Nghị quyết số 07-NQ/TW ngày 24/8/1989, Hội nghị lần thứ bảy Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa VI) một số vấn đề cấp bách về công tác tư tưởng trước tình hình trong nước và quốc tế hiện nay

 

Nghị quyết 
Hội nghị lần thứ bảy
Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khoá VI)
Số 07-NQ/TW, ngày 24 tháng 8 năm 1989

Một số vấn đề cấp bách về công tác tư tưởng trước tình hình trong nước và quốc tế hiện nay

Những diễn biến lớn trên thế giới và trong công cuộc đổi mới của nước ta đã tác động nhiều đến tư tưởng trong Đảng và nhân dân. Trước tình hình trên, Hội nghị lần thứ bảy Ban Chấp hành Trung ương (Khoá VI) đã đề ra một số nhiệm vụ công tác tư tưởng, nhằm tăng cường sự thống nhất ý chí, hành động trong Đảng và nhân dân, đẩy mạnh sự nghiệp đổi mới.

1. Sự nghiệp đổi mới của nhân dân ta là sự tiếp tục phát huy thành quả và truyền thống cách mạng, sửa chữa những sai lầm, khuyết điểm trong lãnh đạo và quản lý, xây dựng và đưa các chính sách đổi mới vào cuộc sống để đạt được những thành tựu to lớn và vững chắc hơn trong việc thực hiện nhiệm vụ xây dựng chủ nghĩa xã hội, bảo vệ Tổ quốc.

Toàn Đảng và toàn dân ta đã thu được những kết quả bước đầu quan trọng trong việc thực hiện Nghị quyết Đại hội toàn quốc lần thứ VI của Đảng. Từ sau Hội nghị Trung ương 6 đến nay, những kết quả đó được tiếp tục phát huy: nông sản hàng hoá, nhất là lương thực có khá hơn, lần đầu tiên sau nhiều năm, chúng ta đã tăng được mức dự trữ và xuất khẩu lương thực; hàng tiêu dùng nói chung đáp ứng được nhu cầu hiện nay của nhân dân, việc mua bán của nhân dân thuận tiện hơn; giá cả ổn định, giá trị đồng tiền được nâng lên, nhịp độ lạm phát được chặn lại một bước; cơ chế quản lý đang đổi mới, từng bước chuyển sang hạch toán kinh doanh. Thực hiện Luật đầu tư, một số hợp đồng đã được ký kết. Việc rút hết quân tình nguyện Việt Nam ra khỏi Campuchia cuối tháng 9-1989 trong thế chủ động, thế mạnh cả phía ta và phía bạn là thắng lợi lớn có ý nghĩa về nhiều mặt. Việc mở rộng dân chủ trong Đảng và trong các lĩnh vực kinh tế, chính trị, tư tưởng, văn hoá tiếp tục phát triển.

Nhưng tình hình kinh tế - xã hội còn nhiều khó khăn gay gắt. Ngoài những khó khăn mà Nghị quyết Trung ương 6 (Khoá VI) đã nêu ra, gần đây xuất hiện những khó khăn mới: sản xuất ở nhiều cơ sở công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp đình đốn, số người không có việc làm tăng lên, giá một số nông sản xuống thấp không lợi cho nông dân, hàng nước ngoài tràn vào quá nhiều, hàng sản xuất trong nước ứ đọng, tiêu thụ khó khăn, những tệ nạn xã hội tiếp tục phát triển… Lực lượng phản động bên ngoài cũng như trong nước tăng cường hoạt động phá ta về chính trị, kinh tế, văn hoá, tư tưởng. Một số ít người bất mãn tiến hành những hoạt động sai trái.

Trên thế giới, cuộc đấu tranh cho hoà bình, ngăn ngừa chiến tranh hạt nhân do Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa đề xướng ngày càng tập hợp được đông đảo nhân dân thế giới chống bọn đế quốc hiếu chiến đứng đầu là đế quốc Mỹ. Phong trào bảo vệ độc lập dân tộc và giải phóng dân tộc tiếp tục phát triển. Cuộc đấu tranh chống áp bức bóc lột của giai cấp công nhân và nhân dân lao động trong các nước tư bản chủ nghĩa vẫn tiếp diễn. Sự kiện nổi lên hiện nay là tình hình cải tổ, cải cách, đổi mới ở nhiều nước xã hội chủ nghĩa và những âm mưu, hành động của chủ nghĩa đế quốc chống phá chủ nghĩa xã hội.

Công cuộc cải tổ, cải cách, đổi mới ở một số nước xã hội chủ nghĩa đã thu được một số thành tựu, nhưng một số nước gặp khó khăn gay gắt, có nước chủ nghĩa xã hội đang đứng trước thử thách lớn.

Tình hình khó khăn của một số nước xã hội chủ nghĩa có những nguyên nhân khách quan và chủ quan, và mỗi nước lại có những nguyên nhân riêng. ở đây cần chú ý xem xét một số quan điểm về cải tổ, cải cách của đảng này hoặc đảng khác:

Một là, thực hiện chủ nghĩa đa nguyên về chính trị, để cho lực lượng chống chủ nghĩa xã hội ra đời và hoạt động, không dùng những biện pháp chuyên chính cần thiết để chống lại chúng;

Hai là, dân chủ hoá không giới hạn, để cho những phần tử cơ hội, hữu khuynh, cực đoan và kẻ địch lợi dụng gây ra sự mất ổn định về chính trị;

Ba là, vừa không coi trọng việc củng cố, nâng cao chất lượng và cải tiến sự lãnh đạo của Đảng, vừa hạ thấp vai trò lãnh đạo của Đảng, buông lỏng nguyên tắc tập trung dân chủ, làm suy yếu nghiêm trọng uy tín và sức chiến đấu của Đảng;

Bốn là, không lãnh đạo chặt chẽ các phương tiện thông tin đại chúng, để cho báo, đài tuỳ tiện thông tin và phát biểu những quan điểm sai trái, tạo ra sự hỗn loạn về tư tưởng;

Năm là, trong việc xem xét các vấn đề lịch sử, có khuynh hướng phủ nhận những thành tựu vĩ đại của chủ nghĩa xã hội đã đạt được, làm cho quần chúng mất phương hướng, mất lòng tin vào những giá trị của chủ nghĩa xã hội;

Sáu là, đặt quá nhiều hy vọng vào việc mở cửa với phương Tây, không ngăn chặn, đấu tranh với âm mưu, thủ đoạn phá hoại của bọn đế quốc, trước hết là trên lĩnh vực tư tưởng văn hoá trong quá trình mở cửa.

Lợi dụng tình hình khó khăn trên đây ở một số nước xã hội chủ nghĩa, chủ nghĩa đế quốc, đứng đầu là Mỹ, mở cuộc phản kích quyết liệt vào chủ nghĩa xã hội bằng những thủ đoạn rất xảo quyệt: răn đe về quân sự; cổ vũ chủ nghĩa đa nguyên chính trị; dùng kinh tế khuyến khích việc cải cách theo hướng phát triển kinh tế tư nhân, thị trường tự do tư bản chủ nghĩa; tăng cường hoạt động gián điệp; gieo rắc tư tưởng, văn hoá tư sản độc hại vào các nước xã hội chủ nghĩa. Chúng ra sức tuyên truyền luận điểm nói rằng chủ nghĩa xã hội đã thất bại và tan rã, đang đi nhanh vào con đường diệt vong. Chúng giương cao ngọn cờ dân chủ và nhân quyền tư sản giả dối, ngọn cờ kinh tế thị trường tự do tư bản, hòng lôi kéo nhân dân các nước xã hội chủ nghĩa đi theo con đường tư bản chủ nghĩa. Chúng đang hí hửng trước một số kết quả mà chúng đã đạt được.

