Nghị quyết số 04-NQ/HNTW ngày 17/12/1987, Hội nghị lần thứ tư Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khoá VI) về phương hướng, nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội trong ba năm 1988-1990 và năm 1988

I. TÌNH HÌNH KINH TẾ - XÃ HỘI NĂM 1987.     

Năm 1987, toàn Đảng, toàn dân ta bắt đầu chuyển hướng các mặt hoạt động theo nội dung đổi mới của Đại hội VI. Các Nghị quyết Hội nghị hai, ba của Trung ương, Nghị quyết của Bộ Chính trị về cuộc vận động làm trong sạch và nâng cao sức chiến đấu của tổ chức đảng, bộ máy nhà nước và làm lành mạnh các quan hệ xã hội, chủ trương đổi mới hợp tác về kinh tế với Liên Xô, cùng nhiều quyết định khác của Đảng và Nhà nước, đã định hướng cho việc giải quyết nhiều vấn đề kinh tế - xã hội. Chuyển biến bước đầu đó về lãnh đạo của Trung ương cùng với sự năng động của nhiều ngành, địa phương, cơ sở, sự nỗ lực phấn đấu của các tầng lớp nhân dân, đã tạo ra những nhân tố mới, đem lại những kinh nghiệm tốt để năm 1988 chuyển mạnh các hoạt động kinh tế sang hạch toán kinh doanh xã hội chủ nghĩa theo những bước đi vững chắc nhằm đẩy mạnh sản xuất, nâng cao hiệu quả kinh tế, từng bước ổn định tình hình kinh tế - xã hội và đời sống nhân dân.

Hội nghị Trung ương cho rằng: những chuyển biến tiến bộ mới là bước đầu và những nhân tố mới vẫn còn có tính chất bộ phận, chưa thật vững chắc, tình hình kinh tế-xã hội vẫn đang tiếp tục diễn biến xấu. Sản xuất lương thực sút kém, lương thực vẫn thường xuyên thiếu; tốc độ phát triển công nghiệp, tiểu, thủ công nghiệp chậm lại; thu nhập quốc dân tính bình quân theo đầu người giảm sút; sản xuất không đủ tiêu dùng. Thu ngân sách không đủ chi, vốn đầu tư xây dựng cơ bản của Nhà nước giảm, không đáp ứng được yêu cầu tái sản xuất, duy trì và phát triển tài sản cố định và kết cấu hạ tầng của nền kinh tế. Công tác quản lý có nhiều khuyết điểm; hiệu quả sản xuất, kinh doanh rất thấp, tài sản xã hội chủ nghĩa bị lãng phí, mất mát lớn. Tình hình phân phối lưu thông vẫn rối ren: phân phối thu nhập quốc dân cho tái sản xuất không hợp lý, cho tiêu dùng không công bằng; lưu thông vẫn còn ách tắc; quản lý thị trường bị buông lỏng; đồng tiền tiếp tục mất giá, vật giá tăng cao. Số người không có việc làm tăng; tiền lương thực tế tiếp tục giảm, đời sống của nhiều người ăn lương và lực lượng vũ trang khó khăn hơn. Kỷ cương, trật tự xã hội không tốt; tiêu cực xã hội tiếp tục phát triển. Nhân dân có nhiều lo lắng.

Tình hình trên đây có những nguyên nhân chủ quan và khách quan sâu xa mà Đại hội VI đã phân tích. Những sai lầm về chỉ đạo có tính chiến lược về kinh tế trong hơn chục năm qua làm cho không những không tích luỹ được mà còn ăn cả vào vốn, và để lại những khó khăn quá lớn; bước vào năm 1987, quan hệ cung - cầu càng mất cân đối nghiêm trọng thêm trên nhiều mặt; thiên tai lại xảy ra ở cả hai miền. Về lãnh đạo và chỉ đạo trong năm 1987, có những khuyết điểm sau đây:

- Không kịp thời có chủ trương và biện pháp đúng đắn nhằm sắp xếp và tổ chức lại nền kinh tế theo hướng tập trung cho ba chương trình kinh tế, trước hết cho chương trình lương thực - thực phẩm.

- Các chính sách cụ thể nhằm khuyến khích các thành phần kinh tế phát triển mạnh mẽ sản xuất hàng hoá chậm được ban hành. Các chính sách đối với nông dân và chủ trương chuyển các hoạt động kinh tế sang hạch toán kinh doanh xã hội chủ nghĩa đã đề ra trong các Nghị quyết Trung ương hai và ba chưa được thực hiện tốt. Việc cụ thể hoá các chủ trương về giá, lương, tài chính, tiền tệ làm chậm, có mặt chưa được tính toán chu đáo, có những biện pháp còn nửa vời, chưa nhằm mục đích trước hết thúc đẩy và tạo thuận lợi cho sản xuất hàng hoá phát triển. Việc chăm lo đời sống của công nhân viên chức và lực lượng vũ trang còn nhiều khuyết điểm.

- Chưa quan tâm đúng mức phát triển khoa học - kỹ thuật và áp dụng kỹ thuật tiến bộ vào sản xuất, kinh doanh để nâng cao hiệu quả kinh tế.

- Việc đổi mới cơ chế quản lý kinh tế gắn liền với mở rộng dân chủ và đề cao pháp chế xã hội chủ nghĩa làm còn ít và thiếu đồng bộ.

- Tình trạng vừa tập trung quan liêu, thiếu dân chủ, vừa phân tán, cục bộ, thiếu kỷ luật đã hạn chế kết quả thực hiện các nghị quyết đúng đắn của Đảng.

- Công tác tư tưởng, công tác tổ chức và cán bộ chưa đáp ứng yêu cầu của công cuộc đổi mới. Tư tưởng bảo thủ, thói quen do cơ chế quan liêu bao cấp để lại còn rất nặng, đồng thời đã xuất hiện những khuynh hướng nóng vội cần được ngăn ngừa.

Đến nay, một số vấn đề quan trọng về lý luận và thực tiễn, nhất là trong quan điểm và chủ trương về phân phối lưu thông, còn có những ý kiến khác nhau, nhưng chưa được thảo luận kỹ để đi đến nhất trí ở các cơ quan lãnh đạo, việc mở rộng dân chủ và đề cao kỷ luật trong việc chấp hành nghị quyết cũng chưa nghiêm túc, nên đã đưa lại những hậu quả tiêu cực. Mặt khác, trong quá trình thực hiện, những vấn đề mới nảy sinh chưa được kịp thời phát hiện, sơ kết và có biện pháp giải quyết.

Trung ương Đảng, Bộ Chính trị, Ban Bí thư, Hội đồng Bộ trưởng chịu trách nhiệm chính về tình hình kinh tế - xã hội chậm chuyển biến, đồng thời các cấp, các ngành cũng có trách nhiệm của mình, cần nghiêm túc kiểm điểm để sửa chữa.

Cần đánh giá đúng những nhân tố tích cực và triển vọng của tình hình để tin tưởng, vững vàng đi tới. Đồng thời thấy rõ những khó khăn để nêu cao trách nhiệm, tìm ra giải pháp đúng đắn, động viên mọi ngành, mọi cấp, mọi người trong cả nước gian khổ phấn đấu, khắc phục khó khăn, hăng hái lao động sản xuất, thực hành tiết kiệm, nâng cao hiệu quả kinh tế.

II. PHƯƠNG HƯỚNG, NHIỆM VỤ KINH TẾ - XÃ HỘI TRONG BA NĂM 1988-1990 VÀ NĂM 1988

A- Những nhiệm vụ, mục tiêu chủ yếu:

1- Trong ba năm 1988-1990, phải phấn đấu thực hiện bằng được mục tiêu ổn định một bước quan trọng tình hình kinh tế - xã hội, chuẩn bị điều kiện thuận lợi cho việc phát triển kinh tế - xã hội trong các năm sau.

Để thực hiện mục tiêu trên, điều quyết định là phát triển mạnh mẽ sản xuất hàng hoá, nâng cao năng suất, chất lượng, hiệu quả kinh tế, trước hết là tập trung sức thực hiện ba chương trình kinh tế, đặc biệt là chương trình lương thực - thực phẩm. Những biện pháp chủ yếu là: chuyển mạnh các hoạt động kinh tế sang hạch toán kinh doanh xã hội chủ nghĩa; đẩy mạnh áp dụng tiến bộ khoa học - kỹ thuật; có chính sách đúng đắn nhằm khuyến khích các thành phần kinh tế khai thác mọi năng lực sản xuất; giải quyết hài hoà các mối quan hệ về lợi ích để tạo được phong trào lao động sáng tạo, nâng cao hiệu quả kinh tế; đổi mới tổ chức và cán bộ.

Kế hoạch kinh tế - xã hội trong ba năm tới phải:

Một là, giải quyết nhu cầu cơ bản về lương thực, thực phẩm, hàng tiêu dùng thiết yếu và các nhu cầu bức thiết khác về đời sống của nhân dân lao động. Tăng nhanh kim ngạch xuất khẩu, bảo đảm thực hiện đúng các cam kết quốc tế, mở rộng các quan hệ kinh tế với Liên Xô, với các nước xã hội chủ nghĩa và các nước khác. Đồng thời làm tốt nhiệm vụ giao thông vận tải và phát triển một số ngành công nghiệp nặng then chốt nhằm phục vụ đắc lực cho các nhiệm vụ trên.

