I. TÌNH HÌNH ĐẢNG VÀ PHƯƠNG HƯỚNG, MỤC TIÊU CÔNG TÁC XÂY DỰNG ĐẢNG.
1- Trong cách mạng dân tộc, dân chủ, Đảng ta đã lãnh đạo nhân dân đấu tranh anh dũng, kiên cường, trải qua nhiều thử thách, hy sinh và giành được nhiều thắng lợi to lớn. Trong quá trình đó, Đảng không ngừng được tôi luyện, trưởng thành và đã xây dựng nên những truyền thống quý báu: Đảng xây dựng được đường lối và phương pháp cách mạng đúng đắn; coi cách mạng là sự nghiệp của quần chúng, tin ở dân, dựa vào dân, đấu tranh vì lợi ích thiết thực của dân; giữ gìn sự đoàn kết nhất trí, chăm lo xây dựng đội ngũ cán bộ, đảng viên và tổ chức cơ sở đảng, nêu cao chủ nghĩa quốc tế vô sản, đoàn kết chặt chẽ với các đảng và các nước anh em. Đảng thật sự là một đảng vũ trang bằng chủ nghĩa Mác-Lênin, mang bản chất cách mạng và khoa học, xứng đáng là đội tiên phong lãnh đạo và là niềm tự hào của giai cấp công nhân và dân tộc Việt Nam. Sự lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng là nhân tố quyết định mọi thắng lợi của cách mạng nước ta.
Bước vào cách mạng xã hội chủ nghĩa trên phạm vi cả nước, Đảng ta có những cố gắng lớn trong lãnh đạo xây dựng chủ nghĩa xã hội, giữ vững thành quả cách mạng, bảo vệ Tổ quốc, tăng cường tình đoàn kết và sự hợp tác quốc tế. Phần đông cán bộ, đảng viên và tổ chức cơ sở đảng nêu cao tinh thần chịu đựng gian khổ, khắc phục khó khăn, lao động và công tác cần cù, chiến đấu dũng cảm, không bị đồng tiền và danh vọng cám dỗ làm hoen ố phẩm chất; trình độ nhận thức và năng lực công tác được nâng thêm một bước. Nhưng Đảng cũng phạm nhiều khuyết điểm và sai lầm, nhất là trên lĩnh vực kinh tế - xã hội, gây ra những hậu quả nặng nề. Đại hội VI của Đảng đã kết luận đó là những khuyết điểm, sai lầm về chủ trương, chính sách lớn, về chỉ đạo chiến lược và tổ chức thực hiện. Đại hội đã nhận định rất đúng rằng: "Những sai lầm và khuyết điểm trong lãnh đạo kinh tế - xã hội bắt nguồn từ những khuyết điểm trong hoạt động tư tưởng, tổ chức và công tác cán bộ của Đảng".
Từ sau Đại hội VI của Đảng đến nay, với tinh thần đổi mới, Ban Chấp hành Trung ương Đảng, Bộ Chính trị, Ban Bí thư đã cụ thể hoá một số vấn đề mà Đại hội VI nêu ra, quyết định một số chủ trương, chính sách về kinh tế - xã hội, văn hoá - văn nghệ, báo chí, an ninh, quốc phòng, đối ngoại,...mở ra những hướng đi mới. Đã bước đầu khơi dậy được không khí dân chủ, thẳng thắn tự phê bình và phê bình trong Đảng và trong xã hội. Đã sắp xếp lại một bước tổ chức bộ máy, thay đổi, bố trí lại một số cán bộ. Đã có những tiến bộ bước đầu trong phong cách lãnh đạo. Một số nhân tố tích cực đã xuất hiện ở một số ngành, địa phương và cơ sở, tuy chưa nhiều và chưa vững chắc, song nếu được tổng kết tốt để mở rộng, chắc chắn sẽ tạo điều kiện thúc đẩy công cuộc đổi mới. Nghị quyết của Bộ Chính trị về cuộc vận động làm trong sạch và nâng cao sức chiến đấu của tổ chức đảng và bộ máy nhà nước, làm lành mạnh các quan hệ xã hội được đông đảo cán bộ, đảng viên và nhân dân nhất trí, đồng tình và đã thu được một số kết quả, nhưng việc thực hiện chưa đều và chưa mạnh, kết quả còn rất hạn chế.
Đến nay, đất nước vẫn đang đứng trước những khó khăn gay gắt về kinh tế - xã hội; có mặt tiếp tục xấu đi một cách nghiêm trọng. Sự lãnh đạo của Đảng về chính trị, tư tưởng và tổ chức chưa ngang tầm nhiệm vụ cách mạng, chưa đáp ứng đòi hỏi của công cuộc đổi mới và yêu cầu, nguyện vọng của nhân dân. Việc cụ thể hoá các nghị quyết của Đảng còn chậm, có cái chưa thật sát hợp. Năng lực tổ chức thực hiện của nhiều cấp uỷ đảng và trình độ quản lý điều hành của nhiều cơ quan nhà nước còn kém. Đội ngũ cán bộ, đảng viên đông nhưng nói chung không mạnh; trình độ năng lực về nhiều mặt còn thấp, sự giác ngộ lý tưởng và phẩm chất của một bộ phận đảng viên giảm sút đáng lo ngại; một số cán bộ, kể cả ở cấp cao, không gương mẫu, thậm chí thoái hoá, biến chất. ở nhiều nơi, năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của tổ chức cơ sở đảng rất yếu. Các nguyên tắc tổ chức và sinh hoạt đảng không được chấp hành nghiêm túc; trong Đảng vừa thiếu dân chủ, vừa thiếu tập trung, lỏng lẻo kỷ luật. Không ít cán bộ còn mang nặng chủ nghĩa cá nhân và đầu óc địa vị. Hiện tượng mất đoàn kết xảy ra khá phổ biến, một số nơi nghiêm trọng. Bệnh quan liêu, xa rời quần chúng, hống hách, cửa quyền, tệ ăn cắp của công, ăn hối lộ còn nặng, nhất là ở một số cán bộ lợi dụng chức quyền hoặc nắm vật tư, của cải của Nhà nước. Quan hệ giữa Đảng và quần chúng bị xói mòn, uy tín của Đảng giảm sút nghiêm trọng. Nói một cách tổng quát, tính chất giai cấp công nhân và tính chất tiền phong của Đảng đang bị giảm sút; nhiều truyền thống tốt đẹp của Đảng bị lãng quên và tổn thương nặng.
Tình hình yếu kém trên đây, trước hết và chủ yếu bắt nguồn từ những sai lầm về chủ trương, chính sách lớn, về chỉ đạo chiến lược và tổ chức thực hiện như Đại hội VI và các Hội nghị Trung ương đã kiểm điểm; chậm cụ thể hoá các nội dung đổi mới và cơ chế quản lý mới; thiếu nhất trí trên một số vấn đề cụ thể về kinh tế - xã hội, nhất là về giá - lương - tiền, tác hại đến sự đoàn kết, thống nhất, kỷ luật, kỷ cương trong Đảng và bộ máy chính quyền, đến việc giữ gìn sự trong sạch của cán bộ, đảng viên. Mặt khác, có những nguyên nhân về công tác tư tưởng và tổ chức, như: không coi trọng đúng mức công tác nghiên cứu lý luận và tổng kết thực tiễn; không coi trọng việc giáo dục, rèn luyện lý tưởng cách mạng xã hội chủ nghĩa, buông lỏng quản lý và rèn luyện đảng viên; chậm đổi mới chính sách cán bộ và không làm tốt công tác quản lý và quy hoạch cán bộ; buông lỏng kỷ luật của Đảng và pháp luật Nhà nước, nhất là đối với một số cán bộ ở cấp cao, không thực hiện nghiêm túc Điều lệ Đảng và các nguyên tắc tổ chức sinh hoạt đảng; không tập trung sức chỉ đạo một cách kiên quyết và đến nơi đến chốn việc thực hiện các nghị quyết của Đảng, coi nhẹ công tác kiểm tra.
