Nghị quyết Hội nghị lần thứ hai Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa VII) số 02-NQ/HNTW về nhiệm vụ và giải pháp ổn định, phát triển kinh tế - xã hội trong những năm 1992 - 1995, ngày 4-12-1991

Phần thứ nhất

TÌNH HÌNH KINH TẾ - XÃ HỘI

1- Bước vào năm 1991, đứng trước những khó khăn, thử thách hết sức gay gắt, chúng ta đã xác định tư tưởng chỉ đạo là phấn đấu giữ cho nền kinh tế không bị đảo lộn lớn, dần dần ổn định và tạo thế đi lên.

Tình hình thực tế diễn ra phức tạp hơn dự kiến: thời tiết không thuận, gây thiệt hại nặng cho vụ đông xuân ở miền Bắc (mất trên 1 triệu tấn lương thực); lũ lụt lớn ở hai tỉnh Tây Bắc, ở đồng bằng sông Cửu Long và một số tỉnh miền trung; sự tan rã quá nhanh của Nhà nước xã hội chủ nghĩa ở Liên Xô làm cho các hiệp định kinh tế bị mất hiệu lực, gây nhiều khó khăn cho hoạt động xuất - nhập khẩu của ta.

Vượt qua những khó khăn lớn trên đây, trong năm 1991, công cuộc đổi mới tiếp tục được triển khai, tình hình kinh tế nước ta vẫn được giữ vững và có một số mặt phát triển.

Sản xuất nông nghiệp và lương thực vẫn giữ được ổn định. Sản lượng công nghiệp tăng khá hơn năm trước. Thương nghiệp dịch vụ tiếp tục được mở rộng. Kinh tế đối ngoại có bước tiến bộ mới về chuyển hướng thị trường, cân đối xuất - nhập khẩu, thu hút đầu tư trực tiếp của nước ngoài.

Các lĩnh vực văn hóa, xã hội đều có những cố gắng thích ứng với cơ chế mới.

Khả năng của các thành phần kinh tế được phát huy thêm một bước.

Qua Đại hội toàn quốc lần thứ VII của Đảng và đại hội vòng hai của đảng bộ các cấp, sự nhất trí trong Đảng và trong nhân dân được tăng cường. Đứng trước những biến động phức tạp theo chiều hướng xấu ở Liên Xô và diễn biến của tình hình Campuchia, công tác tư tưởng được tiến hành kịp thời. Sự ổn định chính trị được củng cố một bước.

Trong bối cảnh đầy thử thách của năm 1991, việc giữ vững ổn định về chính trị và bảo đảm cho nền kinh tế không bị đảo lộn lớn có ý nghĩa rất quan trọng. Đó là kết quả của đường lối đổi mới từ Đại hội VI, được tiếp tục triển khai trong năm 1991 theo hướng phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần, vận động theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước. Cơ chế mới mở đường cho sự xuất hiện nhiều đơn vị kinh tế chủ động vượt qua khó khăn, kinh doanh có hiệu quả. Sự chỉ đạo điều hành của các ngành, các cấp có tiến bộ, rõ nét nhất là trong việc dự báo tình hình, xử lý các cân đối lớn, điều hòa lương thực, chuyển hướng thị trường ngoại thương, kiềm chế phát hành tiền.

Tuy nhiên, nhìn tổng quát, tình hình kinh tế và xã hội tiếp tục diễn biến phức tạp. Lạm phát còn ở mức cao. Sản xuất công nghiệp chưa ổn định, hiệu quả thấp. Tích lũy của nền kinh tế còn rất nhỏ bé. Mức tăng dân số còn cao, số người thiếu việc làm tăng thêm, đời sống một bộ phận dân cư rất khó khăn. Tình trạng vi phạm pháp luật, mất trật tự an ninh xã hội diễn ra nghiêm trọng; tệ tham nhũng, sách nhiễu, nạn buôn lậu và làm hàng giả, thu nhập phi pháp, bất công cùng với sự lan tràn văn hóa đồi trụy và các tệ nạn xã hội đang gây nhiều băn khoăn lo ngại trong nhân dân.

Tình hình trên có những nguyên nhân sâu xa và những yếu tố khách quan chưa thể khắc phục trong một thời gian ngắn. Song về mặt chủ quan, những khuyết điểm nổi lên là:

Chính sách quản  lý vĩ mô có những thiếu sót và sơ hở như: duy trì quá lâu bao cấp vốn, tín dụng…, cơ chế quản lý ngoại hối kém hiệu lực, không ngăn chặn được tình trạng buôn lậu, đầu cơ và sử dụng lãng phí ngoại tệ, không kịp thời đối phó với cơn sốt giá vàng, đô-la; có nhiều sơ hở trong quản lý ngoại thương và kinh tế đối ngoại; chậm cụ thể hóa chính sách ruộng đất và chưa giải quyết dứt khoát tình trạng tranh chấp ruộng đất; chậm sắp xếp lại khu vực kinh tế quốc doanh và đổi mới kinh tế tập thể …

Kỷ luật Đảng và phép nước không nghiêm.

Tổ chức bộ máy và cán bộ chuyển quá chậm; không ít cơ quan và cán bộ ở các ngành, các cấp kém cả năng lực và phẩm chất.

2- Bước vào năm 1992, nền kinh tế còn nhiều nhân tố không ổn định, mất cân đối, có mặt gay gắt hơn trước nhất là về tài chính - tiền tệ và không còn nguồn bổ sung vật tư, tài chính như năm trước. Sức mua của thị trường trong nước còn hạn chế, chỗ đứng trên thị trường ngoài nước chưa vững chắc. Việc làm, tiền lương và nhiều vấn đề xã hội khác đang là những vấn đề cấp bách đòi hỏi phải giải quyết. Tình trạng mất trật tự, kỷ cương đang cản trở những nỗ lực đổi mới.

Trước sự tan vỡ của Liên Xô, chúng ta phải điều chỉnh quan hệ kinh tế đối ngoại, chuyển sang quan hệ trực tiếp với các nước Cộng hòa trong Liên bang Xô Viết trước đây cũng như với các nước khác. Song bước chuyển đó đang còn gặp nhiều trở ngại.

Cục diện mới ở Campuchia đặt nước ta trước những vấn đề phức tạp mới trong quan hệ với Campuchia và trong việc bảo vệ an ninh, quốc phòng.

Các thế lực phản động ra sức lợi dụng tình hình trên, khoét sâu các khó khăn và sơ hở của ta để xúc tiến âm mưu và thủ đoạn chống phá đối với nước ta. Chính quyền Mỹ vẫn đang duy trì chính sách cấm vận, ngăn cản các nước và các tổ chức quốc tế tăng cường quan hệ kinh tế với Việt Nam.

Tuy nhiên, chúng ta cũng đang có những khả năng và cơ hội mới. Cục diện chính trị, kinh tế nước ta trong bối cảnh đầy thử thách của năm 1991 đã giữ được ổn định và có bước phát triển, cùng với việc giải quyết hòa bình vấn đề Campuchia, bình thường hóa quan hệ Việt - Trung, nối lại và phát triển quan hệ với các nước Đông Nam Á đang mở ra thế mới cả ở trong nước và trong quan hệ với bên ngoài.

Nghị quyết Đại hội VII cùng với những điển hình tốt trong sản xuất kinh doanh và những kinh nghiệm trong lãnh đạo, điều hành là những nhân tố thúc đẩy tiến trình đổi mới. Nền kinh tế có thêm nguồn lực vật chất, đặc biệt là điện, dầu khí, lương thực, năng lực xuất khẩu.

Nhiều nước, trước hết là các nước trong khu vực quan tâm và tỏ rõ thiện chí đối với Việt Nam. Một số nước nối lại viện trợ và tăng cường buôn bán, hợp tác với ta, vượt qua chính sách cấm vận của Mỹ. Xu thế này đang phát triển, tạo cơ hội mới cho nước ta mở rộng quan hệ đối ngoại.

Phần thứ hai

NHIỆM VỤ VÀ PHƯƠNG HƯỚNG ỔN ĐỊNH, PHÁT TRIỂN KINH TẾ - XÃ HỘI

I- NHIỆM VỤ CHỦ YẾU

Năm 1992 và mấy năm trước mắt là thời điểm có ý nghĩa quyết định đối với thắng lợi của công cuộc đổi mới, tạo thế và lực cho sự phát triển.

Quán triệt Nghị quyết Đại hội VII của Đảng, chúng ta phải tiếp tục đẩy mạnh công cuộc đổi mới nhằm phát huy cao độ các tiềm năng về lao động và trí tuệ, ruộng đất và tài nguyên, vốn và tài sản trong mỗi gia đình, mỗi tập thể và trong toàn xã hội, động viên mọi người ra sức cần kiệm với ý chí tự lực tự cường rất cao để xây dựng đất nước, đồng thời tích cực mở rộng kinh tế đối ngoại, thu hút vốn và công nghệ từ bên ngoài, tạo chỗ đứng trên thị trường quốc tế, không chủ quan mất cảnh giác hoặc bi quan dao động, không ỷ lại trông chờ nhưng cũng không co mình lại.

Theo tư tưởng chỉ đạo nêu trên, những nhiệm vụ chủ yếu được đặt ra cho các năm 1992 - 1995 là:

1- Kiên quyết đẩy lùi và khống chế lạm phát, ổn định và tăng cường nền tài chính - tiền tệ, tạo môi trường cho sản xuất hàng hóa phát triển có hiệu quả.

2- Ổn định và phát triển sản xuất, nâng dần nhịp độ tăng trưởng và hiệu quả kinh tế - xã hội. Ưu tiên phát triển những ngành, những địa bàn và những cơ sở sớm đưa lại hiệu quả và tạo ra nhiều việc làm. Đẩy mạnh xuất khẩu và hợp tác kinh tế với nước ngoài.

3- Ổn định và cải thiện từng bước đời sống vật chất và văn hóa của nhân dân đi đôi với đẩy mạnh tiết kiệm và tích lũy cho đầu tư phát triển trong cả khu vực Nhà nước và các tầng lớp nhân dân.

Giảm tỷ lệ sinh đẻ, giảm tình trạng suy dinh dưỡng: thu hẹp diện thiếu đói kinh niên và giáp hạt còn tồn tại ở một số vùng, đặc biệt chú trọng cải thiện đời sống của đồng bào miền núi. Tiến hành cải cách chế độ tiền lương và chính sách nhà ở, cải thiện điều kiện phòng và chữa bệnh, học tập, đi lại và hưởng thụ văn hóa, nghệ thuật của nhân dân; kiên quyết chống văn hóa độc hại, đồi trụy.

4- Sử dụng tốt lực lượng hiện có và nâng cao năng lực khoa học và công nghệ của đất nước; phát triển và nâng cao chất lượng giáo dục và đào tạo, thực hiện việc phổ cập giáo dục tiểu học, mở rộng dạy nghề và đào tạo lại đội ngũ cán bộ quản lý kinh tế.

5- Tiếp tục đổi mới và đồng bộ hóa cơ chế quản lý kinh tế, trọng tâm là cơ chế quản lý vĩ mô của Nhà nước và cơ chế quản lý các đơn vị kinh tế quốc doanh. Cải cách bộ máy Nhà nước cả về tổ chức, phương thức hoạt động và cán bộ. Thiết lập cho được kỷ luật, trật tự theo cơ chế mới, kiên quyết chống tham nhũng, buôn lậu.

6- Tăng cường sự ổn định chính trị, giữ vững an ninh, củng cố quốc phòng, đề cao cảnh giác và chủ động đối phó với mọi tình huống.

Tăng cường khả năng phòng thủ đất nước, triển khai có trọng điểm các khu vực phòng thủ, trước hết là biên giới, hải đảo. Nâng cao chất lượng quân thường trực được bố trí ở mức hợp lý, củng cố lực lượng dự bị động viên, dân quân tự vệ. Tăng thêm năng lực công nghiệp quốc phòng và phát triển công nghiệp đáp ứng yêu cầu quốc phòng. Kết hợp chặt chẽ kinh tế với quốc phòng, đặc biệt là trong việc phát triển kinh tế - xã hội ở các địa bàn xung yếu, tận dụng năng lực của quân đội và công nghiệp quốc phòng tham gia vào các chương trình phát triển kinh tế.

