Nghị quyết số 06-NQ/HNTW ngày 29/3/1989, Hội nghị lần thứ sáu Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khoá VI) về kiểm điểm hai năm thực hiện Nghị quyết Đại hội VI và phương hướng, nhiệm vụ ba năm tới

Phần thứ nhất: Đánh giá tổng quát tình hình

1- Chấp hành Nghị quyết Đại hội VI, hai năm qua, trong hoàn cảnh kinh tế - xã hội có nhiều khó khăn, Đảng, Nhà nước và nhân dân ta đã triển khai công cuộc đổi mới trên nhiều mặt đời sống xã hội, nhất là về kinh tế. Chúng ta vừa làm vừa tìm tòi, rút kinh nghiệm và đã thu được những kết quả bước đầu quan trọng:

Một là, đã có chuyển hướng xây dựng cơ cấu kinh tế, bắt đầu hình thành cơ cấu kinh tế nhiều thành phần, điều chỉnh một bước cơ cấu đầu tư theo hướng tập trung cho mục tiêu của ba chương trình kinh tế. Việc đổi mới cơ chế quản lý đã tạo ra động lực mới trong sản xuất, rõ nhất là trong nông nghiệp. Khu vực kinh tế quốc doanh tuy còn nhiều lúng túng, nhưng cũng đã xuất hiện những đơn vị làm ăn giỏi. Với những kinh nghiệm đã thu được, trong đó có một số kinh nghiệm về cải cách giá, chúng ta có thêm điều kiện để chuyển các xí nghiệp quốc doanh sang hạch toán kinh doanh. Những kết quả trên đã bước đầu giải phóng sức sản xuất, phát triển kinh tế hàng hoá, tạo những tiền đề mới để tiếp tục đẩy mạnh công cuộc đổi mới về kinh tế.

Hai là, tinh thần dân chủ được phát huy trong quá trình chuẩn bị và tiến hành Đại hội VI của Đảng phát triển sâu sắc thêm, đang trở thành động lực thúc đẩy công cuộc đổi mới trong nhiều lĩnh vực.

Ba là, đã điều chỉnh chiến lược bảo vệ Tổ quốc, hoàn thành nhiệm vụ trên các chiến trường, giảm quân số và bước đầu chấn chỉnh quân đội thường trực, tăng cường thế trận chiến tranh nhân dân. Đã có những chuyển hướng về công tác bảo vệ an ninh chính trị phù hợp với tình hình mới.

Bốn là, tăng cường đoàn kết và đổi mới sự hợp tác trên nhiều mặt với Liên Xô, Lào, Cam-pu-chia và các nước xã hội chủ nghĩa anh em khác. Đang chuyển hướng chỉ đạo chiến lược đối ngoại, từng bước mở ra những khả năng thuận lợi mới để phát triển quan hệ hợp tác và đấu tranh trong cùng tồn tại hoà bình với các nước trong khu vực cũng như đối với các nước khác trên thế giới.

Năm là, những kết quả trên gắn liền với những kết quả bước đầu trong công tác xây dựng đảng về chính trị, tư tưởng, tổ chức, cán bộ.

Từ giữa năm 1988 đến nay, những tiến bộ và nhân tố mới nói trên xuất hiện rõ dần, tình hình kinh tế - xã hội có sự cải thiện nhất định: Nhịp độ lạm phát và tăng giá giảm một ít, tình hình cung ứng lương thực, thực phẩm bớt gay gắt, hàng hoá trên thị trường nhiều lên, hoạt động giao dịch, chuẩn bị hợp tác kinh tế với bên ngoài được mở ra, bước đầu động viên được nhân dân hăng hái góp sức lực, của cải, tài năng vào xây dựng kinh tế. Lòng tin trong nhân dân có tăng lên.

Thực tế khẳng định: đường lối đổi mới do Đại hội VI đề ra là đúng đắn. Đi theo con đường đó, nhân dân ta đang từng bước khắc phục khó khăn, mở ra khả năng mới để tập trung sức xây dựng trong hoà bình.

Tuy nhiên, cho đến nay, những tiến bộ đạt được chưa đồng bộ và cơ bản, tình hình kinh tế - xã hội còn nhiều khó khăn gay gắt.

Kinh tế phát triển còn chậm, hiệu quả thấp, sản xuất lương thực chưa vững chắc, trong khi dân số tăng quá nhanh. Tình hình phân phối, lưu thông vẫn rối ren, ngân sách nhà nước thiếu hụt lớn, tiền mặt thường xuyên căng thẳng, lạm phát còn ở mức độ cao, giá cả vẫn biến động. Cơ sở vật chất kỹ thuật trong nhiều ngành kinh tế và sự nghiệp công cộng tiếp tục xuống cấp. Nợ nước ngoài tăng thêm, nợ đến hạn không trả được kịp thời, lực lượng dự trữ của Nhà nước rất mỏng. Xét trên phạm vi toàn xã hội, cơ chế kinh tế tập trung quan liêu, bao cấp vẫn còn nặng. Tình hình xã hội về nhiều mặt tiếp tục diễn biến xấu. Trên thực tế, từ nhiều năm nay, nước ta đã lâm vào tình trạng khủng hoảng kinh tế, xã hội; cho đến nay, chúng ta vẫn chưa ra khỏi tình trạng đó.

Nhưng qua hai năm thực hiện Nghị quyết Đại hội VI, chúng ta đã thấy rõ thêm hướng đi, những giải pháp và có thêm những thuận lợi mới để từng bước đưa nước ta vượt ra khỏi giai đoạn khó khăn.

2- Khủng hoảng kinh tế - xã hội không thể khắc phục nhanh chóng vì những khó khăn quá lớn mà thời gian tiến hành đổi mới còn ngắn. Tình hình chuyển biến chậm còn do những khuyết điểm chủ quan.

Trong hai năm qua, Ban Chấp hành Trung ương và Bộ Chính trị đã ban hành nhiều nghị quyết cụ thể hoá và phát triển Nghị quyết Đại hội VI,đã đề ra ngày càng rõ nét nội dung đổi mới về kinh tế, quốc phòng, an ninh, đối ngoại, công tác tư tưởng và văn hoá, văn nghệ, về xây dựng đảng, v.v.. Các cơ quan nhà nước đã cố gắng thể chế hoá nghị quyết của Đảng và tổ chức chỉ đạo thực hiện. Song, công tác lãnh đạo của Đảng và công tác quản lý của Nhà nước có những thiếu sót quan trọng:

a) Sự lãnh đạo, chỉ đạo của Bộ Chính trị về kinh tế - xã hội có mặt chưa đáp ứng yêu cầu.

Chậm tổng kết thực tiễn để làm sáng tỏ một số quan điểm và bước đi trong đổi mới cơ chế quản lý kinh tế nên trong một số trường hợp đề ra một số chủ trương thiếu cơ sở vững chắc, chậm trễ, không nhất quán và kém hiệu quả, nhất là về phân phối, lưu thông. Cụ thể là: trong chỉ đạo phương hướng xử lý cơ chế quản lý giá, tỷ giá, lương, tiền, cơ chế quản lý xuất nhập khẩu, v.v... có lúc lúng túng và có sai sót.

- Chậm chỉ đạo xây dựng và công bố ba chương trình kinh tế với nội dung xác định những mục tiêu, định hướng lớn và các cân đối chủ yếu để làm chỗ dựa vững chắc cho việc bố trí kế hoạch hàng năm.

- Chậm chỉ đạo việc thiết kế phương án tổng thể các biện pháp và bước đi chống lạm phát, đổi mới chính sách và cơ chế tài chính, tiền tệ, tín dụng.

- Chưa kịp nghiên cứu xác định nội dung đổi mới trên một số lĩnh vực quan trọng như giáo dục, y tế, xây dựng con người mới, chính sách dân tộc, công tác các đoàn thể quần chúng, v.v..

b) Các cơ quan nhà nước, trước hết là Hội đồng Bộ trưởng, thể chế hoá các nghị quyết của Đảng chậm và có trường hợp chưa trúng, chưa nhất quán.

- Giải quyết chậm và chưa tốt những vướng mắc lớn về chính sách (thuế, tỷ giá, giá, tiền tệ, tín dụng, quyền sử dụng ngoại tệ, v.v...), gây nhiều khó khăn cho hoạt động kinh tế và đời sống của nhân dân.

- Kế hoạch Nhà nước còn quyết định tập trung từ bên trên một cách thiếu căn cứ nhiều chỉ tiêu pháp lệnh về sản lượng, mặt hàng, địa chỉ tiêu thụ sản phẩm, v.v.. Trong khi đó lại buông lỏng kế hoạch nộp ngân sách và công tác quản lý tài chính xí nghiệp, chậm sửa đổi cơ chế tín dụng.

- Chậm cụ thể hoá và ban hành các chính sách, luật pháp liên quan đến kinh tế tập thể, cá thể, tư bản tư nhân và đổi mới quản lý kinh tế nông nghiệp, là những lĩnh vực có thể đem lại hiệu quả nhanh.

- Những chủ trương đổi mới quản lý nêu ra trong Nghị quyết Trung ương hai là cần thiết, song những đổi mới về cơ chế kế hoạch hoá, quản lý xí nghiệp chưa được triển khai tiếp theo một cách đồng bộ, kịp thời nên thực hiện hiệu quả thấp.

- Chậm sửa đổi, bổ sung hệ thống pháp luật, nhất là pháp luật kinh tế, quan điểm và hoạt động của một số ngành thuộc hệ thống nội chính chưa đổi mới đồng bộ để phục vụ tốt công cuộc đổi mới về kinh tế, đồng thời có mặt lại hữu khuynh, buông lỏng.

- Các bộ chưa làm tốt chức năng quản lý nhà nước, giải quyết những vấn đề quản lý vĩ mô, còn làm nhiều việc thuộc trách nhiệm và quyền hạn điều hành, quản lý sản xuất kinh doanh của cơ sở.

c) Công tác xây dựng đảng và công tác tổ chức, cán bộ của Đảng và Nhà nước đổi mới chậm. Việc phân định chức năng giữa tổ chức đảng và nhà nước còn những điểm chưa rõ ràng và bất hợp lý; nhiều tổ chức đảng còn bao biện làm thay nhiều công việc quản lý điều hành của cơ quan nhà nước. Việc sắp xếp tổ chức bộ máy chưa dựa trên phương án tổng thể rõ ràng và hợp lý. Tổ chức bộ máy còn cồng kềnh, kém hiệu lực. Chậm đề ra nội dung biện pháp tiến hành công tác quy hoạch cán bộ; chưa xây dựng được cơ chế bảo đảm phát hiện, bồi dưỡng và bố trí đúng cán bộ có phẩm chất và năng lực vào vị trí cần thiết; chưa thay thế kịp thời những cán bộ không còn phù hợp với công việc được giao. Chậm trẻ hoá đội ngũ cán bộ. Nhìn chung, việc sắp xếp lại tổ chức bộ máy và thay đổi cán bộ tuy có đạt những kết quả nhất định, nhất là ở nông thôn, các quận, huyện nhưng chưa đáp ứng được yêu cầu của nhiệm vụ chính trị.

Công tác lãnh đạo tư tưởng thiếu chủ động, chưa dự kiến trước những khuynh hướng tư tưởng sai lệch có thể nảy sinh trong quá trình đổi mới, chưa kịp thời trang bị những nhận thức mới cần thiết cho đảng viên và quần chúng để mọi người vững vàng, tự tin đón nhận những hiện tượng kinh tế, xã hội mới. Có lúc thiên về mặt chống tiêu cực, ít đi sâu giới thiệu những nhân tố tích cực, những việc làm được. Chưa kịp thời ngăn chặn những tư tưởng sai lầm trong một số cán bộ, đảng viên, những lệch lạc của một số cơ quan báo chí, xuất bản, văn hoá, văn nghệ, để tình trạng văn hoá phẩm xấu lan tràn kéo dài.

d) Sự chỉ đạo, điều hành của Ban Bí thư và Hội đồng Bộ trưởng:

- Chưa phân định rành mạch chức năng trong hệ thống tổ chức bộ máy đảng và nhà nước, nên vừa có tình trạng trùng hoặc sót vừa có tình trạng thiếu phối hợp trong công tác nghiên cứu và chỉ đạo thực hiện cơ chế, chính sách.

- Thiếu đôn đốc, kiểm tra thường xuyên việc thực hiện các nghị quyết lớn, những chủ trương lớn. Chưa thực hiện thành nền nếp việc chỉ đạo điển hình, tổng kết rút kinh nghiệm kịp thời.

- Chỉ đạo còn thiếu kiên quyết, để kỷ cương của Đảng, pháp luật của Nhà nước lỏng lẻo kéo dài.

- Một khuyết điểm nổi bật là duy trì quá lâu tình trạng bao cấp trong phân phối lương thực, chưa giải quyết đúng cơ chế, chính sách về lưu thông, kinh doanh lương thực, để lương thực thường xuyên căng thẳng, có lúc, có nơi để xảy ra thiếu đói không đáng có.

- Khi khuyến khích các thành phần kinh tế phát triển sản xuất kinh doanh, thì lại có phần xem nhẹ việc quản lý, hướng dẫn, kiểm soát hoạt động của các thành phần đó.

Bộ Chính trị, Ban Bí thư và Hội đồng Bộ trưởng chưa quan tâm thoả đáng và chưa có phương thức thích hợp, có hiệu quả để đi sát, lãnh đạo và chỉ đạo các địa phương, nhất là các địa phương xa, miền núi, Tây Nguyên, vùng biên giới, hải đảo.

Phần thứ hai:

Những quan điểm và phương hướng lớn  chỉ đạo công cuộc đổi mới trong ba năm tới

Hướng vào nhiệm vụ bao trùm của những năm còn lại của chặng đường đầu tiên là "ổn định mọi mặt tình hình kinh tế-xã hội" trong ba năm tới (1989 - 1991), tiếp tục đưa công cuộc đổi mới đi vào chiều sâu nhằm đạt mục tiêu chung là "ổn định một bước quan trọng tình hình kinh tế - xã hội" và tạo thêm tiền đề để tiến lên.

Chúng ta thực hiện mục tiêu trên trong tình hình kinh tế, xã hội còn nhiều khó khăn to lớn. Song, chúng ta cũng có những khả năng và những nhân tố thuận lợi mới:

- Tiềm năng vật chất và trí tuệ của con người Việt Nam, của các thành phần kinh tế còn nhiều nhưng chưa được khai thác tốt. Đó là những lực lượng dự trữ cho phát triển kinh tế.