Hai vấn đề nghiêm trọng nhất là:
- Vi phạm nguyên tắc tập trung dân chủ, vừa thiếu dân chủ, vừa buông lỏng kỷ luật.
- Chậm thay đổi quan điểm và chính sách cán bộ; chậm xây dựng và thực hiện quy hoạch đội ngũ cán bộ chủ chốt, nhất là cán bộ kế cận. Quản lý cán bộ còn quan liêu, chưa có một cơ chế quản lý nên không nắm chắc được cán bộ.
2- Chúng ta đang tiếp tục thực hiện hai nhiệm vụ chiến lược, thực hiện sự nghiệp đổi mới toàn diện mà Đại hội VI của Đảng đã đề ra. Đây thật sự là một cuộc đấu tranh gay go, gian khổ, đòi hỏi phải gấp rút củng cố Đảng, nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng; tăng cường và đổi mới công tác xây dựng đảng.
Phương hướng chung của công tác xây dựng đảng hiện nay là: Phát huy bản chất và truyền thống cách mạng tốt đẹp của Đảng, quán triệt và thực hiện Nghị quyết Đại hội VI và các nghị quyết của Trung ương, Bộ Chính trị, đổi mới tư duy, đổi mới tổ chức, đổi mới đội ngũ cán bộ, đổi mới phong cách lãnh đạo và công tác, nâng cao giác ngộ cách mạng, bồi dưỡng lý tưởng, phẩm chất, kiến thức và năng lực lãnh đạo chính trị của cán bộ, đảng viên, mở rộng dân chủ đi đôi với tăng cường kỷ luật trong Đảng, tăng cường mối liên hệ giữa Đảng với giai cấp công nhân và nhân dân lao động, bảo đảm cho Đảng vươn lên ngang tầm nhiệm vụ mới.
Từ nay đến năm 1990, phải tập trung sức thực hiện một số nhiệm vụ cấp bách và cơ bản nhằm đạt những yêu cầu sau đây:
- Làm cho toàn Đảng, toàn dân, toàn quân nhất trí, quán triệt và thực hiện Nghị quyết Đại hội VI và các chính sách đã được cụ thể hoá, bồi dưỡng lý tưởng xã hội chủ nghĩa và cộng sản chủ nghĩa, phẩm chất đạo đức, năng lực công tác, tính giai cấp công nhân, vai trò tiền phong gương mẫu của cán bộ, đảng viên, củng cố lòng tin của nhân dân đối với sự lãnh đạo của Đảng.
- Tiếp tục cụ thể hoá Nghị quyết Đại hội VI, các nghị quyết của Trung ương, của Bộ Chính trị; từng bước cụ thể hoá và thể chế hoá cơ chế Đảng lãnh đạo, nhân dân lao động làm chủ, Nhà nước quản lý, nhằm thật sự mở rộng dân chủ và tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa, phát huy tính năng động và hiệu lực của bộ máy đảng và nhà nước.
- Xây dựng quy hoạch cán bộ, kiện toàn một bước quan trọng đội ngũ cán bộ chủ chốt các cấp, các ngành, trước hết ở trung ương và cơ sở.
- Thực hiện nghiêm túc nguyên tắc tập trung dân chủ: mở rộng dân chủ, lập lại trật tự, kỷ cương; đẩy mạnh tự phê bình và phê bình, củng cố sự đoàn kết thống nhất trong Đảng; đấu tranh chống quan liêu, chống vi phạm quyền làm chủ của nhân dân, tăng cường mối liên hệ giữa Đảng và quần chúng.
II. MỘT SỐ NHIỆM VỤ CẤP BÁCH CỦA CÔNG TÁC XÂY DỰNG ĐẢNG
A- Đổi mới và tăng cường công tác tư tưởng của Đảng
1- Tăng cường công tác nghiên cứu lý luận, nghiên cứu thực tiễn, đúc kết kinh nghiệm nhằm phục vụ thiết thực việc đổi mới tư duy và cụ thể hoá kịp thời, đúng đắn các nghị quyết của Đảng trên mọi lĩnh vực, đặc biệt là lĩnh vực kinh tế - xã hội, mà cấp bách nhất là chống lạm phát. Chuẩn bị Cương lĩnh và Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội để trình Đại hội VII của Đảng.
Tổ chức lại các cơ quan tham mưu và các lực lượng nghiên cứu, tăng cường công tác thông tin, hướng vào một số vấn đề cấp bách về kinh tế - xã hội đang cần giải quyết. Trong công tác nghiên cứu, nắm vững bản chất cách mạng và khoa học của chủ nghĩa Mác - Lênin, kế thừa di sản quý báu về tư tưởng và lý luận của đồng chí Hồ Chí Minh vĩ đại và của Đảng ta; xuất phát từ thực tiễn cách mạng nước ta, nghiên cứu và tiếp thu có chọn lọc những thành tựu lý luận và kinh nghiệm của các đảng anh em.
Đối với những vấn đề mới đặt ra, những vấn đề phức tạp còn có những ý kiến khác nhau phải cùng nhau nghiên cứu, tổng kết kinh nghiệm thực tiễn, lắng nghe ý kiến của quần chúng, của các chuyên gia và cán bộ khoa học, phát huy tự do tư tưởng, tranh luận thẳng thắn, dân chủ và đi đến kết luận. Khi đã có kết luận của tập thể, đã thành nghị quyết, tất cả mọi cán bộ, đảng viên, không trừ một ai, đều phải nói và làm theo nghị quyết của Đảng.
Đảng yêu cầu mọi đảng viên và cán bộ, trước hết là những cán bộ chủ chốt, phải ra sức học tập, nghiên cứu thực tiễn, nâng cao trình độ nhận thức về các mặt, nhất là về kinh tế và quản lý kinh tế, những kiến thức thuộc lĩnh vực mình phụ trách. Các trường đảng cần đổi mới nội dung chương trình và phương pháp đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, nâng cao trình độ đào tạo cơ bản, đồng thời bám sát và phục vụ thiết thực công cuộc đổi mới, gắn lý luận với thực tiễn, khắc phục lối giáo dục lý luận trừu tượng có tính chất kinh viện.
2- Đổi mới công tác giáo dục chính trị, tư tưởng cả về nội dung và hình thức, tổ chức và phương pháp, con người và phương tiện, nhằmnâng cao giác ngộ lý tưởng xã hội chủ nghĩa và cộng sản chủ nghĩa, phẩm chất chính trị và đạo đức cách mạng, năng lực tổ chức thực tiễn của cán bộ, đảng viên và nhân dân.
a) Mục tiêu và nội dung:
- Nâng cao trình độ nhận thức về công cuộc đổi mới để cán bộ và đảng viên nắm vững và thực hiện tốt Nghị quyết Đại hội VI của Đảng và các nghị quyết của Trung ương Đảng. Tiếp tục làm cho từng đảng viên, từng người lao động quán triệt những quan điểm của Đại hội VI, thật sự chuyển biến theo tinh thần đổi mới cả trong nhận thức và trong việc làm, bồi dưỡng những nhận thức mới về chính sách kinh tế, chính sách xã hội, về cơ chế quản lý, về pháp luật...
Mỗi ngành, mỗi cấp kịp thời phát hiện và bồi dưỡng những nhân tố mới, sơ kết, tổng kết kinh nghiệm, nhân các điển hình tiên tiến và dùng những điển hình đó để giáo dục, bồi dưỡng cán bộ, đảng viên và quần chúng.
