Nghị quyết số 03- NQ/TW của Hội nghị lần thứ ba, Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khoá VII) Về một số nhiệm vụ đổi mới và chỉnh đốn Đảng, ngày 26/6/1992

1- TÌNH HÌNH.

Từ sau Đại hội VII đến nay, cách mạng nước ta tiếp tục phát triển, đứng trước thời cơ mới và những thách thức mới.

Sự sụp đổ của chủ nghĩa xã hội ở Liên Xô đã làm thay đổi lớn cục diện chính trị thế giới. Chủ nghĩa xã hội lâm vào thoái trào, phong trào cách mạng, phong trào cộng sản và công nhân quốc tế gặp khó khăn nghiêm trọng. Chủ nghĩa đế quốc đẩy mạnh chống phá các nước xã hội chủ nghĩa và các lực lượng cách mạng, hòng xoá bỏ chủ nghĩa xã hội, mưu toan thiết lập một "trật tự thế giới mới" dưới sự khống chế của chúng. Các thế lực phản động ở trong nước và ngoài nước tìm mọi cách làm mất uy tín của Đảng ta và chế độ ta, cổ vũ cho đa nguyên chính trị, đa đảng đối lập, kích động chia rẽ nội bộ Đảng, chia rẽ nhân dân với Đảng. Chúng khuyến khích các phần tử chống đối, lôi kéo những người bất mãn; móc nối, gây dựng cơ sở, tập hợp lực lượng chống phá ta.

Tình hình đó đã gây cho chúng ta những khó khăn mới rất to lớn. Đồng thời cũng giúp chúng ta có thêm nhiều bài học về xây dựng Đảng:chống nguy cơ sai lầm về đường lối, vi phạm nguyên tắc tổ chức và sinh hoạt đảng, sai lầm về lựa chọn và bố trí cán bộ, tệ quan liêu xa rời quần chúng...

Phát triển kinh tế thị trường, mở rộng quan hệ quốc tế là tất yếu cần thiết, nhằm làm cho kinh tế phát triển năng động và có hiệu quả. Đồng thời, kinh tế thị trường cũng làm trầm trọng thêm những tệ nạn xã hội và yếu tố tiêu cực, đặc biệt là chủ nghĩa cá nhân ích kỷ, lối sống thực dụng tất cả vì tiền, tình trạng bất công xã hội, làm suy giảm giá trị đạo đức xã hội...

Trước những diễn biến nói trên, Đảng ta đã tỏ rõ bản lĩnh chính trị vững vàng, kiên định mục tiêu, lý tưởng xã hội chủ nghĩa, tinh thần độc lập tự chủ và khả năng nhạy bén, sáng tạo, lãnh đạo nhân dân vượt qua nhiều khó khăn to lớn, đưa công cuộc đổi mới tiếp tục phát triển đúng hướng và đi vào chiều sâu, giữ vững ổn định chính trị, nền kinh tế có mặt phát triển và có thêm nguồn lực vật chất mới. Đó là do Đảng ta được tôi luyện trong cuộc đấu tranh cách mạng lâu dài và gian khổ, kế tục được truyền thống quý báu của Đảng và dân tộc. Qua mấy năm lãnh đạo tiến hành đổi mới, Đảng có bước tiến bộ và trưởng thành mới, nắm bắt được yêu cầu phát triển của đất nước và nguyện vọng của nhân dân, quyết tâm sửa chữa những khuyết điểm sai lầm trước đây; kiến thức và năng lực hoạt động thực tiễn được nâng lên.

Những thành tựu bước đầu của công cuộc đổi mới càng chứng tỏ đường lối của Đảng ta là đúng đắn, cán bộ, đảng viên và nhân dân ta đoàn kết phấn đấu vượt qua mọi khó khăn thử thách, thực hiện sáng tạo đường lối của Đảng.