Đối với nước ta, ngoài các thủ đoạn trên, các lực lượng phản động bên ngoài còn tập trung đả kích, xuyên tạc Đảng ta không mạnh dạn cải cách thể chế chính trị, hạn chế dân chủ, hạn chế tự do báo chí, tự do sáng tác, phê bình; chúng phổ biến rộng rãi ở nước ngoài và lén lút đưa vào trong nước những bài báo, cuốn sách có nội dung xấu, kích động biểu tình và bãi công, đòi tự do hoá tư sản, đòi xét lại vụ án "Nhân văn giai phẩm", đề cao và tìm cách tác động những người chúng cho là có khuynh hướng tự do, chống đối lãnh đạo…

2. Tình hình trong nước và quốc tế nói trên tác động nhiều đến tư tưởng của cán bộ, đảng viên và nhân dân ta. ở đây không phân tích tình hình tư tưởng một cách toàn diện, chỉ đề cập một số nét chủ yếu:

Đại bộ phận cán bộ, đảng viên và nhân dân ta ủng hộ sự nghiệp đổi mới do Đảng ta đề xướng và đang phấn đấu đưa các chính sách đổi mới vào cuộc sống; vui mừng trước những thành tựu đã đạt được; lòng tin vào sự lãnh đạo của Đảng, sự quản lý, điều hành của Nhà nước được nâng lên. Đồng thời, có nhiều lo lắng trước những khó khăn về kinh tế, xã hội: thiếu công ăn việc làm, sản xuất của một số cơ sở công nghiệp đình đốn, giá một số nông sản xuống thấp; trật tự trị an không bảo đảm và các tệ nạn xã hội phát triển; những hiện tượng tiêu cực như lợi dụng chức quyền tham ô, ức hiếp quần chúng, vi phạm quyền làm chủ của nhân dân, phân phối không công bằng chưa được ngăn chặn có hiệu quả… Một số người ít được thông tin chỉ nhìn thấy mặt khó khăn, nên bi quan, lòng tin giảm sút. Chúng ta phải hết sức quan tâm đến tâm trạng nói trên trong quá trình tiến hành công tác tư tưởng, đồng thời tích cực giải quyết những vấn đề đang đặt ra bằng những biện pháp có hiệu quả; nếu không tâm trạng đó sẽ là miếng đất tốt cho những phần tử xấu, kẻ địch lợi dụng gây nên những diễn biến phức tạp về an ninh chính trị, về trật tự an toàn xã hội.

Số đông cán bộ, đảng viên, nhân dân nhận rõ cải tổ, cải cách, đổi mới ở các nước xã hội chủ nghĩa là tất yếu và cần thiết, nhưng đứng trước những khó khăn, khủng hoảng của một số nước xã hội chủ nghĩa thì rất lo lắng. Có một số ít người, không phân tích được tính chất những khó khăn của chủ nghĩa xã hội, hoặc chịu ảnh hưởng của tuyên truyền tư sản, nên hoài nghi, giảm sút lòng tin vào chủ nghĩa xã hội. Nhiều người quan tâm theo dõi tình hình, thu thập thông tin về cải tổ, cải cách của các nước anh em với tinh thần phê phán, có chọn lọc, nhưng có một số ít người thiếu tinh thần độc lập, hoặc lập trường thiếu vững vàng, tiếp nhận thông tin một cách giáo điều, nhất là trên các vấn đề dân chủ và công khai, cải cách hệ thống chính trị, chủ nghĩa đa nguyên, xem xét lại các vấn đề lịch sử; có người tìm cách phổ biến các thông tin không phù hợp với quan điểm của Đảng trên các phương tiện thông tin đại chúng.

Nhân dân ta trải qua nhiều thập kỷ liên tục chống các tên đế quốc xâm lược để giành độc lập nên đã hiểu thế nào là bản chất bóc lột, xâm lược và tội ác của chủ nghĩa đế quốc. Nhưng những năm gần đây do nhiều nguyên nhân, trong đó có khuyết điểm về công tác tư tưởng, có một số người không vững vàng về quan điểm giai cấp, có những nhận thức mơ hồ về chủ nghĩa tư bản, bị choáng ngợp trước sự phát triển kinh tế và khoa học kỹ thuật của một số nước tư bản, không thấy bản chất của chúng, không thấy những mâu thuẫn sâu sắc không thể khắc phục được nhất định sẽ đưa chủ nghĩa tư bản đến con đường diệt vong. Nhìn tình hình thế giới có người chỉ thấy xu thế đối thoại hoà hoãn, coi đó là cái bao trùm của thế giới, không thấy cuộc đấu tranh giai cấp giữa các trào lưu cách mạng với chủ nghĩa đế quốc đang và còn diễn ra gay gắt. Đứng trước âm mưu và hành động phá hoại của kẻ thù, có những biểu hiện mơ hồ, mất cảnh giác; trong khi mở rộng quan hệ kinh tế, văn hoá, khoa học kỹ thuật với các nước ngoài, có người chỉ thấy lợi ích kinh tế, nhất là lợi ích cá nhân, cục bộ, địa phương, không thấy lợi ích an ninh của quốc gia, không quản lý chặt chẽ để cho văn hoá xấu xâm nhập tràn lan, hàng nước ngoài nhập lậu vào ồ ạt, không chú ý giáo dục, quản lý để cho một số cán bộ sa ngã, biến chất...

Trong quá trình mở rộng dân chủ, khuynh hướng dân chủ tư sản, dân chủ cực đoan, hành động vô chính phủ, lợi dụng dân chủ để hoạt động vô nguyên tắc, bất chấp kỷ cương của Đảng và pháp luật của Nhà nước có chiều phát triển. Có người cho rằng muốn có dân chủ cần chấp nhận đa nguyên, đa đảng, cho Đảng ta ra nghị quyết không chấp nhận chủ nghĩa đa nguyên là vội vàng, nói dân chủ phải dưới sự lãnh đạo của Đảng là hạn chế dân chủ, đòi cho ra báo tư nhân, đòi báo chí phải độc lập với Đảng; trước việc uốn nắn những lệch lạc về dân chủ, thì cho rằng dân chủ mới mở ra đã đóng lại. Trong văn hoá văn nghệ, một số ít người có tư tưởng phủ nhận thành tựu văn nghệ cách mạng, hạ thấp hoặc phủ nhận vai trò lãnh đạo của Đảng, miêu tả hiện thực quá đen tối, gây tâm trạng bi quan, hoài nghi.

Trong thực hiện chính sách kinh tế nhiều thành phần, trước những yếu kém và khó khăn của kinh tế quốc doanh trong quá trình đổi mới, một số ít người thiếu quyết tâm và kiên trì trong việc tìm kiếm những hình thức, phương pháp để củng cố và phát huy vai trò chủ đạo của kinh tế quốc doanh, có khuynh hướng coi nhẹ vai trò của kinh tế quốc doanh, muốn tư nhân hoá quốc doanh. Việc đổi mới cơ chế quản lý các hợp tác xã đã đem lại nhiều kết quả rất quan trọng, nhưng ở một số nơi đã có biểu hiện coi nhẹ việc tăng cường một số khâu mà hợp tác xã cần đảm nhận để tạo điều kiện cho hộ xã viên sản xuất, kinh doanh tốt, dẫn đến khoán trắng. Việc khuyến khích tư nhân đầu tư phát triển sản xuất đã góp phần làm cho hoạt động kinh tế khởi sắc, sống động, bước đầu khai thác được nhiều tiềm năng, nhưng có nơi còn lúng túng hoặc thiếu ý thức hướng dẫn, kiểm soát để cho kinh tế tư nhân phát triển tự phát, nhất là lĩnh vực buôn bán, ăn uống, dịch vụ, không kiên quyết đấu tranh với những hoạt động phi pháp của họ. Trong hoạt động kinh tế đối ngoại, có tình trạng thiếu tinh thần hợp tác, mạnh ai nấy làm, tranh mua, tranh bán, chưa coi trọng nhập vật tư, thiết bị nhằm mở rộng sản xuất, nghĩ đến lợi ích cục bộ hơn lợi ích chung cả nước.