Xây dựng lực lượng an ninh trong sạch, vững mạnh, tinh thông nghiệp vụ, được tăng cường điều kiện hoạt động; tăng cường các tổ chức bảo vệ pháp luật đi đôi với đẩy mạnh phong trào quần chúng bảo vệ an ninh quốc gia, giữ gìn trật tự, an toàn xã hội, giảm các loại tội phạm hình sự.

7- Đổi mới và tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, chỉnh đốn Đảng, xây dựng các đảng bộ cơ sở trong sạch, vững mạnh, gắn bó với nhân dân, được nhân dân tín nhiệm. Đổi mới tổ chức và phương thức hoạt động của các đoàn thể nhân dân, hướng về cơ sở, sát với đoàn viên, hội viên và các tầng lớp nhân dân, khắc phục tình trạng nhà nước hóa, hành chính hóa. Tăng cường công tác xây dựng đảng và công tác vận động nhân dân là nhiệm vụ trọng tâm của các cấp bộ đảng từ trung ương đến cơ sở.

Trong việc thực hiện các nhiệm vụ nêu trên, năm 1992 phải tập trung giải quyết cho được mấy vấn đề dưới đây:

Một là, đẩy lùi lạm phát xuống khoảng 30 - 40% cả năm, hạ cơn sốt giá vàng, đô-la và ngăn ngừa đột biến giá cả.

Hai là, sắp xếp lại, củng cố, tăng cường khu vực kinh tế quốc doanh, tiếp tục đổi mới kinh tế tập thể, loại bỏ những trở ngại đang kìm hãm các thành phần kinh tế khác, tạo ra sức bật mới từ các nguồn lực trong nước để ổn định và phát triển sản xuất.

Ba là, đẩy mạnh xuất khẩu, mở rộng thị trường, phát triển các hoạt động kinh tế đối ngoại.

Bốn là, triển khai việc chuẩn bị xây dựng một số công trình then chốt và thực hiện bước đầu chương trình phủ xanh, sử dụng đất trống, đồi trọc.

Năm là, giải quyết một số vấn đề cấp bách về đời sống và xã hội; đặc biệt chú trọng giải quyết việc làm, thực hiện một bước việc cải cách chế độ tiền lương; sắp xếp lại và đầu tư có trọng điểm để củng cố và nâng chất lượng trong các lĩnh vực y tế, giáo dục, khoa học, văn hóa, xã hội.

Sáu là, tăng cường pháp chế, đẩy mạnh cuộc đấu tranh chống các hiện tượng vi phạm và coi thường pháp luật, đặc biệt là chống tham nhũng, buôn lậu, tạo chuyển biến rõ rệt về trật tự, kỷ cương trong hoạt động kinh tế và đời sống xã hội.

II- PHƯƠNG HƯỚNG PHÁT TRIỂN

Theo phương hướng phát triển các ngành và các vùng đã được Đại hội VII đề ra, cơ cấu sản xuất và đầu tư trong những năm 1992 - 1995 cần coi trọng những mặt dưới đây:

1- Phát triển nông - lâm - ngư nghiệp gắn với công nghiệp chế biến.

Đẩy mạnh thâm canh, tăng vụ, và cải tiến cơ cấu giống, cơ cấu cây trồng trên diện tích đang sử dụng, phát triển chăn nuôi thành ngành chính. Đi đôi với huy động sức dân là chính, Nhà nước tăng tỷ trọng và nâng cao hiệu quả đầu tư vào khâu giống và thủy lợi; nâng tỷ lệ diện tích được tưới chủ động thu hẹp diện tích bị úng. Tiếp tục xây dựng các công trình tạo nguồn nước ngọt và ngăn mặn; tập trung vào các chương trình khai thác vùng Đồng Tháp Mười, tứ giác Long Xuyên, vùng Tây sông Hậu, bán đảo Cà Mau, xây dựng vùng lúa xuất khẩu. Phát triển các hồ chứa nước, các công trình thủy lợi nhỏ và vừa ở miền núi. Bảo đảm đủ giống tốt, phân bón, thuốc trừ sâu và công cụ máy móc cho nông nghiệp. Mở rộng việc áp dụng các biện pháp bảo vệ thực vật không dùng hóa chất. Chuyển giao kỹ thuật tới hộ nông dân, hướng dẫn và hỗ trợ cho nông dân bố trí lại cơ cấu giống, cơ cấu mùa vụ phù hợp với sinh thái từng vùng, tránh những bất lợi về thời tiết. 

Tiến công mạnh vào đất trống, đồi trọc, đất mới bồi và mặt nước chưa sử dụng. Phương hướng khai thác vùng đất mới là kết hợp nông - lâm - ngư nghiệp, trồng trọt và chăn nuôi, với cơ cầu sản xuất phù hợp với điều kiện sinh thái, đi vào thâm canh ngay từ đầu và gằn với công nghiệp chế biến. Từ nay đến năm 1995, đưa vào sử dụng 3 triệu ha đất trống, đồi trọc. Phương châm thực hiện là chỗ dễ, chỗ gần làm trước, kết hợp cây ngắn ngày với cây dài ngày, lấy ngắn nuôi dài; khai thác khả năng đầu tư của tất cả các thành phần kinh tế, kể cả của nước ngoài. Nhà nước đầu tư xây dựng kết cấu hạ tâng cần thiết, giao đất sử dụng lâu dài, có chính sách ưu đãi về thuế, tín dụng và hỗ trợ kỹ thuật cho những người đầu tư khai thác vùng đất mới. Hộ nông dân đi lập nghiệp ở vùng đất mới được chuyển nhượng quyền sử dụng ruộng đất ở nơi cư trú cũ để có thêm vốn đầu tư.

Cơ cấu sản xuất nông nghiệp chuyển dịch theo hướng tăng tỷ trọng cây công nghiệp, cây thực phẩm và chăn nuôi trong khi sản lượng lương thực vẫn tăng về số tuyệt đối; tăng tỷ trọng sản phẩm xuất khẩu. Nghề cá tăng tỷ trọng của sản lượng nuôi trồng. Lâm nghiệp tăng nhanh diện tích trồng và tái sinh rừng, hạn chế sản lượng khai thác gỗ trong giới hạn cho phép. Nâng cao trình độ chế biến sản phẩm nông - lâm - ngư nghiệp, đặc biệt là sản phẩm xuất khẩu.

2- Ổn định và phát triển sản xuất công nghiệp, khuyến khích các thành phần kinh tế và nhân dân đầu tư, đồng thời thu hút đầu tư trực tiếp của nước ngoài để cải tạo, đổi mới công nghệ của các cơ sở hiện có, xây dựng mới các cơ sở quy mô nhỏ và vừa là chính nhằm phát triển mạnh công nghiệp chế biến nông - lâm - thủy sản với trình độ tinh chế và tận dụng nguyên liệu ngày càng cao, đẩy mạnh sản xuất hàng tiêu dùng, hàng xuất khẩu.

Nhà nước tập trung đầu tư và thu hút vốn nước ngoài để phát triển một số công trình thuộc lĩnh vực then chốt trong công nghiệp nặng và kết cấu hạ tầng.

Dầu khí là một mũi nhọn cần phát triển mạnh. Tăng nhanh năng lực và sản lượng khai thác, tiếp tục cho các công ty nước ngoài vào thăm dò, khai thác các lô mới. Cân nhắc thời điểm xây dựng đường ống dẫn khí, nhà máy phân đạm, nhà máy lọc dầu và tích cực tìm vốn để thực hiện.

Hoàn thành công trình thủy điện Hòa Bình, đưa điện miền bắc vào đến Quy Nhơn. Tích cực tạo nguồn điện ở phía nam; đi đôi với việc xây dựng và đưa vào vận hành các cơ sở thủy điện đã khởi công, cần tìm thêm nguồn vốn xây dựng thêm các cơ sở phát điện và hệ thống tải điện ở Tây Nguyên và Nam Bộ.

Cải tạo, đồng bộ hóa các nhà sàng, đường sắt và cảng, hợp tác với nước ngoài tăng sản lượng khai thác than đi đôi với tìm thị trường xuất khẩu than.

Hoàn thành công trình apatít Lào Cai, và các công trình đang thực hiện để tăng sản lượng phân lân, phân đạm. Mở rộng cơ sở sản xuất xút, sô-đa.

Đầu tư chiều sâu và mở rộng các cơ sở luyện thép hiện có, tìm nguồn vốn xây dựng cơ sở mới và hợp tác với nước ngoài về mỏ sắt Thạch Khê. Tăng năng lực khai thác và tinh luyện thiếc.

Khẩn trương tổ chức và quản lý việc khai thác vàng, đá quý, đất hiếm. Dùng nhiều hình thức khai thác các khoáng sản phân tán khác.

Tổ chức lại và đầu tư chiều sâu để tận dụng năng lực cơ khí chế tạo và sửa chữa hiện có, nâng cao chất lượng sản phẩm, tăng năng lực trang bị và bảo đảm kỹ thuật cho nông nghiệp, công nghiệp chế biến, công nghiệp nhẹ, tăng sản lượng cơ khí tiêu dùng; liên doanh với nước ngoài để lắp ráp ô tô, xe máy và các loại máy thông dụng, nâng dần trình độ tự sản xuất các bộ phận. Phát triển ngành điện tử, tin học đi thẳng vào hiện đại, tập trung vào mấy trung tâm có tiềm lực khá về khoa học - kỹ thuật. Từ gia công, lắp ráp nâng dần năng lực sản xuất các linh kiện, vật liệu điện tử, đáp ứng nhu cầu về hàng điện tử dân dụng, từng bước mở rộng tự động hóa sản xuất và tin học hóa quản lý.

Phát triển mạnh công nghiệp vật liệu xây dựng. Đầu tư chiều sâu để nâng công suất các cơ sở xi măng hiện có; tìm nguồn vốn xây dựng nhà máy xi măng mới.

3- Cải tạo và nâng cấp giao thông vận tải, bưu điện, tiếp tục đổi mới cơ cấu vận tải theo hướng phát triển nhanh vận tải thủy, hàng không, khai thác tốt vận tải đường sắt, hợp lý hóa vận tải đường bộ, tăng năng lực vận tải cho các tỉnh miền núi và biên giới. Phát triển lực lượng vận tải của nhiều thành phần kinh tế.

Nâng cấp một số tuyến đường trục ô tô, các đường lên trung du và miên núi. Áp dụng hình thức Nhà nước đầu tư, kết hợp với vay tiền của dân để xây dựng những đoạn đường và cầu có thể thu hồi vốn để trả nợ. Củng cố, cải tạo và nâng cấp một số tuyến đường sắt, khôi phục và tăng năng lực vận chuyển các tuyến lên biên giới Việt - Trung. Đầu tư đồng bộ và chiều sâu để tăng công suất hai cụm cảng Hải Phòng và Sài Gòn. Nghiên cứu xây dựng cảng sâu ở hai miền. Phát triển đội tầu Viễn Dương cả hàng khô và hàng nước. Cải tạo các sân bay quốc tế. Liên doanh với nước ngoài, mở thêm các đường bay, tăng thêm phương tiện bay.

Mở rộng hợp tác với nước ngoài để hiện đại hóa mạng thông tin quốc tế và trong nước. Hoàn thành xây dựng tuyến cáp quang và tuyến vi-ba Hà Nội - thành phố Hồ Chí Minh, tuyến vi-ba lên các tỉnh miền núi, cải tạo mạng nội hạt các thành phố lớn. Từng bước trang bị lại các trung tâm phát sóng trung ương; xây dựng thêm một số đài phát sóng khu vực.