Tuy nhiên, Đảng ta cũng bộc lộ những khuyết điểm và nhược điểm, có những khuyết điểm đang trở thành nguy cơ không thể xem thường. Nổi bật nhất là:

- Tổ chức và kỷ luật của Đảng lỏng lẻo. Hệ thống tổ chức có những khâu trì trệ, ách tắc, chưa bảo đảm được sự lãnh đạo thông suốt trên tất cả các lĩnh vực. Một số tổ chức cơ sở đảng rệu rã, tê liệt, không giữ được vai trò lãnh đạo. Tổ chức và hoạt động của nhiều đoàn thể nhân dân còn nặng về hình thức, kém hiệu quả. Tình trạng mất đoàn kết xảy ra nghiêm trọng ở một số nơi.

- Trong Đảng có một bộ phận giảm sút ý chí chiến đấu, phai nhạt lý tưởng, dao động, mất lòng tin, trong đó một số chịu ảnh hưởng của khuynh hướng cơ hội, xét lại, muốn đưa đất nước đi con đường khác; thậm chí đã có người phản bội, đầu hàng. Không ít cán bộ, đảng viên bị chủ nghĩa cá nhân thực dụng cuốn hút, trở nên thoái hoá, hư hỏng. Tệ tham nhũng, hối lộ, buôn lậu, ăn chơi vung phí tài sản của nhân dân rất nghiêm trọng và kéo dài. Những hiện tượng đó gây tác hại lớn, làm tổn hại thanh danh, uy tín của Đảng.

- Chậm đổi mới phương thức lãnh đạo, hoạt động của không ít cấp uỷ lúng túng trước tình hình mới. Bệnh quan liêu xa thực tế, xa quần chúng rất nặng. Nhiều cán bộ, đảng viên nói không đi đôi với làm, sống xa dân, thậm chí cách biệt với cuộc sống của người lao động.

Sở dĩ có những yếu kém nói trên ngoài những nguyên nhân khách quan, về phía chủ quan là do chúng ta phạm một số sai lầm, khuyết điểm trong công tác xây dựng Đảng như:

- Buông lỏng các nguyên tắc tổ chức và sinh hoạt đảng, trước hết là nguyên tắc tập trung dân chủ. Chưa chú ý quản lý và rèn luyện cán bộ, đảng viên về mặt phẩm chất chính trị và đạo đức cách mạng. Chưa xử lý kỷ luật nghiêm minh và kịp thời những cán bộ, đảng viên có nhiều sai phạm.

- Công tác cán bộ yếu kém kéo dài. Thiếu một chiến lược về cán bộ cho giai đoạn mới. Chưa có biện pháp tích cực để khắc phục tình trạng đội ngũ cán bộ không đồng bộ, tuổi bình quân cao, lực lượng kế cận hẫng hụt. Có những cán bộ sa sút về phẩm chất, yếu kém về năng lực không kịp thời thay thế. Một số chính sách không công bằng; chưa có chế độ đãi ngộ thích đáng và tạo điều kiện, phương tiện cần thiết cho cán bộ làm công tác đảng và đoàn thể, nhất là ở cơ sở.

- Trong điều kiện Đảng cầm quyền, đất nước bước vào hoà bình xây dựng kinh tế, nhất là khi chuyển sang thực hiện cơ chế mới, không kịp thời tổng kết công tác xây dựng Đảng, công tác lãnh đạo Nhà nước và công tác vận động nhân dân để có những chủ trương, biện pháp thích ứng. Trong nhận thức, quan niệm, phương pháp tiến hành xây dựng Đảng nhiều mặt còn bảo thủ... Công tác nghiên cứu lý luận chậm so với sự phát triển của thực tiễn. Công tác tư tưởng thiếu sắc bén và còn nặng về đối phó bị động. Nhiều nghị quyết đúng đắn về xây dựng Đảng và công tác quần chúng không được cụ thể hoá và chỉ đạo thực hiện đến nơi đến chốn.

Trách nhiệm về những khuyết điểm và yếu kém trong công tác xây dựng Đảng chủ yếu thuộc về Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư, các cấp uỷ và các ban của Đảng, trước hết là Bộ Chính trị.