3. Hội nghị Trung ương 6 (Khoá VI) đã chỉ ra những ưu điểm và khuyết điểm trong công tác lãnh đạo tư tưởng, văn hoá. Thời gian gần đây, các cấp uỷ đảng, lãnh đạo các ngành, các đoàn thể, các cơ quan làm công tác tư tưởng, văn hoá đã coi trọng hơn việc quán triệt quan điểm, chính sách của Đảng và Nhà nước, đi sát thực tế hơn, phát hiện những nhân tố tích cực, giúp đỡ các cơ sở khắc phục khó khăn. Khi có Kết luận số 20 của Bộ Chính trị về công tác tư tưởng và Nghị quyết Trung ương 6, một số cấp uỷ đã coi trọng hơn việc lãnh đạo, quản lý công tác tư tưởng, văn hoá; uốn nắn những nhận thức không đúng và những biểu hiện động dao về con đường xã hội chủ nghĩa. ở đây cần nhấn mạnh và nêu thêm một số khuyết điểm:

- Chưa nhận thức rõ tầm quan trọng của cuộc đấu tranh tư tưởng trước tình hình trong nước và quốc tế hiện nay; chưa thấy rõ một yêu cầu hết sức quan trọng của công tác tư tưởng hiện nay là tăng cường sự thống nhất về quan điểm, tăng cường trận địa tư tưởng xã hội chủ nghĩa, kịp thời đấu tranh khắc phục những quan điểm lệch lạc, góp phần giữ vững sự ổn định về chính trị để đẩy mạnh sự nghiệp đổi mới.

- Coi nhẹ cuộc đấu tranh chống lại các thế lực thù địch, cuộc đấu tranh giai cấp, đấu tranh giữa hai con đường xã hội chủ nghĩa và tư bản chủ nghĩa theo quan niệm đúng đắn thích hợp với điều kiện mới. Báo, đài đấu tranh không kịp thời, quyết liệt và sắc sảo đối với những luận điệu chống chủ nghĩa xã hội, vạch trần bản chất bóc lột và xâm lược của chủ nghĩa đế quốc.

- Coi nhẹ lãnh đạo và quản lý lỏng lẻo, để cho văn hoá phẩm xấu, phản động lan tràn, để cho một số báo, đài đăng và phát những bài có quan điểm lệch lạc, hoặc những bài, tin tức về cải tổ, cải cách trái với quan điểm của Đảng; một số cấp uỷ, đoàn thể buông lỏng việc lãnh đạo cơ quan báo chí, xuất bản thuộc chức năng và thẩm quyền của mình.

- Nhiều tổ chức đảng, nhiều cán bộ lãnh đạo, đảng viên, buông lỏng công tác tư tưởng, thiếu tinh thần chiến đấu chống lại những tư tưởng, quan điểm lệch lạc, những hành động và lời nói sai trái, thiếu ý thức, hằng ngày hằng giờ tăng cường trận địa tư tưởng xã hội chủ nghĩa.

II

Căn cứ vào những diễn biến của tình hình trong nước và quốc tế, tình hình tư tưởng và công tác lãnh đạo tư tưởng trên đây, trong thời gian tới, công tác tư tưởng cần được tiến hành toàn diện và tập trung vào những nhiệm vụ và nội dung quan trọng sau đây:

1. Khẳng định tính tất yếu lịch sử của chủ nghĩa xã hội và những thành tựu vĩ đại của hệ thống xã hội chủ nghĩa thế giới

Sự ra đời, lớn mạnh của Liên Xô và sự hình thành hệ thống xã hội chủ nghĩa là sự kiện cách mạng xã hội trọng đại nhất của thế kỷ XX. Đó là một tất yếu lịch sử, thể hiện quy luật phát triển khách quan của xã hội loài người, quy luật chủ nghĩa xã hội thay thế chủ nghĩa tư bản. Trong quá trình hình thành và phát triển, chủ nghĩa xã hội cũng như các chế độ khác mới ra đời trước đây, đã trải qua con đường không bằng phẳng, thênh thang, mà gập gềnh, khúc khuỷu; có thuận lợi và khó khăn, thành công và vấp váp; các nước xã hội chủ nghĩa có những chính sách, giải pháp đúng đắn, nhưng cũng có không ít sai lầm, kể cả những sai lầm gây ra những tổn thất rất lớn. Nhưng tất cả những cái đó không làm phai mờ được hiện thực vĩ đại là sự ra đời của Liên Xô, sự hình thành của hệ thống xã hội chủ nghĩa, với vai trò lịch sử của nó, đã làm thay đổi sâu sắc bộ mặt hành tinh chúng ta. Nếu không có Cách mạng Tháng Mười và Liên Xô, lực lượng chủ yếu tiêu diệt chủ nghĩa phát xít và chủ nghĩa quân phiệt; nếu không có sự tan rã của hệ thống thuộc địa của chủ nghĩa đế quốc, trong đó có sự tác động lớn lao của các nước xã hội chủ nghĩa và có phần của Việt Nam; nếu không có Liên Xô với nỗ lực rất lớn thực hiện được sự cân bằng chiến lược quân sự với đế quốc Mỹ và cùng với các nước xã hội chủ nghĩa, lực lượng nòng cốt trong phong trào đấu tranh bảo vệ hoà bình, ngăn chặn chủ nghĩa đế quốc gây ra chiến tranh hạt nhân, thì các dân tộc trên trái đất này sẽ sống ra sao? Trong lĩnh vực kinh tế và khoa học - kỹ thuật, các nước xã hội chủ nghĩa còn có một số mặt thua kém so với một số nước tư bản phát triển, nhưng so với toàn bộ hệ thống tư bản chủ nghĩa gồm hơn trăm nước, có những nước đã được xây dựng trải qua mấy trăm năm, thì sự phát triển của hệ thống xã hội chủ nghĩa là sự thay đổi về chất cả về tốc độ và trình độ. Từ nước Nga lạc hậu, chỉ trong vòng hai mươi năm, Liên Xô đã trở thành một nước công nghiệp hùng cường đủ sức đánh bại chủ nghĩa phát xít. Những năm 50-60, tư tưởng xã hội chủ nghĩa đã tạo được sức hút mãnh liệt đối với nhân dân các dân tộc trên thế giới. Những năm 70, nhiều nước sau khi được giải phóng, thoát khỏi ách thống trị của chủ nghĩa đế quốc, đã lựa chọn con đường phát triển không tư bản chủ nghĩa. Tính ưu việt của chủ nghĩa xã hội so với chủ nghĩa tư bản không chỉ có trong lý thuyết mà được thể hiện trong cuộc sống. Cuộc khủng hoảng về nhiều mặt hiện nay ở một số nước xã hội chủ nghĩa là nghiêm trọng. Song đó không phải là khủng hoảng nảy sinh từ bản chất của chủ nghĩa xã hội. Sự rêu rao của bọn đế quốc về sự phá sản của chủ nghĩa cộng sản là hoàn toàn không có căn cứ. Những khó khăn mà chủ nghĩa xã hội đã và đang phải vượt qua là khó khăn trong quá trình phát triển, trong sự tìm kiếm những hình thức, phương pháp xây dựng một xã hội mới chưa từng có trong lịch sử, trong cuộc đấu tranh một mất một còn đối với những âm mưu và hành động thâm độc của chủ nghĩa đế quốc. Những người cộng sản không vì những điều đó mà động dao trước con đường đúng đắn đã lựa chọn. Các nước xã hội chủ nghĩa nhất định sẽ khắc phục được khó khăn, phát triển lên trình độ cao với chất lượng mới. Chúng ta tin rằng các dân tộc bị áp bức và bóc lột đang đấu tranh chống chủ nghĩa tư bản, sớm hay muộn sẽ đi theo con đường xã hội chủ nghĩa. Chỉ có chủ nghĩa xã hội mới tránh được nguy cơ chiến tranh huỷ diệt, nhân loại mới bảo tồn được cuộc sống, các dân tộc bị áp bức, lệ thuộc mới được giải phóng khỏi ách thống trị của chủ nghĩa đế quốc, giai cấp công nhân, nhân dân lao động mới trở thành người làm chủ xã hội.