- Các chủ trương, chính sách đổi mới về kinh tế ngày càng phù hợp và đồng bộ sẽ phát huy tác dụng mạnh mẽ hơn trong cuộc sống.

- Điều kiện vật chất của nền kinh tế trong ba năm tới sẽ được tăng thêm, một phần quan trọng do những công trình lớn xây dựng mấy năm trước đây bắt đầu cung ứng sản phẩm cho xã hội.

- Giao lưu và hợp tác kinh tế quốc tế giữa nước ta với các nước trên thế giới sẽ ngày càng mở rộng.

Trong quá trình triển khai công cuộc đổi mới, phải quán triệt những nguyên tắc cơ bản sau đây:

- Đi lên chủ nghĩa xã hội là con đường tất yếu của nước ta, là sự lựa chọn sáng suốt của Bác Hồ, của Đảng ta. Xây dựng nước Việt Nam xã hội chủ nghĩa là mục tiêu, là lý tưởng của Đảng và nhân dân ta. Đổi mới không phải là thay đổi mục tiêu xã hội chủ nghĩa mà là làm cho mục tiêu ấy được thực hiện có hiệu quả bằng những quan niệm đúng đắn về chủ nghĩa xã hội, những hình thức, bước đi và biện pháp thích hợp.

Chủ nghĩa Mác - Lênin luôn luôn là nền tảng tư tưởng của Đảng ta, chỉ đạo toàn bộ sự nghiệp cách mạng của nhân dân ta. Đổi mới tư duy là nhằm khắc phục những quan niệm không đúng, làm phong phú những quan niệm đúng về thời đại, về chủ nghĩa xã hội, vận dụng sáng tạo và phát triển chứ không phải xa rời những nguyên lý của chủ nghĩa Mác - Lê-nin.

- Đổi mới tổ chức và phương thức hoạt động của hệ thống chính trị là nhằm tăng cường vai trò lãnh đạo của Đảng, hiệu lực quản lý của Nhà nước, phát huy quyền làm chủ của nhân dân, có nghĩa là tăng cường sức mạnh và hiệu lực của chuyên chính vô sản, làm cho các tổ chức trong hệ thống chính trị hoạt động năng động và có hiệu quả hơn.

Sự lãnh đạo của Đảng là điều kiện quyết định thắng lợi sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa của nhân dân ta. Phê phán những khuynh hướng phủ nhận hoặc hạ thấp sự lãnh đạo của Đảng, đồng thời lắng nghe, tiếp nhận những ý kiến trung thực, phê bình những khuyết điểm trong sự lãnh đạo của Đảng và công tác xây dựng đảng.

- Xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, phát huy quyền làm chủ của nhân dân trên mọi lĩnh vực của đời sống xã hội vừa là mục tiêu vừa là động lực của sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội. Dân chủ phải đi đôi với tập trung, với kỷ luật, pháp luật, với ý thức trách nhiệm công dân. Dân chủ phải có lãnh đạo, lãnh đạo để phát huy dân chủ đúng hướng; mặt khác phải lãnh đạo bằng phương pháp dân chủ trên cơ sở phát huy dân chủ. Dân chủ với nhân dân nhưng phải nghiêm trị những kẻ phá hoại thành quả cách mạng, an ninh trật tự và an toàn xã hội.

Kết hợp chủ nghĩa yêu nước với chủ nghĩa quốc tế vô sản và quốc tế xã hội chủ nghĩa; kết hợp sức mạnh của dân tộc với sức mạnh của thời đạitrong điều kiện mới.

Trên cơ sở những nguyên tắc nói trên và căn cứ vào Nghị quyết Đại hội VI, những kết luận được rút ra qua tổng kết thực tiễn hai năm thực hiện nghị quyết Đại hội, trong thời gian tới, công cuộc đổi mới trên các lĩnh vực cần được tiếp tục đẩy mạnh theo những quan điểm và phương hướng, chủ trương lớn sau đây:

1- Điều chỉnh cơ cấu kinh tế theo hướng tập trung thực hiện các mục tiêu của ba chương trình kinh tế; khai thác mọi nguồn vốn đầu tư và đổi mới cơ chế đầu tư.

Triển khai mạnh việc thực hiện và tiếp tục bổ sung ba chương trình kinh tế của cả nước đã được xây dựng tập trung vào mục tiêu lương thực - thực phẩm, một số mặt hàng tiêu dùng thiết yếu và một số mặt hàng xuất khẩu chủ lực. Hình thành từng bước Chiến lược kinh tế - xã hội để định hướng cho việc bố trí cơ cấu kinh tế và đầu tư trong kế hoạch 5 năm 1991-1995 và cho việc mở rộng quan hệ kinh tế với nước ngoài.

Cần giải quyết một số vấn đề lớn sau đây:

Có biện pháp toàn diện và đồng bộ để giải quyết vấn đề lương thực - thực phẩm theo quan điểm phát triển kinh tế hàng hoá nhiều thành phần. Khắc phục tư tưởng tự cấp, tự túc, cơ chế bao cấp và độc quyền. Đi đôi với đẩy mạnh sản xuất có chính sách lưu thông lương thực, cân đối lương thực thông qua sản xuất và trao đổi hàng hoá, kể cả xuất, nhập khẩu. Làm tốt các khâu bảo quản, vận chuyển, chế biến. Tạo được dự trữ lương thực ở trung ương và trong từng địa phương. Phấn đấu trong vài năm tới cân đối được lương thực thiết yếu.

Đối với hàng tiêu dùng, đẩy mạnh sản xuất, nâng cao chất lượng sản phẩm, hạ giá thành và đổi mới sản phẩm để đáp ứng phần lớn nhu cầu hàng tiêu dùng thiết yếu trong nước. Cổ vũ việc dùng hàng nội hoá, coi đó là hành động thiết thực góp phần thúc đẩy sản xuất trong nước. Có chính sách nhập khẩu đúng đắn để góp phần bổ sung quỹ hàng hoá trong nước, đáp ứng nhu cầu đa dạng của người tiêu dùng có mức thu nhập khác nhau, tham gia điều tiết thu nhập qua việc tiêu dùng những hàng cao cấp; đồng thời có chính sách thuế đúng đắn để bảo hộ và thúc đẩy sản xuất trong nước. Theo tinh thần đó, sửa đổi, bổ sung các thủ tục hải quan đối với hàng tiêu dùng nhập khẩu theo đường mậu dịch và phi mậu dịch, ngăn chặn nạn buôn lậu.

- Đầu tư chiều sâu để khai thác tốt hơn năng lực hiện có về công nghiệp nặng và coi trọng xây dựng đồng bộ kết cấu hạ tầng. Chú trọng đồng bộ hoá và tận dụng năng lực sản xuất của các cơ sở cơ khí nhằm đáp ứng nhu cầu sản xuất và sửa chữa công cụ lao động, máy móc, thiết bị phục vụ sản xuất nông nghiệp,chế biến nông, lâm, hải sản, sản xuất hàng tiêu dùng, hàng xuất khẩu và vận tải. Có chính sách khuyến khích đổi mới thiết bị và công nghệ theo chiều sâu, nhất là ở các cơ sở làm hàng xuất khẩu. Tiếp tục xây dựng các cơ sở năng lượng và thủy lợi, xây dựng nguồn và lưới điện đồng bộ; tăng đầu tư bằng nhiều nguồn vốn, nhiều hình thức để khắc phục dần tình trạng xuống cấp nghiêm trọng của hệ thống giao thông vận tải, thông tin liên lạc và phát triển hai ngành này.

Có chính sách tạo vốn từ nhiều nguồn, nhất là chính sách mở rộng, phát triển nguồn thu và động viên thu nhập quốc dân một cách hợp lý, thu hút mạnh vốn đầu tư trong nhân dân và từ nước ngoài. Kế hoạch hoá đầu tư phải bao quát mọi nguồn vốn và mọi hình thức đầu tư, đặc biệt coi trọng nguồn vốn to lớn của các cơ sở và của nhân dân.

Đồng thời đổi mới cơ chế sử dụng vốn đầu tư. Vốn đầu tư của Nhà nước chủ yếu tập trung cho việc xây dựng kết cấu hạ tầng, một số công trình then chốt phục vụ việc thực hiện ba chương trình kinh tế, một số công trình phúc lợi xã hội; thu hút các nguồn vốn khác ở trong và ngoài nước bằng nhiều hình thức cho các mục tiêu đầu tư này. Đối với phần lớn các công trình sản xuất kinh doanh, vốn đầu tư không do ngân sách cấp mà phải theo nguyên tắc tự vay tự trả của các đơn vị kinh tế. Nhà nước thực hiện tốt chức năng hướng dẫn và kiểm soát đối với toàn bộ đầu tư trong xã hội, có chính sách khuyến khích các cơ sở và nhân dân đầu tư chủ yếu vào phát triển sản xuất. Tiếp tục đổi mới quản lý và kế hoạch hoá xây dựng cơ bản, mở rộng phương thức đấu thầu, chuyển hẳn các đơn vị xây dựng cơ bản sang hạch toán kinh doanh.

Sắp xếp lại sản xuất, lưu thông, xây dựng cơ cấu kinh tế hợp lý và có hiệu quả. Khai thác mọi tiềm năng, thế mạnh của đất nước và tham gia tích cực vào sự phân công lao động quốc tế để phát triển mạnh mẽ và hợp lý các ngành sản xuất, lưu thông, dịch vụ. Chú trọng mở mang ngành, nghề ở nông thôn và hình thành những vùng chuyên canh có tỷ suất hàng hoá cao. Phát triển hoạt động dịch vụ cho sản xuất, kinh doanh và đời sống thành một bộ phận quan trọng trong cơ cấu kinh tế.

Sắp xếp lại sản xuất và lao động ở các đơn vị kinh tế cơ sở. Xoá bỏ các tổ chức trung gian không cần thiết. Nhà nước định hướng và dùng các biện pháp kinh tế là chủ yếu, tạo môi trường kinh doanh để thúc đẩy quá trình sắp xếp lại sản xuất và lưu thông qua hợp tác, liên kết và cạnh tranh giữa các đơn vị kinh tế, thay cho sự sắp xếp theo lối hành chính đơn thuần.

- Đối với miền núi phía bắc và Tây Nguyên, cần sớm tổng kết và có phương án phát triển kinh tế - xã hội gắn với quốc phòng và an ninh, phù hợp với đặc điểm, khả năng và đúng với tầm quan trọng của địa bàn này. Trong năm 1989, Bộ Chính trị tổ chức hội nghị chuyên đề và có nghị quyết toàn diện về miền núi.

2- Thực hiện nhất quán chính sách cơ cấu kinh tế nhiều thành phần, giải phóng mọi năng lực sản xuất.

Quan điểm và chính sách đúng đắn của Đại hội VI về cơ cấu kinh tế nhiều thành phần được bổ sung và phát triển thêm qua thực tiễn:

Một là, chính sách kinh tế nhiều thành phần có ý nghĩa chiến lược lâu dài, có tính quy luật từ sản xuất nhỏ đi lên chủ nghĩa xã hội và thể hiện tinh thần dân chủ về kinh tế, bảo đảm cho mọi người được tự do làm ăn theo luật pháp.

Hai là, các hình thức sở hữu về tư liệu sản xuất vốn có bản chất riêng nhưng trong hoạt động sản xuất kinh doanh không ngăn cách nhau mà có nhiều loại hình hỗn hợp, đan kết với nhau.

Trong nền kinh tế quốc dân thống nhất do Nhà nước hướng dẫn, kiểm soát và điều tiết với kinh tế quốc doanh nắm những vị trí then chốt, các đơn vị sản xuất kinh doanh thuộc các thành phần kinh tế vừa hợp tác với nhau, bổ sung cho nhau, vừa cạnh tranh với nhau trên cơ sở bình đẳng trước pháp luật. Cần xoá bỏ những định kiến, phân biệt đối xử không đúng và các hình thức độc quyền kìm hãm xu thế ấy.

Các đơn vị kinh tế chủ động đi sâu vào chuyên môn hoá và phát triển kinh doanh tổng hợp, mở rộng phạm vi hoạt động và quan hệ hợp tác, không bị hạn chế bởi sự phân công chuyên môn hoá máy móc theo lối áp đặt từ trên, không bị chia cắt theo địa giới hành chính.

Ba là, kinh tế quốc doanh phải được củng cố và phát triển, nắm vững vị trí then chốt trong nền kinh tế, phát huy ưu thế về kỹ thuật, công nghệ,không ngừng nâng cao năng suất, chất lượng, hiệu quả, chủ động liên kết và dẫn dắt các thành phần kinh tế khác để thực hiện tốt  vai trò chủ đạo, bảo đảm cho sự phát triển ổn định và có hiệu quả của toàn bộ nền kinh tế quốc dân theo định hướng xã hội chủ nghĩa.

Nhà nước bảo đảm quyền tự chủ sản xuất kinh doanh của các xí nghiệp quốc doanh và tạo điều kiện cho kinh tế quốc doanh thực hiện tốt vai trò chủ đạo trong nền kinh tế và trên thị trường bằng phương thức kinh doanh.

Kinh tế quốc doanh cần có lực lượng đủ sức chi phối thị trường, song không nhất thiết chiếm tỷ trọng lớn trong mọi ngành, nghề. Những ngành, nghề, loại hoạt động nào mà kinh tế hợp tác xã, kinh tế gia đình, kinh tế tư nhân có thể làm tốt, có lợi cho nền kinh tế thì nên tạo điều kiện cho các loại hình kinh tế ấy phát triển.

Bốn là, kinh tế hợp tác xã có nhiều hình thức từ thấp đến cao. Mọi tổ chức sản xuất kinh doanh do những người lao động tự nguyện góp vốn, góp sức và được quản lý theo nguyên tắc dân chủ, không phân biệt quy mô, trình độ kỹ thuật, mức độ tập thể hoá tư liệu sản xuất, đều là hợp tác xã. Theo tinh thần đó, cần củng cố và phát triển hợp tác xã trong các ngành, nghề với hình thức và quy mô thích hợp, có tác dụng thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển và nâng cao hiệu quả kinh tế.

