn trong đời sống, đặc biệt là thương binh nặng, gia đình liệt sĩ neo đơn và những cán bộ cách mạng lão thành đã về hưu.

III. CHÍNH SÁCH VÀ BIỆN PHÁP TĂNG THU, HẠN CHẾ BỘI  CHI NGÂN SÁCH VÀ GIẢM NHỊP ĐỘ LẠM PHÁT.

1- Biện pháp tăng thu ngân sách nhà nước.

Chính sách tài chính phải tác động tích cực đến việc tạo ra nguồn thu theo hướng thúc đẩy kinh tế xã hội chủ nghĩa, trước hết là kinh tế quốc doanh chuyển sang hạch toán kinh doanh, đạt hiệu quả cao, khuyến khích các thành phần kinh tế khác ra sức phát triển sản xuất.

Đổi mới chế độ thu quốc doanh đi đôi với chấn chỉnh công tác kế toán, tài chính xí nghiệp, thực hiện cơ chế xí nghiệp tự trang trải các chi phí, giảm bù giá, bù lỗ qua ngân sách, không ngừng tăng tích luỹ ở khu vực này, bảo đảm nguồn thu chủ yếu của ngân sách nhà nước.

Thu đủ các loại thuế hiện hành theo đúng chính sách, các khoản nợ về thuế, đồng thời nghiên cứu ban hành bổ sung một số loại thuế. Cùng với việc giải thể các trạm kiểm soát dọc đường giao thông, cần thực hiện tốt việc thu thuế từ nơi sản xuất và ở nơi bán hàng, chống thất thu thuế. Chấn chỉnh bộ máy và cán bộ ngành thuế; phát huy vai trò tích cực của các cấp uỷ đảng và chính quyền địa phương trong việc chỉ đạo công tác thuế.

Nghiên cứu, đề nghị Quốc hội cho phép thực hiện chế độ thu học phí, viện phí (có chính sách bù đắp cho những đối tượng cần thiết) đồng thời xoá bỏ những khoản đóng góp ngoài quy định của Nhà nước; dùng nguồn thu này để bổ sung kinh phí cho sự nghiệp giáo dục, y tế.

Mở rộng việc thu các loại lệ phí, phát triển các hình thức kinh doanh bảo hiểm.

áp dụng nhiều hình thức linh hoạt, có sức thu hút mạnh để vay tiền mặt, ngoại tệ, kim loại quý, thóc, nông sản... của nhân dân, phát hành công trái không ghi tên, được tự do chuyển nhượng có nhiều thời hạn khác nhau (ngắn hạn và dài hạn), có lãi suất thoả đáng và có quay số dự thưởng; bảo hiểm giá trị tiền vay theo giá vàng.

Dành thêm một số vật tư, vật liệu xây dựng và nhập một số hàng tiêu dùng để bán cho nhân dân theo giá kinh doanh, tăng thu cho ngân sách và thu bớt tiền mặt trên thị trường.

2- Biện pháp tiết kiệm chi tiêu ngân sách.

Phấn đấu giảm tỉ lệ bội chi ngân sách, giảm việc phát hành tiền để chi cho ngân sách.

Soát xét lại kế hoạch đầu tư xây dựng cơ bản theo tinh thần Nghị quyết Đại hội VI của Đảng, tập trung cho các công trình trực tiếp phục vụ ba chương trình kinh tế, triệt để tiết kiệm, giảm mạnh chi xây lắp và chi xây dựng cơ bản khác. Nghiêm cấm việc xây dựng ngoài kế hoạch (kể cả ở Trung ương và ở địa phương).

Xoá dần việc bù lỗ, bù giá trong sản xuất, vận tải, nội thương, ngoại thương...

Chống việc chuyển từ bao cấp qua ngân sách nhà nước sang bao cấp qua tín dụng ngân hàng dưới các dạng tạm ứng cấp phát xây dựng cơ bản, cho vay bù lỗ, bù giá...

Giảm mạnh biên chế và chi tiêu hành chính; hết sức hạn chế việc thuê nhân công hợp đồng xây dựng, dịch vụ trong khi chưa sử dụng hết lao động trong biên chế nhà nước.

Trong hai năm 1987-1988, các cơ quan hành chính ngừng mua sắm mới một số loại hàng tiêu dùng, góp phần tăng quỹ hàng hoá bán cho nhân dân. Cắt giảm các kinh phí hội nghị, lễ tân, các chi phí hành chính. Cấm ngặt việc dùng tiền của công để chè chén, biếu xén. Sửa đổi, bổ sung hợp lý các định mức chi tiêu hành chính, sự nghiệp và giao khoán các khoản chi này cho các ngành, các cấp, các cơ quan.