2. Khẳng định tính tất yếu khách quan và phương hướng xã hội chủ nghĩa của quá trình cải tổ, cải cách, đổi mới

Trong quá trình xây dựng và phát triển, các nước xã hội chủ nghĩa đã đạt được những thành tựu to lớn trên nhiều lĩnh vực của đời sống xã hội, nhưng những năm gần đây, như trên đã nói, ở một số nước xã hội chủ nghĩa xuất hiện nhiều khó khăn, trì trệ. Có nhiều nguyên nhân, trong đó có nguyên nhân: nhiều quan niệm về chủ nghĩa xã hội chưa được xác định đúng, có những nhận thức lệch lạc, ấu trĩ, nhiều chủ trương, chính sách không kịp thay đổi cho phù hợp với tình hình mới, hoặc có sai lầm nghiêm trọng. Cải tổ, cải cách, đổi mới đối với các nước đó là một tất yếu khách quan, một quá trình có tính cách mạng nhằm nhận thức cho đúng và bổ sung những nhận thức mới về chủ nghĩa xã hội, khắc phục những sai lầm và khuyết điểm, đề ra những giải pháp đúng để đưa chủ nghĩa xã hội phát triển lên một giai đoạn mới. Điều kiện quyết định bảo đảm cho thắng lợi của sự nghiệp cải tổ, cải cách, đổi mới là những người cộng sản nắm vững bản chất cách mạng và khoa học của chủ nghĩa Mác - Lênin, kết hợp đúng đắn những nguyên lý phổ biến của chủ nghĩa Mác - Lênin vào điều kiện cụ thể của mỗi nước, tìm ra những hình thức, phương pháp và bước đi thích hợp để thực hiện những mục tiêu xã hội chủ nghĩa. Vận dụng nguyên lý một cách máy móc, thiếu sáng tạo, áp dụng rập khuôn kinh nghiệm nước ngoài, hoặc "sáng tạo" đi tới xa rời những nguyên lý của chủ nghĩa Mác - Lênin đều là những khuynh hướng sai lầm, đưa đến những tác hại rất lớn cho sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội, cho sự nghiệp cải tổ, cải cách, đổi mới.

3. Nhận rõ bản chất và con đường diệt vong tất yếu của chủ nghĩa tư bản, nâng cao cảnh giác cách mạng, đấu tranh chống chủ nghĩa đế quốc và các thế lực phản động quốc tế

Sự ra đời và phát triển của chủ nghĩa tư bản là bước tiến lớn của lịch sử loài người; song chế độ tư bản chủ nghĩa là chế độ tồn tại dựa vào sự bóc lột và áp bức giai cấp công nhân và nhân dân lao động. Lịch sử phát triển của chủ nghĩa tư bản là lịch sử chồng chất những tội ác của chúng đối với nhân loại. Chủ nghĩa tư bản hiện đại đã tìm cách thích nghi nhất định với những điều kiện mới, lợi dụng được những thành tựu của khoa học, kỹ thuật tiến bộ, tiếp tục phát triển sản xuất, nhằm kéo dài cuộc sống của nó; nhưng điều đó không làm mất đi bản chất bóc lột, xâm lược và thối nát của chủ nghĩa tư bản cùng những mâu thuẫn nội tại của chúng. Trong điều kiện hiện nay, các mâu thuẫn giữa chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa tư bản, mâu thuẫn giữa chủ nghĩa đế quốc thực dân và các dân tộc, mâu thuẫn giữa giai cấp tư sản với giai cấp công nhân và nhân dân lao động trong các nước tư bản chủ nghĩa, mâu thuẫn giữa các nước đế quốc với nhau không mất đi, trái lại vẫn tiếp tục phát triển. Cuộc đấu tranh từ các mâu thuẫn đó tất yếu dẫn đến sự diệt vong của chủ nghĩa tư bản. Luận điểm của Lênin: chủ nghĩa đế quốc là giai đoạn cuối cùng, giai đoạn giãy chết (nói cho đúng hơn là đang đi dần vào cõi chết không tránh khỏi) của chủ nghĩa tư bản vẫn đúng. Nhưng chúng ta không nên hiểu điều đó một cách giản đơn, thô thiển. Phải hiểu đó là cái chết của một hình thái kinh tế - xã hội, kéo dài hàng trăm năm, chết từng phần, chết từng bước, bắt đầu từ thắng lợi của cuộc Cách mạng Tháng Mười Nga vĩ đại.

Trong tình hình thế giới hiện nay, đấu tranh bảo vệ hoà bình, bảo vệ môi trường sống và đấu tranh cách mạng gắn bó mật thiết với nhau; đấu tranh và hợp tác trong cùng tồn tại hoà bình là cuộc đấu tranh giai cấp gay gắt giữa hai hệ thống xã hội chủ nghĩa và tư bản chủ nghĩa bằng những hình thức và phương pháp mới, trong đó có hình thức đối ngoại. Các nước xã hội chủ nghĩa dùng hình thức đối ngoại với các nước tư bản chủ nghĩa để ngăn ngừa chiến tranh hạt nhân, bảo vệ hoà bình thế giới là cần thiết. Xu thế đối thoại tăng lên những năm gần đây là điều tốt, nhưng không thể từ đó đi tới kết luận là thế giới đã chuyển từ đối đầu sang đối thoại, làm lu mờ bản chất đấu tranh giai cấp trên thế giới.

Chủ nghĩa đế quốc chưa bao giờ từ bỏ mục tiêu của chúng là xoá bỏ chủ nghĩa xã hội và xoá bỏ các phong trào cách mạng. Chúng chỉ điều chỉnh sách lược và phương pháp thực hiện mục tiêu đó mà thôi.

Những người cộng sản không xem xét phiến diện mặt phát triển của chủ nghĩa tư bản, không mất cảnh giác trước các âm mưu, thủ đoạn thâm độc của bọn đế quốc, không mơ hồ trước những khẩu hiệu giả dối về nhân quyền, về dân chủ tự do của giai cấp tư sản. Chúng không có chút tư cách gì để nói về nhân quyền. Lịch sử đầy tội ác của chủ nghĩa tư bản, hai cuộc chiến tranh thế giới do chúng gây ra làm chết và bị thương hàng trăm triệu người, những cuộc chiến tranh xâm lược của chủ nghĩa đế quốc đem lại biết bao đau khổ cho hàng nghìn triệu người ở các nước thuộc địa, những cuộc chúng đàn áp khủng bố dã man những người lao động ở các nước đế quốc, đó là bằng chứng hùng hồn nhất đập tan cái gọi là nhân quyền của chủ nghĩa đế quốc. Nhân dân Việt Nam hiểu rất rõ cái gọi là nhân quyền của đế quốc Mỹ khi chúng xâm lược Việt Nam, trút xuống đất nước ta một khối lượng bom đạn nhiều hơn khối lượng bom đạn trong Chiến tranh thế giới thứ hai.