Kiên quyết phê phán và khắc phục tư tưởng bảo thủ không muốn đổi mới, vì nhận thức lạc hậu hoặc vì động cơ duy trì địa vị và quyền lợi cá nhân, đồng thời khắc phục tư tưởng nóng vội, thoát ly thực tế. Rất coi trọng đấu tranh chống những phần tử cơ hội, thiếu trung thực, lợi dụng đổi mới để luồn lách, hành động sai trái hòng thoả mãn những tham vọng cá nhân.
- Đẩy mạnh việc giáo dục lý tưởng cách mạng, nâng cao phẩm chất, đạo đức cho cán bộ, đảng viên. Trước những khó khăn thử thách hiện nay, Đảng đòi hỏi mỗi cán bộ, đảng viên càng phải kiên định lập trường cách mạng, vững vàng trong cuộc đấu tranh thực hiện hai nhiệm vụ chiến lược xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa, giữa đổi mới và bảo thủ, giữa cái tích cực và cái tiêu cực; nêu cao ý thức trách nhiệm và tinh thần cách mạng tiến công, hy sinh phấn đấu cho lý tưởng xã hội chủ nghĩa và cộng sản chủ nghĩa, bảo vệ Tổ quốc, bảo vệ chủ nghĩa xã hội, bảo vệ Đảng, khắc phục tâm trạng bi quan, động dao, giảm lòng tin và ý chí chiến đấu. Nâng cao cảnh giác, đề phòng địch dùng tiền, vàng, hàng hoá, sắc đẹp mua chuộc cán bộ, đảng viên. Nêu cao lối sống cần kiệm liêm chính, chí công vô tư; lên án và đấu tranh mạnh với chủ nghĩa cá nhân và đầu óc địa vị; tệ tham ô, ăn cắp của công, ăn hối lộ, thói quan liêu cửa quyền, lối sống xa hoa, thực dụng, chạy theo danh lợi, tiền tài, ích kỷ cá nhân, cùng các tệ gia trưởng, độc đoán, ức hiếp quần chúng, kèn cựa địa vị, cục bộ địa phương, v.v.. Những cán bộ, đảng viên không chăm lo lợi ích của Đảng, của nhân dân, chỉ thu vén cho lợi ích cá nhân của mình thì không còn tư cách đứng trong hàng ngũ của Đảng. Hãy thực hiện tốt khẩu hiệu: "Sống, chiến đấu, lao động và học tập theo gương Bác Hồ vĩ đại".
Giáo dục tinh thần dân chủ, ý thức tổ chức kỷ luật, nhất là ý thức chấp hành các nghị quyết của Đảng, chính sách và pháp luật của Nhà nước, kỷ luật phát ngôn; xây dựng phong cách lãnh đạo và lề lối làm việc mới.
Trong điều kiện phát triển mạnh sản xuất hàng hoá, khai thác tiềm năng của 5 thành phần kinh tế, mở rộng quan hệ với nước ngoài, càng phải nêu cao ý thức và có biện pháp tích cực bảo vệ cách mạng, bảo vệ Đảng.
b) Hình thức và biện pháp phải đổi mới và thích hợp với trình độ và tâm lý của quần chúng trong tình hình hiện nay, khắc phục cách làm cũ kỹ, giản đơn, một chiều, thiếu sức thuyết phục. Mở rộng tính dân chủ, tính công khai, tính chân thật và tính chiến đấu, đồng thời bảo vệ bí mật của Đảng và bí mật quốc gia. Công tác tư tưởng phải bám sát cuộc sống, bám sát tâm tư, nguyện vọng quần chúng, phục vụ thiết thực cho cơ sở. Thực hiện thông tin hai chiều.
Cải tiến, nâng cao chất lượng sinh hoạt của các tổ chức đảng và cấp uỷ đảng (trước hết là Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư) coi đây là điều kiện đầu tiên để triển khai có hiệu quả công tác tư tưởng. Tổ chức tốt việc thảo luận dân chủ, thẳng thắn, đẩy mạnh tự phê bình và phê bình, nâng cao tính giáo dục, tính chiến đấu.
Phát triển rộng rãi các hình thức tiếp xúc và đối thoại với quần chúng, với ý thức thật sự trọng dân, gần dân, nghe dân và tin dân, tránh quan liêu, hình thức, mệnh lệnh, gia trưởng, gây phiền hà cho quần chúng và cơ sở.
Tiếp tục tăng cường lãnh đạo và quản lý các cơ quan báo chí, xuất bản, văn hoá, văn nghệ theo hướng phục vụ tích cực công cuộc đổi mới, góp phần thực hiện các nghị quyết của Đảng. Phát huy tác dụng tốt đi đôi với khắc phục kịp thời những lệch lạc trong báo chí, xuất bản, văn hoá, văn nghệ.
Đấu tranh kiên quyết và có hiệu quả chống chiến tranh tâm lý, chống những luận điệu tuyên truyền xuyên tạc của địch, chống những mưu đồ lợi dụng dân chủ và công khai để nói xấu, vu cáo, kích động chia rẽ hòng gây rối, phá hoại Đảng ta, chế độ ta.
Các cấp uỷ đảng, các cán bộ lãnh đạo và quản lý từ trung ương đến cơ sở đích thân chỉ đạo và trực tiếp làm công tác tư tưởng. Cấp uỷ và chi bộ phân công và kiểm tra đảng viên làm công tác tư tưởng. Tăng cường các cơ quan làm công tác tư tưởng. Không vin vào tình hình kinh tế, đời sống khó khăn để buông lơi công tác tư tưởng.
B- Tăng cường công tác tổ chức, xây dựng đội ngũ cán bộ đáp ứng yêu cầu của công cuộc đổi mới
1- Về công tác tổ chức:
- Làm rõ hơn chức năng, nhiệm vụ, mối quan hệ và lề lối làm việc giữa các cơ quan đảng, cơ quan nhà nước, tổ chức kinh tế và các đoàn thể quần chúng. Bảo đảm nội dung lãnh đạo của Đảng là vạch đường lối, chủ trương, chính sách lớn; chăm lo công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, bố trí cán bộ trong các cơ quan đảng và nhà nước, kiến nghị và giới thiệu cán bộ với các cơ quan dân cử để các tổ chức đó bầu cử một cách dân chủ; thường xuyên tiến hành công tác kiểm tra; phát huy vai trò tiên phong gương mẫu của đảng viên và làm tốt công tác giáo dục chính trị tư tưởng, thuyết phục và vận động quần chúng thực hiện các nghị quyết của Đảng. Các cấp uỷ đảng không làm thay cơ quan nhà nước trong việc quản lý, điều hành, tổ chức thực hiện các nhiệm vụ kinh tế - xã hội; phát huy vai trò của các cơ quan dân cử.
- Thực hiện cuộc cải cách về tổ chức bộ máy của các cơ quan đảng, chính quyền và đoàn thể quần chúng từ trung ương đến cơ sở.
+ Trong thời gian tới, kiện toàn Hội đồng Bộ trưởng, sắp xếp lại các bộ, kiện toàn uỷ ban nhân dân các cấp theo hướng gọn nhẹ, bỏ bớt các đầu mối không cần thiết, giảm mạnh biên chế hành chính, phân biệt rõ chức năng quản lý nhà nước về kinh tế với chức năng quản lý sản xuất kinh doanh; giảm bớt các sở, phòng, ban ở tỉnh, huyện. Sắp xếp lại các viện nghiên cứu; đưa phần lớn các viện nghiên cứu ứng dụng và triển khai kỹ thuật chuyên ngành về các liên hiệp sản xuất tương ứng, bỏ bớt một số viện nghiên cứu chưa cần thiết. Xây dựng, bố trí và sử dụng tốt cán bộ khoa học, kỹ thuật và nhân viên kỹ thuật, đưa một số lớn các cán bộ khoa học, kỹ thuật về trực tiếp công tác ở cơ sở. Đồng thời tiếp tục nghiên cứu, sắp xếp lại bộ máy ở cấp xã, phường và các cơ sở khác.