Hai là, kiên quyết chuyển các hoạt động kinh tế sang hạch toán kinh doanh xã hội chủ nghĩa theo những bước đi vững chắc, nâng cao hiệu quả sản xuất, kinh doanh, thực hành triệt để tiết kiệm; phân phối hợp lý thu nhập quốc dân, ổn định dần tình hình phân phối lưu thông, bảo đảm nhu cầu thiết yếu về đời sống của người lao động và bước đầu có tích luỹ từ nội bộ nền kinh tế quốc dân; hạn chế lạm phát.

Ba là, tăng cường kinh tế quốc doanh và kinh tế tập thể làm cho thành phần kinh tế xã hội chủ nghĩa thể hiện được tính ưu việt; phát huy mọi tiềm năng của các thành phần kinh tế khác trong sản xuất và phục vụ đời sống, gắn với tổ chức lại và quản lý tốt nền kinh tế, tiếp tục cải tạo xã hội chủ nghĩa theo quan điểm mới của Đại hội VI và tăng cường quản lý thị trường.

Bốn là, tạo thêm nhiều việc làm cho người lao động; thực hiện một bước quan trọng việc làm lành mạnh các quan hệ xã hội, bảo đảm an ninh chính trị, trật tự và an toàn xã hội, khắc phục các hiện tượng tiêu cực, xây dựng cuộc sống văn minh và công bằng xã hội.

Năm là, đáp ứng nhu cầu củng cố quốc phòng và an ninh.

Sáu là, chuẩn bị cho kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội 1991-1995.

2- Năm 1988 có ý nghĩa rất quan trọng đối với việc thực hiện những nhiệm vụ của ba năm còn lại 1988-1990, phải tạo được sự chuyển biến mạnh trên các mặt:

- Giải quyết tốt hơn vấn đề lương thực - thực phẩm. Tăng hàng tiêu dùng, hàng xuất khẩu. Triển khai có hiệu quả các chương trình hợp tác kinh tế với Liên Xô và mở rộng quan hệ kinh tế đối ngoại.

- Chuyển các hoạt động kinh tế sang hạch toán kinh doanh xã hội chủ nghĩa, bảo đảm sản xuất, kinh doanh có năng suất, chất lượng, hiệu quả. Phát huy những khả năng tích cực của các thành phần kinh tế trong sản xuất, dịch vụ, gắn với sắp xếp và tổ chức lại nền kinh tế, tiếp tục cải tạo xã hội chủ nghĩa và tăng cường quản lý thị trường. Việc tiếp tục đổi mới chính sách phân phối lưu thông phải có tác dụng rõ rệt thúc đẩy sản xuất phát triển, kinh doanh có hiệu quả và giảm bớt khó khăn về đời sống của người lao động; trên cơ sở đó, từng bước đi tới ổn định giá cả, hạn chế bội chi ngân sách; hạn chế, tiến tới xoá bỏ phát hành tiền mặt cho chi ngân sách và tín dụng.

- Đẩy mạnh hoạt động khoa học - kỹ thuật và đưa kỹ thuật tiến bộ vào sản xuất, kinh doanh.

- Giải quyết một số vấn đề cấp bách về giáo dục, y tế và văn hoá.

Sắp xếp lại một bước bộ máy đảng, nhà nước và các đoàn thể quần chúng từ Trung ương đến cơ sở; nâng cao hiệu lực của bộ máy; thu gọn cơ quan quản lý nhà nước, giảm mạnh cấp trung gian và tinh giản biên chế hành chính; chấn chỉnh gấp các tổ chức sản xuất, kinh doanh; bố trí lại cán bộ có năng lực và phẩm chất ở những vị trí cần thiết, nhất là ở các vị trí then chốt của từng cấp và từng tổ chức.

- Gắn việc giải quyết các vấn đề kinh tế - xã hội với tiến hành cuộc vận động lớn trong Đảng, trong bộ máy nhà nước và ngoài xã hội, mở rộng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa và tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa, tạo ra phong trào cách mạng của các tầng lớp nhân dân và thiết lập trật tự, kỷ cương trong hoạt động kinh tế, xã hội.

B - Những chủ trương, biện pháp lớn:

1- Điều chỉnh cơ cấu kinh tế, cơ cấu đầu tư, tập trung thực hiện ba chương trình kinh tế, đặc biệt là chương trình lương thực - thực phẩm.

a) Phát triển mạnh sản xuất lương thực, phấn đấu năm 1988 đạt 19-19,5 triệu tấn, năm 1990 đạt khoảng 22 triệu tấn; có giải pháp đồng bộ bảo đảm cơ bản nhu cầu lương thực của nhân dân và từng bước bổ sung dự trữ quốc gia về lương thực. Đồng thời phát triển cây công nghiệp ngắn ngày, dài ngày, chăn nuôi, nghề cá, nghề rừng và ngành nghề tiểu thủ công nghiệp ở nông thôn để tăng thêm nhiều việc làm tại chỗ và có thêm sản phẩm cho xã hội.

Tập trung các điều kiện vật chất và thực hiện các chính sách khuyến khích nông dân phát triển sản xuất, trước hết là sản xuất lương thực - thực phẩm; khắc phục tình trạng độc canh, sản xuất tự cấp tự túc; phát triển sản xuất hàng hoá, phát huy thế mạnh của từng vùng để đạt hiệu quả cao.

Cần thực hiện tốt những chủ trương, biện pháp sau đây:

Bố trí lại địa bàn sản xuất nông nghiệp, tập trung với mức cao hơn vật tư, vốn đầu tư cho đồng bằng sông Cửu Long, vùng trọng điểm lúa lớn nhất của cả nước, cho đồng bằng Sông Hồng và các vùng lúa cao sản của các địa phương khác, để tạo nhanh nguồn lương thực hàng hoá cho Nhà nước, phát triển mạnh các vùng sản xuất tập trung ngô, khoai tây và các cây màu khác đi đôi với chính sách thu mua đúng, tổ chức tốt khâu chế biến, đưa màu đã chế biến vào cơ cấu bữa ăn, và dùng màu sản xuất thức ăn gia súc. Phát triển mạnh vụ đông ở đồng bằng, trung du Bắc Bộ và bắc Khu 4 cũ. Đi đôi với sản xuất, phải chú trọng tổ chức tốt khâu thu hoạch, tiêu thụ, bảo quản, vận chuyển, giảm hư hao, mất mát lương thực. Chuyển những diện tích xưa nay trồng cây lương thực nhưng hiệu quả thấp sang trồng các loại nông sản khác có giá trị cao hơn. Bố trí sản xuất nông, lâm, ngư nghiệp, bố trí cây trồng, vật nuôi phù hợp với thế mạnh của từng vùng để giải quyết hợp lý vấn đề lương thực, thực phẩm, tăng thêm nguyên liệu cho công nghiệp, nông sản cho xuất khẩu.

Tăng cường cơ sở vật chất - kỹ thuật cho nông nghiệp và ứng dụng rộng rãi kỹ thuật tiến bộ vào sản xuất nông nghiệp:

+ Nâng cao hiệu quả sử dụng các công trình thuỷ lợi hiện có; đầu tư thêm cho thuỷ lợi; cung ứng đủ và kịp thời nhiên liệu, năng lượng cho công tác tưới, tiêu; công tác dịch vụ thuỷ lợi phải chuyển sang hạch toán kinh doanh theo phương thức ký hợp đồng với người sản xuất. Khuyến khích phát triển và sử dụng rộng rãi phân chuồng và các loại phân hữu cơ khác. Cung ứng đủ, kịp thời và thuận tiện phân hoá học, thuốc trừ sâu cho sản xuất nông nghiệp, không qua các khâu trung gian không cần thiết. Giao vật tư cho các tổ chức kinh doanh ngành hàng để các tổ chức này trực tiếp ký hợp đồng bán vật tư, mua sản phẩm với cơ sở sản xuất theo nguyên tắc ngang giá, thuận mua vừa bán dưới mọi hình thức. Mở rộng từng bước việc bán máy kéo cho các hợp tác xã, tập đoàn sản xuất.

+ ứng dụng rộng rãi các kỹ thuật tiến bộ đã được kết luận để nâng cao hiệu quả sử dụng vật tư, nâng cao năng suất, chất lượng, hiệu quả của cây trồng, vật nuôi. Sử dụng rộng rãi các giống lúa mới, các giống ngô cho năng suất cao, giống khoai tây sạch bệnh; đổi mới cơ cấu giống phù hợp với các vùng sinh thái khác nhau; xây dựng hệ thống giống kỹ thuật, bảo đảm đủ giống tốt, giống mới cho sản xuất, loại bỏ các giống thoái hoá. Làm tốt công tác dự báo thời tiết phục vụ nông nghiệp. Kịp thời phát hiện sâu bệnh, ứng dụng biện pháp phòng trừ tổng hợp, gắn biện pháp sinh học với sử dụng thuốc hoá học. Đầu tư thoả đáng cho khâu giống, cho các công trình nghiên cứu công nghệ sinh học. Phát triển rộng rãi các cơ sở năng lượng nhỏ bằng sử dụng bức xạ mặt trời, sức gió, khí mêtan và sức nước để phục vụ sản xuất và đời sống ở nông thôn.