Giảm những khoản chi phúc lợi quá khả năng của ngân sách.

Hội đồng Bộ trưởng nghiên cứu những khoản mục tiết kiệm chi trong sản xuất và tiêu dùng để trình Hội đồng Nhà nước ban hành thành văn bản pháp quy và triển khai thực hiện ngay.

Điều chỉnh tỉ lệ điều tiết giữa ngân sách Trung ương và ngân sách địa phương, quy định chặt chẽ các nguyên tắc chi tiêu ngân sách, thực hiện cơ chế điều hoà trong hệ thống ngân sách nhà nước một cách hợp lý để thực hiện cân đối ngân sách trong cả nước. Chỉ sau khi không tự điều hoà được trong hệ thống ngân sách nhà nước, Bộ Chính trị mới xem xét và quyết định việc Ngân hàng Nhà nước cho vay để bù đắp thiếu hụt của ngân sách nhà nước.

3- Bảo đảm nhu cầu tiền tệ lưu thông đi đôi với giảm tốc độ lạm phát.

Đi đôi với những biện pháp tổng hợp ngăn chặn lạm phát, Ngân hàng Nhà nước cần chủ động chuẩn bị khối lượng và cơ cấu tiền mặt cần thiết để đáp ứng yêu cầu giải quyết những vấn đề cấp bách, nhất là bảo đảm tiền mặt cho sản xuất, mua nông sản, trả lương, không để thiếu tiền mặt trong hệ thống ngân hàng. Phương án chủ động phát hành tiền phải đi liền với mức phấn đấu cụ thể tăng nhanh vòng quay hàng hoá qua hệ thống thương nghiệp xã hội chủ nghĩa và vòng quay của đồng tiền qua hệ thống ngân hàng.

Cải tiến và mở rộng các hình thức thu tiền mặt vào hệ thống ngân hàng, đáp ứng đầy đủ, kịp thời, thuận tiện nhu cầu về tiền mặt của các tổ chức kinh tế và dân cư. Trên cơ sở đó, thúc đẩy các tổ chức kinh tế giao nhanh tiền mặt vào quỹ ngân hàng và tôn trọng kỷ luật quản lý tiền mặt.

Mở rộng kinh doanh vàng, bạc, đá quý, kinh doanh ngoại tệ qua kiều hối. áp dụng trong cả nước và ở từng địa phương nhiều hình thức thanh toán không dùng tiền mặt.

Tiếp tục huy động tiền tiết kiệm với lãi suất cao trong một thời gian ngắn.

Ngân hàng cho vay theo khả năng động viên các nguồn vốn nhàn rỗi trong xã hội, hạn chế phát hành tiền để cho vay.

Vốn tín dụng phải được sử dụng tập trung phục vụ ba chương trình kinh tế lớn. Ngăn chặn việc vay tín dụng để buôn bán kiếm lời không chính đáng. Sửa đổi lãi suất tiền gửi và cho vay của ngân hàng, tăng cường tác động đòn bẩy của lãi suất tín dụng. Không cho vay đối với những công trình xây dựng cơ bản không được ghi vào kế hoạch.

Sử dụng có hiệu quả các nguồn ngoại tệ vay được, bảo đảm tái tạo được ngoại tệ để trả nợ và sử dụng cho các vòng tiếp theo.

Kiện toàn Ngân hàng Nhà nước làm nhiệm vụ phát hành và quản lý nhà nước về tiền tệ, tín dụng. Phát triển các ngân hàng chuyên nghiệp, là tổ chức kinh doanh tín dụng và dịch vụ ngân hàng, được hoạt động theo phương thức góp cổ phần, bán cổ phiếu và tham gia hùn vốn vào các tổ chức sản xuất, kinh doanh khác. Ngoài những ngân hàng chuyên nghiệp đã thành lập (Ngân hàng Ngoại thương, Ngân hàng đầu tư), quỹ tiết kiệm xã hội chủ nghĩa, cần hình thành thêm các ngân hàng chuyên nghiệp khác như Ngân hàng Nông nghiệp, Ngân hàng Công, Thương nghiệp, v.v..

 Phần II

Tổ chức chỉ đạo thực hiện

 1- Thực hiện đúng nguyên tắc tập trung dân chủ. Toàn Đảng và bộ máy nhà nước phải nghiêm chỉnh chấp hành, thống nhất ý chí và hành động từ trên xuống dưới. Mọi việc thể chế hoá, phổ biến, chỉ đạo, thi hành đều phải theo đúng Nghị quyết.