2- Mục tiêu, nguyên tắc, yêu cầu và phương châm đổi mới, chỉnh đốn Đảng.

Nhiệm vụ cách mạng trong giai đoạn mới đòi hỏi Đảng ta phải khẩn trương tự đổi mới, tự chỉnh đốn. Đây là một nhiệm vụ đặc biệt quan trọng và cấp bách, có ý nghĩa quyết định đối với toàn bộ sự nghiệp xây dựng và bảo vệ đất nước, đối với vận mệnh chế độ ta và Đảng ta.

Mục tiêu đổi mới và chỉnh đốn Đảng là nhằm nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng, phù hợp với yêu cầu khách quan của cách mạng nước ta trong tình hình mới, làm trong sạch đội ngũ cán bộ, đảng viên, bảo đảm thực hiện có kết quả các nhiệm vụ chính trị do Đại hội VII đề ra, trong đó trọng tâm là phát triển kinh tế, làm cho dân giàu nước mạnh, giữ vững ổn định chính trị.

Đổi mới và chỉnh đốn Đảng tiến hành trên nguyên tắc quán triệt và vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, kiên trì đường lối đổi mới theo định hướng xã hội chủ nghĩa; tăng cường vai trò lãnh đạo của Đảng; thực hiện đúng các nguyên tắc tổ chức và sinh hoạt Đảng; củng cố mối liên hệ mật thiết giữa Đảng với nhân dân.

Yêu cầu phải đạt trong những năm trước mắt là:

- Nâng cao bản lĩnh chính trị và năng lực lãnh đạo của Đảng. Nâng cao trình độ kiến thức, đạo đức cách mạng của cán bộ, đảng viên. Khắc phục có hiệu quả tệ tham nhũng. Tăng cường dân chủ và kỷ luật, củng cố khối đoàn kết thống nhất trong Đảng, trong nhân dân.

- Chỉnh đốn hệ thống tổ chức của Đảng và các tổ chức cơ sở đảng, trước hết là ở những cơ sở trọng yếu về chính trị và kinh tế, bảo đảm sự lãnh đạo thông suốt đến mọi cơ sở.

- Tạo một bước chuyển biến quan trọng về công tác cán bộ, trước hết là cán bộ chủ chốt ở trung ương, tỉnh thành, một số cơ sở kinh tế, văn hoá quan trọng, đáp ứng yêu cầu trước mắt, chuẩn bị Hội nghị đại biểu giữa nhiệm kỳ và Đại hội VIII.

- Tiếp tục đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng, nâng cao chất lượng và hiệu quả hoạt động của Nhà nước, mặt trận và các đoàn thể nhân dân, tạo ra sức mạnh tổng hợp của hệ thống chính trị. Khắc phục bệnh quan liêu xa rời quần chúng, củng cố mối liên hệ giữa Đảng, Nhà nước và nhân dân.

Phương châm đổi mới và chỉnh đốn Đảng là gắn với đổi mới các lĩnh vực của đời sống xã hội, trước hết với quá trình thực hiện và hoàn thiện các chính sách và cơ chế quản lý, với kiện toàn hệ thống chính trị, với phong trào hành động của quần chúng, khơi dậy và phát huy óc sáng tạo của nhân dân. Các cấp uỷ phải tiến hành chủ động và kiên quyết, không né tránh, hữu khuynh; đồng thời có bước đi và phương pháp phù hợp. Làm có trọng điểm, từ lãnh đạo đến đảng viên, giải quyết tốt những vấn đề có tầm vĩ mô đi đôi với củng cố cơ sở.

3- Xây dựng Đảng về chính trị và tư tưởng.