Ngành lương thực chuyển hẳn hoạt động sang kinh doanh xã hội chủ nghĩa, để nắm đại bộ phận lương thực hàng hoá trong xã hội và có đủ lương thực bán cho công nhân, viên chức và các đối tượng phi nông nghiệp khác, đặc biệt ở các thành phố lớn, các khu công nghiệp tập trung; nói chung kinh doanh không lỗ; đẩy mạnh chế biến; khuyến khích tiết kiệm lương thực. Nhà nước sử dụng thóc thuế để bảo đảm nhu cầu của lực lượng vũ trang và tăng dự trữ quốc gia.

Đổi mới chính sách đối với nông nghiệp và nông dân.

Đổi mới toàn diện và đồng bộ chính sách đối với nông nghiệp và nông dân nhằm giải phóng sức sản xuất, tăng nhanh nông sản hàng hoá, đáp ứng nhu cầu ngày càng tăng về lương thực, thực phẩm, nguyên liệu cho công nghiệp, nông sản cho xuất khẩu, từng bước cải thiện đời sống của nông dân và xây dựng nông thôn mới xã hội chủ nghĩa.

Củng cố và nâng cao chất lượng các hợp tác xã và tập đoàn sản xuất nông nghiệp; hướng dẫn các hợp tác xã từng bước đi vào chuyên canh kết hợp với kinh doanh tổng hợp phù hợp với điều kiện thực tế để có nhiều hàng hoá cho xã hội, nâng cao hiệu quả kinh tế, không ngừng cải thiện đời sống xã viên. Xem xét lại các hợp tác xã nông nghiệp ở miền Bắc, duyên hải miền Trung và Tây Nguyên để có sự điều chỉnh cần thiết về quan hệ sở hữu, về quy mô tổ chức ở một số nơi. Đổi mới cơ chế quản lý, bảo đảm cho xã viên, tập đoàn viên thật sự là người làm chủ tập thể hợp tác xã, tập đoàn sản xuất. Việc đưa nông dân, ngư dân còn làm ăn cá thể vào các tổ sản xuất tập thể phải xuất phát từ yêu cầu phát triển sản xuất, đổi mới kỹ thuật, nâng cao hiệu quả kinh tế; phải thực hiện đúng nguyên tắc tự nguyện, cùng có lợi, quản lý dân chủ, không được dùng mệnh lệnh, gò ép.

Các hợp tác xã và tập đoàn sản xuất cần cải tiến cơ chế khoán sản phẩm cuối cùng đến nhóm và người lao động, cải tiến công tác hạch toán và phân phối thu nhập, bảo đảm sản xuất, kinh doanh tập thể có hiệu quả và ngày càng đưa lại nhiều lợi ích hơn cho xã viên. Thực hiện hình thức góp cổ phần và phân phối một phần giá trị làm ra theo cổ phần để có thêm vốn cho sản xuất tập thể. Khuyến khích các hộ xã viên bỏ vốn, bỏ sức lao động để thâm canh, tăng năng suất trên đất đai nhận khoán. ở những nơi có diện tích bình quân đầu người cao, có thể giao khoán nhiều diện tích cho những hộ có nhiều lao động, có vốn và trình độ thâm canh. Những nơi đất nhiều, người ít có thể giao khoán cho các hộ sử dụng nhiều đất đai hơn trong thời gian tương đối dài để phát triển sản xuất theo quy hoạch và kế hoạch chung; hợp tác xã bảo đảm quyền thừa kế hoa lợi của các hộ trên đất đai được giao trong thời gian đó theo đúng quy định của Nhà nước.

Khuyến khích phát triển mạnh kinh tế gia đình: chăn nuôi, làm vườn, nuôi cá, làm nghề thủ công...; khuyến khích và giúp đỡ các gia đình phát triển chăn nuôi lợn, gia cầm và các gia súc ít dùng lương thực. Tuỳ theo điều kiện cụ thể của từng vùng mà quyết định chăn nuôi trâu bò tập thể hay giao lại cho từng gia đình, nhằm vừa khuyến khích phát triển chăn nuôi trâu bò gia đình, vừa bảo đảm sức kéo cho sản xuất tập thể. Để khuyến khích nhân dân phát triển đàn trâu bò, kể cả trâu bò sữa chung quanh các đô thị và các khu công nghiệp tập trung, cho phép mở rộng việc giao lưu trâu bò giữa các vùng và cho người nuôi được đưa sản phẩm vào bán tại các thành phố, khu công nghiệp. Củng cố các trung tâm giống để cung ứng giống tốt cho xã viên và phát triển các cơ sở chế biến thịt, sữa để chế biến cho cả nhân dân.

Khuyến khích các hợp tác xã, tập đoàn sản xuất, cá thể, tư nhân và gia đình xã viên, công nhân, viên chức ở nông thôn, bỏ vốn đầu tư để phát triển nghề đánh bắt, nuôi trồng thuỷ, hải sản, chú trọng phát triển mạnh nghề nuôi tôm xuất khẩu; phát triển cây công nghiệp, nhất là trồng cà phê, hồ tiêu, dừa...; phát triển ngành, nghề tiểu thủ công nghiệp và vận tải nông thôn dưới nhiều hình thức, kể cả hình thức hùn vốn, liên doanh... Nhà nước tập trung đầu tư để từng bước hình thành những vùng chuyên canh có sản lượng hàng hoá lớn, ổn định, chất lượng cao phù hợp với nhu cầu thị trường thế giới; xây dựng các cụm chế biến nông, lâm, thuỷ sản quy mô vừa và nhỏ chịu trách nhiệm chế biến cho cả vùng và liên vùng.

Thực hiện cơ chế kinh doanh rừng một cách tổng hợp, xoá bỏ bao cấp, thực hiện phương châm "lấy rừng phát triển rừng, có tích luỹ và ngày càng làm giàu vốn rừng". Đầu tư thích đáng và động viên mọi thành phần, mọi tầng lớp nhân dân đẩy mạnh phong trào trồng cây gây rừng, nhất là các cây nguyên liệu cho sản xuất giấy, sợi, trụ mỏ, lấy gỗ, làm củi. Thực hiện việc giao đất, giao rừng cho các tập thể và hộ gia đình một cách lâu dài có bảo đảm quyền thừa kế sử dụng hoa lợi, làm cho rừng nào cũng có người chăm sóc. Người bảo vệ và trồng mới rừng được hưởng lợi ích tương ứng với công sức đóng góp. Đối với rừng do người lao động bỏ vốn, công sức trồng, nhà nước mua sản phẩm theo giá thoả thuận. Tổ chức tốt lực lượng khai thác, chế biến lâm sản; ứng dụng kỹ thuật tiến bộ để tận dụng gỗ cành, ngọn; ngâm tẩm để nâng cao giá trị sử dụng gỗ. Thực hiện nông - lâm kết hợp để sử dụng có hiệu quả đất trống, đồi trọc. Nghiên cứu và thực hiện những chính sách và biện pháp đồng bộ nhằm xoá bỏ những nguồn gốc gây ra nạn phá rừng. Thực hiện nghiêm ngặt những quy định của Nhà nước về bảo vệ rừng, bảo vệ môi trường sống. Xây dựng mối quan hệ tốt giữa nông trường, lâm trường với dân tại chỗ, nhất là với đồng bào dân tộc ở địa phương.

Đối với kinh tế tập thể, gia đình, cá thể, tư nhân, Nhà nước quản lý bằng các biện pháp đồng bộ, trong đó biện pháp kinh tế là chủ yếu,thông qua hợp đồng kinh tế bán vật tư, mua sản phẩm; có các chính sách giá, thuế, đầu tư, tín dụng thích hợp; tổ chức tốt liên kết kinh tế giữa quốc doanh - tập thể - gia đình - cá thể - tư nhân dưới nhiều hình thức đa dạng và phong phú dựa trên cơ sở tự nguyện, trong đó quốc doanh đóng vai trò chủ đạo và nòng cốt để hướng dẫn các loại hình kinh tế này sản xuất, kinh doanh theo đúng quy hoạch, kế hoạch nhà nước.

Sửa đổi chính sách thuế nông nghiệp cho hợp lý hơn; xác định lại mức thuế đối với vùng cây lương thực, trước mắt thực hiện đúng mức thuế 10% và ổn định mức thuế đó đến năm 1990; sửa lại mức thuế đối với cây công nghiệp ngắn ngày và dài ngày, thuế vườn cây ăn quả...; cấm các hình thức phụ thu quá đáng đối với nông dân (Nhà nước sẽ có quy định cụ thể); thực hiện các chính sách kinh tế khuyến khích tăng vụ, mở thêm diện tích như miễn thuế trong mấy năm đầu, cho vay tín dụng ngân hàng với lãi suất thấp.

Củng cố và tăng cường các nông trường quốc doanh, lâm trường quốc doanh, quốc doanh thuỷ, hải sản và các cơ sở kinh tế quốc doanh khác trong nông, lâm, ngư nghiệp để làm tốt nhiệm vụ sản xuất, chế biến và dịch vụ cho các loại hình kinh tế khác. Các cơ sở quốc doanh nông, lâm, ngư nghiệp phải chuyển sang kinh doanh có hiệu quả, chấm dứt tình trạng lỗ kéo dài. Các cơ sở quốc doanh lỗ kéo dài, không có khả năng kinh doanh có hiệu quả, phải giải thể hoặc chuyển sang các hình thức sở hữu khác thích hợp. Đối với đất đai đã quy hoạch nhưng chưa sử dụng hết, sau một thời gian quy định, các cơ sở kinh tế quốc doanh phải giao lại cho hợp tác xã, tập đoàn sản xuất và nhân dân sử dụng để sản xuất.