Bộ máy đảng và chính quyền các cấp phối hợp chặt chẽ và hành động thống nhất. Bộ Chính trị trực tiếp quyết định những chủ trương lớn cụ thể hoá Nghị quyết của Ban Chấp hành Trung ương. Ban Bí thư và Thường vụ Hội đồng Bộ trưởng có kế hoạch chỉ đạo và tổ chức thực hiện những nghị quyết của Trung ương và Bộ Chính trị.

Thường vụ Hội đồng Bộ trưởng cụ thể hoá và thể chế hoá các chủ trương của Bộ Chính trị và Ban Bí thư, tổ chức chỉ đạo chặt chẽ việc thực hiện Nghị quyết này. Ban Bí thư có trách nhiệm kiểm tra và kịp thời uốn nắn những lệch lạc nảy sinh, cùng với Thường vụ Hội đồng Bộ trưởng chỉ đạo việc sơ kết từng thời gian.

Trong quá trình chuẩn bị ban hành chính sách cụ thể, trong phạm vi nghiên cứu và tham khảo ý kiến, cần tổ chức lấy ý kiến rộng rãi của các ngành, các cấp, các chuyên gia, các nhà khoa học và của quần chúng ở một số đơn vị cơ sở. Mỗi cán bộ, đảng viên phải thể hiện tinh thần trách nhiệm cao, góp phần vào việc cụ thể hoá và thực hiện thắng lợi Nghị quyết của Đảng. Những người cố tình làm trái Nghị quyết phải bị xử lý, người có sai phạm nặng trong việc thực hiện Nghị quyết hoặc không đủ năng lực thực hiện, phải kịp thời được thay thế.

Khi thực hiện, cấp dưới thấy điều gì cần làm khác với quy định chung phải xin ý kiến cấp trên. Cấp trên có trách nhiệm trả lời trong thời hạn 15 ngày; khi cấp trên đã có chỉ thị thì cấp dưới phải chấp hành nghiêm chỉnh, nhưng nếu quá thời hạn đó mà cấp trên không trả lời thì cấp dưới được phép thi hành theo ý kiến của mình và báo cho cấp trên biết.

2- Tổ chức phổ biến sâu rộng Nghị quyết này của Trung ương. Nói rõ với dân những khó khăn của đất nước, chủ trương giải quyết của Đảng và Nhà nước, trách nhiệm của mỗi người, của các tổ chức đảng và đoàn thể quần chúng trong việc thực hiện. Làm cho mọi người hiểu rằng: điều cốt lõi để thực hiện tốt Nghị quyết này là các cấp, các ngành, các cơ sở phải chuyển mạnh sang hạch toán kinh doanh xã hội chủ nghĩa, ra sức phát triển sản xuất với năng suất, chất lượng và hiệu quả cao, trên cơ sở đó bảo đảm lợi ích của cả Nhà nước, tập thể và người lao động.

Tổ chức, hướng dẫn nhân dân kiểm tra các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện Nghị quyết và chính sách của Đảng; khuyến khích nhân dân kiến nghị với Đảng và Nhà nước những biện pháp xây dựng, phát hiện các việc làm sai, tố giác những hành động chống đối, phá hoại. Bộ máy thông tin đại chúng phải phát huy vai trò tích cực trong những việc này. Cán bộ lãnh đạo các ngành, các cấp cần trực tiếp giải thích chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước với đảng viên quần chúng trên đài, báo, trong các cuộc sinh hoạt và gặp gỡ ở cơ sở.

3- Làm tốt công tác cán bộ có ý nghĩa hàng đầu để bảo đảm thực hiện Nghị quyết của Trung ương. Cần kiểm tra, đánh giá lại đội ngũ cán bộ, phát hiện, bồi dưỡng những cán bộ đủ năng lực và phẩm chất thực hiện những chủ trương đổi mới theo tinh thần Đại hội VI của Đảng và Nghị quyết Hội nghị Trung ương lần này, kịp thời điều chỉnh, bố trí lại đội ngũ cán bộ, bảo đảm thống nhất hành động trong toàn Đảng.

4- Việc chỉ đạo thực hiện Nghị quyết phải được chuẩn bị chu đáo, tiến hành một cách đồng bộ, có bước đi vững chắc. Các ngành, các cấp, trước hết là các cơ quan tổng hợp của Nhà nước cần có những phương án cụ thể, lường trước và xử lý nhanh những hệ quả kinh tế, chính trị và xã hội bất lợi nhất thời có thể xảy ra.

Các ngành, các cấp cần đặc biệt coi trọng việc làm thử, nghiên cứu tổng kết, rút kinh nghiệm điển hình.