Nâng cao bản lĩnh chính trị, trí tuệ và năng lực lãnh đạo của Đảng. Trên cơ sở tổng kết thực tiễn, đẩy mạnh công tác lý luận, tiếp tục cụ thể hoá và phát triển các quan điểm và đường lối của Đại hội VII, từng bước xác định rõ thêm con đường và giải pháp đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Xây dựng cho cán bộ, đảng viên niềm tin và ý chí kiên định lý tưởng cách mạng, kiên định mục tiêu và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội. Khắc phục bệnh bảo thủ, giáo điều, đồng thời kiên quyết phê phán những quan điểm cơ hội, xét lại, khuynh hướng phủ nhận quá khứ tốt đẹp của Đảng và của dân tộc, muốn đưa đất nước đi chệch con đường xã hội chủ nghĩa.

Thường xuyên bồi dưỡng cho cán bộ, đảng viên về lý luận, quan điểm, đường lối. Thông tin trung thực và phân tích sâu sắc những nhân tố mới. Công tác tư tưởng phải gắn với tổ chức thực hiện có kết quả Nghị quyết Đại hội VII của Đảng, giải quyết một số vấn đề kinh tế - xã hội cụ thể, nóng bỏng trước mắt như việc làm, đời sống, thu hẹp diện đói nghèo; khắc phục có hiệu quả các hiện tượng tiêu cực, trước hết là tệ tham nhũng, củng cố niềm tin của nhân dân.

Xây dựng đạo đức cách mạng và lối sống lành mạnh của cán bộ, đảng viên trong điều kiện kinh tế thị trường và mở rộng giao lưu quốc tế. Cán bộ, đảng viên phải đặt lợi ích của Tổ quốc, của nhân dân lên trước hết. Nêu cao tinh thần yêu nước, ý chí tự lực tự cường, gương mẫu trong lao động, cần kiệm xây dựng và bảo vệ đất nước, làm cho dân giàu nước mạnh; giữ gìn, phát huy truyền thống và bản sắc tốt đẹp của dân tộc. Khắc phục tư tưởng thụ động, ỷ lại. Đấu tranh chống chủ nghĩa cá nhân ích kỷ, lối sống thực dụng chỉ nghĩ đến tiền tài, địa vị, lạc thú cá nhân, xa rời quần chúng, cách biệt người lao động.

Củng cố khối đoàn kết thống nhất trong Đảng, tăng cường mối quan hệ giữa Đảng và nhân dân. Toàn Đảng, toàn thể cán bộ, đảng viên phải nâng cao ý thức tổ chức kỷ luật, thống nhất tư tưởng và hành động, gắn bó mật thiết với nhân dân.

Mở rộng dân chủ trong quá trình ra nghị quyết để có những quyết định chính xác làm cơ sở cho sự đoàn kết thống nhất trong Đảng. Đồng thời giáo dục cán bộ, đảng viên chấp hành chỉ thị, nghị quyết của Đảng và pháp luật của Nhà nước. Tôn trọng quyền bảo lưu ý kiến của thiểu số, song mọi đảng viên đều phải nói và làm theo nghị quyết của Đảng; ai vi phạm phải bị kỷ luật.

Nâng cao tinh thần cảnh giác cách mạng, chống "diễn biến hoà bình". Vạch trần những âm mưu thâm độc và những luận điệu chiến tranh tâm lý. Quản lý chặt chẽ các cuộc hội thảo, các dịch vụ thông tin, ngăn chặn việc lợi dụng diễn đàn và các cơ hội để thu thập tin tức tình báo, truyền bá các quan điểm thù địch và lối sống tư sản. Phê phán thái độ miệt thị dân tộc.

Cần kết hợp nhiều biện pháp giáo dục và hành chính, tư tưởng và tổ chức, gắn với chăm lo phát triển kinh tế, ổn định đời sống...; sử dụng nhiều lực lượng và hình thức sát hợp với mỗi loại đối tượng, mở rộng dân chủ trong thảo luận, trao đổi ý kiến cởi mở, giúp cho đảng viên có điều kiện tự nhận thức, tự giáo dục. Nâng cao tính chiến đấu sắc bén, bảo vệ lý tưởng cách mạng, bảo vệ quan điểm, đường lối của Đảng và nguyên tắc xây dựng Đảng.