Có chính sách khuyến khích nước ngoài đầu tư vốn vào phát triển nông, lâm, ngư nghiệp; thực hiện tốt các hiệp định hợp tác với Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa khác về trồng cao su, cà phê, chè, dừa, rau quả... Nhà nước giao toàn bộ vật tư, thiết bị hợp tác cho các tổng công ty, liên hiệp xí nghiệp phụ trách ngành hàng trực tiếp quản lý và sử dụng vào việc sản xuất, kinh doanh theo kế hoạch hợp tác. Các tổng công ty và liên hiệp xí nghiệp chủ động bố trí kế hoạch, tổ chức liên kết giữa quốc doanh, tập thể, cá thể, tư nhân, nhằm bảo đảm thực hiện có hiệu quả các cam kết với nước ngoài và làm nghĩa vụ với Nhà nước trên cơ sở hạch toán kinh doanh, tự chịu trách nhiệm về lỗ, lãi.

b) Hàng tiêu dùng.

Trong năm 1988 tăng 12,5% giá trị sản lượng hàng tiêu dùng so với năm 1987 và trong ba năm tới tăng bình quân hằng năm 13-15%.

- Đi đôi với việc thực hiện các hiệp định về gia công hợp tác sản xuất hàng tiêu dùng với nước ngoài, phải ưu tiên phát triển sản xuất các hàng tiêu dùng thiết yếu cho đời sống nhân dân, những sản phẩm đem lại nguồn thu lớn cho ngân sách và những mặt hàng nông dân có yêu cầu để trao đổi lấy lương thực, nông sản. Chú ý sản xuất nhiều loại hàng tiêu dùng, không để thiếu những hàng tiêu dùng thông thường và từng bước đáp ứng yêu cầu đa dạng của xã hội. Việc tăng sản lượng phải đi liền với nâng cao chất lượng sản phẩm và hiệu quả kinh tế, không ngừng đổi mới quy cách, mẫu mã, bảo đảm kỹ thuật và mỹ thuật của sản phẩm, hợp thị hiếu của người tiêu dùng. Đối với những mặt hàng quan trọng, phải có sự xác nhận chất lượng của cơ quan quản lý khoa học.

- Bằng nhiều biện pháp để có thêm vật tư, nguyên liệu cho công nghiệp sản xuất hàng tiêu dùng và sử dụng có hiệu quả số vật tư đó. Nhà nước ưu tiên bán vật tư, năng lượng cho các cơ sở sản xuất có năng suất, chất lượng và hiệu quả cao, trước hết cho các cơ sở ở Thủ đô Hà Nội, Thành phố Hồ Chí Minh và một số thành phố khác. Đẩy mạnh khai thác các nguồn nguyên liệu trong nước bằng chính sách đầu tư và mua bán theo giá thoả thuận, bằng ký kết hợp đồng trực tiếp, bình đẳng giữa cơ sở sản xuất và cơ sở nguyên liệu, xoá bỏ trung gian không cần thiết, gây phiền hà, gắn lợi ích người sản xuất nguyên liệu với cơ sở chế biến. Cho phép các ngành, các địa phương, các cơ sở sản xuất có điều kiện trực tiếp ký hợp đồng về gia công, hợp tác sản xuất với các tổ chức kinh tế nước ngoài, vay ngoại tệ để nhập vật tư, nguyên liệu và trả lại bằng hàng xuất khẩu hoặc ngoại tệ. Khuyến khích Việt kiều đầu tư nguyên liệu, thiết bị, ngoại tệ cho sản xuất hàng tiêu dùng bằng nhiều hình thức khác nhau.

Triệt để tiết kiệm nguyên liệu, vật tư, năng lượng trên cơ sở cải tiến công nghệ, quản lý chặt các định mức kinh tế - kỹ thuật, cải tiến thiết kế sản phẩm, tổ chức tốt công tác vận chuyển, bảo quản. Tận dụng các loại nguyên liệu thứ cấp, thu gom, tái chế phế liệu, phế phẩm...

- Khai thác tiềm năng của mọi thành phần kinh tế ở cả thành thị và nông thôn, của các cơ sở kinh tế, kể cả xí nghiệp công nghiệp nặng, xí nghiệp quốc phòng để phát triển mạnh mẽ sản xuất hàng tiêu dùng. Đi đôi với việc củng cố và phát triển kinh tế quốc doanh trở thành lực lượng chủ đạo, củng cố kinh tế tập thể, cần sớm ban hành chính sách sử dụng và quản lý các thành phần kinh tế khác, nhằm tạo thêm việc làm, thu hút tiền vốn để phát triển sản xuất, dịch vụ theo phương hướng và mục tiêu của nhà nước xã hội chủ nghĩa.

Tinh thần chủ yếu cần quán triệt là thành phần nào sản xuất sản phẩm gì có lợi hơn thì phải phát huy đầy đủ tác dụng của thành phần ấy, đồng thời không ngừng củng cố và tăng cường thành phần kinh tế xã hội chủ nghĩa.

Các xí nghiệp quốc doanh sản xuất hàng tiêu dùng và dịch vụ phải chuyển nhanh sang hạch toán kinh doanh xã hội chủ nghĩa theo Nghị quyết Hội nghị Trung ương ba để nâng cao hệ số sử dụng công suất, hiệu quả kinh tế, bảo đảm kinh doanh có lãi, tăng tích luỹ cho Nhà nước. Những xí nghiệp sản xuất, kinh doanh lỗ kéo dài, không có khả năng củng cố để làm ăn có lãi thì cơ quan quản lý trực tiếp phải quyết định giải thể hoặc chuyển sang các hình thức sở hữu khác.

+ Việc tập thể hoá sản xuất phải nhằm mục đích phát triển sản xuất, nâng cao hiệu quả kinh tế và theo đúng nguyên tắc tự nguyện, cùng có lợi, quản lý dân chủ. Nhà nước có chính sách khuyến khích người làm tiểu, thủ công nghiệp đi vào con đường làm ăn tập thể, bảo đảm quyền tự chủ sản xuất, kinh doanh của các cơ sở kinh tế tập thể và giúp đỡ các cơ sở này phát triển sản xuất, kinh doanh có hiệu quả.

Khuyến khích mọi công dân đầu tư vào sản xuất và dịch vụ công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp, xây dựng, vận tải, phát triển khoa học - kỹ thuật dưới các hình thức: cơ sở kinh tế cá thể, kinh tế tư nhân, công ty tư nhân, tổ hợp, công tư hợp doanh và kinh tế gia đình của công nhân, viên chức, xã viên.

Nhà nước công nhận sự tồn tại lâu dài và tác dụng tích cực của kinh tế gia đình, kinh tế cá thể, kinh tế tư nhân sản xuất, dịch vụ; bảo hộ quyền sở hữu, quyền thừa kế tài sản và thu nhập hợp pháp của công dân trong các loại hình kinh tế này; thừa nhận tư cách pháp nhân và bảo đảm địa vị bình đẳng trước pháp luật trong hoạt động sản xuất, kinh doanh của họ; xoá bỏ mọi định kiến hẹp hòi và phân biệt đối xử về mặt chính trị và xã hội với họ và con cái họ.

Cho phép các cơ sở kinh tế tư nhân thuê mướn nhân công tuỳ thuộc vào quy trình công nghệ và hiệu quả kinh tế của cơ sở sản xuất, đồng thời bắt buộc các cơ sở tư nhân phải bảo đảm đầy đủ lợi ích người lao động và nghĩa vụ với Nhà nước theo đúng quy định của Nhà nước.

Nhà nước quản lý và hướng dẫn các cơ sở kinh tế này hoạt động sản xuất kinh doanh theo phương hướng, quy hoạch và kế hoạch chung bằng các chính sách và luật pháp kinh tế; bằng phát huy ngày càng đầy đủ hơn vai trò chủ đạo và nòng cốt của thành phần kinh tế quốc doanh trong liên doanh, liên kết kinh tế, hướng dẫn kỹ thuật, cung ứng vật tư, tiêu thụ sản phẩm, thông qua hợp đồng kinh tế; bằng tăng cường kiểm tra và giám sát.

Các tổ chức kinh tế quốc doanh thực hiện liên doanh, liên kết kinh tế với các cơ sở tiểu, thủ công nghiệp tập thể, cá thể, tư nhân, gia đình theo nguyên tắc tự nguyện, cùng có lợi; mua bán với các cơ sở này theo nguyên tắc thuận mua vừa bán, khắc phục mọi biểu hiện cửa quyền, ép cấp, ép giá và các hiện tượng bất bình đẳng khác. Các bên liên kết, liên doanh đều có trách nhiệm và quyền lợi như nhau theo nguyên tắc bình đẳng trước pháp luật.

Chính quyền tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương được quyền cụ thể hoá các quy định của Nhà nước trung ương để vận dụng phù hợp với đặc điểm của địa phương.