4. Giáo dục trong Đảng và trong nhân dân kiên trì mục tiêu, lý tưởng xã hội chủ nghĩa, trên cơ sở quán triệt năm nguyên tắc và những chính sách đổi mới của Đảng

Khi nêu năm nguyên tắc đổi mới, Nghị quyết Trung ương 6 khẳng định: "Đi lên chủ nghĩa xã hội là con đường tất yếu của nước ta, là sự lựa chọn sáng suốt của Bác Hồ, của Đảng ta. Xây dựng nước Việt Nam xã hội chủ nghĩa là mục tiêu, là lý tưởng của Đảng và nhân dân ta. Đổi mới không phải là thay đổi mục tiêu xã hội chủ nghĩa mà làm cho mục tiêu ấy được thực hiện có hiệu quả bằng những quan niệm đúng đắn về chủ nghĩa xã hội, những hình thức, bước đi và biện pháp thích hợp". Cần khắc phục nhận thức lệch lạc cho rằng nước ta chưa có đủ điều kiện để xây dựng chế độ xã hội chủ nghĩa nên hãy dừng lại ở trình độ dân chủ nhân dân; coi những khuyết điểm, sai lầm trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội như là những khuyết tật của bản thân chế độ, từ đó cho rằng chủ nghĩa tư bản tốt hơn chủ nghĩa xã hội và động dao về mục tiêu và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội.

Căn cứ vào tình hình hiện nay, Hội nghị Trung ương 7 nhấn mạnh một số điểm sau đây về năm nguyên tắc và các chính sách đổi mới, khẳng định mục tiêu xã hội chủ nghĩa của chúng ta:

- Để đạt được mục tiêu xã hội chủ nghĩa, về lâu dài, chúng ta phải làm cho quan hệ sở hữu xã hội chủ nghĩa chiếm ưu thế tuyệt đối trong nền kinh tế quốc dân. Trong thời gian dài, Đảng ta chủ trương "thực hiện nhất quán chính sách cơ cấu kinh tế nhiều thành phần, giải phóng mọi năng lực sản xuất", tức là không chủ trương vội vã cải tạo các thành phần kinh tế tư nhân chuyển thành kinh tế hợp tác xã hoặc kinh tế quốc doanh. Nhưng không thể từ đó mà coi nhẹ việc củng cố và phát triển cơ sở kinh tế quốc doanh và kinh tế hợp tác. Cần tập trung sức xây dựng các cơ sở kinh tế quốc doanh chiếm các vị trí then chốt trong nền kinh tế và phát huy được vai trò chủ đạo của kinh tế quốc doanh. Các hợp tác xã phải được củng cố và phát triển trong các ngành, nghề với hình thức và quy mô thích hợp. Khuynh hướng muốn tư nhân hoá hàng loạt cơ sở kinh tế quốc doanh, thực hiện khoán trắng ở hợp tác xã là sai lầm. Thừa nhận kinh tế tư nhân cần thiết lâu dài đối với nền kinh tế quốc dân, khuyến khích mọi người đầu tư sản xuất, kinh doanh trong những ngành nghề có lợi cho quốc kế dân sinh, nhưng phải bảo đảm sự hướng dẫn và kiểm soát của Nhà nước, hướng kinh tế tư nhân phát triển trong quỹ đạo xã hội chủ nghĩa và theo pháp luật, không để cho kinh tế tư nhân phát triển tự phát không đúng hướng cùng với những hoạt động phi pháp của họ.

Theo quan điểm phát triển nền kinh tế hàng hoá có kế hoạch, gồm nhiều thành phần đi lên chủ nghĩa xã hội; cần đổi mới nội dung và phương pháp kế hoạch hoá, sử dụng đúng đắn quan hệ hàng hoá, tiền tệ, nhưng không thể coi nhẹ kế hoạch, coi nhẹ việc quản lý thị trường. Thực hiện nguyên tắc phân phối theo lao động và các hình thức phân phối khác được pháp luật thừa nhận nhưng phải chống lại những hoạt động tìm kiếm thu nhập phi pháp và coi trọng từng bước phát triển phúc lợi xã hội phù hợp với khả năng của nền kinh tế. Trong sản xuất và kinh doanh, khuyến khích việc hợp tác và cạnh tranh lành mạnh, nhưng phải chống cạnh tranh nhằm tiêu diệt lẫn nhau. Khuyến khích mọi người làm giàu chính đáng trong khuôn khổ pháp luật cho phép, nhưng phải hướng dẫn, giúp đỡ, tạo điều kiện cho những người có khó khăn phát triển sản xuất kinh doanh, cải thiện đời sống.

Trong lúc mở rộng quan hệ kinh tế đối ngoại, tham gia vào quá trình phân công lao động và hợp tác kinh tế với nước ngoài, trước hết chúng ta ưu tiên phát triển hợp tác kinh tế với Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa. Đồng thời sẵn sàng mở rộng quan hệ kinh tế với tất cả các nước, các công ty nước ngoài trên cơ sở hai bên cùng có lợi và không có điều kiện chính trị ràng buộc, nhưng phải chủ động phòng ngừa, tránh bị lệ thuộc, hạn chế đến mức thấp nhất cái giá phải trả.

- Chế độ chính trị của chúng ta là chế độ làm chủ của nhân dân lao động dưới sự lãnh đạo của Đảng, là nền chuyên chính vô sản được thiết lập và củng cố từng bước vững chắc trong quá trình cách mạng xã hội chủ nghĩa; từ phương hướng cơ bản đó chúng ta chủ trương xây dựng và phát huy nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, đổi mới tổ chức và phương thức hoạt động của hệ thống chính trị. Chúng ta không chấp nhận chủ nghĩa đa nguyên chính trị, không để cho các tổ chức chống đối chủ nghĩa xã hội ra đời và hoạt động. Không coi việc thực hiện chính sách kinh tế nhiều thành phần là thực hiện chủ trương đa nguyên về kinh tế. Nhân dân tự do bày tỏ ý kiến khác nhau với tinh thần xây dựng, nhằm mục tiêu xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa, là thực hiện quyền dân chủ trong chế độ ta.

Hội nghị Trung ương 6 đã chỉ rõ phải quán triệt chủ trương đổi mới toàn diện và đồng bộ, đồng thời mỗi bước đi phải xác định đúng khâu then chốt. Trong quan hệ giữa đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị, chúng ta tập trung sức làm tốt đổi mới kinh tế, đồng thời từng bước đổi mới tổ chức và phương thức hoạt động của các tổ chức chính trị. Không thể tiến hành cải cách hệ thống chính trị một cách vội vã khi chưa đủ căn cứ, mở rộng dân chủ không có giới hạn, không có mục tiêu cụ thể và không đi đôi với tập trung thì dẫn đến sự mất ổn định về chính trị, gây thiệt hại cho sự nghiệp đổi mới.