Trong củng cố lĩnh vực khác thuộc kết cấu hạ tầng, hướng đầu tư chính là các công trình đô thị (chủ yếu là cấp nước ở các thành phố lớn và một số thị xã), giải quyết nước sinh hoạt cho một số vùng nông thôn, miền núi, và chống xuống cấp các công trình giáo dục, y tế, văn hóa, xã hội.

4- Sắp xếp lại thương nghiệp và mở mang dịch vụ ở cả thành thị và nông thôn; hình thành các trung tâm thương mại và dịch vụ làm đầu mối giao lưu hàng hóa trên từng địa bàn. Từng bước hình thành các trung tâm tài chính ở các thành phố lớn.

Tạo nguồn vật tư trong và ngoài nước, đáp ứng nhu cầu về các vật tư chiến lược như xăng dầu, phân đạm, thép, bông xơ… Cân đối cung - cầu, bảo đảm đầy đủ và kịp thời các loại nhu yếu phẩm cho nhân dân; có chính sách ưu tiên, trợ giá một số nhu yếu phẩm cho đồng bào vùng xa xôi hẻo lánh và vùng dân tộc ít người. Tăng nguồn dự trữ hợp lý các loại vật tư hàng hóa cần thiết và ngoại tệ để tham gia điều tiết thị trường.

Trong lĩnh vực kinh doanh vật tư, thương nghiệp và dịch vụ gồm nhiều thành phần kinh tế, cần củng cố và phát triển một số công ty thương nghiệp quốc doanh lưu thông những vật tư, hàng hóa thiết yếu.

Coi trọng công tác điều tra và nghiên cứu thị trường, bồi dưỡng sức mua của các tầng lớp dân cư, giải tỏa những ách tắc trong lưu thông và tiêu thụ sản phẩm.

Đổi mới căn bản công tác thống kê và thông tin kinh tế. Phát triển các loại hình dịch vụ khác, đặc biệt là các dịch vụ đáp ứng nhu cầu của kinh tế thị trường mở ra với bên ngoài.

5- Tiếp tục đổi mới tổ chức và quản lý hoạt động khoa học, công nghệ, tập trung thực hiện các chương trình cấp nhà nước, xây dựng luận cứ khoa học cho các quyết định của Đảng và Nhà nước, nhất là về chính sách kinh tế - xã hội.

Đẩy mạnh sự nghiệp giáo dục, nâng cao dân trí; thực hiện tốt Luật phổ cập giáo dục; hợp lý hóa cơ cấu của hệ thống giáo dục quốc dân với nhiều loại hình, xây dựng nền giáo dục kỹ thuật trong xã hội, phát triển và nâng cao chất lượng đào tạo và đào tạo lại đội ngũ cán bộ. Đưa Luật bảo vệ sức khỏe của nhân dân vào cuộc sống, chú trọng chăm sóc sức khỏe ban đầu, triển khai thực hiện chương trình quốc gia vì trẻ em và các chương trình quốc gia về y tế. Đẩy mạnh cuộc vận động kế hoạch hóa gia đình, tập trung ở những vùng có tỷ lệ sinh đẻ cao.

Hoàn thành việc phủ sóng truyền hình trong cả nước, tăng công suất đài phát thanh Tiếng nói Việt Nam, mở rộng thông tin tuyên truyền trong nước và đối ngoại. Lập lại trật tự trong xuất bản, báo chí, hỗ trợ các hoạt động nghệ thuật; giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc, tiếp thu có chọn lọc tinh hoa văn hóa của thế giới, chống lại việc lưu hành những ấn phẩm đồi trụy, kích động, gây ô nhiễm tinh thần. Đẩy mạnh cuộc đấu tranh chống các tệ nạn xã hội và lối sống đồi trụy, lạc hậu. Phát huy thành tích đã đạt được, tiếp tục đẩy mạnh công tác thể dục, thể thao.

Các lĩnh vực hoạt động nêu trên đều phải có chương trình, kế hoạch riêng, với mức đầu tư thỏa đáng cho các vùng đồng bào dân tộc.

\

Để tạo nguồn vốn đầu tư đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội theo phương hướng trên, cần có chính sách tiêu dùng hợp lý, khuyến khích cần kiệm để đầu tư làm giàu cho mình và cho đất nước. Hết sức coi trọng tạo vốn trong nước, đồng thời tranh thủ khả năng cao nhất thu hút các nguồn vốn bên ngoài.

Vốn đầu tư của Nhà nước dành chủ yếu cho các công trình thuộc kết cấu hạ tầng và một số công trình then chốt khác; có một phần hỗ trợ cho các cơ sở sản xuất kinh doanh dưới nhiều hình thức. Nhà nước bán hoặc cho thuê một số bất động sản và tài sản không dùng đến hoặc sử dụng kém hiệu quả để có thêm vốn đầu tư.

Tạo điều kiện cho các doanh nghiệp kể cả xí nghiệp quốc doanh tự đầu tư cải tạo và mở rộng sản xuất; những cơ sở có yêu cầu và điều kiện thì được phép gọi vốn cổ phần, liên doanh, hoặc vay vốn của nước ngoài theo nguyên tắc tự vay, tự trả. Vốn khấu hao cơ bản trong khu vực kinh tế quốc doanh cần được tính đúng, tính đủ để tạo nguồn trả nợ và đầu tư.

Huy động tối đa các nguồn vốn trong xã hội bằng nhiều hình thức: tự đầu tư, góp cổ phần, mua cổ phiếu, gửi quỹ tiết kiệm, góp qũy bảo hiểm… Đặc biệt khuyến khích đi đôi với hướng dẫn những người có vốn đầu tư vào sản xuất. Tăng dần tỷ lệ tích lũy tự đầu tư của nhân dân.

Tích cực thu hút vốn nước ngoài đầu tư trực tiếp vào nước ta; nhà nước tranh thủ viện trợ và vay ưu đãi qua đường chính phủ, mạnh dạn vay vốn đầu tư vào những công trình then chốt theo nhiều phương thức.

Trong tình hình hiện nay, phải dự tính vài phương án đầu tư tương ứng với khả năng tạo nguồn vốn.

Theo phương hướng phát triển và đầu tư nêu trên, nhịp độ tăng trưởng kinh tế trong các năm 1992 - 1995 như sau:

 

 

Đơn vị

Năm

1992

Năm

1995

5 năm

1991 - 1995

- Nhịp độ tăng thu nhập quốc dân sản xuất

%

4 - 4,5

8 - 8,5

5,5 - 6 (bình quân hàng năm)

- Nhịp độ tăng giá trị

SL nông nghiệp

%

3,5 - 4

4,2 - 4,4

3,6 - 4,2 (bình quân hàng năm)

- Sản lượng lương thực (quy thóc)

Tr. tấn

22 - 22,5

24 - 25

 

- Nhịp độ tăng giá trị SLCN

%

5,5 - 6,4

10,5 - 12

7,5 - 8,5 (bình quân hàng năm)

- Kim ngạch xuất khẩu

Tỷ

đô-la

2,2 - 2,4

3,1 - 4,3

12 - 15 (cộng 5 năm)

- Kim ngạch nhập hàng lẻ

Tỷ

đô-la

1,8

3

12 - 14 (cộng 5 năm)

---------------------

Phấn đấu đạt được mức tăng trưởng nêu trên và đưa được nền kinh tế về cơ bản ra khỏi khủng hoảng và lạm phát, đi vào ổn định với cơ chế mới được hình thành đồng bộ, khôi phục được trật tự kỷ cương, chúng ta sẽ có cơ sở để thực hiện các mục tiêu chiến lược đến năm 2000.

Phần thứ ba

CÁC GIẢI PHÁP LỚN

I- ỔN ĐỊNH TÀI CHÍNH - TIỀN TỆ

Mục tiêu chủ yếu của việc ổn định tài chính tiền tệ là từng bước đầy lùi và kiểm soát lạm phát, ổn định sức mua đồng tiền, tạo môi trường an toàn cho hoạt động kinh doanh, nhằm động viên các nguồn lực tài chính trong nước và nước ngoài đầu tư phát triển sản xuất; thúc đẩy nền kinh tế chuyển đồng bộ sang cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước.

Phương hướng chủ yếu là xóa bỏ bao cấp còn tồn tại qua vốn, tín dụng, giá…; thực hiện chặt chẽ việc tăng thu, tiết kiệm chi, cân đối ngân sách một cách tích cực; mở rộng tín dụng cho sản xuất kinh doanh, kiểm soát lưu thông tiền tệ, kể cả ngoại hối. Phấn đầu giảm tỷ lệ lạm phát xuống khoảng 30 - 40% năm 1992 và dưới hai con số vào năm 1995.

1- Xóa bao cấp qua tín dụng.

Sớm thực hiện "cơ chế một lãi suất" đối với tín dụng thương mại, thống nhất và bình đẳng giữa các thành phần kinh tế. Lãi suất cho vay cao hơn lãi suất tiền gửi. Người gửi tiền tiết kiệm được bảo toàn vốn và có mức lãi thỏa đáng. Không dùng mức lãi suất để điều tiết lợi nhuận; nếu cần điều tiết thì thực hiện bằng chính sách thuế.

Lãi suất tín dụng ngân hàng hình thành theo quan hệ cung - cầu về vốn trên thị trường, trên nguyên tắc thu hút được tiền gửi để cho vay. Lãi suất ưu đãi của Chính phủ cho các dự án đầu tư được thực hiện bằng nguồn tín dụng Nhà nước. Quản lý chặt chẽ phát hành tiền, kiềm chế lạm phát. Nâng cao chất lượng dịch vụ thanh toán, phát triển các hình thức thanh toán không dùng tiền mặt.

Giải quyết dứt điểm trong một thời gian ngắn việc thanh toán nợ nần dây dưa trong các doanh nghiệp, gắn với việc sắp xếp lại các xí nghiệp quốc doanh và xử lý những trường hợp phá sản. Đối với các xí nghiệp quốc doanh cần củng cố và phát triển mà đang thiếu vốn, Nhà nước tài trợ tùy theo tình hình thực tế của từng xí nghiệp.

Các ngân hàng thương mại thực sự chuyển sang kinh doanh, tự chủ về tài chính, được giao vốn và chịu trách nhiệm bảo toàn và phát triển vốn, mở rộng hoạt động tín dụng vay và cho vay, dịch vụ thanh toán và các dịch vụ khác cho các thành phần kinh tế.

Triển khai mạnh hệ thống tín dụng nông thôn. Tăng cường hiệu lực pháp lý về vay nợ, trả nợ, bảo lãnh, thế chấp, chống quịt nợ, đầu cơ tiền tệ, cho vay nặng lãi.

Ngân hàng trung ương tập trung thực hiện chức năng quản lý Nhà nước về tiền tệ, chủ yếu là quản lý chặt chẽ phát hành, kiểm soát lưu thông tiền tệ (kể cả ngoại hối) để ổn định giá trị đồng tiền bằng cơ chế kiểm soát các ngân hàng thương mại và các tổ chức tài chính khác. Nhà nước tạo điều kiện và đòi hỏi Ngân hàng trung ương chủ động thực hiện chính sách tiền tệ - tín dụng theo pháp lệnh đã ban hành.

2- Đổi mới cơ chế quản lý ngoại hối, hạ cơn sốt vàng và ngoại tệ:

Để hạ cơn sốt vàng và ngoại tệ, cần chỉ đạo chặt chẽ, sát sao một số biện pháp cấp bách: sử dụng có hiệu quả lực lượng ngoại tệ và vàng cần thiết để can thiệp kịp thời vào cung - cầu; điều chỉnh lãi suất tiền gửi để hạn chế việc rút tiền mua vàng và đô-la; kiểm soát chặt chẽ nhập khẩu và tập trung lực lượng chống buôn lậu, nhất là ở biên giới Tây Nam. Đồng thời để làm lành mạnh quan hệ cung - cầu về ngoại tệ, cần sửa đổi cơ chế quản lý ngoại hối theo hướng bảo vệ lợi ích chính đáng của người có ngoại tệ, đi đôi với tăng cường sự kiểm soát của Nhà nước và lập lại trật tự trên thị trường ngoại hối.