Hợp tác xã và tập đoàn sản xuất nông nghiệp là các đơn vị kinh tế hợp tác với nhiều hình thức sở hữu về tư liệu sản xuất. Hợp tác xã và tập đoàn sản xuất quản lý việc thực hiện chế độ khoán ruộng đất cho xã viên, đồng thời tổ chức kinh doanh những khâu, những hoạt động kinh tế mà việc làm chung có lợi hơn từng gia đình tự làm, đặc biệt là trong các dịch vụ sản xuất và lưu thông, thúc đẩy việc ứng dụng tiến bộ kỹ thuật và trong việc mở mang ngành nghề; cùng với chính quyền và các đoàn thể chăm lo các vấn đề xã hội đối với gia đình xã viên. Quy mô tổ chức và cơ chế, bộ máy quản lý hợp tác xã, tập đoàn sản xuất phải phù hợp với tính chất và trình độ phát triển của từng đơn vị, do tập thể xã viên quyết định.

Gia đình xã viên trở thành những đơn vị kinh tế tự chủ, ngoài việc nhận khoán sử dụng ruộng đất, thực hiện các hợp đồng khác với hợp tác xã, còn chủ động phát triển sản xuất kinh doanh dưới nhiều hình thức. Nhà nước và hợp tác xã khuyến khích gia đình xã viên làm giàu, đồng thời có chính sách, biện pháp cụ thể giúp đỡ những hộ nghèo túng có thêm điều kiện và cố gắng vươn lên làm ăn tốt, không ngừng tăng cường quan hệ đoàn kết, tương trợ và hợp tác ở nông thôn. Tiếp tục giải quyết kịp thời có lý, có tình vấn đề tranh chấp ruộng đất.

Năm là, trong điều kiện của nước ta, các hình thức kinh tế tư nhân (cá thể, tiểu chủ, tư bản tư nhân) vẫn cần thiết lâu dài cho nền kinh tế và nằm trong cơ cấu của nền kinh tế hàng hoá đi lên chủ nghĩa xã hội.

Thực hiện chính sách nêu trên là tiến hành cải tạo xã hội chủ nghĩa gắn liền với phát triển lực lượng sản xuất theo quan niệm đúng đắn mà Đại hội VI đã đề ra.

Cần chú ý hai mặt:

Một mặt, khẩn trương sửa đổi và bổ sung luật pháp hiện hành áp dụng thống nhất trong cả nước nhằm thể chế hóa đồng bộ chính sách đối với các thành phần kinh tế, xoá bỏ những cấm đoán và ràng buộc vô lý. Quyền sở hữu, sử dụng và thừa kế tài sản, quyền kinh doanh và hưởng thu nhập chính đáng cũng như nghĩa vụ với Nhà nước phải được quy định thành luật để mọi người yên tâm bỏ vốn sản xuất kinh doanh.

Khuyến khích tư nhân đầu tư, kinh doanh trong những ngành, nghề, lĩnh vực có lợi cho quốc kế dân sinh, đồng thời bảo đảm sự kiểm soát và điều tiết của Nhà nước, hướng kinh tế tư nhân từng bước đi vào con đường kinh tế hợp tác xã và kinh tế tư bản nhà nước dưới nhiều hình thức nhằm phát triển sản xuất kinh doanh và nâng cao hiệu quả kinh tế. Theo tinh thần đó, tư nhân được kinh doanh không hạn chế về quy mô, địa bàn hoạt động trong những ngành, nghề sản xuất, xây dựng, vận tải, dịch vụ mà luật pháp không cấm. Tư bản tư nhân không được chuyên doanh xuất khẩu, nhập khẩu, nhưng những cơ sở sản xuất tư nhân có đủ điều kiện theo luật pháp quy định được giao dịch trực tiếp với bạn hàng ở nước ngoài để xuất khẩu sản phẩm của mình và nhập khẩu thiết bị, vật tư cho sản xuất.

Tư sản thương nghiệp đang hoạt động trên thị trường trong nước vẫn được tiếp tục kinh doanh những ngành hàng mà luật pháp không cấm, nhưng Nhà nước phải quản lý tốt. Ban Bí thư cần chỉ đạo điều tra, tổng kết hoạt động của loại hình kinh tế này và báo cáo cho Trung ương. Cho phép tư nhân đăng ký kinh doanh vàng bạc; làm thử ở một vài nơi hình thức tư nhân kinh doanh tín dụng và dịch vụ ngân hàng.

Mặt khác, Nhà nước phải xây dựng cơ chế quản lý nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần, sử dụng công cụ kế hoạch hoá và thông tin cùng với luật pháp và các chính sách đòn bẩy để kiểm soát, hướng dẫn và điều tiết hoạt động của các thành phần kinh tế. Kết hợp biện pháp kinh tế và luật pháp với công tác vận động, giáo dục các nhà tư sản và mọi người có vốn, có tay nghề hăng hái đầu tư và hoạt động phù hợp với yêu cầu phát triển của nền kinh tế quốc dân, khắc phục tính tự phát mù quáng và tình trạng thiên về kinh doanh thương nghiệp, ăn uống hơn là đầu tư vào sản xuất; đấu tranh chống các hiện tượng làm ăn phi pháp, không thực hiện đúng nghĩa vụ với Nhà nước.

3- Đổi mới cơ chế quản lý kinh tế, chuyển mạnh các đơn vị kinh tế sang hạch toán kinh doanh theo quan điểm phát triển nền kinh tế hàng hoá có kế hoạch gồm nhiều thành phần đi lên chủ nghĩa xã hội.

Trong nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần, thị trường xã hội (bao gồm cả thị trường hàng tiêu dùng, thị trường vật tư, thị trường dịch vụ, thị trường vốn và chứng khoán...) là một thể thống nhất với nhiều lực lượng khác nhau tham gia lưu thông hàng hoá; trong đó kinh tế quốc doanh cùng với kinh tế hợp tác xã vươn lên chiếm vị trí chi phối thị trường bằng phương thức kinh doanh. Thị trường thông suốt trong cả nước và gắn với thị trường thế giới.

Trong nền kinh tế hàng hoá có kế hoạch, thị trường vừa là một căn cứ, vừa là một đối tượng của kế hoạch hoá. Cơ chế thị trường thể hiện sự vận động của các quy luật sản xuất và lưu thông hàng hoá trong quan hệ tác động qua lại với các quy luật kinh tế khác, phải được vận dụng nhất quán trong kế hoạch hoá và các chính sách kinh tế. Kế hoạch và các chính sách kinh tế phải vận dụng tổng hợp nhiều quy luật, trong đó có các quy luật của thị trường để giải quyết đúng đắn các mối quan hệ về lợi ích; trong đó lợi ích của người sản xuất kinh doanh là động lực trực tiếp đối với hoạt động kinh tế và tạo cơ sở cho việc đáp ứng các lợi ích khác.

Nhà nước dùng các biện pháp kinh tế là chủ yếu để quản lý và điều tiết thị trường.

Thị trường tác động đến quá trình tái sản xuất, chủ yếu thông qua giá cả. Trong quan hệ hợp tác và cạnh tranh, người sản xuất, người lưu thông và người tiêu dùng chủ động mua bán, thoả thuận với nhau về giá, hình thành nên giá thị trường. Đối với các đơn vị kinh tế, đó chính là giá kinh doanh vừa phản ánh giá trị và phù hợp với sức mua của đồng tiền, vừa chịu tác động của quan hệ cung - cầu. Giá cả trong nước gắn với giá cả trên thị trường quốc tế. Tỷ giá giữa đồng Việt Nam và ngoại tệ phải phù hợp với giá thị trường trong nước và giá thị trường quốc tế.

Nhà nước chỉ định giá một số ít vật tư, hàng hoá rất thiết yếu đối với sản xuất và đời sống do các tổ chức kinh tế của Nhà nước nắm, nhưng không bao cấp qua giá. Các vật tư, hàng hoá khác được mua bán theo giá thoả thuận. Các vật tư khan hiếm được kế hoạch hoá theo mục tiêu, nhiệm vụ kinh tế và bán cho các đơn vị sử dụng qua đấu thầu. Nhà nước không dùng mệnh lệnh hành chính áp đặt giá mà sử dụng các chính sách và biện pháp kinh tế là chủ yếu để tác động đến quan hệ cung - cầu, điều tiết, hướng dẫn giá cả trên thị trường. Kết hợp biện pháp kinh tế và biện pháp hành chính để xoá bỏ nạn chợ đen, kinh doanh phi pháp.

Khâu trung tâm, đồng thời là điểm xuất phát để xây dựng cơ chế quản lý nền kinh tế hàng hoá có kế hoạch là chuyển tất cả các đơn vị kinh tế, đặc biệt là các xí nghiệp quốc doanh sang cơ chế kinh doanh, gắn với thị trường, hoạt động theo nguyên tắc tự trang trải, tự phát triển và làm nghĩa vụ nộp ngân sách nhà nước.

Vấn đề mấu chốt hiện nay là khẩn trương đổi mới cơ chế quản lý của Nhà nước về kinh tế theo hướng xoá bao cấp đi đôi với xác lập đầy đủ chế độ tự chủ sản xuất kinh doanh của các đơn vị kinh tế. Cơ quan chính quyền các cấp phải chấm dứt sự điều khiển hành chính quan liêu đối với hoạt động sản xuất kinh doanh của các đơn vị kinh tế. Chức năng quản lý nhà nước về kinh tế phải nhằm thực hiện các yêu cầu: tạo môi trường và hành lang cho các đơn vị kinh tế phát triển sản xuất kinh doanh năng động, có trật tự; hướng các hoạt động kinh tế đi theo quỹ đạo của kế hoạch vĩ mô, bảo đảm cho nền kinh tế phát triển cân đối; giải quyết đúng đắn các mối quan hệ về lợi ích.

Để đáp ứng các yêu cầu đó, Nhà nước cần đổi mới và sử dụng đúng đắn các công cụ quản lý vĩ mô:

- Đổi mới và nâng cao chất lượng kế hoạch hoá ở tầm vĩ mô (bao gồm cả việc xây dựng chiến lược và quy hoạch tổng thể nền kinh tế), đáp ứng yêu cầu phát triển có kế hoạch, bảo đảm các cân đối lớn của nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần. Thu hẹp kế hoạch pháp lệnh, chuyển sang kế hoạch hướng dẫn là chủ yếu gắn với các chính sách đòn bẩy để định hướng và dùng hợp đồng kinh tế làm công cụ quan trọng trong việc xây dựng và thực hiện kế hoạch của các đơn vị kinh tế. Đối với một số sản phẩm quan trọng cần nắm, Nhà nước đặt hàng cho các đơn vị kinh tế trên cơ sở hợp đồng thoả thuận và chỉ giao chỉ tiêu pháp lệnh trong trường hợp thật cần thiết, khi các chính sách đòn bẩy chưa đủ hiệu lực. Nhà nước cần tạo điều kiện cho cơ sở thực hiện chỉ tiêu pháp lệnh. Thống nhất việc xây dựng kế hoạch với việc hoạch định các chính sách kinh tế.

Thực hiện sự kiểm kê, kiểm soát của Nhà nước đối với các hoạt động kinh tế. Tổ chức tốt thông tin kinh tế, đặc biệt là thông tin thị trường và thông tin khoa học - kỹ thuật trong nước, ngoài nước đáp ứng nhu cầu thông tin của cơ quan lãnh đạo, quản lý và của các đơn vị kinh tế.

 

Xây dựng chính sách tài chính quốc gia và các chính sách cụ thể về thuế, tín dụng, tiền tệ, giá cả, tiền lương theo hướng xoá bỏ bao cấp, khai thác mọi nguồn vốn và sử dụng vốn có hiệu quả, phân phối hợp lý thu nhập, tăng mức động viên vào ngân sách trên cơ sở khuyến khích phát triển sản xuất kinh doanh. Các chính sách này phải vừa tạo động lực vừa gây sức ép buộc các đơn vị kinh tế phải tìm mọi biện pháp đáp ứng nhu cầu của thị trường góp phần thực hiện kế hoạch vĩ mô, phấn đấu giảm chi phí, kinh doanh có lãi.

Trước mắt, cần cải cách chế độ thuế đi đôi với xoá bỏ các hình thức bao cấp đang cản trở việc thực hiện cơ chế hạch toán kinh doanh. Trên cơ sở thực hiện chi phí sản xuất hợp lý và có lãi thoả đáng, Nhà nước không ép giá tiêu thụ sản phẩm của xí nghiệp quốc doanh mà dùng hình thức trợ cấp trực tiếp cho các đối tượng được hưởng chính sách xã hội thay cho việc trợ cấp qua giá.

Các xí nghiệp quốc doanh không còn được bao cấp về giá và vốn, phải chủ động kinh doanh với quyền tự chủ đầy đủ, bảo đảm tự bù đắp được chi phí, nộp đủ thuế và có lãi. Một số cơ sở quốc doanh có thể dùng hình thức vốn cổ phần hoặc chuyển thành xí nghiệp tư bản nhà nước để có thêm điều kiện mở rộng sản xuất kinh doanh và nâng cao hiệu quả kinh tế. Nhà nước có thể tạm thời trợ cấp có thời hạn cho một số xí nghiệp, một số sản phẩm hết sức cần thiết đối với nền kinh tế nhưng chưa tự bù đắp được chi phí. Các xí nghiệp không trong diện đó mà thua lỗ kéo dài thì Nhà nước đấu thầu tài sản của xí nghiệp đó cho các tổ chức kinh tế quốc doanh khác, hoặc cho tập thể, cá nhân thuê hoặc mua.

Nghiên cứu các chính sách và biện pháp phù hợp với điều kiện thực tế để bảo hộ sản xuất khi giá nông sản hoặc một số sản phẩm thiết yếu khác trên thị trường trong nước hoặc thị trường quốc tế xuống quá thấp so với mức bình thường.

- Xây dựng pháp luật kinh tế theo hướng xoá bỏ những quy định lỗi thời, ban hành luật và các văn bản pháp quy xác định quyền hạn và trách nhiệm, nghĩa vụ và lợi ích trong sản xuất kinh doanh; thiết lập trật tự, kỷ cương trong hoạt động kinh tế phù hợp với cơ chế mới.

- Tăng cường dự trữ quốc gia, trước hết là về lương thực, nhiên liệu, vàng, ngoại tệ và tiền Việt Nam, đi đôi với bố trí hợp lý dự trữ kinh doanh của các tổ chức kinh tế quốc doanh để chủ động đối phó với những biến động bất thường của thị trường và giá cả.