Hội nghị lần thứ bảy Ban Chấp hành Trung ương khẳng định tiếp tục thực hiện chủ trương mở rộng dân chủ trên tất cả các lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hoá, tư tưởng. Mở rộng dân chủ vừa tạo ra động lực to lớn cho công cuộc đổi mới, vừa thực hiện mục tiêu xây dựng quyền làm chủ của nhân dân. Đó là nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, dân chủ của nhân dân, trước hết là công nhân, nông dân, trí thức. Trong quá trình mở rộng dân chủ phải nắm vững nguyên tắc tập trung dân chủ, tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa; mở rộng dân chủ phải có sự lãnh đạo của Đảng. Khi nói "lấy dân làm gốc" phải hiểu mỗi người dân đều có quan hệ giai cấp khác nhau nên có ý thức về lợi ích giai cấp khác nhau, trình đội giác ngộ chính trị cũng khác nhau. Biết lắng nghe ý kiến của nhân dân, tiếp thu ý kiến đúng, giải thích cho quần chúng biết những ý kiến sai. Đấu tranh chống những hành vi áp bức, ức hiếp nhân dân, vi phạm quyền làm chủ của nhân dân nhưng phải phê phán khuynh hướng dân chủ tư sản, dân chủ cực đoan, những hành động vô tổ chức, vô kỷ luật, vô chính phủ, lợi dụng dân chủ, công khai để đả kích chế độ, đả kích sự lãnh đạo của Đảng. Thực hiện dân chủ trong nhân dân, đồng thời trừng trị đích đáng, kịp thời những kẻ phá hoại thành quả cách mạng, làm suy yếu nền dân chủ xã hội chủ nghĩa và pháp chế xã hội chủ nghĩa.

- Trong công cuộc xây dựng nền văn hoá xã hội chủ nghĩa đậm đà bản sắc dân tộc, phải coi trọng đời sống văn hoá của giai cấp công nhân và nhân dân lao động, quan tâm đời sống tinh thần ở nông thôn và các vùng dân tộc thiểu số. Xây dựng lối sống lành mạnh, văn minh, phát huy những thuần phong, mỹ tục của dân tộc, giáo dục tinh thần quý trọng và bảo vệ các di tích lịch sử và cách mạng; chống mê tín dị đoan, lối sống xa hoa truỵ lạc. Trên lĩnh vực văn nghệ, hướng văn nghệ sĩ đi sâu vào cuộc sống, vào thực tế của cuộc đấu tranh cho sự nghiệp đổi mới mà xây dựng tác phẩm có sức thuyết phục, giáo dục sâu sắc cái đẹp về tinh thần, tình cảm và tư tưởng đúng đắn cho công chúng, nhất là cho thanh niên. Khuyến khích tự do sáng tác, phê bình, giữ vững tính kế thừa của nền văn nghệ cách mạng; phê phán tư tưởng coi nhẹ hoặc phủ định những thành tựu to lớn của văn nghệ cách mạng và của lịch sử đấu tranh cách mạng, xa rời truyền thống tốt đẹp của dân tộc, truyền bá bạo lực, dâm ô, đồi truỵ và những tư tưởng phi xã hội chủ nghĩa khác. Đấu tranh với những hoạt động bè phái, mọi biểu hiện xa rời đường lối chính trị và tư tưởng của Đảng, đối lập văn nghệ với sự lãnh đạo của Đảng; khắc phục quan điểm sai như: Đảng chỉ nên "lãnh đạo và quản lý theo định hướng rộng", "để cho công chúng tự chọn lấy món ăn". Không vì khôi phục vị trí và giá trị tác phẩm cho một số văn nghệ sĩ trước đây mà đề cao họ một cách quá đáng, thậm chí làm sống lại những khuynh hướng bệnh hoạn của thời kỳ thực dân Pháp và Mỹ - nguỵ. Khắc phục tình trạng tiếp thụ không chọn lọc những quan điểm và tác phẩm văn nghệ nước ngoài.

- Sự lãnh đạo của Đảng là nhân tố quyết định thắng lợi của cách mạng, Đảng lãnh đạo cách mạng không phải là một đặc quyền, đặc lợi mà là sứ mệnh lịch sử, là trách nhiệm vẻ vang của Đảng đối với giai cấp, với dân tộc, được nhân dân giao phó. Chân lý giản đơn ấy đã được chứng minh bằng những thắng lợi vĩ đại mà nhân dân ta đã giành được trong sáu thập kỷ qua. Đảng ta là người khởi xướng và lãnh đạo công cuộc đổi mới trên mọi lĩnh vực của đời sống xã hội. Đảng phải được củng cố vững mạnh về chính trị, tư tưởng, tổ chức; phương pháp và phong cách lãnh đạo của Đảng phải được đổi mới theo hướng mở rộng dân chủ trong sinh hoạt đảng, trong việc chuẩn bị và ra các quyết định, trong việc lựa chọn, bố trí cán bộ, tôn trọng thể chế và chức năng của Nhà nước và các đoàn thể quần chúng, khắc phục lối lãnh đạo quan liêu, độc đoán cá nhân, duy ý chí, bao biện, sự vụ, nhưng phải chống khuynh hướng phủ nhận, hạ thấp vai trò lãnh đạo của Đảng.

Đảng lãnh đạo thông qua việc xây dựng cương lĩnh, đường lối, chiến lược, xác định những mục tiêu cơ bản của cách mạng, vạch ra những phương hướng, chủ trương, chính sách trên các lĩnh vực đối nội và đối ngoại để định hướng hoạt động của Nhà nước và của toàn dân; Đảng kiểm tra việc thực hiện đường lối, chủ trương, chính sách; Đảng lãnh đạo xây dựng và thực hiện quy hoạch cán bộ, bố trí cán bộ các cơ quan của Đảng, chuẩn bị và giới thiệu các cán bộ lãnh đạo chủ chốt của Nhà nước và đoàn thể quần chúng. Không được cho rằng "Đảng chỉ lãnh đạo bằng các định hướng lớn", để trên thực tế, phủ nhận sự lãnh đạo của Đảng.

- Hệ tư tưởng chỉ đạo sự nghiệp cách mạng xã hội chủ nghĩa là chủ nghĩa Mác - Lênin. Đảng ta luôn luôn trung thành với chủ nghĩa Mác - Lênin, quán triệt bản chất cách mạng và khoa học của nó, vận dụng một cách sáng tạo vào điều kiện nước ta. Các tổ chức của Đảng phải hết sức quan tâm triển khai việc giáo dục chủ nghĩa Mác - Lênin một cách rộng rãi trong cán bộ, đảng viên và nhân dân, mở rộng và tăng cường trận địa tư tưởng xã hội chủ nghĩa. Đấu tranh chống lại mọi luận điệu phủ nhận, xuyên tạc chủ nghĩa Mác - Lênin.

- Sức mạnh của cách mạng là sức mạnh tổng hợp. Phải kết hợp chủ nghĩa yêu nước với chủ nghĩa quốc tế vô sản và quốc tế xã hội chủ nghĩa; kết hợp sức mạnh của dân tộc với sức mạnh của thời đại trong điều kiện mới.

Trước đây cũng như hiện nay, Đảng ta luôn luôn góp phần tích cực vào cuộc đấu tranh chung của nhân dân thế giới vì hoà bình, độc lập dân tộc, dân chủ và chủ nghĩa xã hội, đấu tranh chống lại sự tiến công điên cuồng của bọn đế quốc và các thế lực phản động quốc tế, bảo vệ chủ nghĩa xã hội, bảo vệ chủ nghĩa Mác - Lênin và tình đoàn kết chiến đấu của phong trào cộng sản và công nhân thế giới một cách có lý, có tình. Trước sau như một, chúng ta nguyện làm hết sức mình nhằm tăng cường tình đoàn kết xã hội chủ nghĩa và sự hợp tác toàn diện với Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa khác, tăng cường mối quan hệ đặc biệt, gắn bó keo sơn không gì lay chuyển được với Lào và Campuchia anh em, tăng cường sự đoàn kết với phong trào công nhân, phong trào đấu tranh của các dân tộc và phong trào của các nước tiến bộ trên toàn thế giới.