Các doanh nghiệp không được mua bán, thanh toán trực tiếp với nhau bằng ngoại tệ mà phải thông qua các ngân hàng được phép kinh doanh ngoại hối. Các doanh nghiệp có ngoại tệ không được gửi ra nước ngoài mà phải gửi vào ngân hàng trong nước, được hưởng lãi, được rút ra để sử dụng theo quy định của Nhà nước (như để trả nợ, góp vốn liên doanh với nước ngoài, để nhập khẩu theo giấy phép…). Các doanh nghiệp được mua, bán ngoại tệ với Ngân hàng hoặc trung tâm giao dịch ngoại hối theo tỷ giá hình thành ở các trung tâm này. Mở thêm và tổ chức tốt hoạt động của các trung tâm giao dịch ngoại hối ở những nơi cần thiết.

Các ngân hàng thương mại được phép kinh doanh ngoại tệ phải thực hiện việc mua, bán, thanh toán sòng phẳng, thuận tiện, nhanh chóng, kinh doanh theo tỷ giá hình thành trên thị trường ngoại hối, chống độc quyền, cửa quyền, ép giá. Lãi suất tín dụng bằng ngoại tệ phải bảo đảm nguyên tắc kinh doanh, phù hợp với quan hệ cung - cầu trên thị trường ngoại hối nội địa và thị trường tiền tệ quốc tế.

Ngân hàng trung ương tăng dự trữ ngoại tệ (kể cả bằng biện pháp vay nước ngoài) để có lực lượng can thiệp vào thị trường ngoại hối khi cần thiết.

Tích cực chuẩn bị điều kiện áp dụng cơ chế ngân hàng mua, bán toàn bộ ngoại tệ theo phương thức kinh doanh, dùng biện pháp kinh tế để tập trung quản lý ngoại tệ, phấn đấu nâng cao khả năng chuyển đổi của đồng tiền Việt Nam.

3- Đổi mới cơ cấu và phương thức cân đối ngân sách.

Tiếp tục cải tiến chính sách thuế theo hướng khuyến khích sản xuất và tiết kiệm đầu tư, chú trọng thuế gián thu và các hình thức thuế tiến bộ. Hoàn chỉnh bộ luật thuế, bộ máy thu và cơ chế quản lý thu, nâng dần tỷ lệ thu ngân sách so với thu nhập quốc dân.

Phân rõ ba loại chi ngân sách với phương thức cân đối thu chi thích ứng với từng loại:

- Chi thường xuyên để đáp ứng nhu cầu của bộ máy Nhà nước, an ninh quốc phòng và các phúc lợi xã hội. Phần chi này phải hoàn toàn dựa vào nguồn thu trong nước, chỉ được chi trong giới hạn thu, kiên quyết không phát hành để chi.

- Chi trả nợ dựa một phần vào số dư của chi thường xuyên và một phần vào vay nợ để trả nợ, ưu tiên giải quyết các khoản nợ để vay tiếp.

- Chi đầu tư phát triển dưới hình thức ngân sách đầu tư trực tiếp và bổ sung cho nguồn vốn tín dụng Nhà nước. Về nguyên tắc, nguồn vốn cho chi đầu tư phát triển là số dư của chi thường xuyên và trả nợ; còn thiếu phải tìm nguồn bù đắp không gây lạm phát.

Có chính sách thu hút mọi nguồn tiền nhàn rỗi của dân, tạo ra nguồn tài chính quan trọng mà ngân sách có thể vay để chi đầu tư phát triển thay cho phát hành.

Khai thác mọi khả năng và cơ hội để thu hút vốn ngoài nước, kể cả vốn viện trợ, vốn đầu tư trực tiếp và vốn cho vay. Trước mắt, phải tích cực tìm nguồn vốn vay với thời hạn và lãi suất chấp nhận được để đầu tư phát triển và tăng dự trữ ngoại tệ.

Vốn vay cho đầu tư phát triển phải dựa trên những dự án được tính toán kỹ hiệu quả, bảo đảm huy động nhanh và tạo được nguồn trả nợ.

Các dự án đầu tư bằng nguồn vốn vay nợ chính phủ phải do các cơ quan có trách nhiệm của Nhà nước thẩm định luận chứng kinh tế - kỹ thuật. Các cơ quan chính quyền địa phương và các ngành không được phép vay nợ nước ngoài và bảo lãnh cho các doanh nghiệp. Vay nợ phi chính phủ do các doanh nghiệp thực hiện phải tự chịu trách nhiệm trả nợ, tự tìm kiếm người bảo lãnh từ các tổ chức tài chính trong nước và nước ngoài.

Đi đôi với việc hoàn thiện cơ chế quản lý vốn và tài sản Nhà nước giao cho các doanh nghiệp, cần tiến hành kiểm kê lại toàn bộ tài sản, nhà, đất trong các cơ quan hành chính, sự nghiệp, các đoàn thể, lực lượng vũ trang để giao quyền và trách nhiệm sử dụng, bảo quản. Chấn chỉnh ngay việc cấp đất cho dân làm nhà, nhất là ở thành phố, thị trấn, ven trục giao thông để bảo vệ đất canh tác, bảo đảm quy hoạch xây dựng và giao thông; tiền thuế đất phải tính đúng giá và nộp vào ngân sách Nhà nước, không được sử dụng tùy tiện hoặc tư túi. Đối với một số tài sản có thể cho thuê hoặc bán, cần quy định cụ thể, chặt chẽ. Những trường hợp đã chuyển sở hữu công thành sở hữu tư trái pháp luật cần phải truy cứu trách nhiệm và xử lý như tội tham nhũng.

4- Cải tiến việc phân cấp quản lý ngân sách.

Về nguyên tắc, phải bảo đảm tính thống nhất của nền tài chính Nhà nước, được điều hành trong cả nước theo pháp luật, chính sách thu và chế độ, định mức chi do trung ương ban hành.

Hình thành ba cấp ngân sách: trung ương - tỉnh, thành phố - xã. Quận, huyện không còn là cấp ngân sách mà chỉ là cấp dự toán.

Chấm dứt việc quy định tỷ lệ điều tiết ngân sách hàng năm đối với từng địa phương. Thay vào đó, xác định nhiệm vụ chi giao cho ngân sách địa phương, đồng thời quy định thống nhất và ổn định tỷ lệ những khoản thuế và lệ phí được thu. Ngân sách trung ương chỉ bổ sung cho một số rất ít địa phương thu không đủ chi.

Hướng lâu dài là giảm nhiệm vụ chi giao cho ngân sách địa phương, chuyển về cho ngân sách trung ương đảm nhận những nhiệm vụ chi theo chương trình quốc gia và theo chế độ công chức cần phải thống nhất trong cả nước.

5- Tiếp tục đổi mới và hoàn thiện cơ chế quản lý giá.

Cơ chế quản lý Nhà nước về giá trong điều kiện đã chuyển sang hệ thống giá theo cơ chế thị trường cần phải giải quyết tiếp những vấn đề sau đây:

- Tiếp tục tính đủ, tính đúng theo thời giá tài sản cố định và các vật tư, cước phí do Nhà nước kiểm soát giá, giá đất, giá nhà ở, điện nước, đồng bộ với cải cách tiền lương. Nghiên cứu sử vận động của giá cả dịch vụ, tiền công để có chính sách, cơ chế quản lý thích hợp. Xử lý đúng đắn mối quan hệ giữa giá trong nước và giá cả quốc tế; kiểm soát giá cả xuất, nhập khẩu.

- Nhà nước kiểm soát trực tiếp giá cả một số sản phẩm độc quyền nhưng không thoát ly mặt bằng giá thị trường. Thực hiện giá bảo hộ sản xuất đối với một số nông sản và hàng xuất khẩu khi giá thị trường xuống quá thấp, ảnh hưởng lớn đến sản xuất và xuất khẩu.

- Nhà nước kiểm soát chi phí sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp theo chế độ kế toán tài chính. Xây dựng hệ thống kiểm toán có hiệu lực pháp lý.

- Thực hiện chế độ đăng ký, niêm yết giá đối với một số vật tư, hàng hóa quan trọng và trên các thị trường chính, từng bước nâng cao văn minh thương nghiệp.

\

Các giải pháp nêu trên cần được thực hiện đồng bộ, nhất quán, tích cực và có bước đi phù hợp với điều kiện thực tế tạo được chuyển biến quan trọng trong năm 1992, tạo cơ sở cho việc ổn định và làm mạnh tài chính - tiền tệ trong các năm sau.

II- PHÁT HUY MẠNH MẼ TIỀM NĂNG CỦA CÁC

THÀNH PHẦN KINH TẾ

1- Chỉnh đốn và nâng cao hiệu quả kinh tế quốc doanh.

- Tập trung củng cố và phát triển kinh tế quốc doanh trong những ngành và lĩnh vực then chốt, những doanh nghiệp trọng yếu. Trong một số lĩnh vực quan trọng khác có nhiều thành phần kinh tế tham gia, quốc doanh phải có vị trí cần thiết để góp phần bảo đảm vai trò điều tiết vĩ mô của Nhà nước. Việc xác định các xí nghiệp quốc doanh hiện có cần củng cố và phát triển căn cứ vào những yêu cầu dưới đây: góp phần quan trọng bảo đảm các cân đối lớn của nền kinh tế về vật tư, thiết bị, hàng hóa thiết yếu; đảm nhận các nhiệm vụ quan trọng mà các thành phần kinh tế khác không thay thế được; đảm nhận các yêu cầu đặc biệt có quan hệ đến quốc phòng, an ninh; kinh doanh có hiệu quả và đóng góp nhiều cho ngân sách; làm nòng cốt thúc đẩy đổi mới công nghệ; có quy mô tương đối lớn.

Những ngành, lĩnh vực nào mà các thành phần kinh tế khác có thể đầu tư kinh doanh có hiệu quả thì nên khuyến khích, hỗ trợ các thành phần kinh tế ấy phát triển. Theo hướng đó, cần soát xét các xí nghiệp quốc doanh hiện có trong tất cả các lĩnh vực, xác định cụ thể từng xí nghiệp cần duy trì hình thức quốc doanh. Tiến hành đăng ký lại các xí nghiệp quốc doanh; chỉ coi là xí nghiệp hợp pháp khi được cơ quan nhà nước có thẩm quyền cấp giấy phép hoạt động; các cơ quan, tổ chức khác không được phép ra quyết định thành lập xí nghiệp.

- Đối với các xí nghiệp không cần giữ hình thức quốc doanh, trước hết là các xí nghiệp thuộc loại này đang thua lỗ kéo dài, cần kiên quyết xử lý dứt điểm trong năm 1992 bằng các hình thức thích hợp với điều kiện thực tế như cho thuê, bán, sáp nhập với các đơn vị khác hoặc giải thể. Trước mắt, tập trung giải quyết đối với khu vực thương nghiệp bán lẻ, dịch vụ, các đơn vị quốc doanh quận, huyện và các xí nghiệp thuộc các cơ quan hành chính, sự nghiệp, đoàn thể, lực lượng vũ trang.

Khi giải thể các xí nghiệp thua lỗ, phải truy cứu trách nhiệm về tài chính, trách nhiệm dân sự và hình sự (nếu có) của những người quản lí. Trong việc thanh lý tài sản của các đơn vị giải thể, số vốn Nhà nước thu lại được cần dành ưu tiên giải quyết việc làm và đời sống cho những người lao động ra khỏi biên chế nhà nước.

- Trên cơ sở sắp xếp lại xí nghiệp quốc doanh và giải quyết dứt điểm việc thanh toán công nợ, tài chính Nhà nước bảo đảm một phần vốn cho các xí nghiệp cần thiết phải duy trì và phát triển. Hoàn chỉnh các quy định về bảo toàn, phát triển vốn và tài sản mà xí nghiệp nhận của nhà nước.

Tín dụng Nhà nước dành ưu tiên cho các xí nghiệp có dự án đầu tư chiều sâu để đổi mới thiết bị và công nghệ. Thu hút nước ngoài đầu tư liên doanh trực tiếp vào các cơ sở quốc doanh hiện có để giải quyết nhu cầu cả về vốn, công nghệ và trình độ quản lý.