+ Kiện toàn các ban tham mưu của Đảng, bổ sung những cán bộ thật sự có năng lực và phẩm chất, để làm tham mưu cho cấp uỷ và giúp cấp uỷ kiểm tra, tổng kết thực tiễn. Sắp xếp lại một số ban đảng và cơ quan chức năng của chính quyền, tránh chồng chéo, trùng lắp. Các ban của Đảng chỉ cần ít cán bộ nhưng giỏi và chuyên sâu. Sử dụng tốt vai trò làm tham mưu của các viện nghiên cứu, các trường đại học, các chuyên gia giỏi, chuyên gia đầu ngành... thông qua hình thức hội đồng tư vấn theo từng chuyên đề. Tổ chức mạng lưới cộng tác viên và tạo điều kiện để sử dụng được tài năng của những chuyên gia giỏi.
+ Các đoàn thể quần chúng định rõ chức năng, nhiệm vụ, đổi mới nội dung và phương thức hoạt động của mình, sắp xếp lại bộ máy, giảm biên chế cán bộ chuyên trách, tăng cường hoạt động kiêm nhiệm, hướng về cơ sở, khắc phục bệnh hành chính hoá, quan liêu hoá.
+ Trên cơ sở thực hiện quốc phòng toàn dân và an ninh nhân dân vững mạnh, nâng cao chất lượng mọi mặt của quân đội thường trực và công an, mở rộng và nâng cao chất lượng dự bị động viên, giảm mạnh quân số.
Có kế hoạch đưa những người trong biên chế dôi ra do sắp xếp lại tổ chức sang bộ phận trực tiếp sản xuất, về cơ sở, đi các vùng kinh tế mới hoặc tạo điều kiện cho họ làm dịch vụ, làm kinh tế tập thể, kinh tế cá thể, bảo đảm việc làm và đời sống của họ; hết sức tránh đưa cán bộ, nhân viên từ bộ phận hành chính này sang bộ phận hành chính khác.
- Các cấp uỷ đảng, mọi tổ chức đảng, mọi cán bộ và đảng viên từ trung ương đến cơ sở phải thực hiện đầy đủ nguyên tắc tập trung dân chủ, tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách, mở rộng tự phê bình và phê bình, giữ gìn kỷ luật của Đảng. Củng cố sự đoàn kết thống nhất trong Đảng trên cơ sở đường lối, chính sách và các nguyên tắc tổ chức của Đảng.
Xây dựng cơ chế bảo đảm dân chủ trong sinh hoạt đảng, đấu tranh khắc phục tệ gia trưởng, độc đoán.
Chú trọng xây dựng ý thức chấp hành các nghị quyết của Đảng, chính sách và pháp luật của Nhà nước; trong khi vận dụng chủ trương, chính sách không được cường điệu đặc điểm của địa phương, đơn vị mình để làm trái nghị quyết của Đảng, hoặc chỉ thực hiện những điểm phù hợp với lợi ích cục bộ, tuỳ tiện truyền đạt ý kiến riêng của cá nhân. Thực hiện đúng nguyên tắc thiểu số phục tùng đa số, cấp dưới phục tùng cấp trên, toàn Đảng phục tùng Trung ương.
- Xây dựng phong cách lãnh đạo và lề lối làm việc mới, tuân thủ các quy chế công tác, quy trình làm việc; khắc phục bệnh quan liêu, giấy tờ, phô trương hình thức, lời nói không đi đôi với việc làm, giải quyết việc không dứt khoát, thiếu trách nhiệm, nể nang, né tránh nhau. Thực hiện chế độ cán bộ lãnh đạo các cấp dành thời gian đi cơ sở, tiếp dân, giải quyết kịp thời tại chỗ những công việc cụ thể; giảm bớt những cuộc họp không cần thiết, họp thiếu chuẩn bị, họp quá dài, hiệu quả ít.
- Tăng cường công tác kiểm tra của Đảng, trước hết là công tác kiểm tra của các cấp uỷ đảng. Kiểm tra phải có chương trình, kế hoạch, được xây dựng thành chế độ và đem lại hiệu quả thiết thực.
Các ban của Đảng giúp cấp uỷ kiểm tra việc thực hiện nghị quyết, chỉ thị của Đảng về lĩnh vực mình phụ trách. Kết hợp chặt chẽ công tác kiểm tra của Đảng với công tác thanh tra của Nhà nước và sự kiểm tra của quần chúng; sử dụng kịp thời kết quả kiểm tra, thanh tra vào việc lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện nghị quyết, chỉ thị của Đảng và tăng cường công tác cán bộ, công tác xây dựng đảng, kiện toàn tổ chức bộ máy.
Coi trọng hơn nữa việc kiểm tra đảng viên chấp hành Điều lệ, kỷ luật của Đảng, pháp luật của Nhà nước và kiểm tra tư cách đảng viên. Có kết luận rõ ràng, xử lý công minh, chính xác, kịp thời những tổ chức và cá nhân vi phạm kỷ luật, nguyên tắc tổ chức và sinh hoạt đảng và chế độ trách nhiệm, dù người đó đang giữ cương vị gì. Chống nể nang, bè cánh, "ô dù".
Kiện toàn cơ quan kiểm tra của Đảng ở các cấp.
- Trong tình hình hiện nay cần đặc biệt coi trọng công tác bảo vệ đảng.
2- Xây dựng đội ngũ cán bộ có đủ phẩm chất và năng lực thực hiện sự nghiệp đổi mới.
Đại hội VI của Đảng đã khẳng định: "Đổi mới cán bộ lãnh đạo các cấp là mắt xích quan trọng nhất mà Đảng ta phải nắm chắc để thúc đẩy những cuộc cải cách có ý nghĩa cách mạng". Trước mắt, từ nay đến năm 1990, cần tập trung xây dựng những hạt nhân lãnh đạo, những cán bộ chủ chốt ở các cấp, các ngành, nhất là ở trung ương và cơ sở; chú trọng những cán bộ lãnh đạo và cán bộ tham mưu giỏi về kinh tế, an ninh, quốc phòng, đồng thời phải chuẩn bị cán bộ cho lâu dài.
a) Nâng cao trình độ, phẩm chất và năng lực của cán bộ, phù hợp với yêu cầu đổi mới, bảo đảm có đủ sức thực hiện các nghị quyết của Đảng và các chủ trương, chính sách của Nhà nước. Cố gắng trong một thời gian ngắn bồi dưỡng, đào tạo được những cán bộ lãnh đạo vừa có phẩm chất, vừa có năng lực, nhất là phẩm chất chính trị vững vàng, năng lực trí tuệ và năng lực tổ chức thực tiễn.
Sử dụng thật tốt số cán bộ hiện có, đồng thời chuẩn bị lớp cán bộ kế cận.
Các cấp, các ngành thường xuyên chăm lo giáo dục, bồi dưỡng, tăng cường kiểm tra, quản lý cán bộ. Xây dựng cho cán bộ ý chí chiến đấu, tinh thần trách nhiệm, ý thức phục vụ nhân dân, ý thức tổ chức kỷ luật. Đấu tranh chống các biểu hiện giảm sút ý chí chiến đấu và tinh thần trách nhiệm, bảo thủ, trì trệ, quan liêu, hống hách, xa rời quần chúng, lợi dụng chức quyền để tham ô, ăn cắp hoặc hưởng đặc quyền, đặc lợi.