Nâng cao chất lượng thông tin nội bộ và công tác tuyên truyền. Coi trọng biện pháp điều tra dư luận xã hội. Bồi dưỡng và sử dụng tốt lực lượng báo cáo viên, thực hiện có nền nếp thông báo tình hình thời sự, phổ biến kịp thời những vấn đề mới về chủ trương, chính sách, pháp luật.

Tăng cường lãnh đạo công tác báo chí, xuất bản, văn hoá văn nghệ. Báo, đài, sách, băng hình... phải phản ánh đúng quan điểm của Đảng và luật pháp của Nhà nước, không ngừng đổi mới về nội dung và hình thức, tăng sức hấp dẫn, đáp ứng ngày càng tốt hơn nhu cầu đa dạng về thông tin, văn hoá của đảng viên và nhân dân. Quản lý chặt chẽ những văn hoá phẩm từ nước ngoài đưa vào, không để lưu hành những ấn phẩm phản động, đồi truỵ, độc hại. Kiện toàn ban lãnh đạo các cơ quan báo chí, xuất bản, đặc biệt là tổng biên tập các báo và giám đốc các nhà xuất bản. Cải tiến công tác phát hành sách báo, nhất là sách báo của Đảng, mở rộng diện phủ sóng của đài phát thanh và truyền hình, bảo đảm thông tin kịp thời trên cả nước, nhất là tới các vùng nông thôn miền núi. Mỗi đảng viên phải có chương trình học tập, nâng cao kiến thức. Phấn đấu để các chi bộ đều có báo Đảng.

Đổi mới nội dung chương trình và phương pháp giáo dục chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh trong hệ thống trường Đảng tập trung và tại chức và các trường học. Sớm xây dựng bộ giáo trình chuẩn quốc gia về các môn học chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh.

4- Chỉnh đốn Đảng về tổ chức.

Thực hiện nghiêm ngặt các nguyên tắc tổ chức và sinh hoạt đảng, trước hết là nguyên tắc tập trung dân chủ, ngăn chặn và khắc phục tệ vô tổ chức, vô kỷ luật, độc đoán chuyên quyền trong Đảng.

Tiếp tục mở rộng dân chủ trong Đảng, phát huy tính tích cực, chủ động của đảng viên và các tổ chức đảng, đồng thời thực hiện đúng nguyên tắc: thiểu số phục tùng đa số, cá nhân phục tùng tổ chức, cấp dưới phục tùng cấp trên, các tổ chức trong toàn Đảng phục tùng Đại hội toàn quốc và Ban Chấp hành Trung ương. Trong các cơ quan lãnh đạo, ngoài những nguyên tắc đó còn phải quán triệt nguyên tắc tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách.

Nâng cao chất lượng sinh hoạt của cấp uỷ và của chi bộ, quản lý chặt chẽ đảng viên. Mỗi đảng viên, mỗi cán bộ phải tự giác đặt mình trong sự quản lý của chi bộ, tham gia sinh hoạt đầy đủ, tự khép mình vào khuôn khổ kỷ luật của Đảng. Không để một đảng viên nào đứng ngoài trách nhiệm quản lý của một tổ chức, một tập thể.

Thực hiện nghiêm túc chế độ tự phê bình và phê bình từ trên xuống, trước hết là trong cấp uỷ, chống làm hình thức, chiếu lệ, chỉ phê bình mà không tự phê bình, chỉ tự phê bình và phê bình mà không sửa chữa khuyết điểm. Cán bộ lãnh đạo phải gương mẫu, chống thái độ nể nang, né tránh, không kiên quyết bảo vệ cái đúng, phê phán cái sai. Nghiêm cấm việc trấn áp, trù dập người phê bình cũng như lợi dụng phê bình để đả kích cá nhân, gây rối nội bộ.

Mọi hoạt động vô tổ chức, cố tình không chấp hành chỉ thị, nghị quyết của Đảng, làm suy yếu khối đoàn kết thống nhất về tư tưởng và tổ chức của Đảng đều phải bị xử lý kỷ luật.