Tổ chức thực hiện nghiêm chỉnh chế độ kế toán, thống kê, đồng thời tăng cường hệ thống thanh tra tài chính và quy chế thanh tra của Nhà nước đối với các doanh nghiệp. Thực hiện việc công bố kết quả hoạt động tài chính, trước hết đối với các xí nghiệp quốc doanh và các doanh nghiệp tư nhân lớn.

Áp dụng hình thức hội đồng quản trị đại diện cho các chủ sở hữu đối với các công ty cổ phần quốc doanh hoặc liên doanh; làm thử hình thức này đối với một số xí nghiệp quốc doanh 100% vốn nhà nước. Nghiên cứu sâu hình thức tổ chức bảo đảm sự lãnh đạo toàn diện của cơ sở đảng, chế độ thủ trưởng của giám đốc và vai trò làm chủ của người lao động trong xí nghiệp. Đặc biệt chú trọng việc đào tạo, bồi dưỡng các giám đốc xí nghiệp. Xây dựng quy chế về giám đốc xí nghiệp, vừa bảo đảm hoạt động của các giám đốc theo pháp luật, vừa bảo vệ các giám đốc trước pháp luật.

Trên nguyên tắc tuân thủ pháp luật, bảo toàn và phát triển vốn được nhà nước giao, thực hiện các nghĩa vụ do nhà nước quy định, các xí nghiệp quốc doanh phải được thật sự chủ động tổ chức sản xuất kinh doanh, giao dịch với khách hàng, tự chủ về tài chính, giá cả, tuyển chọn,  sắp xếp lao động, trả lương và cho thôi việc theo Luật lao động. Xóa bỏ sự can thiệp không đúng chức năng của các cơ quan quản lý hành chính vào hoạt động của xí nghiệp; cơ quan hành chính cấp trên chấm dứt việc làm thay xí nghiệp trong việc giao dịch, ký kết hợp đồng, kể cả hợp đồng với các công ty nước ngoài. Chấm dứt việc bắt buộc xí nghiệp đóng góp ngoài quy định của Nhà nước. Các xí nghiệp phải hạch toán đúng và đủ các chi phí vật chất, thực hiện đầy đủ nghĩa vụ với Nhà nước và trách nhiệm với bên ngoài theo hợp đồng đã ký; trên cơ sở đó mà phân phối thu nhập trong nội bộ xí nghiệp. Sau khi trích các quỹ phát triển, sản xuất, quỹ phúc lợi xã hội, phần tiền lương được phân phối theo nguyên tắc tiền lương không vượt quá năng suất lao động và hiệu quả công việc. Động lực quan trọng hàng đầu đối với hoạt động của xí nghiệp là trả công lao động theo nguyên tắc có làm có ăn, không làm không ăn, làm nhiều hưởng nhiều, làm ít hưởng ít. Mở rộng hình thức khoán trong xí nghiệp. Quy định bội số tối đa lương giám đốc so với lương bình quân của công nhân. Xóa bỏ bao cấp trong trả công lao động, đồng thời xây dựng quỹ bảo hiểm xã hội để trợ cấp đúng mục đích, đúng đối tượng.

Theo tinh thần trên, cần sử đổi ngay Quyết định 217 và 50 của Hội đồng Bộ trưởng, xây dựng Luật về công ty và xí nghiệp quốc doanh.

- Chuyển một số xí nghiệp quốc doanh có điều kiện thành công ty cổ phần và thành lập một số công ty quốc doanh cổ phần mới. Phải làm thí điểm, chỉ đạo chặt chẽ, rút kinh nghiệm chu đáo trước khi mở rộng trong phạm vi thích hợp.

- Sửa đổi các quy định về tổ chức liên hiệp xí nghiệp, tổng công ty phù hợp với cơ chế mới, bảo đảm nguyên tắc tự nguyện, bình đẳng, cùng có lợi, không phân biệt quan hệ sở hữu của các doanh nghiệp thành viên. Trước mắt, giải quyết những liên hiệp xí nghiệp chỉ hoạt động như cấp hành chính trung gian.

Các doanh nghiệp được quyền mở rộng mạng lưới đại lý. Tăng cường hiệu lực của chế độ hợp đồng kinh tế, xử lý nghiêm minh các trường hợp vi phạm. Sớm thành lập Tòa án kinh tế.

2- Tiếp tục đổi mới kinh tế tập thể, phát triển các hình thức hợp tác đa dạng trong nông thôn với hộ xã viên là đơn vị kinh tế tự chủ, phát triển kinh tế hộ cá thể, tư nhân.

- Đổi mới hình thức tổ chức, nội dung kinh doanh và cơ chế quản lí của các hợp tác xã và tập đoàn sản xuất hiện có trong nông nghiệp theo hướng vừa bảo đảm cho hộ xã viên thật sự là đơn vị kinh tế tự chủ, vừa tăng cường vai trò thiết thực của ban quản trị trong quản lý, điều hành sản xuất, mở rộng ngành nghề, làm tốt những dịch vụ cần thiết, cùng chính quyền và các đoàn thể thực hiện các chính sách xã hội và xây dựng nông thôn mới.

Khuyến khích phát triển các hình thức kinh tế hợp tác mới đa dạng trong nông thôn trên nguyên tắc thật sự tự nguyện và cùng có lợi, xuất phát từ nhu cầu của các hộ nông dân. Mọi tổ chức sản xuất kinh doanh do các hộ nông dân góp vốn, góp sức, được quản lý theo nguyên tắc dân chủ, đăng ký và hoạt động theo pháp luật, không phân biệt quy mô tổ chức đều là hợp tác xã. Các hợp tác xã có tư cách pháp nhân, tự chịu trách nhiệm về vốn và kết quả kinh doanh, không phân biệt địa giới hành chính và không có cấp trên trực tiếp.

Trong nghề cá, lấy tầu, thuyền làm đơn vị sản xuất cơ bản để tổ chức quan hệ hợp tác từng tầu, thuyền, giữa các tầu, thuyền và giữa người đánh bắt với các cơ sở dịch vụ.

Trên cơ sở tổng kết hợp tác hóa và việc thực hiện Nghị quyết 10 của Bộ Chính trị (khóa VI), Bộ Chính trị ra chỉ thị đổi mới tổ chức quản lý hợp tác xã. Xúc tiến việc xây dựng và ban hành luật về hợp tác xã.

Các đơn vị kinh tế quốc doanh trong các lĩnh vực sản xuất, chế biến, tiêu thủ nông, lâm, hải sản cũng như trong các khâu cung ứng vật tư, dịch vụ kỹ thuật cần mở rộng các hình thức liên doanh, liên kết, xây dựng quan hệ hợp đồng lâu dài, tin cậy với các hộ nông dân và các hợp tác xã, thúc đẩy và hỗ trợ nhau cùng phát triển.

- Phát triển kinh tế hộ cá thể, tư nhân trong nông nghiệp là một chính sách nhất quán, lâu dài trong thời kỳ quá độ. Nhà nước có chính sách khuyến khích và hướng dẫn họ bỏ vốn kinh doanh trồng trọt, chăn nuôi, làm dịch vụ, phát triển tiểu công nghiệp, thủ công nghiệp nông thôn…, làm giàu đúng pháp luật, liên kết với kinh tế quốc doanh, kinh tế tập thể dưới nhiều hình thức và làm tròn nghĩa vụ đối với Nhà nước.

- Để tạo môi trường và điều kiện thuận lợi cho kinh tế tập thể và hộ xã viên, kinh tế hộ cá thể và tư nhân phát triển sản xuất kinh doanh, xây dựng nông thôn mới, cần tập trung giải quyết một số vấn đề dưới đây:

Một là, trong năm 1992, phải hoàn chỉnh việc thể chế hóa chính sách ruộng đất, bổ sung, sửa đổi Luật đất đai và các văn bản dưới luật nhằm bảo đảm quyền quản lý thống nhất của Nhà nước đối với toàn bộ đất đai, đồng thời xác định rõ trách nhiệm, quyền hạn của những người sử dụng đất, đặc biệt là của nông dân đối với ruộng đất được Nhà nước giao cho sử dụng ổn định, lâu dài. Người được giao quyền sử dụng đất canh tác không được tự ý chuyển thành đất không canh tác và có trách nhiệm bảo vệ độ mầu mỡ của đất. Việc chuyển đổi, chuyển nhượng, cho thuê, thế chấp, thừa kế quyền sử dụng ruộng đất phải được pháp luật quy định cụ thể theo hướng khuyến khích nông dân an tâm đầu tư kinh doanh, nâng cao hiệu quả sử dụng đất, tạo điều kiện từng bước tích tụ ruộng đất trong giới hạn hợp lý để phát triển nông nghiệp hàng hóa, đi đôi với mở rộng phân công và phân bố lao động gắn với quá trình công nghiệp hóa. Quy định rõ các điều kiện cho phép chuyển nhượng quyền sử dụng ruộng đất, ngăn ngừa tình trạng người sống bằng nghề nông không còn ruộng đất, người mua quyền sử dụng không phải để sản xuất mà để buôn bán ruộng đất, phát canh thu tô. Mức tập trung ruộng đất vào một hộ cũng phải quy định giới hạn tối đa tùy theo vùng và loại đất.

Chuẩn bị chu đáo và thực hiện dứt điểm chủ trương Nhà nước giao đất cho hộ nông dân và cấp giấy chứng nhận. Việc giao đất phải phù hợp với đặc điểm từng vùng, từng loại đất theo nguyên tắc công khai, dân chủ, có lý, có tình, bảo đảm công bằng xã hội và đoàn kết nông thôn, bảo đảm mọi người sống bằng nghề nông đều có đất để canh tác. Xử lý nghiêm khắc mọi hành vi lợi dụng chức quyền để bao chiếm đất đai. Diện tích đất đã giao cho nông, lâm trường và các đơn vị khác, nay cần kiểm tra lại việc sử dụng; đối với phần đất chưa sử dụng, hoặc sử dụng kém hiệu quả, Nhà nước thu lại để giao cho hộ nông dân sử dụng. Đất nông nghiệp chuyển sang dùng vào mục đích phi nông nghiệp phải được xét duyệt hết sức chặt chẽ, gắn với quy hoạch, kế hoạch xây dựng kết cấu hạ tầng, khu công nghiệp và khu dân cư.

Đi đôi với chính sách ruộng rất, Nhà nước bảo hộ quyền sở hữu vốn, tài sản và các tư liệu sản xuất khác của hộ nông dân, quyền tự do kinh doanh và tiêu thụ sản phẩm, quyền lựa chọn các hình thức hợp tác và rút ra khỏi hợp tác xã theo điều lệ, quyền di chuyển chỗ ở vài tài sản đến lập nghiệp ở nơi mới theo quy định của pháp luật.

Hai là, chính sách tài chính - tín dụng phải thật sự khuyến khích và hỗ trọ kinh tế hợp tác và kinh tế hộ nông dân phát triển.

Mọi loại đất sử dụng đều phải nộp thuế, trong đó đất sản xuất nông, lâm, ngư nghiệp chịu thuế nhẹ hơn đất dùng vào mục đích khác. Áp dụng chính sách miễn, giảm thuế có sức khuyến khích mạnh mẽ các hộ nông dân và các đơn vị thuộc mọi thành phần kinh tế, kể cả công ty và tư nhân nước ngoài đầu tư vốn khai hoang đất trống, đối núi trọc, mặt nước. Các hộ kinh doanh công nghiệp và dịch vụ ở nông thôn chịu thuế nhẹ hơn ở thành thị và được miễn thuế ở các vùng xa xôi hẻo lánh.

Mở rộng mạng lưới tín dụng quốc doanh và tập thể ở nông thôn, tạo điều kiện thuận tiện cho nông dân vay vốn để sản xuất kinh doanh. Có cơ chế bảo đảm hoạt động an toàn cho các tổ chức tín dụng tập thể và các hình thức liên doanh, hùn vốn đầu tư ở nông thôn. Dành ưu tiên thích đáng nguồn vốn viện trợ và vốn vay của nước ngoài cho các chương trình phát triển nông thôn, và hỗ trợ trực tiếp cho các hộ nông dân, nhất là các hộ nghèo.