Bên cạnh những lớp cơ bản đào tạo đội ngũ cán bộ dự bị theo quy hoạch, các trường đảng phát triển mạnh các lớp bồi dưỡng ngắn ngày nâng cao trình độ theo yêu cầu tiêu chuẩn của từng loại cán bộ, từng chức danh. Nâng cao chất lượng đào tạo của các trường đảng, kiện toàn đội ngũ giảng viên trường đảng.
b) Từng bước trẻ hoá đội ngũ cán bộ, bảo đảm tính liên tục, tính kế thừa trong cơ quan lãnh đạo mỗi cấp.
- Đề bạt kịp thời những cán bộ trẻ đã được đào tạo, đã qua thử thách, có đủ tiêu chuẩn về phẩm chất và năng lực vào các cương vị lãnh đạo để tăng cường sức chiến đấu, tính năng động của đội ngũ cán bộ và để bảo đảm sự kế thừa liên tục ở các cơ quan lãnh đạo. Chú ý kết hợp cán bộ lớn tuổi với cán bộ trẻ, tránh lối đổi mới và trẻ hoá một cách hình thức, chỉ căn cứ vào độ tuổi và học vị. Khắc phục tư tưởng đẳng cấp, tôn ty theo kiểu phong kiến, cục bộ địa phương đang còn khá nặng nề và là trở ngại cho việc đổi mới cán bộ.
Bảo đảm ở mỗi cấp uỷ thường xuyên có ba độ tuổi, trong đó chú trọng tăng tỷ lệ cán bộ trẻ. Từ nay, mỗi lần bầu cấp uỷ (kể cả Ban Chấp hành Trung ương) cần đổi mới khoảng 1/3; tăng thêm số lượng uỷ viên ban chấp hành các cấp; chú ý cấu tạo trong cấp uỷ một số đồng chí ưu tú đang trực tiếp sản xuất, công tác ở cơ sở. Những đồng chí giữ chức bí thư các cấp uỷ nói chung không quá 10 năm.
Đề bạt vượt cấp những cán bộ ở cấp dưới thực sự có năng lực và phẩm chất giữ những trọng trách lãnh đạo ở cấp trên.
- Thực hiện đúng chế độ hưu trí đối với cán bộ. Có chính sách sử dụng hợp lý một số đồng chí tuy lớn tuổi, nhưng có năng lực, còn sức khoẻ và có yêu cầu.
c) Xúc tiến xây dựng quy hoạch cán bộ, tích cực chuẩn bị nhân sự cho Đại hội VII của Đảng và đại hội đảng bộ các cấp; đồng thời chuẩn bị cho lâu dài.
- Xác định và nắm vững tiêu chuẩn mỗi loại cán bộ để có căn cứ đánh giá, lựa chọn và bố trí cán bộ. Chấm dứt tình trạng đánh giá cán bộ theo cảm tính chủ quan, chỉ nhấn mạnh một chiều đến quá trình công tác, lý lịch gia đình, nặng về tuổi tác, cấp bậc hoặc bằng cấp, không chú trọng hiệu quả.
Tiêu chuẩn hàng đầu của cán bộ lãnh đạo là phẩm chất chính trị, trước hết thể hiện ở lòng trung thành với đường lối của Đảng, ở thái độ tích cực đối với công cuộc đổi mới, ở sự trung thực đối với Đảng; có quyết tâm cao trong việc thực hiện các nghị quyết của Đảng, có lối sống trong sạch, lành mạnh; có kiến thức và năng lực tiếp thu và cụ thể hoá các nghị quyết của Đảng vào lĩnh vực mình phụ trách, biết tổ chức và điều hành công việc, có khả năng đoàn kết cán bộ; có phong cách dân chủ tập thể, biết lắng nghe ý kiến quần chúng, sâu sát quần chúng và cơ sở; có ý thức tổ chức kỷ luật, dám nghĩ, dám làm, dám chịu trách nhiệm, nói đi đôi với làm.
- Bắt tay ngay vào việc lựa chọn cán bộ dự bị. Mỗi cán bộ phụ trách ở mỗi cấp, mỗi ngành, mỗi cơ quan, đơn vị sản xuất và công tác phải tích cực chuẩn bị người thay thế mình. Mỗi chức danh lãnh đạo phấn đấu có từ 2 đến 3 người dự bị và phải do tập thể lựa chọn và bồi dưỡng trong một số năm. Khi cán bộ lãnh đạo cũ sắp kết thúc nhiệm vụ của mình, giao ngày càng nhiều công việc lãnh đạo cho người cán bộ dự bị có khả năng nhất đảm nhiệm, không để xảy ra tình trạng người mới thay bị bỡ ngỡ trong công việc. Đồng chí bí thư cấp uỷ, thủ trưởng đơn vị đích thân cùng tập thể có thẩm quyền chỉ đạo việc này không khoán trắng cho cơ quan, tổ chức hoặc cho một vài đồng chí trong thường vụ chuẩn bị. Chú ý cán bộ trẻ, cán bộ nữ, cán bộ xuất thân từ công nhân, nông dân, người dân tộc thiểu số, những cán bộ khoa học kỹ thuật, nghiệp vụ, cán bộ trong quân đội và công an đã được rèn luyện trong thực tế và có triển vọng trở thành cán bộ lãnh đạo.
Từ nay đến năm 1989, xác định được cán bộ dự bị cho các chức vụ chủ chốt ở trung ương (Tổng Bí thư, Uỷ viên Bộ Chính trị, Ban Bí thư, Chủ tịch và các Phó Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng, các bộ trưởng, trưởng ban...). ở cấp tỉnh, thành xác định được cán bộ dự bị cho các chức vụ lãnh đạo chủ chốt (bí thư, chủ tịch, phó bí thư). Xác định được cán bộ dự bị giám đốc một số đơn vị kinh tế quan trọng và cán bộ chủ chốt ngành an ninh, quốc phòng.
- Khẩn trương đào tạo, bồi dưỡng cán bộ dự bị, kết hợp việc học tập ở trường, lớp với việc rèn luyện trong công tác thực tế theo một quy trình chặt chẽ. Căn cứ vào chỗ mạnh, chỗ yếu và triển vọng phát triển của mỗi người mà mạnh dạn bố trí vào những cương vị công tác nhất định, đảm nhiệm những công việc phù hợp, qua đó thường xuyên theo dõi, kiểm tra, bồi dưỡng, tạo điều kiện cho họ trưởng thành. Sau một thời gian lại xem xét, đánh giá, sàng lọc, chọn lấy người xứng đáng nhất. Thực hiện chủ trương luân chuyển cán bộ một cách có kế hoạch; đưa những cán bộ ở địa phương này sang địa phương khác; đưa các cán bộ ở cơ quan cấp trên được đào tạo tương đối cơ bản và có hệ thống xuống công tác ở địa phương và cơ sở một thời gian để bồi dưỡng, đồng thời đưa những cán bộ có năng lực, phẩm chất đã công tác ở địa phương và cơ sở lên công tác ở các cơ quan cấp trên.
d) Điều chỉnh bố trí lại cán bộ một cách hợp lý, từ nay đến cuối năm 1988:
- ở trung ương: kiện toàn một bước Bộ Chính trị, Ban Bí thư, Thường vụ Hội đồng Bộ trưởng; bố trí lại cán bộ chủ chốt ở một số bộ, một số ban và đoàn thể cùng với việc sắp xếp lại tổ chức bộ máy.
- ở cấp tỉnh, thành: một số nơi có nhu cầu có thể mở hội nghị đại biểu đảng, kiện toàn cấp uỷ. Bố trí lại một số giám đốc sở, giám đốc xí nghiệp, công ty theo yêu cầu kiện toàn tổ chức bộ máy.