Cùng với việc chuyển các đơn vị kinh tế sang cơ chế kinh doanh, cần tiếp tục nghiên cứu, tổng kết thực tiễn để giải quyết một số vấn đề quan trọng khác nhằm hình thành đồng bộ cơ chế quản lý mới đối với toàn bộ nền kinh tế quốc dân như: cơ chế quản lý trong nội bộ các đơn vị kinh tế cơ sở; vấn đề sắp xếp lại hệ thống tổ chức sản xuất và lưu thông vật tư, hàng hoá, tín dụng và tiền tệ; quan hệ giữa cơ quan nhà nước trung ương và các cấp địa phương trong lĩnh vực quản lý kinh tế, quản lý ngân sách; vấn đề tổ chức bộ máy và cán bộ trong hệ thống quản lý nhà nước về kinh tế, đào tạo và bồi dưỡng cán bộ quản lý.

 

Trên cơ sở nhất quán về quan điểm và phương pháp đổi mới cơ chế quản lý kinh tế, phải bố trí hợp lý bước đi trong sự chỉ đạo thực hiện và điều hành, phù hợp với điều kiện thực tế và với các bước chống lạm phát. Trong vòng ba năm phải hình thành về cơ bản cơ chế mới về quản lý kinh tế, chuyển được đại bộ phận các đơn vị kinh tế quốc doanh sang hạch toán kinh doanh đầy đủ, làm ăn có lãi.

4- Kiềm chế và đẩy lùi dần lạm phát là nhiệm vụ cấp bách nhất, là vấn đề kinh tế, xã hội và chính trị nóng bỏng, là điều kiện tiên quyết để đưa tình hình kinh tế, xã hội ra khỏi khủng hoảng, đi vào thế ổn định và phát triển.

Từ kinh nghiệm thực tiễn những năm qua, cần xác định rõ những quan điểm và phương hướng cơ bản cho giải pháp chống lạm phát:

Chống lạm phát phải trên cơ sở đổi mới cơ chế quản lý, chuyển mạnh các hoạt động kinh tế sang hạch toán kinh doanh, giải phóng triệt để các năng lực sản xuất, thúc đẩy phát triển sản xuất kinh doanh có hiệu quả.

Quá trình chống lạm phát phải gắn chặt với quá trình đổi mới quản lý kinh tế và thực hiện ba chương trình kinh tế. Mọi biện pháp chống lạm phát phải phù hợp với cơ chế kinh doanh, không theo phương pháp tập trung quan liêu, dùng mệnh lệnh hành chính là chủ yếu để kìm giá, nắm hàng, nắm tiền, quản lý thị trường.

- Trong giải pháp toàn diện, đồng bộ chống lạm phát, phải tập trung vào khâu then chốt là giảm dần, tiến tới chấm dứt phát hành để chi tiêu ngân sách và để cấp vốn tín dụng qua ngân hàng. Cần sớm xây dựng những chính sách và biện pháp đồng bộ để củng cố, làm lành mạnh nền tài chính quốc gia, thực hành tiết kiệm cả trong sản xuất và tiêu dùng, cân bằng ngân sách một cách tích cực, chỉnh đốn lưu thông tiền tệ, khôi phục trật tự, kỷ luật trong quan hệ thanh toán, phát triển hoạt động tín dụng và dịch vụ ngân hàng theo cơ chế kinh doanh, từng bước ổn định giá trị đồng tiền. Khẩn trương chấn chỉnh công tác tài chính và ngân hàng.

- Trong quá trình chống lạm phát, đi đôi với thực hiện cơ chế kinh doanh, chuyển từ quan hệ hiện vật sang quan hệ hàng hoá - tiền tệ, tình hình thị trường và giá cả còn tiếp tục biến động. Vì vậy, một mặt cần chủ động tính đến yếu tố trượt giá trong hạch toán kinh doanh trước hết là đối với tín dụng, thuế và tiền lương, và trong việc bảo đảm khối lượng tiền tệ lưu thông cần thiết. Mặt khác, cần sử dụng tốt các công cụ quản lý vĩ mô để điều hoà cung - cầu, phấn đấu không để giá cả đột biến, đặc biệt là giá gạo, vàng và ngoại tệ.

Có bước đi phù hợp để trong vòng hai, ba năm khống chế được lạm phát ở mức bảo đảm ổn định một bước quan trọng tình hình kinh tế. Sự chỉ đạo phải rất tập trung, kiên quyết, đề cao kỷ luật, kỷ cương.

Chống lạm phát là trách nhiệm của tất cả các ngành, các cấp, là sự nghiệp của quần chúng. Toàn Đảng, toàn dân phải tập trung mọi nỗ lực khắc phục tai hoạ lạm phát. Phải tạo ra sự nhất trí, quyết tâm cao từ trên xuống dưới. Các biện pháp chống lạm phát phải bảo vệ lợi ích của người lao động và coi trọng yếu tố tâm lý xã hội, được sự đồng tình, ủng hộ và tham gia của đông đảo quần chúng.

Dựa vào những quan điểm và phương hướng cơ bản nêu trên, Bộ Chính trị ra nghị quyết về chống lạm phát với nội dung toàn diện, làm cơ sở cho Hội đồng Bộ trưởng và các cơ quan nhà nước tổ chức, chỉ đạo thực hiện.

5- Phát huy vai trò động lực của khoa học, kỹ thuật gắn với yêu cầu phát triển kinh tế hàng hoá.

Khoa học, kỹ thuật chỉ có thể trở thành động lực phát triển kinh tế, xã hội trong điều kiện phát triển kinh tế hàng hoá và khi kết quả nghiên cứu khoa học, kỹ thuật cũng được coi là sản phẩm hàng hoá.

Trong những năm trước mắt, cần thực hiện một số biện pháp chủ yếu:

- Đi đôi với việc chuyển các đơn vị kinh tế cơ sở sang cơ chế kinh doanh, phải đổi mới cơ chế hoạt động khoa học, kỹ thuật theo hướng liên kết trực tiếp với sản xuất, kinh doanh, chuyển mạnh một bộ phận quan trọng hoạt động khoa học, kỹ thuật sang hạch toán kinh doanh, tự trang trải toàn bộ hoặc một phần các chi phí, bao gồm cả tiền lương.

Các cơ sở nghiên cứu khoa học, kỹ thuật, trên cơ sở bảo đảm nhiệm vụ được cấp trên giao, có quyền chủ động xác định kế hoạch nghiên cứu, tự tạo nguồn vốn hoạt động và khi kết quả nghiên cứu đưa vào ứng dụng thành công thì được quyền bán hoặc hưởng chế độ phân chia lợi nhuận trên nguyên tắc thoả thuận với người sử dụng, không giới hạn mức thu nhập tối đa. Các cơ sở khoa học, kỹ thuật phải lựa chọn phương án đầu tư có lợi nhất, kết hợp có hiệu quả việc tự nghiên cứu với việc nhập các thành tựu khoa học, kỹ thuật, nâng cao trình độ tiếp nhận kỹ thuật và công nghệ hiện đại của nước ngoài.

Tăng cường đầu tư cho phát triển khoa học và kỹ thuật bằng nhiều nguồn vốn. Ngân sách nhà nước cấp kinh phí theo các đề án có mục tiêu rõ ràng để tiến hành các nghiên cứu cơ bản, dài hạn, các chương trình trọng điểm về các hướng khoa học và công nghệ mũi nhọn và cho việc xây dựng cơ sở vật chất của một số trung tâm nghiên cứu khoa học, kỹ thuật quan trọng. Phần lớn vốn đầu tư cho khoa học, kỹ thuật phải dựa vào hợp đồng ký kết với các tổ chức sản xuất, kinh doanh, vào nguồn vốn tín dụng và các hình thức nhân dân góp vốn, vào nguồn vốn hợp tác kinh doanh với nước ngoài.

Khẩn trương xây dựng Chiến lược khoa học, kỹ thuật gắn với chiến lược kinh tế, xã hội.

Đổi mới quy trình ra quyết định của các cơ quan lãnh đạo đảng và nhà nước ở các cấp để đưa khoa học vào hoạt động lãnh đạo và quản lý.

- Phát huy dân chủ và thực hiện đồng bộ nhiều biện pháp kinh tế, tổ chức để tạo môi trường thuận lợi cho hoạt động khoa học, kỹ thuật.Hoàn thiện và tổ chức thực hiện tốt các quy định bảo vệ quyền sở hữu, sáng chế, sáng kiến. Ban hành quy định về các hình thức thi tuyển người chủ trì đề tài, quy định về đánh giá và nghiệm thu kết quả nghiên cứu, về mua bán, chuyển giao các kết quả nghiên cứu khoa học, kỹ thuật trong nước và ngoài nước. Lập quỹ tín dụng hỗ trợ cho việc áp dụng kỹ thuật mới và công nghệ mới. Phát triển mọi loại hình tổ chức nghiên cứu ứng dụng đa dạng, đan kết nhiều thành phần kinh tế, hợp tác, cạnh tranh với nhau. Mở rộng các hoạt động dịch vụ thông tin, chào hàng khoa học, kỹ thuật.

Tổ chức lại hệ thống các cơ sở nghiên cứu khoa học, kỹ thuật thông qua quan hệ hợp tác, liên kết trong môi trường kinh doanh, theo hướng: gắn các viện nghiên cứu ứng dụng với các tổ chức sản xuất, kinh doanh; hình thành các liên hiệp khoa học - sản xuất, các tổ chức đào tạo - nghiên cứu hoặc đào tạo - nghiên cứu - sản xuất trong một số lĩnh vực có điều kiện; giải thể các viện khoa học, kỹ thuật hoạt động không có hiệu quả; tăng cường cán bộ khoa học, kỹ thuật cho các cơ sở sản xuất, kinh doanh. Phát triển các hình thức hợp tác khoa học, kỹ thuật với nước ngoài và với Việt kiều. Thực hiện cơ chế lãnh đạo tập thể bằng hội đồng khoa học trong việc quyết định phương hướng, kế hoạch hoạt động khoa học. Xúc tiến thành lập hai hội đồng quốc gia về khoa học xã hội và khoa học kỹ thuật.

Đổi mới các chính sách đối với cán bộ khoa học, kỹ thuật nhằm khuyến khích và trọng dụng tài năng, bảo đảm các điều kiện, phương tiện cần thiết cho công tác và đời sống của cán bộ khoa học, kỹ thuật theo nội dung công việc và kết quả nghiên cứu, không phụ thuộc vào chức vụ quản lý; khuyến khích cán bộ khoa học, kỹ thuật tăng thu nhập bằng chất xám của mình. Có chính sách khuyến khích cán bộ khoa học, kỹ thuật đi công tác ở các vùng nông thôn, miền núi. Thực hiện chế độ đánh giá và khen thưởng xứng đáng những tài năng khoa học, những thành quả nghiên cứu có giá trị về khoa học, kỹ thuật và quản lý. Thiết lập chế độ định kỳ xét cấp giải thưởng quốc gia mang tên các danh nhân của đất nước. Có chính sách thu hút có hiệu quả tài năng của người Việt Nam ở nước ngoài.

Hướng các hoạt động khoa học xã hội vào công tác nghiên cứu đổi mới nhận thức, phương pháp tư duy, xây dựng ý thức xã hội và nhân cách xã hội chủ nghĩa. Khuyến khích tự do tư tưởng và sáng tạo. Đặc biệt coi trọng việc tổng kết kinh nghiệm thực tiễn của nước ta, nắm bắt nhanh nhạy và vận dụng những thông tin, kinh nghiệm khoa học của các nước, phù hợp với điều kiện thực tế, không áp dụng dập khuôn, máy móc. Khoa học xã hội phải làm sáng tỏ kịp thời những vấn đề lý luận, đặc biệt là trong lĩnh vực quản lý kinh tế, quản lý xã hội, thực hiện dân chủ hoá xã hội chủ nghĩa, đổi mới tổ chức và phương thức hoạt động của hệ thống chính trị, góp phần xây dựng Cương lĩnh cách mạng xã hội chủ nghĩa ở nước ta và Chiến lược kinh tế - xã hội gắn với Chiến lược khoa học - kỹ thuật, Chiến lược kinh tế đối ngoại.

6- Đẩy mạnh hoạt động kinh tế đối ngoại.

Hiệu quả các hoạt động kin tế đối ngoại phải thể hiện ở mức độ đóng góp vào việc thực hiện các mục tiêu kinh tế xã hội trong nước.

Hoạt động kinh tế đối ngoại trong ba năm tới phải tập trung thực hiện mấy yêu cầu lớn: tăng nhanh nguồn thu ngoại tệ, thu hút mạnh nguồn vốn và tiến bộ kỹ thuật của nước ngoài để phát triển có hiệu quả nền kinh tế quốc dân. Đi đôi với đẩy mạnh xuất khẩu, phát triển du lịch, cần mở rộng có hiệu quả xuất khẩu lao động và cán bộ khoa học, kỹ thuật; sửa đổi những bất hợp lý trong hợp đồng lao động với các nước để bảo đảm lợi ích thoả đáng của người lao động với Nhà nước ta. Hình thức kinh tế đối ngoại phải đa dạng, phong phú, đặt trọng tâm vào những ngành, những hoạt động mang lại hiệu quả nhanh.

Hướng mở rộng quan hệ kinh tế đối ngoại trước hết phải coi trọng phát triển quan hệ phân công, hợp tác toàn diện với Liên Xô, Lào và Campuchia với Hội đồng tương trợ kinh tế và với các nước xã hội chủ nghĩa khác; đồng thời tranh thủ mở mang quan hệ kinh tế và khoa học - kỹ thuật với các nước khác trên thế giới, đặc biệt là ấn Độ và chú ý các nước trong khu vực gần nước ta. Khuyến khích và tạo điều kiện thuận lợi cho người Việt Nam định cư ở nước ngoài đầu tư, đóng góp bằng nhiều hình thức vào công cuộc xây dựng đất nước.

Trong quan hệ kinh tế với các nước xã hội chủ nghĩa, phải đổi mới cách làm ăn, bảo đảm hiệu quả trên nguyên tắc bình đẳng, cùng có lợi, khắc phục tư tưởng ỷ lại.

Khẩn trương đổi mới cơ chế kinh tế đối ngoại và các lĩnh vực công tác có liên quan như tài chính, ngân hàng, hải quan, nội vụ...; trong đó vấn đề quan trọng hàng đầu là đổi mới cơ chế quản lý đối với các đơn vị sản xuất hàng xuất khẩu và kinh doanh xuất, nhập khẩu. Nhanh chóng đồng bộ hoá cơ chế, chính sách để thực hiện Luật đầu tư đã ban hành.