5- Hợp đồng kinh tế có vị trí đặc biệt quan trọng trong cơ chế quản lý mới, trong việc thực hiện các chính sách mới về phân phối lưu thông. Vì vậy, cần coi trọng hoàn thiện chế độ hợp đồng kinh tế và hệ thống trọng tài kinh tế nhà nước, làm cho hợp đồng kinh tế ngày càng trở thành công cụ pháp lý đắc lực trong quản lý kinh tế, trong xây dựng và thực hiện kế hoạch.

6- Việc thực hiện các giải pháp cấp bách về phân phối, lưu thông gắn liền với đổi mới các khâu khác trong cơ chế quản lý, mang tính cách mạng sâu sắc, vì vậy phải dựa trên cơ sở phát động phong trào hành động cách mạng của quần chúng, gắn với cuộc vận động làm trong sạch các tổ chức đảng và bộ máy nhà nước, làm lành mạnh các quan hệ xã hội. Quá trình cải cách phải đi liền với việc hoàn thiện chính sách xã hội của Đảng theo quan điểm giai cấp đã được đề ra ở Đại hội VI của Đảng: "Xây dựng toàn diện giai cấp công nhân, giai cấp nông dân tập thể và tầng lớp trí thức xã hội chủ nghĩa, làm cho nền tảng chính trị - xã hội của xã hội mới ngày càng vững chắc, ưu thế của lực lượng xã hội chủ nghĩa trong cuộc đấu tranh giữa hai con đường ngày càng phát huy mạnh mẽ".

 

*

*       *

 

Các biện pháp cấp bách về phân phối, lưu thông lần này thực hiện trong hoàn cảnh có nhiều khó khăn, phức tạp hơn so với thời kỳ tháng 10-1985, song cũng có những thuận lợi mới.

Toàn Đảng, toàn dân ta nhận rõ tình hình, nhiệm vụ, đồng tâm nhất trí, quyết tâm thực hiện bằng được trong bước đi trước mắt những chủ trương, biện pháp cấp bách về phân phối, lưu thông nêu trong Nghị quyết này, góp phần thực hiện mục tiêu ổn định tình hình kinh tế - xã hội do Nghị quyết Đại hội lần thứ VI của Đảng đã nêu ra.

 

T/M BAN CHẤP HÀNH TRUNG ƯƠNG

Tổng Bí thư

 Nguyễn Văn Linh

Phản hồi

Thông tin người gửi phản hồi

Các tin khác

Ban hành Quy chế bầu cử trong Đảng

(ĐCSVN) - Ngày 10/10, thay mặt Ban Chấp hành Trung ương Đảng, Tổng Bí thư Tô Lâm đã ký Quyết định số 190-QĐ/TW về việc ban hành Quy chế bầu cử trong Đảng.

Kiểm soát quyền lực, phòng, chống tham nhũng, tiêu cực trong quản lý, sử dụng tài chính, tài sản công

(ĐCSVN) - Bộ Chính trị vừa ban hành Quy định số 189-QĐ/TW ngày 08/10/2024 về kiểm soát quyền lực, phòng, chống tham nhũng, tiêu cực trong quản lý, sử dụng tài chính, tài sản công.

Bộ Chính trị ban hành quy định phòng chống tham nhũng, tiêu cực trong điều tra, xét xử

(ĐCSVN) – Ngày 27/10/2023, Bộ Chính trị đã ban hành Quy định số 132-QĐ/TW về kiểm soát quyền lực, phòng, chống tham nhũng, tiêu cực trong hoạt động điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án.

Tập trung tuyên truyền những chủ đề lớn, trọng tâm từ nay đến Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIV của Đảng

(ĐCSVN) - Ban Tuyên giáo Trung ương yêu cầu thông tin chính xác, kịp thời với nhiều hình thức linh hoạt, sáng tạo, phong phú, sinh động gắn với tuyên truyền đại hội đảng bộ các cấp, tiến tới Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIV của Đảng và tuyên truyền kỷ niệm các ngày lễ lớn, sự kiện lịch sử quan trọng của đất nước trong năm 2024, 2025.

Quy trình kỷ luật đảng viên thuộc thẩm quyền của Trung ương Đảng, Bộ Chính trị, Ban Bí thư

(ĐCSVN) - Thay mặt Bộ Chính trị, Thường trực Ban Bí thư Lương Cường vừa ký Quyết định số 165-QĐ/TW ngày 6/6/2024 của Bộ Chính trị ban hành Quy trình xem xét, thi hành kỷ luật đối với tổ chức Đảng, đảng viên thuộc thẩm quyền của Ban Chấp hành Trung ương Đảng, Bộ Chính trị, Ban Bí thư.

Liên kết website