Ba là, tổ chức nghiên cứu thị trường tiêu thụ nông sản ở trong và ngoài nước, tìm thêm thị trường mới. Thông qua các hợp đồng tiêu thụ nông sản, giúp đỡ và tạo điều kiện để các hộ nông dân tiếp cận với thị trường. Khuyến khích đầu tư chế biến nông sản; mở rộng dịch vụ bán vật tư, hàng hóa và mua sản phẩm trực tiếp đến hộ nông dân; áp dụng hình thức ứng trước vật tư, tiền vốn cho hộ nông dân để mua sản phẩm; loại trừ tình trạng các tổ chức trong khu vực nhà nước và các thành phần kinh tế khác đầu cơ, ép giá đối với nông dân.

Xây dựng quỹ bảo hiểm sản xuất nông nghiệp.

Bốn là, đẩy mạnh công tác khuyến nông, phát triển mạng lưới, chuyển giao kỹ thuật đến hộ nông dân bằng nhiều hình thức, chú trọng đào tạo kỹ thuật viên, dạy nghề, tổ chức huấn luyện, làm mẫu cho các hộ nông dân.

Năm là, làm trong sạch tổ chức đảng và chính quyền xã, nâng cao năng lực lãnh đạo của đảng, năng lực quản lý của chính quyền ở xã, tạo môi trường chính trị, xã hội nông thôn ổn định, lành mạnh để nông dân yên tâm phát triển sản xuất kinh doanh.

3- Phát huy tiềm năng của kinh tế tập thể, cá thể, tư nhân ở thành thị.

- Bổ sung và sửa đổi các thể chế nhằm bảo đảm cho kinh tế tập thể, cá thể và tư nhân được phát triển không hạn chế về quy mô và địa bàn hoạt động trong những lĩnh vực mà pháp luật không cấm; được tự lựa chọn hình thức kinh doanh, kể cả liên doanh với nước ngoài theo những điều kiện do luật định. Tăng cường pháp chế kinh doanh, tạo môi trường ổn định và an toàn cho mọi người yên tâm đầu tư kinh doanh. Xóa bỏ những cấm đoán và ràng buộc vô lý, những thủ tục phiền hà gây khó khăn cho việc phát triển sản xuất kinh doanh của nhân dân.

- Bộ máy quản lý nhà nước từ trung ương đến địa phương phải thực hiện tốt nhiệm vụ quản lý nhà nước đối với tất cả các thành phần kinh tế, xóa bỏ sự phân biệt kinh tế trung ương, kinh tế địa phương, khắc phục tình trạng các bộ quản lý ngành chỉ quan tâm quản lý các xí nghiệp quốc doanh trung ương.

Cùng với việc sử dụng các công cụ điều tiết vĩ mô, các cơ quan nhà nước cần quan tâm tổ chức tốt thông tin kinh tế, hỗ trợ cho các doanh nghiệp trong việc tiếp thị (marketing). Các diễn đàn đầu tư, dịch vụ đầu tư phải chú ý đến người đầu tư trong nước.

Tổ chức thực hiện nghiêm chỉnh pháp chế về đăng ký kinh doanh, đăng ký nhãn hiệu, đăng ký tài khoản tại ngân hàng, về chế độ kế toán, thống kê, về nộp thuế. Quản lý chặt chẽ theo pháp luật những người buôn bán, nhất là buôn bán hàng ngoại. Các cơ quan nhà nước tăng cường tổ chức thực hiện và kiểm tra, giám sát việc thi hành pháp luật kinh doanh đi đôi với phát động dư luận xã hội đấu tranh mạnh mẽ chống các hành vi trái pháp luật, đặc biệt là kinh doanh không đăng ký hoặc trái với đăng ký, buôn lâu, trốn thuế, làm hàng giả.

- Tổng kết tình hình hoạt động và biến đổi của các hợp tác xã trong các ngành nghề ở thành thị. Củng cố và phát triển kinh tế tập thể ở thành thị theo nguyên tắc tự nguyện dưới nhiều hình thức và quy mô, phù hợp với trình độ công nghệ, khả năng quản lý và với đặc điểm của từng ngành nghề. Các hợp tác xã phải đổi mới tổ chức và phương thức hoạt động trên cơ sở phân định rõ sở hữu tập thể và sở hữu cá nhân, khuyến khích xã viên góp nhiều vốn vào hợp tác xã. Phần vốn tích lũy từ lợi nhuận nên chuyển thành cổ phần của xã viên.

- Hình thành tổ chức kinh tế - xã hội của các doanh nghiệp tập thể, cá thể và tư nhân. Tổ chức này mang tính chất phi chính phủ, do các doanh nghiệp, các hiệp hội hoặc tổ chức nghề nghiệp tự nguyện tham gia, đại diện cho các thành viên trong quan hệ đối nội và đối ngoại, làm một cầu nối giữa Nhà nước và các doanh nghiệp trong việc xây dựng, sửa đổi, bổ sung và tổ chức thực hiện các chính sách có liên quan, hỗ trợ nhau trong sản xuất kinh doanh, tiến hành một số hoạt động chung như xuất nhập khẩu, khoa học - kỹ thuật, tiếp thị, đầu tư, đào tạo, bồi dưỡng cán bộ… Cần coi trọng việc xây dựng và chỉ đạo hoạt động của tổ chức này ở các tỉnh, thành phố.

III- MỞ RỘNG VÀ NÂNG CAO HIỆU QUẢ KINH TẾ ĐỐI NGOẠI

Trong bối cảnh quốc tế hiện nay, phải giải quyết đúng đắn mối quan hệ giữa kinh tế - chính trị - an ninh quốc phòng; giữ vững nguyên tắc bảo vệ độc lập chủ quyền, an ninh chính trị, bình đẳng, cùng có lợi trong quan hệ với bên ngoài, đồng thời có đối sách linh hoạt, triệt để khai thác các yếu tố tích cực, hạn chế tác động tiêu cực của những yếu tố bất lợi để không ngừng đẩy mạnh kinh tế đối ngoại. Khai thác khả năng của các doanh nghiệp tham gia kinh tế đối ngoại, mở rộng quyền trực tiếp quan hệ với thị trường nước ngoài theo luật định, đồng thời tiếp tục đổi mới và tăng cường vai trò quản lý thống nhất của nhà nước bằng pháp luật, chính sách.

1- Chính sách thị trường.

Chính sách ngoại giao và kinh tế đối ngoại cần được điều chỉnh phù hợp với những biến động trong cục diện thế giới, nhằm vượt khỏi bao vây, cấm vận, không ngừng mở rộng quan hệ với các nước và tăng cường vị trí trên thị trường quốc tế. Khai thác thuận lợi do việc bình thường hóa quan hệ với Trung Quốc và giải pháp chính trị về Campuchia để mở rộng thị trường, trước hết là thị trường khu vực.

Tích cực phát triển quan hệ kinh tế - thương mại với Trung Quốc. Ngoài việc mở rộng quan hệ với trung ương, cần quan tâm mở rộng quan hệ với các tỉnh, đặc biệt là ba tỉnh biên giới Quảng Đông, Quảng Tây và Vân Nam. Quản lý tốt mậu dịch biên giới, chống buôn lậu gây thiệt hại cho cả hai nước.

Việc tăng cường quan hệ kinh tế với Lào phải coi trọng hiệu quả, đi liền với sự phối hợp chống buôn lậu qua biên giới. Chủ động nghiên cứu các hình thức quan hệ kinh tế thích hợp với tình hình mới ở Campuchia.

Đối với các nước ASEAN, tăng cường quan hệ hợp tác và phối hợp chính sách xuất khẩu trong khu vực để mở rộng thị trường. phấn đấu giảm dần thương mại qua trung gian, mở rộng quan hệ trực tiếp với các thị trường nước ngoài.

Coi trọng việc phát triển quan hệ với Ấn Độ, Ôxtrâylia và các nước trong khu vực có thiện chí với ta.

Các nước cộng hòa của Liên Xô trước đây và các nước Đông Âu vẫn là khu vực thị trường có quan hệ truyền thống và có nhiều tiềm năng có thể tiếp tục khai thác theo cơ chế mới; chuyển sang giao dịch thương mại và hợp tác trực tiếp với từng nước và giữa các doanh nghiệp của hai bên.

Duy trì và mở rộng trong những lĩnh vực thích hợp quan hệ kinh tế với các nước tuy xa về địa lý nhưng có thiện chí với ta như các nước Bắc Âu, Trung Đông và châu Phi.

Để sớm khai thông và phát triển quan hệ với Tây Âu, Nhật, Mỹ và với các tổ chức tài chính quốc tế, cần tranh thủ mọi cơ hội xúc tiến các quan hệ về nhiều mặt, qua nhiều đường, nhiều hình thức, chú trọng tạo những khâu đột phá từ những nước có thiện cảm và có lợi ích trong quan hệ với nước ta.

2- Chính sách xuất nhập khẩu.

Để đạt được mục tiêu xuất khẩu 2,2 tỷ đô-la Mỹ năm 1992 và 12 - 15 tỷ trong 5 năm 1991 - 1995, chính sách xuất khẩu phải định hướng và khuyến khích, hỗ trợ mạnh mẽ hơn việc sản xuất và kinh doanh hàng xuất khẩu, đổi mới cơ cấu và nâng cao sức cạnh tranh của hàng hóa.

Chuyển cơ cấu sản xuất và xuất khẩu theo yêu cầu của thị trường thế giới. Nâng cao trình độ chế biến hàng nông sản xuất khẩu. Mở rộng diện nhận gia công xuất khẩu hàng công nghiệp sang các thị trường khác ngoài các nước thuộc Liên Xô trước đây và các nước Đông Âu. Nắm bắt và phát triển nhanh những mặt hàng có thị trường mà các nước công nghiệp phát triển muốn chuyển giao công nghệ như may mặc, dệt, điện tử dân dụng… Đẩy mạnh sản xuất các mặt hàng đang có thị trường tiêu thụ không hạn chế như dầu mỏ, tơ tằm, tôm…

Tiếp tục thu hút vốn và công nghệ nước ngoài theo luật đầu tư, mở khu chế xuất, cho các công ty xuyên quốc gia lập chi nhánh sản xuất hàng xuất khẩu ở nước ta. Các công ty quốc doanh phải nâng cao sức cạnh tranh, chiếm lĩnh thị trường hàng xuất khẩu chủ lực bằng phương thức kinh doanh. Khai thác tối đa nguồn lực của các thành phần kinh tế, nguồn vốn trong nhân dân; áp dụng các hình thức liên doanh giữa ngân hàng với các tổ chức sản xuất và xuất nhập khẩu quốc doanh, hợp tác xã và tư nhân, tạo thế liên hoàn đồng bộ giữa các khâu vốn, sản xuất, xuất nhập khẩu.

Hạn chế tối đa diện mặt hàng xuất khẩu quản lý bằng hạn ngạch; miễn thuế xuất khẩu đối với sản phẩm chế biến, sản phẩm mới, sản phẩm gặp sự cạnh tranh cao trên thị trường quốc tế; kết hợp miễn thuế xuất khẩu với miễn hoặc giảm thuế doanh thu, lợi tức đối với những trường hợp cần hỗ trợ đặc biệt; có thuế suất hợp lý đối với xuất khẩu nguyên liệu; lập quỹ bảo trợ xuất khẩu; ngân hàng áp dụng nghiệp vụ thanh toán giúp người xuất khẩu thu hồi vốn nhanh.

Quản lý chặt chẽ hoạt động nhập khẩu, đáp ứng nhu cầu nhập khẩu vật tư, hàng hóa thiết yếu và đổi mới công nghệ cho nền kinh tế.