Các chính sách và quy định cụ thể về kinh tế đối ngoại phải đủ sức hấp dẫn và tạo điều kiện thuận lợi về môi trường kinh doanh, về xuất nhập cảnh, thông tin liên lạc và ăn ở, đi lại cho người nước ngoài và Việt kiều vào Việt Nam để đầu tư kinh doanh, hoặc tham quan, du lịch, thăm người thân... và cho người Việt Nam ra nước ngoài để tiếp cận thị trường, học hỏi kỹ thuật mới, tham quan, du lịch hoặc làm ăn sinh sống. Đồng thời phải có biện pháp tích cực và phù hợp để bảo vệ vững chắc an ninh quốc gia. Cần quy định các nguyên tắc và chính sách đối với các đơn vị kinh tế trong nước vay vốn của nước ngoài để bảo đảm hiệu quả sử dụng vốn và khả năng trả nợ.

Khẩn trương nghiên cứu phương án, tập trung làm thử ở một vài nơi, để rút kinh nghiệm và tạo điều kiện mở rộng việc xây dựng các "khu chế xuất", "đặc khu kinh tế".

Phải dứt khoát chuyển các hoạt động xuất, nhập khẩu sang hạch toán kinh doanh trên cơ sở tỷ giá hối đoái thống nhất và linh hoạt, hình thành theo cơ chế kinh doanh. Xoá bỏ việc quy định tỷ giá kết toán nội bộ. Xoá bỏ bao cấp và bù lỗ cho kinh doanh xuất, nhập khẩu. Các tổ chức kinh tế nhà nước phải thanh toán nhanh và sòng phẳng các khoản nợ cũ đối với các cơ sở làm hàng xuất khẩu; có chính sách bảo đảm lợi ích cho các cơ sở sản xuất hàng xuất khẩu, nhất là xuất khẩu cho khu vực I. Ngân hàng Ngoại thương kinh doanh mua, bán ngoại tệ với mọi đối tượng thuộc tất cả các thành phần kinh tế và người nước ngoài. Chính sách thuế phải thật sự khuyến khích phát triển có định hướng các hoạt động kinh tế đối ngoại. Khuyến khích các cơ sở làm hàng xuất khẩu nâng cao chất lượng sản phẩm, tìm thị trường ổn định lâu dài và với hiệu quả cao.

Tăng cường sự quản lý thống nhất và chặt chẽ của Nhà nước đối với mọi hoạt động kinh tế đối ngoại bằng luật pháp và chính sách. Nhà nước phải quản lý tốt việc sử dụng ngoại tệ, nhất là ngoại tệ mạnh. Tổ chức lại hệ thống kinh doanh xuất nhập khẩu trung ương và địa phương theo hướng giảm mạnh các tầng nấc trung gian không cần thiết. Tổ chức lại khâu giao dịch hàng hoá ở các vùng biên giới. Các cơ sở làm hàng xuất khẩu thuộc các thành phần kinh tế nếu có những điều kiện theo quy định của Nhà nước, được quan hệ giao dịch trực tiếp với bạn hàng tại nước ngoài, trên cơ sở tuân theo pháp luật và chịu sự kiểm soát của Nhà nước. Phát triển tổ chức liên đoàn hoặc hiệp hội trong các lĩnh vực kinh tế đối ngoại. Xoá bỏ tình trạng độc quyền mang tính chất cửa quyền trong sản xuất và kinh doanh xuất, nhập khẩu. Khẩn trương kiện toàn tổ chức dịch vụ đầu tư. Hướng dẫn và quản lý chặt chẽ việc ký kết các hợp đồng kinh tế với bên ngoài. Gấp rút đào tạo, bồi dưỡng và bố trí, sử dụng đúng cán bộ có năng lực và kinh nghiệm trong các lĩnh vực kinh tế đối ngoại.

7- Tập trung giải quyết các vấn đề cấp bách về chính sách xã hội phù hợp với việc đổi mới các chính sách kinh tế.

Phương hướng giải quyết các vấn đề cấp bách thuộc chính sách xã hội trong những năm trước mắt là:

- Đổi mới cách xem xét và giải quyết các vấn đề xã hội theo hướng bảo đảm sự thống nhất hài hoà giữa chính sách kinh tế và chính sách xã hội. Việc khuyến khích mọi thành phần kinh tế phát triển sản xuất, kinh doanh đòi hỏi phải thực hiện công bằng xã hội theo quan điểm mới, khắc phục xu hướng bình quân. Trong nông thôn, đi liền với việc áp dụng các hình thức khoán, đấu thầu, khuyến khích làm giàu hợp pháp, phải không ngừng nâng cao ý thức và mở rộng các hình thức đoàn kết, hợp tác, tương trợ theo tình làng nghĩa xóm và hoạt động của các tổ chức xã hội, từ thiện, chăm sóc các gia đình thương binh, liệt sĩ và các đối tượng chính sách xã hội khác. Việc cho cạnh tranh kinh tế phải đi liền với phát triển các hình thức hợp tác, liên kết kinh tế.

- Nhà nước chăm lo sự nghiệp phúc lợi ngày càng tốt hơn cho toàn xã hội, nhưng cần có một tỷ lệ hợp lý giữa phân phối thu nhập trực tiếp và phân phối qua phúc lợi xã hội. Trong phần thu nhập được phân phối trực tiếp phải tính đến nhu cầu chi của người lao động về chữa bệnh, học tập, nhà ở...; hình thức phúc lợi không phải trả tiền cần được cân nhắc điều kiện và hiệu quả, phù hợp với đặc điểm tình hình của nước ta.

- Trong khu vực kinh tế phải bảo đảm nguyên tắc phân phối theo hiệu quả sản xuất kinh doanh và năng suất lao động của đơn vị và của người lao động; việc phân phối thu nhập và lập quỹ phúc lợi do các đơn vị kinh tế tự quyết định theo nguyên tắc tự trang trải, trên cơ sở tuân thủ những quy định chung của Nhà nước.

- Kinh phí hoạt động của các tổ chức đào tạo, giáo dục, y tế, phần lớn các cơ quan khoa học, kỹ thuật, các đoàn thể xã hội,... cần đượcchuyển từng bước  từ chỗ hoàn toàn dựa vào nguồn cấp phát của Nhà nước sang cơ chế dựa vào nhiều nguồn thu khác, như: thu học phí của các trường phổ thông; thu từ hợp đồng nghiên cứu, đào tạo của các trường đại học và dạy nghề với các tổ chức sản xuất kinh doanh thuộc các thành phần kinh tế; thu viện phí, công dịch vụ và phục vụ của các tổ chức y tế; thu từ các khoản đóng góp của hội viên, các khoản trợ giúp trong và ngoài nước đối với các đoàn thể xã hội... Phần Nhà nước đầu tư cho các sự nghiệp này ngày càng tăng nhưng chủ yếu dành cho việc trang bị cơ sở vật chất - kỹ thuật và thực hiện chính sách ưu tiên cần thiết, như đối với miền núi.

Phấn đấu thực hiện từng bước chế độ bảo hiểm xã hội do nhân dân đóng góp. Quỹ bảo hiểm đối với người về hưu hình thành từ khoản trích quỹ lương của công nhân, viên chức và đóng góp của những người lao động khác, cần được quản lý và hạch toán riêng, tách khỏi ngân sách. Phát triển các hình thức dịch vụ bảo hiểm về tài sản, mùa màng, giao thông, nhân thọ...

Bộ Chính trị cần có nghị quyết tương đối toàn diện về chính sách xã hội. Trước mắt, cần tập trung giải quyết một số vấn đề lớn sau đây về chính sách xã hội:

a) Về tiền lương và thu nhập:

Sớm khắc phục tình trạng tiền lương không đủ sống và thu nhập chênh lệch quá bất hợp lý, gây mất ổn định và bất bình trong xã hội. Yêu cầu trước mắt là ổn định và nâng dần tiền lương thực tế, trả lương đúng hạn; tiền tệ hoá tiền lương; hạch toán đủ chi phí lao động vào giá thành; bổ sung, sửa đổi ngay những điểm quá bất hợp lý trong chế độ tiền lương hiện hành và khẩn trương chuẩn bị điều kiện để thực hiện cải cách căn bản chế độ tiền lương. Nghiên cứu ban hành thuế thu nhập.

Đối với khu vực sản xuất kinh doanh, thực hiện rộng rãi phương thức tự trang trải tiền lương theo kết quả cuối cùng (tiền lương và các quỹ xí nghiệp nằm trong phần còn lại của tổng thu nhập sau khi trừ các chi phí vật chất và các khoản nộp ngân sách, trả lãi ngân hàng).

Đối với cán bộ, viên chức khu vực hành chính và người về hưu, phải bảo đảm tiền lương thực tế và trả lương đúng hạn. Trên cơ sở xác định hợp lý biên chế, áp dụng chế độ khoán quỹ lương, khoán chi tiêu hành chính cho từng cơ quan.

Chuyển các cơ quan sự nghiệp như bệnh viện, trường học, cơ sở nghiên cứu khoa học, kỹ thuật, văn hoá - nghệ thuật... sang cơ chế tự trang trải từng bước và từng phần. Có quy định về chế độ thu và sử dụng hợp lý các khoản thu học phí, viện phí; tăng chi ngân sách nhà nước đối với lĩnh vực giáo dục, y tế ở miền núi.

Đối với lực lượng vũ trang, phải cung cấp đủ tiêu chuẩn hiện vật theo định lượng và đúng về chất lượng, thời hạn, địa điểm; bảo đảm tiền lương thực tế và sửa đổi, bổ sung một số chính sách đối với sĩ quan tại ngũ; xem xét lại chế độ phụ cấp để sĩ quan xuất ngũ có thêm điều kiện tạo lập cuộc sống mới. Trong chính sách tạo việc làm, cần ưu tiên đối với quân nhân xuất ngũ. Có cơ chế và các hình thức tổ chức thích hợp để quân đội kết hợp làm kinh tế có hiệu quả, tạo thêm nguồn thu nhập nâng cao đời sống.

- Bảo hộ các nguồn thu nhập hợp pháp, khuyến khích mọi người làm giàu chính đáng, đồng thời kiên quyết xử lý những trường hợp làm ăn phi pháp. Sửa đổi chính sách thuế theo hướng khuyến khích các thành phần kinh tế mở rộng sản xuất, kinh doanh và điều tiết hợp lý mức thu nhập.

- Tạo điều kiện để những người về hưu và những người được hưởng trợ cấp xã hội có thể phát triển kinh tế gia đình. Ngoài phần chi ngân sách, cần có chính sách huy động toàn xã hội đóng góp vào quỹ dành cho thương binh, gia đình liệt sĩ và những người có công với cách mạng. Phát triển các hình thức tương trợ, giúp đỡ những người không nơi nương tựa và những gia đình quá khó khăn.

b) Đổi mới nhận thức về việc làm và cơ chế giải quyết việc làm theo hướng đa dạng hóa việc làm và thu nhập trên cơ sở phát huy khả năng thu hút lao động của mọi thành phần kinh tế. Phát triển các hoạt động dịch vụ về đào tạo nghề, giới thiệu việc làm, hướng dẫn tổ chức sản xuất kinh doanh, để người lao động chủ động và thuận tiện trong học nghề, đổi nghề, tìm nơi làm việc hoặc tự tạo việc làm.

Vấn đề giải quyết việc làm phải gắn với việc thực hiện ba chương trình kinh tế, đặc biệt là phát triển kinh tế nông thôn toàn diện và phát triển kinh tế đối ngoại. Trong những năm trước mắt phải kết hợp giữa giải quyết việc làm tại chỗ là chủ yếu với phân bố lại lao động theo lãnh thổ. Bổ sung chính sách và chấn chỉnh tổ chức quản lý để mở rộng việc đi hợp tác lao động tại nước ngoài một cách có hiệu quả, theo phương thức hạch toán kinh doanh.

Cần nghiên cứu biện pháp để sử dụng số lao động dôi ra ở các cơ quan, xí nghiệp, đặc biệt là số lao động có kỹ thuật. Có chính sách tài trợ cho số lao động dôi ra để tạo việc làm và thu nhập.

Sớm ban hành quy định về hợp đồng lao động đối với các thành phần kinh tế. Xây dựng và thực hiện nghiêm ngặt quy chế bảo đảm an toàn lao động, tăng cường công tác thanh tra và xử lý các vi phạm.

c) Để khắc phục hậu quả nghiêm trọng của sự bùng nổ dân số, cần sử dụng kiên quyết và đồng bộ hệ thống các biện pháp giáo dục, kinh tế, hành chính và khoa học, kỹ thuật. Bảo đảm đủ kinh phí, phương tiện, cán bộ để đẩy mạnh cuộc vận động sinh đẻ có kế hoạch. Phấn đấu hạ tốc độ tăng dân số.

Giảm tốc độ tăng dân số là nhiệm vụ có tính chiến lược. Các cấp uỷ đảng, cấp chính quyền, đoàn thể từ trung ương đến cơ sở phải coi đó là công việc thường xuyên, cấp bách trong chương trình hoạt động của mình. Củng cố và tăng cường hoạt động của cơ quan dân số và kế hoạch hoá gia đình.

d) Công tác giáo dục phải hướng trọng tâm vào việc từng bước ổn định tình hình giáo dục, nâng cao chất lượng và hiệu quả đào tạo. Về giáo dục phổ thông, cần tăng cường đầu tư để thanh toán nạn mù chữ và phổ cập giáo dục cấp I; tập trung sức làm tốt giáo dục toàn diện ở cấp I, lớp 1.

Hoàn thành tổng kết việc thực hiện cải cách giáo dục để tiếp tục điều chỉnh nhằm mục tiêu: đào tạo thanh thiếu niên thành con người mới xã hội chủ nghĩa, theo hướng hình thành nhân cách người lao động Việt Nam có bản sắc văn hoá dân tộc, năng động và sáng tạo, có ý chí đưa đất nước đi lên, có đủ phẩm chất đạo đức và năng lực nghề nghiệp cần thiết để đáp ứng những yêu cầu mới của nền kinh tế hàng hoá xã hội chủ nghĩa nhiều thành phần.