- ở cấp huyện và cơ sở: tiến hành tốt đại hội đảng bộ thường kỳ, kiện toàn ban chấp hành; sắp xếp lại đội ngũ cán bộ.
Đưa ra khỏi chức vụ lãnh đạo những cán bộ bảo thủ, trì trệ, không thông suốt và không chuyển biến theo quan điểm đổi mới hoặc không đủ kiến thức và năng lực để thực hiện đổi mới trong phạm vi công việc của mình; những cán bộ bản lĩnh không vững vàng, cơ hội; những cán bộ gia trưởng, độc đoán, trù dập cấp dưới và quần chúng, kém ý thức tổ chức kỷ luật, cá nhân chủ nghĩa, bè cánh cục bộ; những cán bộ có lối sống không lành mạnh, lợi dụng chức quyền xâm phạm tài sản của Nhà nước và của tập thể, bị quần chúng oán ghét. Chống tư tưởng nể nang, hữu khuynh, không kiên quyết, dứt khoát trong việc xử lý cán bộ có sai phạm.
Chấm dứt tình trạng bố trí cán bộ theo kiểu không làm được việc do kém năng lực hoặc bị kỷ luật ở nơi này lại chuyển sang nhận nhiệm vụ ở nơi khác mà vẫn giữ nguyên chức, nguyên lương, thậm chí còn được lên chức, lên lương. Dứt khoát không cất nhắc những cán bộ lãnh đạo, cán bộ quản lý hoặc chuyên môn lên chức vụ hoặc ngạch bậc cao hơn khi tập thể đã thấy không đủ sức vươn lên để đảm nhiệm công việc dự kiến được giao. Những cán bộ đã đưa lên mà không đủ phẩm chất và năng lực thì kiên quyết đưa xuống.
đ) Cải tiến một số chế độ chính sách đối với cán bộ theo hướng thực hiện nguyên tắc phân phối theo lao động, trọng dụng tài năng,khuyến khích những người làm việc có hiệu quả.
- Bổ sung chính sách khen thưởng những người có sáng kiến, phát minh, có thành tích; xem xét điều chỉnh lại một số quy định về đãi ngộ không hợp lý ở các cấp, các ngành, bỏ những quy định mang tính chất đặc quyền đặc lợi hoặc bình quân chủ nghĩa. Thực hiện đúng quy định làm việc gì thì hưởng tiêu chuẩn chế độ tương ứng với công việc đó. Khắc phục những chỗ quá bất hợp lý trong chính sách lương.
- Nghiên cứu và thực hiện chính sách đãi ngộ đúng mức đối với cán bộ khoa học kỹ thuật, nhất là đối với những chuyên gia giỏi, chuyên gia đầu ngành.
- Có chính sách đãi ngộ, từng bước giải quyết khó khăn đối với cán bộ cơ sở, chú trọng những cơ sở xa xôi hẻo lánh, miền núi, hải đảo, khuyến khích những cán bộ khoa học kỹ thuật về công tác ở cơ sở, khuyến khích những cán bộ miền xuôi lên công tác ở miền núi.
Có chính sách chăm lo đời sống vật chất và tinh thần của các cán bộ lão thành cách mạng, cán bộ có nhiều công lao đã hưu trí, với tất cả tấm lòng kính trọng và biết ơn của nhân dân, của Đảng, của thế hệ hôm nay đối với các đồng chí đó. Cần quan tâm bồi dưỡng những vấn đề thời sự, chính sách và sử dụng các đồng chí hưu trí vào những công việc thích hợp với khả năng, sức khoẻ và hoàn cảnh của mỗi người.
e) Đổi mới công tác quản lý cán bộ: xây dựng và quản lý đội ngũ cán bộ là trách nhiệm của các cấp uỷ đảng, các cơ quan nhà nước và các đảng đoàn của các đoàn thể quần chúng. Mỗi đồng chí lãnh đạo chịu trách nhiệm quản lý những cán bộ dưới quyền mình. Quản lý cán bộ gắn với quản lý thực hiện nhiệm vụ chính trị; quản lý công việc gắn với quản lý con người; không khoán trắng mọi việc cho cơ quan tổ chức. Các ban đảng phối hợp với ban tổ chức để giúp cấp uỷ làm công tác quy hoạch, quản lý và chính sách cán bộ.
Thực hiện đúng nguyên tắc tập thể, dân chủ và trách nhiệm của thủ trưởng trong công tác quản lý cán bộ. Việc nhận xét, đánh giá, bố trí, đề bạt, khen thưởng, kỷ luật cán bộ và cho cán bộ hưu trí nhất thiết do tập thể cấp có thẩm quyền bàn bạc, quyết định. Khi lựa chọn, đề bạt cán bộ vào các chức vụ lãnh đạo và quản lý nhất thiết lấy ý kiến của cán bộ, đảng viên, quần chúng có liên quan; thực hiện chế độ bỏ phiếu tín nhiệm. Khi chuẩn bị nhân sự cho các chức vụ Chủ tịch Hội đồng Nhà nước, Chủ tịch Quốc hội, Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng, Bộ Chính trị lấy ý kiến của Ban Chấp hành Trung ương. Khắc phục quan niệm coi công tác tổ chức cán bộ là công việc riêng của một số người trong phạm vi hẹp, và chỉ lấy ý kiến của một ít người, thậm chí của một vài người làm quyết định của tập thể.
Đồng chí lãnh đạo chủ chốt (Tổng Bí thư, bí thư cấp uỷ, trưởng ban, bộ trưởng, giám đốc...) đích thân chăm lo công tác cán bộ. Đồng thời sử dụng và phát huy mạnh mẽ vai trò của các cơ quan tham mưu.
g) Kiện toàn cơ quan tổ chức các cấp, các ngành và cơ sở, đổi mới đội ngũ những người làm công tác cán bộ
- Chức năng của cơ quan tổ chức các cấp, các ngành là làm tham mưu tổng hợp, giúp cấp uỷ và thủ trưởng về công tác tổ chức xây dựng đảng; có nhiệm vụ nghiên cứu hướng dẫn, theo dõi, kiểm tra, tổng hợp tình hình để báo cáo với cấp uỷ; giúp cấp uỷ xây dựng quy hoạch cán bộ, sắp xếp bộ máy tổ chức, chuẩn bị các quyết định về chính sách, chế độ đối với cán bộ, quản lý cán bộ.
- Khẩn trương kiện toàn cơ quan tổ chức các cấp, các ngành và cơ sở, thay đổi những người làm công tác tổ chức cán bộ mà phẩm chất không đủ tin cậy, quan điểm bảo thủ, thành kiến với cán bộ, thiếu trung thực, kém năng lực, cửa quyền, sinh hoạt không lành mạnh. Bổ sung những đồng chí thật sự có tinh thần đổi mới, trung thực, khách quan, công tâm, sâu sát, có kiến thức và kinh nghiệm về công tác xây dựng đảng, có hiểu biết nhất định về quản lý kinh tế, quản lý xã hội và chuyên môn nghiệp vụ. Việc kiện toàn đội ngũ những người làm công tác tổ chức cán bộ cần tham khảo rộng rãi ý kiến của những cơ quan, những người có liên quan. Nâng cao trình độ nghiệp vụ cho những người làm công tác tổ chức cán bộ.