Phát huy tiềm năng khoa học - kỹ thuật để nâng cao hiệu quả sử dụng cơ sở vật chất - kỹ thuật hiện có, khôi phục máy móc, thiết bị, cải tiến và đổi mới kỹ thuật, đổi mới công nghệ, tổ chức lao động khoa học, sử dụng hợp lý và tiết kiệm nguyên liệu, vật tư, năng lượng, nâng cao chất lượng sản phẩm, hiệu quả kinh tế, tạo ra những mặt hàng tiêu dùng mới có giá trị kinh tế và chất lượng cao.

Nâng cao kỹ thuật của tiểu công nghiệp và thủ công nghiệp, kể cả những ngành, nghề thủ công truyền thống.

Tranh thủ nhập kỹ thuật và công nghệ hiện đại cho một số ngành chọn lọc, cho các cơ sở, kể cả cơ sở sản xuất tư nhân, cá thể có khả năng về ngoại tệ và sản xuất có hiệu quả.

Tăng cường quản lý kỹ thuật, có chế độ kiểm tra, đánh giá và giám định trình độ kỹ thuật công nghệ, định kỳ kiểm tra các định mức, chỉ tiêu kinh tế - kỹ thuật, chất lượng sản phẩm ở các xí nghiệp.

c) Phát triển mạnh hoạt động xuất khẩu, nhập khẩu và mở rộng quan hệ kinh tế đối ngoại.

Phát triển mạnh hoạt động xuất khẩu, nhập khẩu và mở rộng quan hệ kinh tế đối ngoại, trước hết với Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa khác trong Hội đồng tương trợ kinh tế. Tăng cường quan hệ kinh tế với Cộng hoà dân chủ Nhân dân Lào, Cộng hoà Nhân dân Campuchia trên cơ sở bình đẳng, cùng có lợi và giúp đỡ lẫn nhau nhằm không ngừng củng cố khối liên minh đặc biệt giữa ba nước Việt Nam, Lào, Cam-pu-chia. Mở rộng quan hệ kinh tế với các nước ngoài khu vực xã hội chủ nghĩa. Phấn đấu thực hiện chỉ tiêu kim ngạch xuất khẩu trong 5 năm 1986 - 1990 tăng 70% so với 5 năm trước.

Trung ương thống nhất quản lý hoạt động xuất nhập khẩu và quan hệ kinh tế đối ngoại. Phân công, phân cấp hợp lý giữa các cấp, các ngành. Đổi mới tổ chức và cơ chế quản lý ngoại thương và ngoại tệ theo hướng thu gọn đầu mối xuất nhập khẩu vào các công ty kinh doanh từng loại mặt hàng của Trung ương và của các địa phương trong từng khu vực. Bảo đảm hiệu quả kinh tế trong kinh doanh xuất nhập khẩu. Bảo đảm lợi ích thoả đáng của đơn vị và người làm hàng xuất khẩu. Giải quyết hợp lý lợi ích giữa các cơ sở, địa phương sản xuất nguyên liệu và cơ sở, địa phương chế biến hàng xuất khẩu, xoá bỏ tình trạng tranh mua, tranh bán ở trong và ngoài nước. Nhà nước thống nhất quản lý ngoại tệ, chấm dứt việc mua bán và thanh toán trục tiếp bằng ngoại tệ ở trong nước giữa các đơn vị sản xuất, kinh doanh, giữa các địa phương; có chính sách bảo đảm quyền sử dụng ngoại tệ chính đáng của các ngành, địa phương và cơ sở; thực hiện cơ chế mua bán ngoại tệ qua ngân hàng ngoại thương.

Tổ chức lại sản xuất hàng xuất khẩu, tập trung vốn và vật tư vào những mặt hàng có hiệu quả kinh tế cao, những vùng chuyên canh, những mặt hàng xuất khẩu chủ lực. Đưa nhanh kỹ thuật tiến bộ vào sản xuất để nâng cao chất lượng hàng xuất khẩu.

- Khuyến khích mạnh người lao động trực tiếp sản xuất hàng xuất khẩu. Đối với những mặt hàng xuất khẩu quan trọng như cao su, cà phê, chè, lạc, hồ tiêu, thuỷ sản,... Trung ương cân đối các điều kiện vật chất và thực hiện mua, bán theo giá thoả thuận để nắm đại bộ phận sản phẩm. Các địa phương có cơ sở chế biến hàng xuất khẩu cần chỉ đạo các cơ sở này liên doanh, liên kết kinh tế với các cơ sở sản xuất nguyên liệu ở các địa phương khác để có nguyên liệu cho chế biến; chấm dứt tình trạng nơi này đặt giá cao để thu hút nguyên liệu của các nơi khác, gây hỗn loạn giá cả thị trường. Nhà nước ban hành thuế xuất, nhập khẩu nhằm bảo hộ sản xuất trong nước, khuyến khích xuất khẩu, nhập tư liệu sản xuất, không nhập hàng tiêu dùng trong nước đã sản xuất được và cấm hẳn nhập hàng xa xỉ.

- Trong hợp tác kinh tế với nước ngoài, thực hiện đầy đủ nguyên tắc các bên cùng có lợi, bảo đảm hiệu quả kinh tế và làm tốt việc chuyển giao kỹ thuật. Xây dựng quy hoạch và kế hoạch thống nhất, bảo đảm chỉ đạo tập trung, thực hiện quan hệ hợp tác trực tiếp ở ba cấp: Nhà nước, ngành và cơ sở bằng nhiều hình thức linh hoạt, phù hợp với từng mặt hàng và đối tượng hợp tác.

- Nghiên cứu sửa đổi cơ chế, chính sách và tổ chức quản lý tốt để mở rộng hợp tác lao động với nước ngoài bằng nhiều hình thức thích hợp.

- Phát triển mạnh các dịch vụ thu ngoại tệ như du lịch, kiều hối, v.v...

- Ban hành Luật đầu tư và các văn bản pháp quy đồng bộ kèm theo.

- Đổi mới chính sách và hoạt động của các ngành hải quan, nội vụ, tạo điều kiện thuận lợi cho việc mở rộng các quan hệ kinh tế với nước ngoài.

2- Để phục vụ ba chương trình kinh tế lớn, cần phát triển tương ứng một số ngành công nghiệp nặng và kết cấu hạ tầng, nhất là giao thông vận tải.

- Ngành năng lượng: Bảo đảm các nguồn năng lượng hiện có hoạt động bình thường. Tiếp tục đầu tư để bảo đảm huy động đúng tiến độ các nhà máy thuỷ điện Hoà Bình, Trị An, xây dựng các cơ sở thuỷ điện vừa và nhỏ. Thực hiện các biện pháp tích cực để bổ sung nguồn điện cho miền Trung; chuẩn bị xây dựng thuỷ điện Hàm Thuận, Sông Hinh, Ealy. Hoàn thành xây dựng các mỏ than Cao Sơn, Mạo Khê, Na Dương... ; cải tạo các nhà sàng Cửa Ông, Hòn Gai để nâng cao chất lượng than. Bảo đảm kế hoạch khai thác dầu khí ở thềm lục địa phía nam, nghiên cứu mở rộng ra các vùng khác; nghiên cứu và triển khai sớm việc sử dụng nguồn khí đồng hành ở miền Nam; xúc tiến việc chuẩn bị xây dựng nhà máy lọc dầu và hoá dầu.

- Sắp xếp lại và phân công hợp tác sản xuất cơ khí, bảo đảm yêu cầu cấp bách về sửa chữa và trang bị nông cụ, máy móc nông nghiệp, thiết bị chế biến nông sản, thiết bị và phụ tùng thông thường. Mở rộng và nâng cao chất lượng các mặt hàng kim khí tiêu dùng. Từng bước phát triển công nghiệp điện tử, kỹ thuật tin học, công nghiệp quốc phòng... Thực hiện hợp tác sản xuất cơ khí với Liên Xô, các nước trong Hội đồng tương trợ kinh tế và các nước khác.

- Về công nghiệp nguyên liệu, thực hiện các biện pháp để huy động hết công suất của Nhà máy supe phốt phát Lâm Thao, chuẩn bị mở rộng nhà máy. Hoàn thành cơ bản việc xây dựng khu mỏ apatít và nhà máy tuyển quặng vào cuối năm 1990. Đồng bộ hoá các nhà máy xi măng Hoàng Thạch, Bỉm Sơn, hoàn thành việc mở rộng Nhà máy xi măng Hà Tiên và các nhà máy luyện kim hiện có. Có chính sách khuyến khích khai thác mỏ nhỏ, huy động các nguồn tài nguyên khoáng sản phục vụ nguyên liệu cho sản xuất công, nông nghiệp và vật liệu xây dựng. Chuẩn bị hợp tác luyện kim màu với nước ngoài.

- Tăng thêm đầu tư cho giao thông vận tải, thực hiện cơ chế hạch toán kinh doanh, từng bước xoá lỗ, tiến tới có lãi. Ban hành chế độ thu phí giao thông thuỷ, bộ.

Huy động khả năng của mọi thành phần kinh tế để phát triển vận tải nông thôn, vận tải thô sơ, phát triển giao thông vận tải ở miền núi.

- Chú trọng nâng cao chất lượng hoạt động thông tin, bưu điện; sử dụng tốt phương tiện hiện có, từng bước hiện đại hoá phương tiện thông tin, bưu điện.

3- Việc phân bổ vốn đầu tư xây dựng cơ bản và nguồn vật tư thiết bị cũng phải theo đúng phương hướng bố trí cơ cấu kinh tế và tương ứng với mục tiêu, chỉ tiêu đã ấn định.