5. Nâng cao phẩm chất, đạo đức cách mạng xã hội chủ nghĩa, tăng cường sự đoàn kết thống nhất trong Đảng, sự thống nhất ý chí và hành động trong xã hội, đấu tranh chống những biểu hiện tiêu cực

- Điểm mấu chốt để nâng cao phẩm chất chính trị là tăng cường giáo dục cho cán bộ, đảng viên và nhân dân, đặc biệt là cho thanh niên, thiếu niên, tinh thần yêu nước, lý tưởng cách mạng xã hội chủ nghĩa, lập trường của giai cấp công nhân, lòng tự hào dân tộc và truyền thống cách mạng vẻ vang của Đảng và nhân dân ta; đó là tài sản vô cùng quý báu của dân tộc, của nhân dân. Ngăn ngừa và khắc phục những biểu hiện động dao về con đường đi lên chủ nghĩa xã hội, phủ nhận những truyền thống tốt đẹp và quá khứ oanh liệt của dân tộc, của cách mạng. Giáo dục ý thức xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa, đề cao cảnh giác trước những âm mưu và thủ đoạn của chủ nghĩa đế quốc và các thế lực phản động quốc tế chống phá chủ nghĩa xã hội, không một chút mơ hồ về cuộc đấu tranh "ai thắng ai" giữa chủ nghĩa xã hội với chủ nghĩa tư bản.

- Giáo dục tinh thần học hỏi cầu tiến bộ, năng động, sáng tạo, dám nghĩ, dám làm và biết làm có lợi cho dân cho nước, có tinh thần đoàn kết tương trợ và hợp tác, lối sống lành mạnh, giản dị, tiết kiệm. Chống thói lười biếng, tư tưởng thực dụng chạy theo đồng tiền, lối sống xa hoa, truỵ lạc. Cùng với công tác giáo dục phải xây dựng quy chế nhằm ngăn ngừa và khắc phục việc cán bộ lợi dụng chức quyền, tham ô, hối lộ, đặc quyền đặc lợi, quan liêu, hống hách với dân.

- Giáo dục cho mọi người ý thức làm tròn nghĩa vụ công dân, sống và làm việc theo pháp luật. Đấu tranh kiên quyết với những hành động lưu manh côn đồ phá rối trật tự an toàn xã hội, những hành vi xâm phạm tài sản xã hội chủ nghĩa, đầu cơ, buôn lậu, trốn thuế, lậu thuế, làm hàng giả, lưu hành văn hoá phẩm phản động, đồi truỵ.

- Cán bộ, đảng viên cộng sản phải nêu cao tính đảng, ý thức tổ chức, kỷ luật, ý thức phát huy trí tuệ tập thể, đề cao trách nhiệm cá nhân, gương mẫu thực hành dân chủ, tăng cường sự đoàn kết thống nhất trong Đảng. Đấu tranh chống tư tưởng địa phương, cục bộ, bản vị, gây chia rẽ bè phái. Toàn Đảng cần hết sức quan tâm đến công tác vận động quần chúng, thường xuyên xây dựng thực lực cách mạng.

III- ĐỔI MỚI VÀ TĂNG CƯỜNG SỰ LÃNH ĐẠO VÀ QUẢN LÝ CÔNG TÁC TƯ TƯỞNG

Tình hình trên đây đòi hỏi các cấp uỷ đảng, các cấp chính quyền, các đoàn thể quần chúng phải hết sức coi trọng công tác tư tưởng, tăng cường sự lãnh đạo và quản lý công tác tư tưởng; kết hợp chặt chẽ sự lãnh đạo, quản lý tư tưởng với lãnh đạo, quản lý các mặt kinh tế, xã hội; kết hợp chặt chẽ công tác tư tưởng với công tác tổ chức. Đó là điều kiện đầu tiên bảo đảm cho Nghị quyết Hội nghị lần thứ bảy Ban Chấp hành Trung ương được thực hiện tốt.

- Các cấp uỷ đảng, trước hết là đồng chí bí thư, trong sự lãnh đạo toàn diện của mình, phải coi việc lãnh đạo tư tưởng là công tác quan trọng số một, có chương trình kế hoạch lãnh đạo, chỉ đạo công tác tư tưởng, không khoán trắng cho các cơ quan chuyên môn, không buông trôi hoặc đưa lên cấp trên giải quyết những vấn đề thuộc thẩm quyền của mình; mỗi đảng viên phải xác định rõ trách nhiệm làm công tác tư tưởng của mình và phải phấn đấu làm tròn trách nhiệm đó.

- Trong sự quản lý toàn diện của Nhà nước đối với lĩnh vực tư tưởng văn hoá, vấn đề rất quan trọng hiện nay là phải khẩn trương pháp luật hoá, thể chế hoá các hoạt động báo chí, xuất bản, văn hoá văn nghệ. Trước mắt xem xét lại những văn bản pháp quy về công tác thông tin tuyên truyền, báo chí, xuất bản, văn học nghệ thuật, bổ sung sửa đổi những điểm cần thiết theo tinh thần đổi mới của Nghị quyết Đại hội VI, các nghị quyết của Ban Chấp hành Trung ương và Bộ Chính trị; ban hành một số luật mới như Luật báo chí, xuất bản... Tích cực tuyên truyền, phổ biến và giáo dục những pháp luật đó trong nhân dân, coi trọng việc chỉ đạo thực hiện có kết quả những chính sách, chế độ, quy định. Nghiêm trị mọi hành vi vi phạm pháp luật. Đó là cơ sở để lập lại trật tự kỷ cương trên lĩnh vực báo chí, xuất bản, văn hoá văn nghệ. Trong ngân sách nhà nước phải dành phần thích đáng cho việc xây dựng cơ sở kỹ thuật, các phương tiện làm công tác tư tưởng, các hoạt động thông tin, báo chí, văn hoá văn nghệ. Cần có chính sách tài chính cho các hoạt động báo chí, xuất bản, thông tin cổ động, văn hoá văn nghệ thích hợp với tính chất và nhiệm vụ của mỗi loại hoạt động này.

- Ban chấp hành các đoàn thể quần chúng cần có kế hoạch hiểu rõ tâm tư, nguyện vọng của quần chúng, bằng cách thường xuyên gặp gỡ trao đổi ý kiến với đoàn viên, hội viên, bằng những chương trình điều tra cơ bản, coi đó là một căn cứ quan trọng để tiến hành công tác tư tưởng. Nội dung và hình thức tuyên truyền cổ động, vận động quần chúng của các đoàn thể phải phong phú, sáng tạo, có tính thuyết phục và tính chiến đấu, phù hợp với chức năng, nhiệm vụ, với tâm lý và điều kiện hoạt động của hội viên.

- Đổi mới công tác thông tin tuyên truyền cổ động, nhất là tuyên truyền miệng. Các đồng chí Uỷ viên Trung ương, tỉnh uỷ viên, thành uỷ viên, huyện ủy viên, quận uỷ viên, các đồng chí phụ trách các bộ, sở phải được phân công định kỳ xuống các xí nghiệp, hợp tác xã, trường học, các đơn vị lực lượng vũ trang và công an nhân dân, gặp gỡ công nhân, nông dân, trí thức, bộ đội, công an, trực tiếp truyền đạt đường lối, chính sách của Đảng, trao đổi, thu thập ý kiến, trả lời những vấn đề do quần chúng nêu ra.