C- Nâng cao chất lượng đảng viên và sức chiến đấu của tổ chức cơ sở đảng
1- Nâng cao chất lượng đảng viên
- Đảng viên trước hết có giác ngộ lý tưởng xã hội chủ nghĩa và cộng sản chủ nghĩa, thể hiện rõ vai trò tiên phong gương mẫu, có tinh thần hy sinh quên mình, có trình độ và năng lực lãnh đạo chính trị, đi đầu và biết vận động quần chúng thực hiện đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước. Nếu trước đây, trong cách mạng dân tộc dân chủ, đảng viên phải nêu gương trong cuộc đấu tranh giữa cái sống và cái chết, phấn đấu hy sinh để giải phóng đất nước, giành chính quyền, thì ngày nay nêu gương chấp hành các chính sách và pháp luật của Nhà nước, giải quyết tốt mối quan hệ giữa lợi ích cá nhân và lợi ích chung, đặt lợi ích chung lên trên lợi ích cá nhân; cống hiến hết sức mình cho sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa.
Đảng viên phải có thái độ tích cực đối với công cuộc đổi mới và có kiến thức, có năng lực thực hiện đổi mới.
Đã là đảng viên thì phải lao động, không bóc lột. Đó là vấn đề có tính nguyên tắc.
Trong điều kiện hiện nay, Đảng đòi hỏi mọi đảng viên nỗ lực phấn đấu, làm hết sức mình, bằng lao động sáng tạo và có chất lượng cao của mình (kể cả lao động chân tay và lao động trí óc, lao động kỹ thuật và lao động quản lý), góp phần xoá bỏ nghèo nàn lạc hậu, làm giàu cho đất nước, ổn định và nâng cao đời sống nhân dân và bản thân có thêm thu nhập.
+ Đảng khuyến khích đảng viên ngoài việc phấn đấu hoàn thành tốt nhiệm vụ công tác được giao, tích cực phát triển kinh tế gia đình theo chính sách và quy định của Nhà nước để có thêm thu nhập, khắc phục một phần khó khăn về đời sống.
+ Đảng cho phép những đảng viên có vốn góp cổ phần vào các đơn vị kinh tế tập thể hoặc kinh tế quốc doanh.
Ban Bí thư sẽ có quy định và hướng dẫn cụ thể về vấn đề này.
- Làm tốt công tác phát triển đảng, từng bước trẻ hoá đội ngũ của Đảng, hướng vào công nhân, những người lao động ưu tú trong nông dân, lực lượng vũ trang, trí thức xã hội chủ nghĩa, nữ, người dân tộc thiểu số; những vùng, những ngành trọng yếu và còn ít đảng viên. Nâng cao tỷ lệ đảng viên là công nhân trong Đảng, nhất là công nhân trực tiếp sản xuất công nghiệp; phát triển đảng trong cán bộ khoa học - kỹ thuật, cán bộ quản lý ở những ngành kinh tế kỹ thuật mũi nhọn. Những người lao động ưu tú trong nông dân cá thể, thợ thủ công cá thể... nếu đủ điều kiện và tiêu chuẩn cũng có thể được kết nạp vào Đảng. Rất chặt chẽ về nguyên tắc và thủ tục kết nạp, đồng thời xoá bỏ những sự phiền hà, máy móc trong việc điều tra lý lịch và công tác xét duyệt. Chống khuynh hướng chạy theo số lượng, ngăn ngừa những phần tử xấu và cơ hội chui vào Đảng, coi trọng hơn nữa chất lượng ngay từ khâu lựa chọn đối tượng để kết nạp vào Đảng. ở những cơ sở kém nát phải kiện toàn đội ngũ cán bộ cốt cán rồi mới kết nạp đảng viên mới.
Quan tâm lãnh đạo Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh, làm tốt công tác giáo dục, rèn luyện đoàn viên và thanh niên, xây dựng đoàn thanh niên vững mạnh, tạo điều kiện và giúp đỡ các đoàn viên tích cực phấn đấu trở thành đảng viên và hăng hái tham gia xây dựng đảng, xứng đáng là đội hậu bị của Đảng.
- Làm tốt công tác giáo dục, phân công, kiểm tra, quản lý đảng viên. Mỗi cấp uỷ đảng có kế hoạch giáo dục, bồi dưỡng, nâng cao trình độ, phẩm chất và năng lực của đảng viên. Chú trọng xây dựng lập trường giai cấp công nhân, giáo dục lý tưởng và đạo đức cách mạng; giáo dục và kiểm tra đảng viên chấp hành Điều lệ Đảng. Cần có chương trình huấn luyện phù hợp với trình độ và điều kiện công tác của từng loại đảng viên ở từng loại cơ sở. Thực hiện có nền nếp việc phân công đảng viên, phân bố lại lực lượng đảng viên theo hướng gắn trực tiếp với sản xuất, với công tác, làm tốt công tác vận động quần chúng cả ở nơi cư trú. Khắc phục tình trạng đảng viên thoát ly sản xuất, xa rời quần chúng.
Chi bộ phải kiểm tra, quản lý chặt chẽ đảng viên, kể cả đảng viên là cán bộ lãnh đạo; nắm được cụ thể và chính xác phẩm chất và tình hình công tác, các hoạt động của từng cán bộ, đảng viên thuộc trách nhiệm và phạm vi mình quản lý. Hết sức coi trọng giáo dục, đồng thời phát hiện kịp thời và kiên quyết xử lý những đảng viên vi phạm kỷ luật của Đảng.
Đưa ra khỏi Đảng những người không đủ tư cách đảng viên. Thi hành kỷ luật nghiêm khắc những người cố tình bao che cho kẻ phạm pháp và vi phạm kỷ luật dù người đó ở cương vị nào.
Đối với những đảng viên nhất thời có phạm khuyết điểm chưa đến mức nghiêm trọng thì cần tích cực giáo dục, bồi dưỡng, tạo điều kiện để các đồng chí đó nâng cao ý chí chiến đấu, tinh thần trách nhiệm sửa chữa khuyết điểm để vươn lên. Nếu sau một thời gian vẫn không chuyển biến, vai trò tiên phong gương mẫu không còn, thì đưa ra khỏi Đảng.
2- Củng cố, nâng cao sức chiến đấu của các tổ chức cơ sở đảng.
- Trong điều kiện chuyển sang thực hiện cơ chế quản lý mới, phát huy vai trò chủ động, sáng tạo của các đơn vị kinh tế cơ sở, mở rộng dân chủ xã hội chủ nghĩa, các tổ chức cơ sở đảng đóng vai trò hết sức quan trọng. Cần khẩn trương nghiên cứu cụ thể hoá và bổ sung chức năng, nhiệm vụ, hình thức tổ chức, cơ chế hoạt động của các loại tổ chức cơ sở đảng cho phù hợp với yêu cầu mới. Các tổ chức cơ sở đảng phải thật sự là hạt nhân lãnh đạo chính trị trong các tập thể lao động và là người kiểm tra mọi hoạt động của cơ quan quản lý và người thủ trưởng. Chú trọng công tác giáo dục, vận động quần chúng; bằng nhiều hình thức, tổ chức để quần chúng giám sát, kiểm tra, phê bình, tham gia xây dựng đảng.
- Trên cơ sở tiêu chuẩn hoá từng chức danh, có quy hoạch, biện pháp gấp rút kiện toàn đội ngũ cốt cán ở cơ sở, chú trọng nâng cao vai trò và trách nhiệm của bí thư và thủ trưởng.
ở xí nghiệp kiện toàn bí thư đảng uỷ, giám đốc xí nghiệp, thư ký công đoàn và bí thư đoàn thanh niên. ở nông thôn kiện toàn bí thư đảng uỷ xã, chủ tịch xã, chủ nhiệm hợp tác xã, tập đoàn sản xuất và các chức vụ chủ chốt khác.