Đa dạng hoá các loại hình trường lớp, các hình thức đào tạo. Ban hành quy chế của Nhà nước về việc mở các trường, lớp dân lập, tư thục theo hướng: về cơ bản, hệ thống giáo dục, đào tạo phải được phát triển bằng phương thức Nhà nước đầu tư; khuyến khích mở các trường dân lập và tư thục dạy các nghề thủ công, mỹ nghệ, dạy tiếng nước ngoài; cho phép mở một số trường dân lập cấp II và cấp III chứ không phải tư thục, trong trường hợp ngân sách nhà nước không đủ khả năng đầu tư; Nhà nước quản lý chặt chẽ về nội dung, chương trình giảng dạy và thi cử, về tuyển chọn các giáo viên có đủ tiêu chuẩn nghề nghiệp và phẩm chất đạo đức đối với các trường, lớp dân lập hệ phổ thông.

Mở một số trường lớp cho những thanh thiếu niên có năng khiếu và tài năng, với sự đầu tư đặc biệt. Mở thêm hệ thống trường dành cho trẻ em có tật và cho con em người dân tộc ít người.

Mở rộng các hình thức phổ cập nghề nghiệp cho thanh niên, đồng thời chú ý việc đào tạo đội ngũ công nhân kỹ thuật lành nghề. Tổ chức lại các loại hình đào tạo dài hạn, sắp xếp hợp lý mạng lưới trường đại học và chuyên nghiệp, phát triển các trường vừa học, vừa làm; nâng cao trình độ, chất lượng đào tạo, nhất là năng lực thực hành. Cải cách chế độ đánh giá, thi cử; hoàn thiện công tác tuyển sinh ở các cấp học, bậc học.

Đổi mới công tác quản lý giáo dục; mở rộng quyền chủ động cho trường học; phân cấp cho các địa phương trong công tác quản lý, phát triển và tự trang trải một phần kinh phí giáo dục.

Chăm lo đời sống và điều kiện giảng dạy của giáo viên, Nhà nước cần dành tỷ lệ thích đáng của ngân sách cho giáo dục; thể chế hoá việc đầu tư từ các nguồn khác; ưu tiên đầu tư cho phát triển giáo dục ở các vùng miền núi và nông thôn hẻo lánh. Nghiên cứu quy định mức học phí và mức trợ cấp của ngân sách nhà nước cho từng cấp học, ngành học theo từng vùng. Xây dựng chính sách học bổng và chính sách khuyến khích những học sinh xuất sắc.

đ) Về công tác bảo vệ sức khoẻ. Trên cơ sở huy động sự tham gia rộng rãi của mọi lực lượng xã hội, cần đổi mới hệ thống tổ chức và cơ chế quản lý, chuyển mạnh công tác chăm sóc sức khoẻ theo hướng dự phòng, kết hợp y học dân tộc với y học hiện đại, tăng cường các hoạt động về chăm sóc sức khoẻ ban đầu, bảo vệ bà mẹ và trẻ em, mở rộng phong trào thể dục thể thao trong nhân dân, trước hết là trong thanh thiếu niên, học sinh.

Có kế hoạch toàn diện để củng cố hệ thống y tế, trước hết là y tế cơ sở, đặc biệt là ở các tỉnh miền núi. Nâng cao chất lượng của các cơ sở y tế nhà nước và mở rộng các hình thức dịch vụ sức khoẻ của tập thể, tư nhân.

Để thực hiện chế độ thu viện phí, cần ban hành chính sách trợ cấp trực tiếp cho những đối tượng nằm trong diện cần được trợ cấp.

Hệ thống dược và trang bị y tế cần chuyển nhanh sang cơ chế hạch toán kinh doanh. Nhanh chóng xây dựng công nghiệp kháng sinh; phát triển nuôi trồng và chế biến dược liệu, dựa vào xuất khẩu dược liệu để trang trải một phần nhu cầu nhập khẩu mới. Đáp ứng nhu cầu tối thiểu về thuốc chữa bệnh thông thường và phòng chống các dịch bệnh nguy hiểm cho nhân dân.

Xây dựng các tổ chức xã hội theo nguyên tắc tự quản để chỉ đạo và phát triển các hoạt động thể dục thể thao của quần chúng.

8- Tăng cường công tác quốc phòng, an ninh đất nước.

Cuộc đấu tranh giai cấp trên thế giới tuy đã có một số thay đổi về hình thức, nhưng bản chất không hề thay đổi; kẻ thù tuy có thay đổi một số sách lược, nhưng chưa từ bỏ âm mưu phá hoại cách mạng nước ta. Cuộc đấu tranh trong cùng tồn tại hoà bình và hợp tác kinh tế quốc tế có nhiều phức tạp mới. Vì vậy phải đề cao cảnh giác, tích cực thực hiện nhiệm vụ quốc phòng và an ninh mà Đại hội VI và các nghị quyết của Bộ Chính trị đã đề ra, làm thất bại kiểu chiến tranh phá hoại nhiều mặt của kẻ thù, bảo đảm chủ động trong mọi tình huống để bảo vệ Tổ quốc, bảo đảm an ninh chính trị, trật tự và an toàn xã hội, đồng thời làm tốt nghĩa vụ quốc tế đối với cách mạng Lào và Cam-pu-chia.

Các cấp uỷ đảng và cơ quan chính quyền phải phát huy sức mạnh tổng hợp của cả hệ thống chuyên chính vô sản, kết hợp chặt chẽ quốc phòng, an ninh với kinh tế trong công tác lãnh đạo và quản lý đất nước. Không ngừng nâng cao chất lượng lãnh đạo và có kế hoạch cụ thể xây dựng nền quốc phòng toàn dân và thế trận an ninh nhân dân một cách toàn diện.

Tích cực xây dựng quy hoạch quốc phòng dài hạn và các kế hoạch ứng phó với tình hình đột xuất.

Thực hiện có kết quả kế hoạch củng cố tổ chức phòng thủ đất nước, nhất là ở các khu vực trọng điểm. Đẩy mạnh xây dựng và sớm hình thành thế trận chiến tranh nhân dân, xây dựng công trình chiến đấu. Tập trung chỉ đạo tăng cường khả năng phòng thủ và củng cố an ninh biên giới, bờ biển, hải đảo và những vùng xung yếu khác. Bố trí lại thế trận an ninh, đổi mới đối sách và biện pháp nghiệp vụ cho phù hợp với yêu cầu của tình hình mới.

Tích cực xây dựng quân đội về chính trị, tư tưởng và tổ chức, phát huy bản chất và truyền thống tốt đẹp của quân đội. Tạo một bước chuyển mạnh hơn và vững chắc hơn về chất lượng tổng hợp của các lực lượng vũ trang với số quân thường trực hợp lý, tiếp tục giảm quân số thường trực, xây dựng quân đội chính quy ngày càng hiện đại, nâng cao trình độ, chất lượng và hiệu quả chiến đấu. Chú trọng xây dựng lực lượng dự bị động viên và dân quân tự vệ.

Có tổ chức và chính sách đúng nhằm đào tạo và xây dựng đội ngũ sĩ quan và tướng lĩnh giỏi, đội ngũ nhân viên chuyên môn, kỹ thuật giỏi, coi đó là một khâu then chốt trong xây dựng quân đội. Cải tiến và thực hiện tốt các chế độ, chính sách đối với quân thường trực và chính sách hậu phương quân đội.

Tăng cường trang bị kỹ thuật cho các lực lượng vũ trang. Từng bước xây dựng công nghiệp quốc phòng. Chấn chỉnh và nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác nghiên cứu lý luận và khoa học, kỹ thuật quân sự. Xác định rõ và tổ chức thực hiện tốt chiến lược quốc phòng trong thời bình, phòng ngừa thời chiến.

Phát huy khả năng và tiềm lực của quân đội trong xây dựng kinh tế nhằm tự giải quyết một phần các nhu cầu của quân đội và góp phần tạo ra của cải vật chất cho xã hội. Quân đội làm kinh tế phải theo cơ chế quản lý chung của Nhà nước, thực hiện hạch toán kinh doanh.

Giáo dục toàn Đảng, toàn dân ý thức thường xuyên cảnh giác, đấu tranh chống mọi âm mưu và hành động phá hoại, "diễn biến hoà bình" của địch. Có quy chế nghiêm ngặt bảo vệ nội bộ, giữ gìn bí mật quốc gia.

Tăng cường xây dựng phong trào quần chúng bảo vệ an ninh Tổ quốc và trật tự an toàn xã hội, nhất là ở cơ sở. Có kế hoạch, biện pháp và quy chế phối hợp giữa công an với các ngành, các đoàn thể để thực hiện tốt công tác phòng ngừa tội phạm.

Kiên quyết và kịp thời nghiêm trị bọn phá hoại, lưu manh côn đồ, bọn tội phạm, bọn đầu cơ, buôn lậu, phá rối thị trường, lập lại trật tự, kỷ cương trong xã hội, nhất là ở các thành phố lớn, các khu công nghiệp tập trung.

Tiếp tục xây dựng lực lượng công an nhân dân tinh giản, trong sạch, vững mạnh, có sức chiến đấu cao. Gấp rút củng cố và nâng cao chất lượng bộ đội biên phòng. Nhà nước có kế hoạch tăng thêm trang bị phương tiện phục vụ cho hoạt động trước mắt của lực lượng công an nhân dân, lực lượng bộ đội biên phòng, đồng thời từng bước hiện đại hoá các phương tiện kỹ thuật nghiệp vụ.

9- Đẩy mạnh các hoạt động đối ngoại theo phương hướng mà Đại hội VI và Nghị quyết 13 của Bộ Chính trị đã đề ra, kiên trì đường lối độc lập, tự chủ, giữ vững hoà bình, tranh thủ thời gian và điều kiện thuận lợi để từng bước ổn định và phát triển kinh tế - xã hội, xây dựng chủ nghĩa xã hội, bảo vệ độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc, góp phần vào cuộc đấu tranh chung vì hoà bình, độc lập dân tộc, dân chủ và chủ nghĩa xã hội.

Tiếp tục mở rộng quan hệ hợp tác quốc tế, tham gia tích cực vào phân công lao động quốc tế, thực hiện đấu tranh và hợp tác trong cùng tồn tại hoà bình.

Chuyển mạnh hoạt động ngoại giao từ quan hệ chính trị là chủ yếu sang quan hệ chính trị - kinh tế, mở rộng quan hệ kinh tế, phục vụ cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ đất nước.

Tăng cường đoàn kết và nâng cao hiệu quả hợp tác toàn diện với Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa anh em khác. Tăng cường quan hệ đặc biệt giữa ba đảng, nhân dân ba nước Việt Nam, Lào và Cam-pu-chia bằng những phương thức hoạt động phù hợp với tình hình mới. Phát triển quan hệ hợp tác nhiều mặt với ấn Độ.

Kiên trì thúc đẩy bình thường hoá quan hệ Việt - Trung, khôi phục quan hệ hữu nghị giữa nhân dân hai nước.

Góp phần tích cực giải quyết vấn đề Campuchia bằng chính trị, đồng thời chuẩn bị tốt việc rút hết quân sớm trong trường hợp chưa có giải pháp về Campuchia. Xây dựng mối quan hệ mới với các nước ASEAN, tham gia tích cực vào việc biến Đông Nam á thành khu vực hoà bình, ổn định, hữu nghị và hợp tác.

Mở rộng và đa dạng hoá quan hệ với các nước, phát triển quan hệ với các nước châu á - Thái Bình Dương và Tây âu, bình thường hoá quan hệ với Mỹ.

Tích cực đấu tranh cho hoà bình, đoàn kết và ủng hộ các phong trào độc lập dân tộc, dân chủ, các lực lượng cách mạng, góp phần củng cố và phát triển Phong trào Không liên kết.

10- Xây dựng và phát huy dân chủ xã hội chủ nghĩa; đổi mới tổ chức và phương thức hoạt động của hệ thống chính trị.

Sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội, sự đổi mới các lĩnh vực của đời sống xã hội đang đòi hỏi phải đổi mới một cách căn bản tổ chức và phương thức hoạt động của hệ thống chính trị nhằm nâng cao chất lượng lãnh đạo của Đảng, tăng cường hiệu lực quản lý của Nhà nước, mở rộng dân chủ, phát huy vai trò tích cực và năng lực sáng tạo của nhân dân, ngăn chặn có hiệu quả chủ nghĩa quan liêu, tạo ra động lực tổng hợp của xã hội. Đây là một nhiệm vụ vừa cơ bản, vừa cấp bách.

Nội dung đổi mới tổ chức và phương thức hoạt động của hệ thống chính trị, xây dựng và phát huy dân chủ xã hội chủ nghĩa bao gồm nhiều mặt, có quan hệ chặt chẽ với nhau. Quan trọng nhất là cần tập trung giải quyết những vấn đề lớn sau đây:

a) Mở rộng dân chủ trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội, phát huy quyền làm chủ tập thể của nhân dân:

- Về chính trị, trước hết bảo đảm dân chủ trong sinh hoạt xã hội cũng như trong bầu cử, ứng cử, lựa chọn cán bộ, trong việc ra các quyết định và tổ chức thực hiện các quyết định của các cơ quan đảng, nhà nước, các tổ chức xã hội, bảo đảm thực hiện quyền và nghĩa vụ công dân.

- Về kinh tế, mở rộng quyền tự chủ của các cơ sở sản xuất, kinh doanh, dịch vụ, phát huy quyền làm chủ của người lao động, thực hiện đúng đắn chính sách kinh tế nhiều thành phần, tạo điều kiện cho các thành phần kinh tế được phát triển theo pháp luật, đi theo quỹ đạo của chủ nghĩa xã hội.

- Trong lĩnh vực văn hoá, văn nghệ, có chính sách và cơ chế phát huy trí tuệ, tài năng của nhân dân và đội ngũ văn nghệ sĩ đối với sự nghiệp xây dựng nền văn hoá xã hội chủ nghĩa đậm đà bản sắc dân tộc và từng bước đáp ứng nhu cầu văn hoá của nhân dân; bảo đảm tự do sáng tác, tự do phê bình, nâng cao trách nhiệm công dân của người nghệ sĩ.

- Trong lĩnh vực tư tưởng, thực hiện quyền được thông tin của nhân dân, mở rộng thông tin, thực hiện thông tin hai chiều, quyền phát biểu ý kiến, tranh luận thẳng thắn. Thông tin phải chính xác, có định hướng, phát biểu với tinh thần xây dựng và bảo vệ bí mật quốc gia.