- Trong năm 1988, bố trí mức đầu tư ít nhất bằng khối lượng đầu tư xây dựng cơ bản năm 1987, các năm sau, mỗi năm tăng ít nhất 8 - 10%. Tập trung đúng mức vốn đầu tư cho ba chương trình kinh tế. Sử dụng tuyệt đại bộ phận vốn đầu tư cho các công trình chuyển tiếp, đầu tư chiều sâu và đồng bộ hoá. Chú ý đầu tư thoả đáng hơn cho miền núi, biên giới. Dành một phần vốn đầu tư cho việc chuẩn bị các công trình cần thiết sẽ xây dựng trong 5 năm 1991 - 1995.

Ngoài vốn của Nhà nước, bằng nhiều hình thức, huy động rộng rãi nguồn vốn của các thành phần kinh tế, của nhân dân, của Việt kiều và tạo mọi điều kiện để vay vốn dài hạn của nước ngoài cho công cuộc xây dựng kinh kế.

- Dành phần lớn vật tư, đặc biệt là vật tư nhập khẩu, phục vụ cho ba chương trình kinh tế.

- Coi trọng chất lượng công trình và triệt để tiết kiệm trong xây dựng cơ bản.

- Hội đồng Bộ trưởng sớm đánh giá và có biện pháp xử lý kịp thời những thiết bị toàn bộ nhập khẩu đang tồn kho.

4- Thực hiện tốt các chính sách xã hội, gắn chính sách xã hội với chính sách kinh tế.

Các chính sách kinh tế rút cuộc nhằm mục đích giải quyết tốt các vấn đề xã hội. Những tiến bộ kinh tế phải thể hiện trong việc cải thiện đời sống vật chất và tinh thần của người lao động. Mặt khác, thực hiện tốt các chính sách xã hội để thúc đẩy sản xuất và phục vụ sự nghiệp phát triển kinh tế.

Đặc biệt quan tâm tạo thêm việc làm cho nhân dân, nhất là ở Thủ đô Hà Nội, Thành phố Hồ Chí Minh và các khu công nghiệp tập trung, trước hết là cho quân nhân xuất ngũ và cho thanh niên bước vào tuổi lao động. Chủ yếu là sử dụng lao động tại chỗ; đồng thời có quy hoạch, kế hoạch và chính sách đưa người đi xây dựng các vùng kinh tế mới đi đôi với phân bố lại sản xuất và dân cư giữa các vùng; mở rộng việc hợp tác lao động với nước ngoài.

Các hoạt động giáo dục, y tế, văn hoá, thông tin, thể dục thể thao... đều phải được tăng cường thích đáng về cơ sở vật chất kỹ thuật và nâng cao chất lượng hoạt động, hướng vào phục vụ thực hiện ba chương trình kinh tế, xây dựng con người mới xã hội chủ nghĩa, góp phần tích cực vào việc ổn định và lành mạnh hoá tình hình kinh tế, xã hội.

5- Cùng với việc thực hiện các mục tiêu kinh tế, xã hội, phải đáp ứng tốt các nhu cầu củng cố quốc phòng và an ninh. Phải tăng cường củng cố quốc phòng, an ninh, giữ gìn tốt trật tự và an toàn xã hội. Kết hợp kinh tế với quốc phòng; sử dụng có hiệu quả lực lượng quân đội và các cơ sở sản xuất quốc phòng tham gia tích cực và có hiệu quả vào công cuộc xây dựng kinh tế.

6- Đổi mới cơ chế kế hoạch hoá và các chính sách phân phối lưu thông.

Trong năm 1988, phải tập trung đổi mới một bước cơ chế kế hoạch hoá và các chính sách phân phối lưu thông.

a) Về kế hoạch hoá:

Tiếp tục hoàn thiện và kịp thời thể chế hoá nội dung cơ chế kế hoạch hoá nền kinh tế quốc dân đã ghi trong Nghị quyết Đại hội VI và Nghị quyết Trung ương ba theo hướng hạn chế phần kế hoạch pháp lệnh đến mức tối thiểu cần thiết, mở rộng phần kế hoạch hoá gián tiếp, bảo đảm chế độ tự chủ sản xuất kinh doanh của các đơn vị kinh tế cơ sở và các tổ chức kinh tế.

b) Về chính sách phân phối lưu thông:

Thực hiện những mục tiêu và định hướng của Nghị quyết Hội nghị Trung ương hai, trong năm 1988 kiên quyết chuyển các hoạt động kinh tế sang hạch toán kinh doanh xã hội chủ nghĩa bằng những bước đi tích cực, vững chắc, có hiệu quả thiết thực trên cơ sở những phương án đồng bộ, có thí điểm, nhằm tiến tới ổn định tình hình phân phối lưu thông, thúc đẩy sản xuất phát triển, nâng cao năng suất, chất lượng, hiệu quả củng cố và mở rộng kinh tế xã hội chủ nghĩa, bảo đảm mối quan hệ công - nông, quan hệ tích luỹ - tiêu dùng, bảo đảm ba lợi ích.

Năm 1988, cần thực hiện những chủ trương sau đây:

Về giá, nói chung, sớm thực hiện cơ chế một giá kinh doanh. Song phải kiên quyết đấu tranh từng bước ổn định vật giá bằng mọi biện pháp: củng cố tổ chức và mở rộng trận địa thương nghiệp xã hội chủ nghĩa; thương nghiệp quốc doanh tăng cường nắm hàng, chuyển mạnh sang kinh doanh, vươn lên làm chủ thị trường; sắp xếp, tổ chức lại, quản lý và sử dụng tốt tiểu thương; tích cực sử dụng và cải tạo tư sản thương nghiệp bằng những hình thức thích hợp; kiên quyết đấu tranh với những kẻ sản xuất và buôn bán hàng giả, kinh doanh trái phép; nghiêm trị bọn đầu cơ, buôn lậu, phá rối thị trường và giá cả; sử dụng tổng hợp mọi biện pháp kinh tế, giáo dục, hành chính và tổ chức, tạo thành phong trào quần chúng tham gia quản lý thị trường và chống tiêu cực.

Theo nguyên tắc sớm thực hiện cơ chế một giá kinh doanh trên đây, giao cho Bộ Chính trị chỉ đạo Thường vụ Hội đồng Bộ trưởng hướng dẫn giá và phương thức mua lương thực, bán vật tư cho nông dân, không được ép cấp, ép giá, bảo đảm quyền lợi của người sản xuất; hướng dẫn giá bán lương thực, bảo đảm quyền lợi chính đáng của người tiêu dùng.

Các xí nghiệp công nghiệp quốc doanh sản xuất tư liệu sản xuất cũng như sản xuất tư liệu tiêu dùng đều phải tính đúng, tính đủ giá vật tư, nguyên liệu, năng lượng đưa vào sản xuất trên cơ sở định mức kinh tế kỹ thuật trung bình tiên tiến; mặt khác phải đổi mới quản lý, đổi mới công nghệ và kỹ thuật, tổ chức hợp lý hoá sản xuất, loại bỏ những chi phí bất hợp lý, bảo đảm sản xuất kinh doanh không lỗ và có lãi mà không làm đội giá đang hình thành thực tế trên thị trường vào thời điểm xí nghiệp bán hàng ra. Nói chung Nhà nước không dùng vốn ngân sách bù lỗ cho sản xuất, kinh doanh. Đối với một số tư liệu rất cần thiết cho nền kinh tế quốc dân mà điều kiện sản xuất còn khó khăn và một số hàng tiêu dùng có tính chất xã hội, Nhà nước chỉ trợ giá trong một thời gian nhất định và trợ giá chủ yếu cho đơn vị và người trực tiếp sử dụng. Riêng đối với một số ít tư liệu sản xuất mà xí nghiệp trong nước làm ra còn đội giá thị trường, thì Nhà nước hoặc cho phép điều chỉnh giá lên, hoặc tạm thời cho trợ giá trong một thời gian.

Giao cho Bộ Chính trị chỉ đạo Hội đồng Bộ trưởng quyết định cụ thể tỉ giá đồng tiền Việt Nam so với đồng rúp, đồng đôla và các đồng ngoại tệ khác theo nguyên tắc căn cứ vào giá thị trường trong nước, thị trường quốc tế, quan hệ xuất nhập khẩu, khắc phục bao cấp qua giá, thu hẹp dần, tiến tới xoá bỏ bù lỗ từ ngân sách cho xuất nhập khẩu, không để tỉ giá quá thấp như hiện nay. Thực hiện thu bù chênh lệch ngoại thương, bảo đảm xuất nhập khẩu không bị lỗ, tiến tới có lãi.

Đổi mới cơ chế định giá và quản lý giá. Nhà nước trung ương định mức giá hoặc khung giá những vật tư, hàng hoá và dịch vụ trọng yếu nhất của nền kinh tế quốc dân. Chính quyền tỉnh, thành chỉ đạo, hướng dẫn giá đối với những mặt hàng trọng yếu sản xuất và tiêu dùng trong phạm vi địa phương. Giao quyền cho các cơ sở sản xuất kinh doanh thoả thuận với người tiêu thụ để định mức giá các loại vật tư, hàng hoá khác theo nguyên tắc thuận mua, vừa bán.