Đi đôi với việc sửa đổi cơ chế quản lý ngoại tệ, Nhà nước bảo đảm ngoại tệ cho một số công ty quốc doanh nhập khẩu một phần vật tư thiết yếu để đáp ứng một số nhu cầu và để đối phó với những biến động bất thường trên thị trường. Đối với các nhu cầu khác, Nhà nước tạo điều kiện hỗ trợ và dùng chính sách khuyến khích các ngành và cơ sở, bằng nhiều hình thức khác nhau (kể cả làm đại lý tiêu thụ cho nước ngoài) khai thác các nguồn vật tư trong và ngoài nước, tự giải quyết nhu cầu vật tư của mình và đáp ứng nhu cầu của xã hội theo cơ chế kinh doanh.

Lập lại danh mục hàng hóa theo cách phân loại của thị trường quốc tế; quy định rõ những hàng cấm nhập, những hàng nhập khẩu phải quản lý bằng hạn ngạch và các biện pháp hành chính khác; dùng thuế làm công cụ chính để điều tiết nhập khẩu. Thuế suất tùy thuộc vào mức độ khuyến khích hay hạn chế nhập khẩu, vào chênh lệch giá cả quốc tế với trong nước. Thực hiện chính sách bảo hộ ở mức hợp lý đối với sản xuất trong nước. Chính sách thuế đối với nguyên liệu nhập khẩu cần phân biệt loại nguyên liệu thiết yếu, nguyên liệu sản xuất hàng xuất khẩu và nguyên liệu sản xuất xa xỉ phẩm, tiêu dùng nội địa. Thuế nhập khẩu tăng dần theo trình độ chế biến của sản phẩm nhập khẩu (kể cả đối với máy móc thiết bị). Nâng tỷ trọng thu về thuế nhập khẩu trong tổng thu thuế lên mức hợp lý. Thay đổi quy chế ban hành thuế suất để có thể điều chỉnh kịp thời theo những biến động của thị trường.

Tăng cường công tác hải quan, phối hợp với các nước có chung biên giới để chống buôn lậu; áp dụng biện pháp truy thu thuế đối với hàng ngoại trốn thuế nhập khẩu lưu thông trong nội địa.

Chấn chỉnh hệ thống tổ chức quản lý và kinh doanh xuất nhập khẩu. Tập trung chức năng quản lý nhà nước đối với các hoạt động xuất, nhập khẩu vào một đầu mối là Bộ Thương mại và du lịch. Bộ Thương mại và du lịch phải đổi mới phương thức quản lý, chấn chỉnh việc cấp hạn ngạch và giấy phép để nâng cao hiệu lức pháp chế nhưng không gây cản trở, phiền hà cho các hoạt động xuất, nhập khẩu.

Các đơn vị xuất nhập khẩu quốc doanh cần được sắp xếp lại theo chủ trương chung đối với khu vực kinh tế quốc doanh. Nhà nước tăng cường quản lý và kiểm soát vốn kinh doanh, định hướng kế hoạch và hợp đồng với bên ngoài. Ngăn chặn việc thành lập các công ty xuất, nhập khẩu một cách tùy tiện, không bảo đảm vốn và nghiệp vụ kinh doanh.

3- Chính sách thu hút vốn đầu tư trực tiếp của nước ngoài.

Để thực hiện mục tiêu thu hút khoảng 2,5 - 3,5 tỷ đô-la Mỹ đầu tư trực tiếp của nước ngoài trong năm 1991 - 1995, đi đôi với việc cải thiện tình hình trong nước, khai thông quan hệ chính trị - ngoại giao, cần tích cực tạo môi trường và điều kiện hấp dẫn đầu tư. Chú trọng hoàn chỉnh pháp chế và chính sách đầu tư, xây dựng tốt các dự án gọi vốn đầu tư, khẩn trương đào tạo cán bộ làm việc với các nhà đầu tư nước ngoài.

Trong chính sách cụ thể, cần bổ sung một số điểm:

- Cho nước ngoài đầu tư xây dựng cơ sở mới và đầu tư chiều sâu, cải tạo xí nghiệp quốc doanh, kể cả các cơ sở đang hoạt động có hiệu quả. Các thành phần kinh tế ngoài quốc doanh được tham gia hợp tác đầu tư với nước ngoài dưới những hình thức và trong những lĩnh vực theo luật định. Khuyến khích người Việt cư trú ở nước ngoài đầu tư vào trong nước.

- Bổ sung chính sách thuế và các ưu đãi khác nhằm khuyến khích đầu tư vào miền trung, miền bắc và những vùng có nhiều khó khăn về điều kiện kinh tế, sinh hoạt.

- Trên nguyên tắc bảo đảm hiệu quả kinh tế - xã hội và lợi ích của đất nước, không hạn chế quy mô và loại tài nguyên mà nước ngoài muốn đầu tư khai thác. Mở rộng hợp lý thời hạn cho thuê đất và áp dụng chính sách đối với người thuê đất phù hợp với thông lệ quốc tế.

- Cho phép một số ngân hàng nước ngoài thành lập ngân hàng liên doanh với ngân hàng Việt Nam hoặc đặt chi nhánh tại Việt Nam.

- Triển khai thực hiện quy chế khu chế xuất ở thành phố Hồ Chí Minh, phát triển thêm ở một số nơi như Hải Phòng, Vũng Tàu, Quảng Ninh và một số tỉnh, thành phố khác.

- Chấn chỉnh các tổ chức dịch vụ đầu tư, bảo đảm hoạt động nghiêm chỉnh, tạo thuận lợi cho các nhà đầu tư. Khắc phục tình trạng gây khó khăn, phiền hà, đòi hối lộ đối với người nước ngoài. Hoàn chỉnh quy chế hoạt động của đại diện công ty nước ngoài ở nước ta và quy chế quản lý cán bộ, nhân viên làm việc trong các văn phòng đại diện, các liên doanh với nước ngoài, bảo đảm bí mật quốc gia và an ninh chính trị, kinh tế.

4- Phát triển đa dạng các hình thức kinh tế đối ngoại khác.

Trong lĩnh vực hợp tác lao động, chuyên gia, cần kịp thời xử lý những vấn đề mới trong quan hệ với các nước thuộc liên bang Xô Viết trước đây và các nước Đông Âu; tích cực mở rộng quan hệ sang các nước khác, trước hết là các nước Trung Đông, Châu Phi.

Phát triển du lịch quốc tế, tập trung ở một số vùng trọng điểm. Mở rộng hợp tác với các tổ chức du lịch thế giới, đặc biệt là các nước trong khu vực. Tổ chức dịch vụ nhà ở và phục vụ sinh hoạt cho người nước ngoài kinh doanh thường trú ở nước ta.

Phát triển hàng hải, hàng không, bưu điện quốc tế và các dịch vụ khác trong những lĩnh vực này. Tổ chức lại và phát triển các đội tàu viễn dương.

Hình thành tổ chức và quy chế bảo đảm quản lý và khai thác có hiệu quả nguồn kiều hối, viện trợ của các tổ chức quốc tế và các tổ chức phi chính phủ.

Tăng cường sự chỉ đạo, phối hợp liên ngành trong hoạt động kinh tế đối ngoại. Xây dựng tổ chức và cơ chế quản lý, điều hành thanh toán quốc tế, vay nợ, trả nợ nước ngoài.

IV- GIẢI QUYẾT VIỆC LÀM VÀ ỔN ĐỊNH ĐỜI SỐNG CỦA NGƯỜI HƯỞNG LƯƠNG VÀ TRỢ CẤP XÃ HỘI

1- Phương hướng cơ bản để giải quyết việc làm là phát huy tiềm năng của các thành phần kinh tế, khả năng đất đai, tài nguyên của đất nước và mở rộng hoạt động kinh tế đối ngoại. Ưu tiên giải quyết việc làm cho số lao động dôi ra trong khu vực nhà nước, bộ đội xuất ngũ, học sinh đã qua các trường đào tạo, thanh niên đến tuổi lao động ở thành thị, lao động hợp tác trở về.

Nhà nước có cơ chế, chính sách tạo môi trường thuận lợi để nhân dân tự tạo việc làm, tự do kinh doanh, tự do thuê mướn lao động theo pháp luật. Nhà nước đầu tư có trọng điểm xây dựng kết cấu hạ tầng, đào tạo và đào tạo lại nghề nghiệp cho người lao động. Phát huy mọi nguồn tiềm năng trong nước, đặc biệt là khơi nguồn vốn trong dân, đồng thời tranh thủ các nguồn lực quốc tế, tập trung cho các chương trình và dự án tạo việc làm có mục tiêu, nhằm vào các hướng chính dưới đây:

- Phát triển công nghiệp và dịch vụ ở thành thị dưới nhiều loại hình, nhất là các hình thức linh hoạt, quy mô nhỏ, kinh tế gia đình. Chú trọng giúp đỡ cho các thanh niên có vốn, có tay nghề tạo ra việc làm.

- Thu hút lao động tại chỗ ở nông thôn vào thâm canh nông nghiệp, phát triển chăn nuôi xuất khẩu, mở rộng ngành nghề và xây dựng nông thôn mới. Tạo điều kiện và hỗ trợ những người đi lập nghiệp ở những vùng thiếu lao động; thu hút mạnh lao động vào chương trình phủ xanh 3 triệu ha đất trống, đồi trọc và khai hoang đất nông nghiệp.

Phát triển các tổ chức thanh niên xung phong làm kinh tế có hiệu quả thành các đơn vị kinh doanh.

- Tìm thị trường mới để xuất khẩu lao động và chuyên gia.

- Tổ chức tốt việc thực hiện chương trình của Cộng đồng châu Âu về tạo việc làm cho những người hồi hương.

 Các chương trình tạo việc làm gắn với các chương trình phát triển kinh tế cần được cụ thể hóa thành các dự án đầu tư, trong đó xác định rõ phần đầu tư và chính sách ưu đãi của Nhà nước và phải được tuyên truyền, giải thích rộng rãi để thu hút vốn và sức lao động của những người muốn tham gia, kể cả vốn của nước ngoài.

Tổ chức tốt việc đăng ký tìm việc làm, các dịch vụ giới thiệu việc làm, các trường, lớp dạy nghề dưới nhiều hình thức. Hình thành hệ thống sự nghiệp tạo việc làm ở các đoàn thể và tổ chức xã hội.

Hình thành và phát triển quỹ quốc gia trợ giúp tạo việc làm và dạy nghề của Nhà nước từ các nguồn vốn trong nước và ngoài nước.

Tăng cường bộ máy chỉ đạo giải quyết việc làm ở trung ương; phối hợp chặt chẽ các bộ, các ngành trong lĩnh vực này.

2- Ổn định đời sống của người hưởng lương và hưởng trợ cấp xã hội. Trong các năm 1992 - 1995, phải chủ động tạo điều kiện thực hiện đề án cải cách chế độ tiền lương đã trình Quốc hội theo các bước đi thích hợp.

Trong năm 1992, đi đôi với việc tiếp tục bù trượt giá kịp thời cho những người hưởng lương và trợ cấp qua ngân sách, bảo đảm tiền lương thực tế không giảm, cần thực hiện một bước cải cách chính sách tiền lương theo nội dung dưới đây:

Tiền tệ hóa một số khoản mục trong cơ cấu tiền lương (bảo hiểm y tế, bảo hiểm xã hội, chế độ trang cấp đồ dùng gia đình…). Nghiên cứu và áp dụng thử  việc trở cấp bằng tiền cho những cán bộ trong tiêu chuẩn có ô tô đưa đón, chuyển một số ô tô sang kinh doanh tắc-xi. Tạo điều kiện thực hiện việc tiền tệ hóa nhà ở, đưa vào tiền lương. Việc hóa giá và bán nhà cho công nhân viên chức phải có chủ trương thống nhất trong cả nước, bảo đảm công bằng và chỉ đạo thực hiện chặt chẽ.

Các đơn vị sản xuất, kinh doanh trong khu vực kinh tế quốc doanh có đủ điều kiện được áp dụng ngay chế độ lương mới.