Trong quá trình phát huy dân chủ, vừa phải đấu tranh khắc phục những hành động vi phạm quyền dân chủ của nhân dân, vừa phải ngăn ngừa, đấu tranh khắc phục khuynh hướng dân chủ hình thức, dân chủ cực đoan, dân chủ tư sản; phải tỉnh táo đấu tranh chống lại những lực lượng lợi dụng việc mở rộng dân chủ để chống chế độ ta. Không chấp nhận chủ nghĩa đa nguyên. Phải lắng nghe ý kiến rộng rãi của nhân dân, nhưng cần phân biệt những ý kiến đúng đắn với những ý kiến sai trái, tiếp thu những ý kiến đúng. Nhân dân kiểm tra Đảng và Nhà nước, đồng thời nhân dân cũng tự kiểm tra nhau trong việc chấp hành các chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước.

Việc xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa là nhằm phát huy nhân tố con người, phát huy cao độ tính tự giác và sức sáng tạo to lớn của mọi tầng lớp nhân dân trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ xã hội mới. Đồng thời, từng bước xây dựng quyền làm chủ tập thể của nhân dân, tạo điều kiện cho con người nâng cao đời sống vật chất và tinh thần để phát triển toàn diện, đào tạo và rèn luyện thành con người mới xã hội chủ nghĩa.

b) Xây dựng và hoàn chỉnh từng bước hệ thống chính sách, pháp luật của Nhà nước, tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa.

Công cuộc đổi mới, yêu cầu mở rộng dân chủ mọi mặt đời sống xã hội đang đòi hỏi phải khẩn trương đổi mới hệ thống chính sách, pháp luật của Nhà nước, tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa. Trước mắt, cần rà soát lại những văn bản pháp quy hiện hành (kể cả Hiến pháp), bổ sung và sửa đổi những điểm cần thiết theo tinh thần đổi mới. Ban hành một số luật mới, bảo đảm thực hiện các quyền và nghĩa vụ công dân phù hợp với điều kiện kinh tế, xã hội nước ta. Mọi công dân, bất kể ở cương vị nào, đều có nghĩa vụ sống và làm việc theo pháp luật. Tích cực tuyên truyền, phổ biến và giáo dục pháp luật trong nhân dân và lãnh đạo thực hiện có kết quả những chính sách, pháp luật, quy chế, quy định đó. Trừng trị đích đáng và kịp thời những hành vi vi phạm pháp luật, làm suy yếu và phá hoại nền dân chủ xã hội chủ nghĩa.

Tổ chức lại công tác nghiên cứu chính sách và pháp luật, ban hành kịp thời những văn bản pháp quy, nhất là về kinh tế, bảo đảm thu hút được nhiều tổ chức, nhiều lực lượng tham gia và nâng cao tính chính xác, tính khoa học của chính sách và pháp luật.

c) Phân định rõ chức năng, nhiệm vụ, trên cơ sở đó, đổi mới tổ chức và phương thức hoạt động của Đảng, Nhà nước và các đoàn thể quần chúng.

Về Đảng: Sự lãnh đạo của Đảng là nhân tố quyết định mọi thắng lợi của công cuộc đổi mới ở nước ta. Vì vậy, Đảng phải tự đổi mới nội dung và phương thức lãnh đạo của mình.

Đảng lãnh đạo thông qua việc xây dựng cương lĩnh, đường lối, chiến lược, những mục tiêu cơ bản của cách mạng, vạch ra những phương hướng, chủ trương, chính sách lớn trên các lĩnh vực đối nội và đối ngoại, định hướng hoạt động của Nhà nước và của toàn dân.

Đảng kiểm tra việc thực hiện đường lối, chủ trương, chính sách. Qua kiểm tra, tổng kết thực tiễn, tiếp tục bổ sung, hoàn chỉnh đường lối, chính sách, kịp thời bổ khuyết, uốn nắn những chủ trương không sát thực tế, những việc làm trái với đường lối, chính sách của Đảng.

Đảng lãnh đạo xây dựng và thực hiện quy hoạch cán bộ, bố trí cán bộ các cơ quan của Đảng, chuẩn bị và giới thiệu các cán bộ lãnh đạo chủ chốt của Nhà nước và các đoàn thể quần chúng. Đảng lãnh đạo chặt chẽ công tác cán bộ của Nhà nước, nhưng tôn trọng các thể chế nhà nước về tuyển dụng, bổ nhiệm và miễn nhiệm cán bộ.

Đảng thực hiện sự lãnh đạo của mình bằng công tác thuyết phục, giáo dục và bằng sự gương mẫu của cán bộ, đảng viên. Đảng hoạt động trong khuôn khổ pháp luật và theo đúng pháp luật. Phải phân biệt Đảng là cơ quan lãnh đạo chứ không phải là cơ quan quản lý. Đổi mới sự lãnh đạo của Đảng chính là nâng cao chất lượng và hiệu quả lãnh đạo ngang tầm với yêu cầu của cách mạng.

Để đáp ứng được yêu cầu nói trên, phải đổi mới, kiện toàn tổ chức bộ máy của Đảng ở tất cả các cấp từ Trung ương đến cơ sở.

ở Trung ương: kiện toàn Bộ Chính trị, làm rõ thêm chức năng và cách làm việc của Bộ Chính trị và Ban Bí thư.

Bộ máy giúp việc của Trung ương Đảng (các ban và Văn phòng), cần được sắp xếp lại hợp lý, tinh, gọn. Cán bộ của các ban phải có trình độ cao, có khả năng nghiên cứu và đề xuất các vấn đề về đường lối, chính sách và kiểm tra việc thực hiện đường lối, chính sách ấy. Giải thể những ban, những bộ phận có chức năng, nhiệm vụ trùng lắp với nhau và trùng lắp với bộ máy nhà nước.

ở các địa phương: tổ chức bộ máy của cấp uỷ đảng càng phải gọn nhẹ, phù hợp với chức năng và phương thức lãnh đạo của Đảng; không nhất thiết phải có bộ máy như ở trung ương.

Sửa đổi và bổ sung một số quy chế về tổ chức và sinh hoạt đảng. Đổi mới phong cách làm việc, phát huy dân chủ nội bộ, thực hiện đúng nguyên tắc tập trung dân chủ, bảo đảm thảo luận, tranh luận một cách bình đẳng, thẳng thắn; lắng nghe và tôn trọng các ý kiến khác nhau. Khi đã có quyết định của tập thể, phải chấp hành nghiêm túc. Giữ vững kỷ luật đảng; thường xuyên tự phê bình và phê bình.

Về bộ máy nhà nước: Nhà nước xã hội chủ nghĩa là tổ chức tập trung quyền lực của nhân dân, đại diện cho ý chí, nguyện vọng và lợi ích của nhân dân. Nhà nước phải thực hiện đúng đắn quyền lực của mình; quản lý mọi mặt hoạt động của xã hội bằng pháp luật theo đường lối, chính sách của Đảng.

Phấn đấu để ba năm tới, Nhà nước có bước tiến lớn về năng lực quản lý, điều hành, hoạt động năng động, có hiệu quả.

Đổi mới một cách căn bản tổ chức và hoạt động của các cơ quan dân cử, làm cho Quốc hội và hội đồng nhân dân các cấp thật sự là cơ quan quyền lực của nhân dân, hoạt động có hiệu quả dưới sự lãnh đạo của Đảng.

Thực hiện đúng chức năng, quyền hạn của hệ thống quản lý hành chính các cấp. Trong lĩnh vực kinh tế, phải phân biệt rõ chức năng quản lý nhà nước về kinh tế với quản lý của các tổ chức sản xuất kinh doanh. Nhà nước thực hiện chức năng quản lý kinh tế bằng pháp luật, bằng hệ thống các chính sách, quy chế, điều hành các quan hệ kinh tế vĩ mô, không làm thay, không giải quyết những công việc thuộc quyền tự chủ của các đơn vị kinh tế.

Đổi mới tổ chức và cách làm việc của Hội đồng Bộ trưởng, thực hiện đúng chức trách, quyền hạn của tập thể Hội đồng Bộ trưởng, đồng thời phát huy trách nhiệm, quyền hạn của Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng, của mỗi thành viên Hội đồng Bộ trưởng.

Sắp xếp lại các bộ, các uỷ ban nhà nước, các tổng cục một cách hợp lý, gọn nhẹ, cắt bỏ những bộ phận trung gian không cần thiết; phân biệt rõ cơ quan quản lý nhà nước với tổ chức kinh tế kỹ thuật, bảo đảm thực hiện đúng chức năng nghiên cứu và quy định các vấn đề về pháp luật, chính sách, về quy hoạch và kế hoạch để quản lý nhà nước về kinh tế, xã hội ở tầm vĩ mô, thực hiện sự thanh tra, kiểm soát của Nhà nước đối với các hoạt động kinh tế - xã hội.

Sửa đổi cơ cấu tổ chức, phương thức hoạt động và chế độ làm việc của uỷ ban nhân dân các cấp.

+ Làm rõ và đổi mới một số vấn đề về chức năng, nhiệm vụ và tổ chức của hệ thống tư pháp, toà án, viện kiểm sát. Tôn trọng hoạt động độc lập của toà án trong xét xử. Bảo đảm việc bắt người, giam giữ người, xét xử và thi hành án nghiêm minh, đúng pháp luật.

Việc kiện toàn tổ chức bộ máy của các cơ quan quản lý nhà nước phải xuất phát từ yêu cầu, đối tượng quản lý, từ trình độ phát triển của lực lượng sản xuất, từ trình độ đội ngũ cán bộ, và phải gắn liền với việc bố trí, sắp xếp hợp lý cán bộ; tránh tình trạng giản đơn, máy móc, sắp xếp lại bộ máy một cách hình thức.

- Về các đoàn thể quần chúng:

Bằng công tác giáo dục, tổ chức và vận động quần chúng sâu rộng, các đoàn thể quần chúng đại diện cho quyền làm chủ của các tầng lớp nhân dân, hỗ trợ đắc lực và là hậu thuẫn cho hoạt động của Đảng và công tác quản lý của Nhà nước.

Các cấp uỷ đảng phải đổi mới phương thức lãnh đạo các đoàn thể quần chúng, tạo mọi điều kiện để mỗi đoàn thể phát huy tính chủ động, sáng tạo trong hoạt động của mình. Đảng lãnh đạo và tôn trọng tính độc lập về tổ chức của các đoàn thể.

Với chức năng vận động và tổ chức quần chúng, các đoàn thể phải đổi mới phương thức hoạt động cho phù hợp với chính sách mới của Đảng và Nhà nước, sát với quần chúng, với hội viên. Nội dung và hình thức vận động phải gắn chặt với nguyện vọng, lợi ích và điều kiện sinh hoạt của hội viên. Tổ chức bộ máy của mỗi đoàn thể phải gọn, không cần có nhiều cán bộ chuyên trách như hiện nay. Bỏ những hình thức tổ chức và hoạt động làm cho đoàn thể trở nên "hành chính hoá", xa quần chúng, không gắn với hội viên. Các đoàn thể phấn đấu tạo thêm nguồn thu nhập để giảm một phần kinh phí do Nhà nước cấp.

Khuyến khích việc tổ chức và hoạt động của các hội quần chúng có tính chất xã hội hoặc theo nghề nghiệp. Hướng dẫn các hội hoạt động đúng hướng.

Cùng với việc triển khai thực hiện các nhiệm vụ đổi mới tổ chức và phương thức hoạt động của Đảng, Nhà nước và các đoàn thể quần chúng, cần sớm tổng kết cuộc vận động làm trong sạch và nâng cao sức chiến đấu của tổ chức đảng và bộ máy nhà nước, làm lành mạnh các quan hệ xã hội để tiếp tục thực hiện cuộc vận động này có kết quả hơn.

11- Đổi mới và tăng cường công tác tư tưởng.

Công cuộc đổi mới ở nước ta cũng như những chuyển động lớn và diễn biến phức tạp của tình hình thế giới đang đặt ra nhiều vấn đề mới về nhận thức, lý luận, tác động mạnh đến tư tưởng, tình cảm của cán bộ, đảng viên và nhân dân ta.

Đổi mới và tăng cường công tác tư tưởng phải hướng vào những yêu cầu chính sau đây:

- Thông tin đầy đủ, chính xác và kịp thời về tình hình các mặt, làm cho mọi người hiểu rõ những việc làm được và chưa làm được, củng cố sự thống nhất về tư tưởng và hành động trong toàn Đảng và toàn dân, thúc đẩy công cuộc đổi mới, khắc phục tâm trạng bi quan, giảm sút lòng tin, mất cảnh giác.

- Tiếp tục đổi mới tư duy, quán triệt, cụ thể hoá và phát triển những quan điểm của Đại hội VI, quán triệt Nghị quyết sáu của Ban Chấp hành Trung ương Đảng, tăng cường nghiên cứu và giáo dục chủ nghĩa Mác - Lênin, giáo dục đường lối chính sách của Đảng, bồi dưỡng những nhận thức đúng đắn về công cuộc đổi mới, về chủ nghĩa xã hội và con đường tiến lên chủ nghĩa xã hội, chú trọng nắm vững các nguyên tắc cơ bản đã nói ở phần trên. Uốn nắn kịp thời những nhận thức lệch lạc, chủ động phản kích những luận điệu thù địch.

- Bồi dưỡng cho cán bộ, đảng viên và nhân dân lý tưởng cách mạng xã hội chủ nghĩa, tinh thần yêu nước, yêu chủ nghĩa xã hội, lòng tự hào dân tộc, ý thức bảo vệ và phát triển những giá trị đạo đức và văn hoá của dân tộc, tinh thần quốc tế vô sản và quốc tế xã hội chủ nghĩa. Giáo dục cho nhân dân, đặc biệt là cho thanh, thiếu niên về ý thức lao động mới và cần kiệm, làm tròn nghĩa vụ công dân trong xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, sống và làm việc theo pháp luật, ý thức tôn trọng của công, tinh thần đoàn kết tương trợ, hợp tác. Đấu tranh chống chủ nghĩa cá nhân ích kỷ, tư tưởng cơ hội, thực dụng, cục bộ, bản vị, những hành vi gian dối, trái pháp luật.

Tiếp tục mở rộng hơn nữa tính dân chủ, tính công khai trong sinh hoạt đảng, trong hoạt động của các cơ quan nhà nước, các đoàn thể, các tổ chức xã hội và trong hoạt động khoa học, thông tin đại chúng, văn hoá - văn nghệ, coi đó là một phương hướng cơ bản chỉ đạo các hoạt động tư tưởng. Khuyến khích tự do tư tưởng, thảo luận và tranh luận thẳng thắn; ngăn ngừa và uốn nắn những biểu hiện lợi dụng dân chủ, công khai để xuyên tạc sự thật, kích động, phá hoại công cuộc đổi mới. Không cho phép ra báo tư nhân và lập các nhà xuất bản tư nhân.