- Về lương:

Giảm bớt khó khăn về đời sống của người ăn lương, và tích cực khắc phục những bất hợp lý mới phát sinh trong đợt tính lại tiền lương tháng 10-1987, xoá bỏ ba hệ số lương, khôi phục phụ cấp khu vực, phụ cấp thâm niên cho một số ngành, nghề, v.v..

Trong khu vực sản xuất vật chất, gắn tiền lương của công nhân, viên chức với hiệu quả sản xuất, kinh doanh của xí nghiệp và kết quả tăng năng suất lao động của cá nhân, trên cơ sở định mức kinh tế - kỹ thuật và đơn giá lương được xác định đúng đắn; Nhà nước không khống chế mức thu nhập tối đa và có biện pháp điều tiết những thu nhập quá cao theo tinh thần và nội dung Nghị quyết Trung ương ba, đồng thời cũng không sử dụng ngân sách để bù lương cho những xí nghiệp sản xuất kinh doanh kém. Làm thử và tiến tới mở rộng việc thực hiện chế độ xí nghiệp chịu trách nhiệm trả lương trên cơ sở thu nhập của xí nghiệp (bao gồm cả quỹ lương và phần lợi nhuận để lại cho xí nghiệp).

Nhà nước có chế độ phụ cấp thích đáng đối với cán bộ, nhân viên hoạt động trong các ngành giáo dục, y tế, văn hoá và cho phép các cơ sở giáo dục, y tế, văn hoá làm việc tập thể thêm ngoài giờ để phục vụ nhân dân, tăng thêm thu nhập. Có chính sách khuyến khích chuyển hoạt động của phần lớn cơ sở nghiên cứu, thực nghiệm khoa học, kỹ thuật gắn với các cơ sở sản xuất kinh doanh, thực hiện hạch toán kinh doanh, để phát huy khả năng nghiên cứu ứng dụng và tăng thêm thu nhập chính đáng cho đội ngũ cán bộ khoa học - kỹ thuật.

Đối với khu vực hành chính, dựa trên cơ sở tinh giản biên chế, tăng thu của ngân sách và triệt để tiết kiệm chi tiêu hành chính mà từ nay đến năm 1990 từng bước khôi phục mức lương thực tế tháng 9-1985.

Trong khi giải quyết tiền lương theo hướng quán triệt thêm một bước nguyên tắc phân phối theo lao động, phải đặc biệt quan tâm đời sống của lực lượng vũ trang, trước hết ở các vùng biên giới, hải đảo.

Phải giải quyết tốt các chính sách xã hội, chăm sóc tốt hơn đời sống của những cán bộ hoạt động lâu năm, những thương binh, bệnh binh nặng, những người về hưu, các gia đình công nhân, viên chức có đông người ăn theo, v.v..

Khẩn trương nghiên cứu phương án cải cách cơ bản chế độ tiền lương; tách chính sách xã hội ra khỏi chính sách lương; tăng tỉ lệ trích lập quỹ bảo hiểm xã hội, từng bước tách quỹ bảo hiểm xã hội ra khỏi nguồn chi ngân sách.

Về ngân sách:

Phấn đấu giảm tỉ lệ bội chi ngân sách so với năm 1987 trên cơ sở tăng thu (thu đúng, thu đủ theo chính sách), chống thất thu; hạn chế, tiến tới chấm dứt phát hành tiền mặt để bù cho bội chi ngân sách. Từng bước giảm mạnh, tiến tới xoá bỏ bù lỗ, bù giá từ ngân sách nhà nước. Cải tiến chính sách thuế, bổ sung những loại thuế thích hợp nhằm khuyến khích sản xuất, hướng dẫn lưu thông, tăng thu nhập ngân sách, thực hiện công bằng xã hội trong phân phối thu nhập, hướng dẫn tiêu dùng hợp lý.

Sửa đổi ngay chế độ phân cấp ngân sách nhà nước theo nguyên tắc: thực hiện việc điều hành thống nhất hệ thống ngân sách nhà nước trong phạm vi cả nước trên cơ sở phân biệt giữa chức năng quản lý nhà nước về kinh tế của các cấp chính quyền và chức năng quản lý sản xuất kinh doanh; bảo đảm lợi ích hài hoà giữa Trung ương, địa phương và cơ sở; thực hiện một chính sách thu chi thống nhất có khuyến khích thoả đáng đối với các địa phương, tăng được nguồn thu cho ngân sách; không phân biệt xí nghiệp Trung ương hay xí nghiệp địa phương về nghĩa vụ đối với Nhà nước. Ngành tài chính và uỷ ban nhân dân cấp tỉnh, thành có trách nhiệm chỉ đạo thực hiện tốt các khoản thu từ các xí nghiệp quốc doanh trên phạm vi lãnh thổ và những khoản thu từ kinh tế tập thể, tư nhân và cá thể. Đồng thời chỉ đạo thực hiện các khoản chi đã được qui định trong ngân sách.

- Về tiền tệ: Thực hiện có hiệu quả kinh doanh tiền tệ, tín dụng (kể cả vàng, bạc, đá quý, ngoại tệ...) và các dịch vụ ngân hàng. Nhanh chóng thành lập các ngân hàng chuyên nghiệp cần thiết (ngân hàng phát triển nông nghiệp, ngân hàng công thương nghiệp...) để thực hiện kinh doanh thực sự.

Tăng nhanh vòng quay đồng tiền qua ngân hàng. Bảo đảm đáp ứng nhu cầu về tiền mặt cho sản xuất, kinh doanh. Cải tiến phương thức thanh toán không dùng tiền mặt. Tăng cường quản lý tiền mặt. Kiên quyết chống lạm phát qua tài chính và tín dụng.

Tách ngân hàng phát hành với ngân hàng kinh doanh. Lập kho dự trữ tiền, vàng, bạc, đá quý của Nhà nước. Việc phát hành phải do Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng quyết định và trong trường hợp phải phát hành thêm một khối lượng tiền lớn phải do Bộ Chính trị quyết định.

- Từ đầu năm 1988, các ngành thương nghiệp, lương thực, vật tư, ngân hàng, xuất nhập khẩu... phải chuyển sang kinh doanh thực sự;giảm chi phí lưu thông; loại trừ tình trạng lộn xộn trong hoạt động xuất nhập khẩu, trong liên kết, liên doanh; xoá bỏ những khâu trung gian không cần thiết; thực hiện tự bù đắp, tự chịu trách nhiệm, tự trang trải vốn và có lãi nộp ngân sách.

7- Mở rộng dân chủ, tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa.

Không ngừng mở rộng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, bảo đảm quyền làm chủ thực sự của nhân dân thông qua việc thực hiện đầy đủ chế độ tự chủ sản xuất, kinh doanh của mọi loại cơ sở, phát huy hiệu lực của các cơ quan dân cử, đấu tranh khắc phục có hiệu quả tình trạng cửa quyền, ức hiếp quần chúng, thực hiện đúng chủ trương: dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra.

Xây dựng nhanh các pháp chế kinh tế và pháp luật mới, xoá bỏ các luật lệ, chế định đã lỗi thời. Tăng cường giáo dục cán bộ, đảng viên và nhân dân thi hành pháp luật. Các cơ quan nhà nước tăng cường kiểm tra thi hành pháp luật và kịp thời nghiêm trị mọi hành động phạm pháp, để lập lại kỷ cương, trật tự trong hoạt động sản xuất, kinh doanh và trong sinh hoạt xã hội.

8- Riêng đối với miền núi, cần có các hội nghị chuyên đề để cụ thể hoá các chính sách kinh tế - xã hội nói trên phù hợp với đặc điểm riêng của miền núi, đặc biệt là các vùng miền núi phía Bắc và Tây Nguyên.

III. VỀ CHỈ ĐẠO VÀ TỔ CHỨC THỰC HIỆN

1- Nhanh chóng xây dựng cơ chế quản lý đồng bộ và thể chế hoá các quyết định của Đảng.

Xây dựng, bổ sung và cụ thể hoá các chính sách khuyến khích phát triển sản xuất, kinh doanh, nâng cao hiệu quả kinh tế trong nông nghiệp, công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp và các ngành kinh tế khác. Xây dựng cơ chế quản lý đối với nông nghiệp, tiểu thủ công nghiệp.

Ban hành các văn bản pháp quy nhằm thể chế hoá và hướng dẫn thực hiện Nghị quyết Hội nghị lần thứ ba Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khoá VI) về cơ chế quản lý đối với xí nghiệp quốc doanh và các chính sách khuyến khích các thành phần kinh tế (ngoài quốc doanh) mở rộng sản xuất, kinh doanh. Thực hiện đúng đắn Nghị quyết Trung ương hai: gấp rút bổ sung chính sách giá cả, tiền lương; quản lý công tác xuất nhập khẩu, du lịch, hải quan, quản lý ngoại tệ; chuyển ngay các hoạt động của tổ chức vật tư, lương thực, nội thương, ngoại thương, dịch vụ nông nghiệp, giao thông vận tải, ngân hàng sang hạch toán - kinh doanh xã hội chủ nghĩa. Xem xét lại các luật lệ hiện hành, xây dựng các chính sách, chế độ nhằm khuyến khích các hoạt động văn hoá xã hội, kích thích sự say mê sáng tạo và hứng thú nghề nghiệp, gắn trách nhiệm với vinh dự và quyền lợi.