Đối với khu vực hành chính, sự nghiệp, lực lượng vũ trang, tiến hành việc tiêu chuẩn hóa cán bộ gắn với thực hiện quy chế công chức và quy chế riêng đối với lực lượng vũ trang. Đẩy mạnh việc chấn chỉnh tổ chức bộ máy quản lý Nhà nước, sắp xếp lại các viện nghiên cứu, các trường đào tạo, giảm 20% biên chế hành chính, sự nghiệp. Trong năm 1992 thực hiện một bước việc cải cách chế độ lương cho khu vực này.

Tiếp tục trợ cấp khó khăn cho một số đối tượng trọng điểm: những người về hưu có thu nhập quá thấp, lực lượng vũ trang tại các địa bàn xung yếu, cán bộ, nhân viên một số ngành nội chính. Đãi ngộ thỏa đáng các trí thức, văn nghệ sĩ có nhiều cống hiến.

Công khai hóa các khoản thu nhập thêm hợp pháp và hợp lý của các cơ quan hành chính, sự nghiệp, lực lượng vũ trang, cơ quan đảng và các đoàn thể để bù thêm vào tiền lương cho cán bộ, công nhân viên. Các khoản chi có định mức (như hội họp, tiếp tân…) mà cơ quan tiết kiệm được cũng được công khai hóa và bù thêm vào tiền lương.

V- CẢI CÁCH HỆ THỐNG TỔ CHỨC VÀ LÀM TRONG SẠCH BỘ MÁY NHÀ NƯỚC, NÂNG CAO HIỆU LỰC CỦA PHÁP LUẬT

1- Trên cơ sở Hiến pháp sửa đổi được thông qua, tiến hành chương trình cải cách đồng bộ về các mặt tổ chức, chức trách, phương thức hoạt động của các cơ quan lập pháp, hành pháp và tư pháp.

Xác định rõ chức năng quản lý nhà nước trong nền kinh tế thị trường với chế độ tự chủ kinh doanh của các đơn vị kinh tế. Trên cơ sở đó, bố trí lại cơ cấu tổ chức bộ máy Nhà nước cho hợp lý, giảm đầu mối, bớt trung gian nhằm tăng cường vai trò quản lý thống nhất ở tầm vĩ mô, khắc phục tình trạng làm sai chức năng, phân tán, chồng chéo.

Trong lĩnh vực hành pháp, phải sắp xếp lại cơ cấu tổ chức của Chính phủ, đúng với vai trò là cơ quan chấp hành của Quốc hội và là cơ quan hành chính Nhà nước cao nhất. Xác định lại chức trách của người đứng đầu Chính phủ, các ngành (bộ, ủy ban); kiện toàn các cơ quan chức năng có vai trò công cụ quản lý vĩ mô chủ yếu của Nhà nước (kế hoạch, tài chính, ngân hàng…); tiếp tục thu gọn cơ cấu tổ chức Chính phủ và các bộ quản lý ngành.

Đổi mới quy chế phân cấp quản lý giữa trung ương và địa phương theo hướng đề cao vai trò quản lý tập trung, thống nhất về pháp luật, cơ chế, chính sách của Trung ương và bảo đảm trách nhiệm của chính quyền địa phương theo chức năng quản lý hành chính nhà nước trên địa bàn lãnh thổ. Sửa đổi ngay các quy chế về phân cấp quản lý ngân sách nhà nước, quản lý xuất nhập khẩu… để thực hiện từ đầu năm 1992.

Sắp xếp lại tổ chức bộ máy quản lý nhà nước ở địa phương theo đúng chức năng và phù hợp với đặc điểm tình hình cụ thể, không nhất thiết có đủ các cơ quan như hệ thống bộ máy ở trung ương. Phương hướng chung là kiện toàn cấp tỉnh, thành phố và cấp xã, thu gọn chức năng và bộ máy cấp huyện. Đối với các thành phố, cần chú ý những điều kiện đặc thù của đô thị; vai trò của cấp quận và mối quan hệ giữa quận với phường cần được tiếp tục nghiên cứu xác định rõ.

Cùng với việc sắp xếp lại và kiện toàn tổ chức bộ máy, cần xây dựng và ban hành quy chế công chức, từng bước sắp xếp lại cán bộ, nhân viên theo quy chế đó.

Khẩn trương đào tạo và đào tạo lại cán bộ, đặc biệt là đội ngũ công chức, với nội dung đổi mới, thiết thực, hình thức linh hoạt nhằm trang bị những kiến thức mới về quản lý Nhà nước, về cơ chế quản lý kinh tế mới cũng như về nghiệp vụ.

2- Để kiện toàn tổ chức, phải làm trong sạch bộ máy, tăng cường kỷ luật của Đảng, pháp chế của Nhà nước, chống tham nhũng, quan liêu, lợi dụng chức quyền và buôn lậu.

Trung ương Đảng và Hội đồng Bộ trưởng cần lập một tổ chức gọn, nhưng đủ mạnh để chỉ đạo công tác này. Cán bộ lãnh đạo các ngành, các cấp, các đoàn thể, trước hết là các Ủy viên Trung ương Đảng, phải chịu trách nhiệm trực tiếp về tình hình chấp hành kỷ luật và pháp luật, chống tham nhũng buôn lậu trong phạm vi mình phụ trách.

Tập trung chỉ đạo giải quyết dứt điểm những vụ nghiêm trọng đã phát hiện. Đối với các tội phạm đã kết luận rõ, phải xử lý nghiêm minh, đúng pháp luật, có tác dụng giáo dục và ngăn ngừa. Mọi công dân đều bình đẳng trước pháp luật, không miễn trừ ai. Nghiêm cấm việc can thiệp trái pháp luật của những người có chức có quyền vào việc thanh tra, điều tra, kết luận và xử lý của các cơ quan bảo vệ pháp luật.

Loại ra khỏi cương vĩ lãnh đạo những cán bộ tham nhũng, bao che cho kẻ phạm tội. Đưa ra khỏi Đảng những đảng viên tham nhũng.

Tiến hành đồng bộ cả ba mặt: xây dựng pháp luật, tăng cường lực lượng bảo vệ pháp luật, giáo dục mọi người hiểu biết và thi hành pháp luật.

Thể chế hóa kịp thời các chủ trương, chính sách. Soát xét các quy định về quản lý kinh tế, tài chính, các thể thức, thủ tục hành chính, khắc phục các sơ hở, giảm bớt thủ tục và tầng nấc phải xin phép. Các văn bản pháp quy có phạm vi thực hiện rộng rãi đều phải công bố công khai.

Xóa bỏ ngay "quy chế ngầm" các xí nghiệp, tổ chức kinh doanh đóng góp tiền của nuôi cơ quan chỉ đạo hành chính cấp trên. Khẩn trương tiến hành thanh tra các tổ chức làm kinh tế trực thuộc các cơ quan hành chính, khoa học kỹ thuật, đoàn thể xã hội, lực lượng vũ trang…, kiên quyết xóa bỏ các đơn vị làm ăn phi pháp, gây tổn thất lớn và xác định rõ trách nhiệm của người phụ trách. Nghiêm cấm việc dùng của công để biếu xén, ăn uống, tiêu xài lãng phí.

Tuyển chọn ngay cán bộ tốt, có năng lực để bổ sung cho lực lượng thanh tra của nhà nước và của các ngành, chú trọng thanh tra tài chính, tín dụng, kinh doanh xuất nhập khẩu. Tăng cường các lực lượng bảo vệ pháp luật, đặc biệt là đội ngũ cán bộ, nhân viên làm nhiệm vụ chống tham nhũng, buôn lậu. Bồi dưỡng kiến thức mới về quản lý kinh tế - xã hội cho lực lượng này, tăng cường phương tiện nghiệp vụ cần thiết, chăm lo thích đáng đời sống cán bộ, chiến sĩ được giao nhiệm vụ. Xóa bỏ chế độ trích thưởng theo tỉ lệ tiền của thu hồi được cho những người làm công tác này, thay bằng một loại phụ cấp thích hợp.

Chú trọng công tác giáo dục thường xuyên về pháp luật trong các trường học, các tầng lớp nhân dân bằng nhiều hình thức linh hoạt. Hết sức coi trọng ý kiến nhân dân phát hiện cán bộ, nhân viên phạm khuyết điểm. Xây dựng quy chế thể hiện trách nhiệm của các cơ quan nhà nước, đảng, đoàn thể v.v… đối với đơn từ tố giác, khiếu nại của công dân, hội viên, đảng viên… Phát triển các tổ chức dịch vụ tư vấn về pháp lý. Xúc tiến nghiên cứu thành lập Tòa án hành chính để nâng cao trách nhiệm và hiệu lực xét xử những việc thuộc quan hệ giữa cơ quan nhà nước và công dân.

Phát huy tác dụng tích cực của các cơ quan thông tin đại chúng, đề cao đạo đức cần kiệm liêm chính, chí công vô tư, lên án những hành vi tham nhũng, buôn lậu, lối sống xa hoa, lãng phí, đua đòi. Thông tin về các vụ việc tiêu cực cần bảo đảm chính xác, có phê phán, đấu tranh, có tác dụng giáo dục.

 *

 * *

 

Toàn Đảng, toàn quân và toàn dân ta nêu cao tinh thần tự lực, tự cường, tăng cường đoàn kết nhất trí, ra sức phấn đấu vượt qua khó khăn, thử thách, thực hiện tốt phương hướng, nhiệm vụ và giải pháp trên đây, quyết tâm giữ vững ổn định chính trị, đưa nước ta ra khỏi khủng hoảng kinh tế - xã hội, tạo đà vững chắc để thực hiện thắng lợi mục tiêu chiến lược đến năm 2000. 

 

 T/M BAN CHẤP HÀNH TRUNG ƯƠNG ĐẢNG

Tổng Bí thư

 Đỗ Mười

Phản hồi

Thông tin người gửi phản hồi

Các tin khác

Ban hành Quy chế bầu cử trong Đảng

(ĐCSVN) - Ngày 10/10, thay mặt Ban Chấp hành Trung ương Đảng, Tổng Bí thư Tô Lâm đã ký Quyết định số 190-QĐ/TW về việc ban hành Quy chế bầu cử trong Đảng.

Kiểm soát quyền lực, phòng, chống tham nhũng, tiêu cực trong quản lý, sử dụng tài chính, tài sản công

(ĐCSVN) - Bộ Chính trị vừa ban hành Quy định số 189-QĐ/TW ngày 08/10/2024 về kiểm soát quyền lực, phòng, chống tham nhũng, tiêu cực trong quản lý, sử dụng tài chính, tài sản công.

Bộ Chính trị ban hành quy định phòng chống tham nhũng, tiêu cực trong điều tra, xét xử

(ĐCSVN) – Ngày 27/10/2023, Bộ Chính trị đã ban hành Quy định số 132-QĐ/TW về kiểm soát quyền lực, phòng, chống tham nhũng, tiêu cực trong hoạt động điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án.

Tập trung tuyên truyền những chủ đề lớn, trọng tâm từ nay đến Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIV của Đảng

(ĐCSVN) - Ban Tuyên giáo Trung ương yêu cầu thông tin chính xác, kịp thời với nhiều hình thức linh hoạt, sáng tạo, phong phú, sinh động gắn với tuyên truyền đại hội đảng bộ các cấp, tiến tới Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIV của Đảng và tuyên truyền kỷ niệm các ngày lễ lớn, sự kiện lịch sử quan trọng của đất nước trong năm 2024, 2025.

Quy trình kỷ luật đảng viên thuộc thẩm quyền của Trung ương Đảng, Bộ Chính trị, Ban Bí thư

(ĐCSVN) - Thay mặt Bộ Chính trị, Thường trực Ban Bí thư Lương Cường vừa ký Quyết định số 165-QĐ/TW ngày 6/6/2024 của Bộ Chính trị ban hành Quy trình xem xét, thi hành kỷ luật đối với tổ chức Đảng, đảng viên thuộc thẩm quyền của Ban Chấp hành Trung ương Đảng, Bộ Chính trị, Ban Bí thư.

Liên kết website