Đổi mới sự lãnh đạo và quản lý công tác tư tưởng phải nhằm nâng cao chất lượng và hiệu quả công tác tư tưởng, bảo đảm tính chủ động, kịp thời, tính chiến đấu, sắc bén, phục vụ tích cực việc thực hiện các chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước.

12- Một số vấn đề về cán bộ.

Quán triệt tinh thần Nghị quyết Đại hội VI và Nghị quyết Trung ương năm, phải phấn đấu để trong ba năm tới đạt được sự chuyển biến quan trọng về công tác cán bộ.

Trước mắt, cần chú trọng những vấn đề sau đây:

- Thống nhất tiêu chuẩn về phẩm chất và năng lực cán bộ, về đánh giá cán bộ trong công cuộc đổi mới. Trên cơ sở đó, lựa chọn, sử dụng và phát huy những cán bộ có tinh thần đổi mới, có phẩm chất, có kiến thức và năng lực lãnh đạo, quản lý kinh tế - xã hội, có kinh nghiệm hoạt động thực tiễn, có khả năng đoàn kết quy tụ cán bộ.

- Cần cụ thể hoá tiêu chuẩn cán bộ cho từng chức danh lãnh đạo và quản lý. Không có tiêu chuẩn phẩm chất và năng lực chung chung; phẩm chất và năng lực phải thể hiện ở kết quả thực tế công tác.

- Phân định rõ cán bộ lãnh đạo, quản lý và cán bộ chuyên môn. Cán bộ lãnh đạo và quản lý có thể thay đổi vị trí công tác tuỳ theo sự tín nhiệm. Cán bộ chuyên môn, nghiệp vụ phải được đào tạo có hệ thống và phải được ổn định, bảo đảm hoạt động chuyên sâu, có hiệu suất cao.

Trẻ hoá cán bộ trong bộ máy đảng, nhà nước và đoàn thể, thực hiện đúng chế độ về hưu. Trường hợp còn sức khoẻ, có năng lực và phẩm chất có thể được giữ lại làm những việc thích hợp.

- Xúc tiến mạnh việc xây dựng quy hoạch cán bộ, từ cán bộ lãnh đạo cao nhất trong Đảng, Nhà nước cho đến cán bộ cơ sở, tổ chức chỉ đạo thực hiện tốt quy hoạch đó. Tích cực chuẩn bị nhân sự cho Đại hội VII của Đảng và đại hội đảng bộ các cấp, đặc biệt là chuẩn bị những chức vụ lãnh đạo chủ chốt ở các cấp theo phương hướng bảo đảm tính liên tục và tính kế thừa trong sự lãnh đạo của Đảng và Nhà nước.

Chống tư tưởng nể nang, hữu khuynh, thiếu tin vào cán bộ trẻ, không tích cực đào tạo, chuẩn bị hoặc "níu áo" nhau. Thay thế kịp thời những cán bộ không còn phù hợp với nhiệm vụ được giao.

Coi việc đào tạo, bồi dưỡng cán bộ có tư duy mới, có kiến thức, có phẩm chất đạo đức và có năng lực hoạt động thực tiễn là công việc rất quan trọng và cấp thiết. Chú trọng việc đào tạo cán bộ cho miền núi, đặc biệt là cán bộ người dân tộc thiểu số.

- Việc sắp xếp, bố trí, đề bạt cán bộ phải theo đúng nguyên tắc tập trung dân chủ. Đổi mới quy chế tuyển chọn và đề bạt cán bộ, bảo đảm lựa chọn và sử dụng đúng những cán bộ thật sự có tài năng và phẩm chất. Kết hợp việc nhận xét, đánh giá của tổ chức đảng, của thủ trưởng với việc lấy ý kiến của quần chúng, bỏ phiếu tín nhiệm, bầu cử hoặc thi tuyển. Thực hiện chế độ miễn nhiệm đối với những người không hoàn thành nhiệm vụ.

Khắc phục tư tưởng cục bộ, địa phương, tệ bè phái, cảm tình cá nhân trong công tác cán bộ.

Phần thứ baNắm chắc những nhiệm vụ then chốt để đẩy mạnh sự nghiệp đổi mới

Trong quá trình triển khai thực hiện toàn diện các nhiệm vụ nêu trên, cần nắm chắc những nhiệm vụ then chốt sau đây:

Một là, kiềm chế và đẩy lùi lạm phát là nhiệm vụ trung tâm nóng bỏng nhất. Nó phải được thực hiện một cách đồng bộ bằng nhiều biện pháp, gắn chặt với đổi mới cơ chế quản lý kinh tế, trước hết là đối với khu vực quốc doanh, phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần và mở rộng quan hệ kinh tế đối ngoại, tạo thành sức mạnh tổng hợp thực hiện ba chương trình kinh tế, đặc biệt là phát triển toàn diện kinh tế nông thôn. Đó là nhiệm vụ và phương hướng chủ yếu để ổn định một bước quan trọng tình hình kinh tế, xã hội, tạo thế phát triển mạnh hơn cho những năm sau.

Hai là, giữ được hoà bình, tạo được điều kiện và môi trường để đất nước có thể phát triển trong thế ổn định là nhiệm vụ của các cấp, các ngành, trước hết là của quốc phòng, an ninh, đối ngoại.

Tiếp tục đề cao cảnh giác, đồng thời tích cực hoạt động để sớm bình thường hoá quan hệ với Trung Quốc, với các nước trong khu vực và các nước khác, tranh thủ phát triển kinh tế đối ngoại, chuẩn bị ráo riết các tiền đề và điều kiện cần thiết để mở rộng trong những năm sau.

Ba là, tiếp tục mở rộng dân chủ, khẩn trương đổi mới tổ chức bộ máy và phương thức hoạt động của Đảng, Nhà nước, các đoàn thể quần chúng, xây dựng hoàn chỉnh từng bước hệ thống pháp luật làm cơ sở vững chắc cho chế độ dân chủ, bảo đảm kỷ cương xã hội.

Tích cực đổi mới công tác cán bộ, có quy hoạch đào tạo và bồi dưỡng cán bộ, thực hiện kịp thời việc chuyển tiếp từng bước thế hệ lãnh đạo.

Bốn là, điều quyết định để thực hiện thắng lợi sự nghiệp đổi mới là Đảng phải được xây dựng vững mạnh về chính trị, tư tưởng và tổ chức, đổi mới nội dung và phương thức lãnh đạo theo tinh thần Đại hội VI và Nghị quyết Trung ương năm. Xúc tiến việc xây dựng Cương lĩnh của Đảng và Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội.

Hai năm thực hiện Nghị quyết Đại hội VI đã đem lại cho chúng ta những kinh nghiệm bước đầu về tiến hành công cuộc đổi mới, cần được quán triệt trong lãnh đạo, chỉ đạo tổ chức thực hiện trong thời gian tới.

Thứ nhất, phải quán triệt quan điểm đổi mới toàn diện và đồng bộ. Thực tiễn cho thấy đổi mới là một cuộc cách mạng sâu sắc và toàn diện trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội, các lĩnh vực ấy có liên quan chặt chẽ với nhau và tác động qua lại lẫn nhau. Trên từng lĩnh vực, nội dung đổi mới cũng bao gồm toàn diện từ đổi mới quan niệm đến đổi mới cơ chế, chính sách, tổ chức, cán bộ, phong cách và lề lối làm việc. Nếu chỉ đơn độc đổi mới một lĩnh vực hoặc một khâu nào đó thì công cuộc đổi mới không thể đạt được kết quả mong muốn. Đồng thời trong mỗi bước đi, phải xác định đúng khâu then chốt để tập trung sức giải quyết.

Thứ hai, phải tăng cường công tác tổng kết thực tiễn và nghiên cứu lý luận hoàn chỉnh hệ thống các quan điểm về đổi mới, giải đáp kịp thời và sáng tỏ những vấn đề do cuộc sống đặt ra, bảo đảm sự thống nhất về nhận thức, về ý chí và hành động trong toàn Đảng và toàn dân. Bởi vì công cuộc đổi mới càng đi vào chiều rộng và chiều sâu thì càng xuất hiện nhiều vấn đề mới mẻ liên quan đến nhận thức về chủ nghĩa xã hội, về mô hình và con đường xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta.

Thứ ba, phải kiên trì phương hướng, mục tiêu đổi mới đã được xác định, đẩy mạnh công cuộc đổi mới, không thể chậm trễ và do dự, nhưng phải có những bước đi, hình thức và cách làm phù hợp với hoàn cảnh thực tế; vừa khẩn trương, vừa vững chắc, không để cho khuynh hướng bảo thủ hoặc nóng vội chi phối. Trong quá trình thực hiện đổi mới, bên cạnh những kết quả tích cực, không tránh khỏi những thiếu sót, vấp váp và những khó khăn phức tạp mới xuất hiện. Phải tỉnh táo theo dõi, kịp thời phát huy những nhân tố tích cực, uốn nắn những lệch lạc, sửa chữa những sai lầm và giải quyết những vấn đề mới nảy sinh, không vì những khó khăn tạm thời mà hoang mang, dao động, đi chệch con đường đổi mới.

Thứ tư, công cuộc đổi mới đòi hỏi mỗi cá nhân, mỗi đơn vị phải dám từ bỏ những quan điểm sai trái, những lợi ích cục bộ, bản vị, giải quyết đúng đắn mối quan hệ giữa các lợi ích, tôn trọng và phục tùng nguyên tắc và lợi ích chung. Mọi thái độ bảo thủ hoặc cực đoan, lệch lạc trong quá trình đổi mới đều cần phải được phê phán và khắc phục. Phải đấu tranh kịp thời với những hành động gây rối, phá hoại công cuộc đổi mới của những kẻ xấu, thù địch. Song đối với những quan điểm và việc làm sai trái của cán bộ và quần chúng, chúng ta phải phân biệt cụ thể từng trường hợp, tránh buông lỏng hoặc quy kết vội vàng, chỉ có như vậy mới tập hợp và động viên được đông đảo quần chúng thực hiện thắng lợi công cuộc đổi mới.

*

*       *

Hội nghị lần thứ sáu Ban Chấp hành Trung ương Đảng là một trong những Hội nghị quan trọng nhất từ sau Đại hội VI đến nay. Hội nghị đã đánh giá toàn diện và đúng đắn thực trạng tình hình đất nước, vạch ra những nguyên nhân khách quan và chủ quan, xác định những nhiệm vụ và giải pháp chủ yếu cho ba năm tới, phát triển, bổ sung và cụ thể hoá Nghị quyết Đại hội VI của Đảng. Đó là cơ sở quan trọng để thống nhất tư tưởng và thống nhất hành động, củng cố sự đoàn kết nhất trí trong Đảng và trong nhân dân, tạo ra phong trào hành động cách mạng sôi nổi, liên tục, nhằm thực hiện thắng lợi những mục tiêu do Đại hội VI đề ra. Các cấp uỷ đảng cần có chương trình cụ thể tổ chức quán triệt và thực hiện tốt nghị quyết này trong toàn Đảng và trong nhân dân.

Hội nghị lần thứ sáu Ban Chấp hành Trung ương Đảng (Khoá VI) tin tưởng rằng, với những kinh nghiệm đã tích luỹ được trong hơn hai năm qua, với quyết tâm và niềm tin mới do thực tiễn mang lại, với truyền thống đoàn kết nhất trí của toàn Đảng, toàn dân ta, chúng ta nhất định sẽ vượt qua được khó khăn, tạo ra một bước ngoặt quan trọng, tiếp tục đưa sự nghiệp đổi mới tiến lên giành những thắng lợi mới.

T/M BAN CHẤP HÀNH TRUNG ƯƠNG

Tổng Bí thư

Nguyễn Văn Linh

Phản hồi

Thông tin người gửi phản hồi

Các tin khác

Hướng dẫn kiểm tra, giám sát phục vụ đại hội đảng bộ các cấp tiến tới Đại hội XIV của Đảng

(ĐCSVN) - Tại văn bản số 08-HD/UBKTTW ngày 18/11/2024, Ủy ban Kiểm tra Trung ương hướng dẫn công tác kiểm tra, giám sát phục vụ đại hội đảng bộ các cấp tiến tới Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIV của Đảng.

Phương án nghiên cứu sắp xếp, sáp nhập các bộ, cơ quan thuộc Chính phủ

(ĐCSVN) - Theo phương án nghiên cứu sắp xếp, sáp nhập được Trưởng Ban Tổ chức Trung ương Lê Minh Hưng nêu tại Hội nghị toàn quốc sáng 1/12, sẽ tối thiểu giảm được 5 bộ, 2 cơ quan trực thuộc Chính phủ.

Phương án sáp nhập các ủy ban của Quốc hội và cơ quan thuộc Ủy ban Thường vụ Quốc hội

(ĐCSVN) - Sáng 1/12, Trưởng Ban Tổ chức Trung ương Lê Minh Hưng thông báo chuyên đề về các nội dung chính, trọng tâm việc triển khai tổng kết Nghị quyết 18. Theo phương án định hướng được nêu sẽ giảm 4 ủy ban của Quốc hội và 1 cơ quan trực thuộc Ủy ban Thường vụ Quốc hội.

Phương án giảm 4 cơ quan Đảng, 25 ban cán sự đảng, 16 đảng đoàn trực thuộc Trung ương

(ĐCSVN) - Sáng 1/12, đồng chí Lê Minh Hưng, Uỷ viên Bộ Chính trị, Bí thư Trung ương Đảng, Trưởng ban Tổ chức Trung ương đã trình bày các nội dung chính, trọng tâm việc triển khai tổng kết Nghị quyết 18-NQ/TW của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XII.

Quy trình kỷ luật đảng viên thuộc thẩm quyền của Trung ương Đảng, Bộ Chính trị, Ban Bí thư

(ĐCSVN) - Thay mặt Bộ Chính trị, Thường trực Ban Bí thư Lương Cường vừa ký Quyết định số 165-QĐ/TW ngày 6/6/2024 của Bộ Chính trị ban hành Quy trình xem xét, thi hành kỷ luật đối với tổ chức Đảng, đảng viên thuộc thẩm quyền của Ban Chấp hành Trung ương Đảng, Bộ Chính trị, Ban Bí thư.

Liên kết website