Sớm ban hành các văn bản pháp quy nhằm thể chế hoá và hướng dẫn thực hiện Nghị quyết Hội nghị lần thứ ba, lần thứ tư của Trung ương Đảng (khoá VI).

2- Trong năm 1988, thực hiện một bước quan trọng chấn chỉnh bộ máy đảng, bộ máy quản lý nhà nước các cấp và bộ máy sản xuất, kinh doanh.

Định rõ chức năng quản lý nhà nước về kinh tế của các bộ, các cấp chính quyền địa phương; chuyển nhanh các bộ, uỷ ban nhân dân sang làm chức năng quản lý nhà nước về kinh tế, giao lại đầy đủ quyền hạn và trách nhiệm cho các tổ chức và các cơ sở kinh tế trong việc trực tiếp điều hành hoạt động sản xuất, kinh doanh.

Dựa trên cơ sở xác định rõ chức năng của từng tổ chức trong cơ chế "Đảng lãnh đạo, nhân dân làm chủ, Nhà nước quản lý" mà chấn chỉnh tổ chức, tinh giản bộ máy đảng, các cơ quan nhà nước và các đoàn thể từ Trung ương đến tỉnh, thành, quận, huyện, cơ sở. ở Trung ương, giảm số ban, bộ, tổng cục đi đôi với kiện toàn các cơ quan kinh tế tổng hợp như: kế hoạch, tài chính, kinh tế đối ngoại... ở cấp tỉnh, thành, giảm bớt số ban, sở và đơn vị trực thuộc uỷ ban nhân dân, không nhất thiết ở Trung ương có ban, bộ nào thì ở cấp tỉnh, thành cũng có ban, sở ấy. Đặc biệt ở cấp huyện, phải sắp xếp lại để tinh giản mạnh bộ máy quản lý hành chính và các tổ chức kinh doanh.

Hệ thống quản lý sản xuất, kinh doanh phải tổ chức lại bộ máy quản lý cho gọn nhẹ, tinh giản triệt để bộ phận hành chính, chuyển số người dôi ra trong bộ máy quản lý sang trực tiếp sản xuất.

Sắp xếp gọn và hợp lý các viện, trung tâm nghiên cứu khoa học, các trường đại học, trung học chuyên nghiệp và dạy nghề.

Trên cơ sở xác định rõ chức năng, nhiệm vụ, sắp xếp lại tổ chức bộ máy, phải giảm mạnh biên chế nhà nước, bố trí lại cán bộ có năng lực và phẩm chất bảo đảm hoàn thành nhiệm vụ. Trong năm 1988, trước hết phải soát xét và bố trí lại những cán bộ chủ chốt của những cơ quan và những tổ chức kinh tế quan trọng; kiên quyết không vì cảm tình, nể nang mà không kịp thời thay thế những cán bộ không đủ sức đảm đương công việc hoặc đã mất phẩm chất, đạo đức.

Xúc tiến công tác quy hoạch cán bộ. Bồi dưỡng, đào tạo và chuẩn bị gấp lớp cán bộ kế cận vững vàng về chính trị, có phẩm chất đạo đức, có trình độ, kiến thức và năng lực hoạt động thực tiễn.

3- Công tác tư tưởng của Đảng, của Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh của các cơ quan nhà nước và của các đoàn thể quần chúng phải gắn chặt với việc thực hiện các nhiệm vụ kinh tế - xã hội. Nắm vững nhiệm vụ chủ yếu của công tác tư tưởng là đổi mới tư duy, nâng cao phẩm chất của cán bộ, đảng viên và nhân dân, khắc phục tư tưởng bảo thủ, đồng thời ngăn ngừa những biểu hiện nôn nóng, đấu tranh chống những hiện tượng tiêu cực. Tăng cường công tác tổng kết thực tiễn, công tác lý luận để cụ thể hoá và hoàn chỉnh quan điểm đổi mới của Đại hội VI, làm cơ sở khoa học cho việc xây dựng cương lĩnh và chiến lược kinh tế - xã hội, các chính sách của Đảng. Phải mở rộng và nâng cao tính dân chủ, tính công khai, tính chân thật, tinh thần phê bình và tự phê bình trong các hoạt động tư tưởng. Đổi mới và nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động của các phương tiện thông tin đại chúng, của hệ thống các trường đảng, của các hoạt động văn hoá, văn nghệ, của công tác tuyên truyền miệng. Phải coi trọng ý kiến của cán bộ, nhân dân và dư luận xã hội trong quá trình nghiên cứu cũng như thực hiện các chính sách, thực hiện "dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra". Phải huy động được toàn Đảng, toàn thể bộ máy, trước hết là cán bộ lãnh đạo các cấp của Đảng, của đoàn, của cơ quan nhà nước, của các đơn vị sản xuất kinh doanh và của các đoàn thể, thường xuyên làm công tác tư tưởng, đưa tiếng nói của Đảng đến người lao động.

4- Đẩy mạnh sản xuất, thực hành triệt để tiết kiệm. Khắc phục các hiện tượng tiêu cực, thực hiện công bằng xã hội, trước hết trong phân phối thu nhập, kiên quyết chống tham ô, móc ngoặc, tệ tham nhũng, lợi dụng chức quyền để kiếm thu nhập không chính đáng; nghiêm trị tình trạng vô trách nhiệm gây lãng phí và thiệt hại cho Nhà nước và nhân dân. Thiết lập trật tự, kỷ cương xã hội; phổ biến sâu rộng luật pháp và xây dựng lối sống theo pháp luật. Các vụ, việc đã phát hiện phải được xử lý nghiêm minh và kịp thời, thực hiện đúng nguyên tắc mọi người đều bình đẳng trước pháp luật.

5- Gắn việc tổ chức thực hiện các nhiệm vụ kinh tế - xã hội với cuộc vận động làm trong sạch và nâng cao sức chiến đấu của các tổ chức đảng, của bộ máy nhà nước và làm lành mạnh các quan hệ xã hội; động viên cán bộ, đảng viên, công nhân, nông dân và trí thức thi đua lao động sản xuất, thực hành tiết kiệm, đổi mới quản lý, cải tiến kỹ thuật, xây dựng và kiểm tra việc thực hiện kế hoạch ở mọi cấp, mọi ngành, mọi cơ sở, tạo thành phong trào quần chúng hành động cách mạng sôi nổi và thiết thực.

Hội nghị toàn thể lần thứ tư Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khoá VI) tin tưởng rằng, toàn Đảng, toàn dân ta đoàn kết chặt chẽ chung quanh Ban Chấp hành Trung ương Đảng, nhất định xoay chuyển được tình hình kinh tế - xã hội của nước ta phát triển theo hướng tốt. Với truyền thống yêu nước nồng nàn, yêu chủ nghĩa xã hội tha thiết, với niềm tin vững chắc vào sự lãnh đạo của Đảng, với ý chí cách mạng kiên cường không lùi bước trước bất cứ khó khăn, thử thách nào, nhân dân ta nhất định thực hiện thắng lợi những nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội ba năm 1988 - 1990 và năm 1988.

T/M BAN CHẤP HÀNH TRUNG ƯƠNG

Tổng Bí thư

 Nguyễn Văn Linh

Phản hồi

Thông tin người gửi phản hồi

Các tin khác

Ban hành Quy chế bầu cử trong Đảng

(ĐCSVN) - Ngày 10/10, thay mặt Ban Chấp hành Trung ương Đảng, Tổng Bí thư Tô Lâm đã ký Quyết định số 190-QĐ/TW về việc ban hành Quy chế bầu cử trong Đảng.

Kiểm soát quyền lực, phòng, chống tham nhũng, tiêu cực trong quản lý, sử dụng tài chính, tài sản công

(ĐCSVN) - Bộ Chính trị vừa ban hành Quy định số 189-QĐ/TW ngày 08/10/2024 về kiểm soát quyền lực, phòng, chống tham nhũng, tiêu cực trong quản lý, sử dụng tài chính, tài sản công.

Bộ Chính trị ban hành quy định phòng chống tham nhũng, tiêu cực trong điều tra, xét xử

(ĐCSVN) – Ngày 27/10/2023, Bộ Chính trị đã ban hành Quy định số 132-QĐ/TW về kiểm soát quyền lực, phòng, chống tham nhũng, tiêu cực trong hoạt động điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án.

Tập trung tuyên truyền những chủ đề lớn, trọng tâm từ nay đến Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIV của Đảng

(ĐCSVN) - Ban Tuyên giáo Trung ương yêu cầu thông tin chính xác, kịp thời với nhiều hình thức linh hoạt, sáng tạo, phong phú, sinh động gắn với tuyên truyền đại hội đảng bộ các cấp, tiến tới Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIV của Đảng và tuyên truyền kỷ niệm các ngày lễ lớn, sự kiện lịch sử quan trọng của đất nước trong năm 2024, 2025.

Quy trình kỷ luật đảng viên thuộc thẩm quyền của Trung ương Đảng, Bộ Chính trị, Ban Bí thư

(ĐCSVN) - Thay mặt Bộ Chính trị, Thường trực Ban Bí thư Lương Cường vừa ký Quyết định số 165-QĐ/TW ngày 6/6/2024 của Bộ Chính trị ban hành Quy trình xem xét, thi hành kỷ luật đối với tổ chức Đảng, đảng viên thuộc thẩm quyền của Ban Chấp hành Trung ương Đảng, Bộ Chính trị, Ban Bí thư.

Liên kết website