Thông tin phải theo định hướng của Đảng, chính xác, bảo vệ bí mật của Đảng và quốc gia; lấy việc phục vụ lợi ích của sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc, tăng cường tình đoàn kết quốc tế làm mục đích cao nhất. Thông tin kịp thời những nhân tố mới, điển hình mới, những kinh nghiệm tốt, gây niềm tin có thể vượt qua khó khăn thử thách hiện nay, tiếp tục đẩy mạnh cuộc đấu tranh chống tiêu cực. Đấu tranh kịp thời với những hành vi lợi dụng dân chủ, công khai gây nhiễu thông tin, xuyên tạc, vu cáo, làm rối nội bộ. Công tác thông tin tuyên truyền cổ động cần được tiến hành thích hợp đối với mỗi tầng lớp quần chúng. Trong đó hết sức coi trọng việc toàn xã hội chăm sóc, giáo dục thế hệ trẻ, tổ chức phát động thanh niên cả nước lao động và học tập, cống hiến cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ đất nước, thực hiện dân chủ và công bằng xã hội, qua đó mà giác ngộ chính trị, giáo dục lý tưởng xã hội chủ nghĩa cho thanh niên, học sinh, sinh viên...

- Báo chí, xuất bản, văn hoá văn nghệ là những binh chủng trực tiếp tác chiến hằng ngày trên mặt trận tư tưởng, các cấp ủy đảng và lãnh đạo các ngành, đoàn thể phải lãnh đạo và quản lý tốt đội ngũ phóng viên, cán bộ biên tập, trước hết là tổng biên tập các báo chí, nhà xuất bản. Tạo điều kiện thuận lợi cho anh chị em làm tốt nhiệm vụ được giao: kịp thời thông tin những vấn đề về thời cuộc, chính sách, những chủ trương của cấp uỷ; tạo điều kiện cho anh em đi sát cuộc sống; từng thời gian đánh giá hoạt động của cơ quan báo chí, xuất bản, văn hoá văn nghệ, biểu dương mặt tốt, uốn nắn những lệch lạc, khắc phục những khuyết điểm; chăm lo đời sống vật chất và tinh thần và điều kiện làm việc của anh chị em, v.v.. Cần xử lý nghiêm những cán bộ phụ trách báo chí, xuất bản, văn hoá văn nghệ có ý đồ sử dụng tờ báo, tạp chí, nhà xuất bản, các hoạt động văn hoá văn nghệ để tuyên truyền khuynh hướng, quan điểm sai lầm của cá nhân, cố tình làm trái với quan điểm của Đảng...

- Phải coi trọng công tác nghiên cứu lý luận, tổng kết thực tiễn nhằm cung cấp cơ sở khoa học cho việc xây dựng chính sách, nâng cao chất lượng công tác tư tưởng. Công tác lý luận phải góp phần giải đáp kịp thời và sáng tỏ những vấn đề do cuộc đổi mới đặt ra, từng bước hoàn chỉnh hệ thống các quan điểm đổi mới do Đại hội VI và các nghị quyết của Trung ương, của Bộ Chính trị đề ra. Đổi mới giáo trình, giáo khoa, bài giảng và phương pháp giảng dạy bộ môn Mác - Lênin trong hệ thống các trường đảng, nhà nước và các đoàn thể quần chúng.

- Các cấp uỷ tổ chức chu đáo đợt sinh hoạt chính trị để quán triệt nghị quyết này trong toàn Đảng. Chú ý làm rõ cơ sở lý luận và thực tiễn các quan điểm của Đảng. Làm cho mọi người quán triệt các quan điểm của Đảng, hiểu rõ uốn nắn những lệch lạc được nêu ra trong nghị quyết này không phải là thu hẹp, trái lại là đẩy mạnh công cuộc đổi mới tiến lên đúng hướng và vững chắc; việc nắm vững những nguyên tắc và chính sách đổi mới là thể hiện sự vận dụng đúng đắn, sáng tạo những nguyên lý phổ biến của chủ nghĩa Mác - Lênin phù hợp với thực tiễn nước ta, bảo đảm cho sự nghiệp đổi mới của nhân dân ta thực hiện thắng lợi. Việc phê phán những quan điểm sai trái phải làm nghiêm túc, nhưng không thô bạo làm hạn chế sinh hoạt dân chủ trong Đảng, hạn chế việc phát huy trí tuệ của cán bộ, đảng viên. Cần phân biệt những người có quan điểm sai lầm nhưng có ý thức kỷ luật với những người không tôn trọng kỷ luật cố ý hành động sai trái. Hình thức, phương pháp sinh hoạt chính trị cần được cải tiến. Không chỉ truyền đạt nghị quyết mà còn chú ý khêu gợi vấn đề, cung cấp tư liệu, giúp cho mọi người suy nghĩ, trao đổi, thảo luận dân chủ, tự giác giải quyết những vấn đề nhận thức của mình.


Nhân dịp kỷ niệm 100 năm ngày sinh của Chủ tịch Hồ Chí Minh và các ngày lễ lớn năm 1990, trong cán bộ, đảng viên mở đợt nghiên cứu tư tưởng và đạo đức của Bác Hồ, có liên hệ kiểm điểm tư tưởng, đạo đức, lối sống, ý thức phục vụ quần chúng, ý thức giữ gìn đoàn kết trong Đảng.



T/M BAN CHẤP HÀNH TRUNG ƯƠNG ĐẢNG
TỔNG BÍ THƯ

NGUYỄN VĂN LINH


 

_________________

Nguồn: Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2006, tập 49, tr.728-755.

 

 

Phản hồi

Thông tin người gửi phản hồi

Các tin khác

Hướng dẫn kiểm tra, giám sát phục vụ đại hội đảng bộ các cấp tiến tới Đại hội XIV của Đảng

(ĐCSVN) - Tại văn bản số 08-HD/UBKTTW ngày 18/11/2024, Ủy ban Kiểm tra Trung ương hướng dẫn công tác kiểm tra, giám sát phục vụ đại hội đảng bộ các cấp tiến tới Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIV của Đảng.

Phương án nghiên cứu sắp xếp, sáp nhập các bộ, cơ quan thuộc Chính phủ

(ĐCSVN) - Theo phương án nghiên cứu sắp xếp, sáp nhập được Trưởng Ban Tổ chức Trung ương Lê Minh Hưng nêu tại Hội nghị toàn quốc sáng 1/12, sẽ tối thiểu giảm được 5 bộ, 2 cơ quan trực thuộc Chính phủ.

Phương án sáp nhập các ủy ban của Quốc hội và cơ quan thuộc Ủy ban Thường vụ Quốc hội

(ĐCSVN) - Sáng 1/12, Trưởng Ban Tổ chức Trung ương Lê Minh Hưng thông báo chuyên đề về các nội dung chính, trọng tâm việc triển khai tổng kết Nghị quyết 18. Theo phương án định hướng được nêu sẽ giảm 4 ủy ban của Quốc hội và 1 cơ quan trực thuộc Ủy ban Thường vụ Quốc hội.

Phương án giảm 4 cơ quan Đảng, 25 ban cán sự đảng, 16 đảng đoàn trực thuộc Trung ương

(ĐCSVN) - Sáng 1/12, đồng chí Lê Minh Hưng, Uỷ viên Bộ Chính trị, Bí thư Trung ương Đảng, Trưởng ban Tổ chức Trung ương đã trình bày các nội dung chính, trọng tâm việc triển khai tổng kết Nghị quyết 18-NQ/TW của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XII.

Quy trình kỷ luật đảng viên thuộc thẩm quyền của Trung ương Đảng, Bộ Chính trị, Ban Bí thư

(ĐCSVN) - Thay mặt Bộ Chính trị, Thường trực Ban Bí thư Lương Cường vừa ký Quyết định số 165-QĐ/TW ngày 6/6/2024 của Bộ Chính trị ban hành Quy trình xem xét, thi hành kỷ luật đối với tổ chức Đảng, đảng viên thuộc thẩm quyền của Ban Chấp hành Trung ương Đảng, Bộ Chính trị, Ban Bí thư.

Liên kết website