- Củng cố chi bộ, cải tiến và nâng cao chất lượng sinh hoạt chi bộ. Mỗi loại chi bộ có nội dung và hình thức sinh hoạt cụ thể, phù hợp với yêu cầu, tính chất và điều kiện công tác, không máy móc rập khuôn. Sinh hoạt chi bộ đi vào nền nếp thường xuyên, nâng cao vai trò lãnh đạo bảo đảm tính giáo dục, tính chiến đấu, phát huy được trí tuệ của tập thể trong việc thảo luận quán triệt, vận dụng đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước, bàn biện pháp thực hiện nhiệm vụ chính trị; nghiêm túc tự phê bình và phê bình, rèn luyện và quản lý tốt đảng viên.
- Các cấp, các ngành từ trung ương đến địa phương tập trung sức củng cố các cơ sở, nhất là những cơ sở yếu kém, những cơ sở trực tiếp quan hệ đến kinh tế, an ninh, quốc phòng, những cơ sở ở biên giới, hải đảo, miền núi, ở những vùng có nhiều khó khăn và những vùng có nhiều tiềm năng kinh tế lớn. Chọn lựa một số cán bộ tốt, có trình độ và năng lực tăng cường cho cơ sở, trước hết là những cơ sở trọng điểm. Những nơi cần thiết có thể lập các đoàn cán bộ xuống củng cố cơ sở trong một thời gian nhất định, giúp đỡ hướng dẫn các mặt công tác cho cơ sở và bồi dưỡng cán bộ.
Tăng cường cán bộ lãnh đạo và cán bộ tham mưu có chất lượng cho các huyện uỷ, quận uỷ, thị uỷ, bảo đảm có đủ sức hướng dẫn, chỉ đạo, kiểm tra hoạt động của các tổ chức cơ sở đảng, nhất là những tổ chức đảng ở đơn vị kinh tế quốc doanh đóng trên đất địa phương.
Nghiên cứu, tổng kết hoạt động của một số đảng uỷ cấp trên của cơ sở (như đảng uỷ khối các cơ quan trung ương hoặc địa phương, hội đồng bí thư hoặc hội nghị bí thư ở các liên hiệp xí nghiệp...) để có kết luận về các hình thức tổ chức đó.
- ở những nơi có đông đảng viên không trực tiếp sản xuất, công tác, tuỳ điều kiện, có thể thành lập những chi bộ theo địa bàn dân cư hoặc đơn vị hành chính. Nhiệm vụ chủ yếu của chi bộ này là làm công tác giáo dục, vận động quần chúng chấp hành chính sách, quản lý đảng viên, xây dựng nội bộ, tham gia ý kiến vào những vấn đề chung của đảng bộ.
III. TỔ CHỨC CHỈ ĐẠO THỰC HIỆN
1- Tổ chức tốt việc nghiên cứu Nghị quyết Hội nghị lần thứ năm Ban Chấp hành Trung ương, làm cho các cấp, các ngành, các tổ chức, cơ sở đảng, mọi cán bộ, đảng viên nắm vững những yêu cầu và nội dung cấp bách của việc xây dựng đảng vững mạnh về chính trị, tư tưởng và tổ chức. Trên cơ sở đó, liên hệ với địa phương, đơn vị mình, có kế hoạch tổ chức thực hiện một cách thiết thực.
2- Việc thực hiện nghị quyết Trung ương về xây dựng đảng gắn chặt với việc thực hiện Nghị quyết Đại hội VI, các nghị quyết Trung ương và Bộ Chính trị tập trung vào những nhiệm vụ cấp bách về kinh tế, xã hội, thực hiên ba chương trình kinh tế lớn, chống lạm phát và ổn định tình hình về mọi mặt.
Thống nhất kế hoạch thực hiện Nghị quyết Hội nghị lần thứ năm Ban Chấp hành Trung ương với Nghị quyết Bộ Chính trị về cuộc vận động làm trong sạch và nâng cao sức chiến đấu của tổ chức đảng và bộ máy nhà nước, làm lành mạnh các quan hệ xã hội.
Gắn việc thực hiện nghị quyết Trung ương về xây dựng đảng với việc tăng cường xây dựng Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh và việc lãnh đạo củng cố các đoàn thể quần chúng.
3- Các cấp uỷ đảng, các đồng chí lãnh đạo chủ chốt các ngành, các cấp có biện pháp tăng cường lãnh đạo, chỉ đạo công tác đảng, thực hiện nghiêm túc Điều lệ Đảng và các nguyên tắc tổ chức sinh hoạt đảng.
Cấp uỷ đảng và đồng chí thủ trưởng trực tiếp chăm lo công tác đảng và công tác cán bộ theo đúng chức năng nhiệm vụ của mình. Cấy uỷ có chương trình thường xuyên bàn về công tác đảng và kiểm tra các mặt của công tác xây dựng đảng.
Tăng cường những cán bộ có phẩm chất, trình độ, năng lực và kinh nghiệm về công tác đảng làm tham mưu cho cấp uỷ; kiện toàn và nâng cao năng lực của các cơ quan tham mưu trực tiếp giúp việc cấp uỷ.
4- Các cấp, các ngành có chương trình cụ thể triển khai công việc phải làm trong thời gian từ nay đến năm 1990; có phân công trách nhiệm rõ ràng. Cần tiến hành làm thử, làm từng bước vững chắc, có trọng tâm, trọng điểm, có chuẩn bị; khắc phục tình trạng đánh trống bỏ dùi, làm không đến nơi đến chốn. Đối với một số vấn đề mới và quan trọng, Ban Bí thư có kế hoạch làm thí điểm để rút kinh nghiệm chỉ đạo chung.
Sớm ban hành một số văn bản cụ thể hoá những nội dung quan trọng của nghị quyết (như sắp xếp tổ chức bộ máy; quy hoạch cán bộ; và cơ chế quản lý cán bộ, chính sách đãi ngộ cán bộ; quy định đảng viên làm kinh tế, công tác lý luận, công tác trường đảng, báo chí, xuất bản, v.v...) để hướng dẫn thực hiện.
Thường xuyên kiểm tra, đôn đốc việc thực hiện, kịp thời tổng kết phổ biến kinh nghiệm của những nơi làm tốt và uốn nắn lệch lạc, khắc phục khuyết điểm. ở Trung ương, các Ban Tổ chức, Ban Tuyên huấn, Uỷ ban Kiểm tra cùng với các ban khác của Đảng có trách nhiệm giúp Ban Bí thư cụ thể hoá nghị quyết, theo dõi, chỉ đạo, kiểm tra việc thực hiện nghị quyết này. Các tỉnh uỷ, thành uỷ, đặc khu uỷ, đảng uỷ trực thuộc đảng đoàn, các ban, ngành chịu trách nhiệm thi hành Nghị quyết này và định kỳ báo cáo về Ban Bí thư Trung ương.
*
* *
Nghị quyết này của Trung ương có tầm quan trọng lớn, liên quan đến toàn bộ sự nghiệp cách mạng của chúng ta hiện nay, góp phần làm cho tình hình kinh tế, xã hội chuyển biến tốt. Việc thực hiện Nghị quyết này phải được các cấp, các ngành coi là nhiệm vụ quan trọng và khẩn trương, cần kiên quyết thực hiện một cách thiết thực, tránh hình thức, nửa vời.
Hội nghị lần thứ năm Ban Chấp hành Trung ương Đảng (Khoá VI) tin tưởng rằng, với quyết tâm đổi mới, với tiềm lực và kinh nghiệm đã có, toàn Đảng tăng cường đoàn kết, vươn lên nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu, đáp ứng yêu cầu của cách mạng, xứng đáng với lòng mong đợi của nhân dân.
Phải xây dựng Đảng ta luôn luôn xứng đáng là Đảng Cộng sản Việt Nam do đồng chí Hồ Chí Minh vĩ đại sáng lập và rèn luyện.
T/M BAN CHẤP HÀNH TRUNG ƯƠNG
Tổng Bí thư
Nguyễn Văn Linh