Có quy chế quản lý chặt chẽ cán bộ, đảng viên làm việc ở các sứ quán, đi công tác, lao động, học tập ở nước ngoài, cán bộ, đảng viên ở trong nước có quan hệ và làm việc với người nước ngoài. Xử lý nghiêm những người có hành động làm hại đến uy tín, thanh danh của Đảng và Tổ quốc.

Giải quyết dứt điểm tình trạng mất đoàn kết nghiêm trọng kéo dài ở một số nơi, tổng kết, rút kinh nghiệm để có biện pháp ngăn chặn căn bệnh nguy hại này.

Tăng cường kỷ luật phải đi đôi với mở rộng dân chủ, khen thưởng các đơn vị và cá nhân chấp hành nghiêm túc kỷ luật, kỷ cương và gìn giữ phẩm chất, đạo đức, tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa và hiệu lực quản lý của Nhà nước.

Chấn chỉnh hệ thống tổ chức bộ máy của Đảng ở các cấp.

Tiếp tục kiện toàn các cấp uỷ đảng sau đại hội các cấp vòng 2, bố trí phân công các cấp uỷ viên cho phù hợp với nhiệm vụ mới.

Củng cố, nâng cao chất lượng các ban của Đảng: xác định rõ chức năng nhiệm vụ, tinh giản biên chế, tăng cường cán bộ có chất lượng. Sửa đổi lề lối làm việc, đi sâu vào công tác nghiên cứu, hướng dẫn và kiểm tra việc thực hiện nghị quyết.

Tổ chức và nâng cao chất lượng hoạt động của các đảng đoàn trong các cơ quan dân cử và đoàn thể nhân dân.

Lập ban cán sự đảng ở Chính phủ, các bộ, các uỷ ban nhà nước và cơ quan trực thuộc Chính phủ để giúp Bộ Chính trị, Ban Bí thư lãnh đạo quán triệt và tổ chức thực hiện các chỉ thị, nghị quyết của Đảng; thảo luận và đề xuất với Bộ Chính trị, Ban Bí thư những chủ trương, chính sách, công tác lớn, quan trọng; thảo luận và ra nghị quyết các vấn đề về tổ chức cán bộ trong danh mục được phân cấp quản lý; kiểm tra việc thực hiện đường lối, chính sách của Đảng trong ngành; phối hợp với các cấp uỷ địa phương và các đảng uỷ cơ sở trong ngành trong công tác xây dựng Đảng. Cần có quy chế định rõ các mối quan hệ giữa ban cán sự đảng với bộ trưởng, bảo đảm phát huy đầy đủ quyền hạn, trách nhiệm của bộ trưởng và hoạt động có hiệu quả của ban cán sự.

Chỉnh đốn tổ chức cơ sở đảng.

Căn cứ vào chức năng chung đã được quy định trong Điều lệ Đảng, cần cụ thể hoá chức năng, nhiệm vụ của từng loại hình tổ chức cơ sở đảng. Trên cơ sở đó sắp xếp các tổ chức cơ sở đảng cho phù hợp với cơ chế quản lý mới; khắc phục ngay sự lỏng lẻo, sự chia cắt và những "khoảng trống" về tổ chức, bảo đảm và tăng cường vai trò lãnh đạo của đảng bộ cơ sở và trên cơ sở.

Tiếp tục xây dựng và củng cố các chi bộ theo địa bàn dân cư (thôn, xóm, ấp, bản, đường phố) và chi bộ theo ngành nghề (sản xuất kinh doanh, dịch vụ, sự nghiệp). Đối với đảng viên là người về hưu tuỳ theo điều kiện cụ thể mà tổ chức sinh hoạt chung với đảng viên cơ sở hoặc tách thành chi bộ riêng. Xét miễn công tác và sinh hoạt cho những đảng viên già yếu, ốm đau.

ở một số khu vực chưa có tổ chức cơ sở đảng, nhất là vùng dân tộc, tôn giáo, các đơn vị kinh tế tư nhân, các cơ sở liên doanh với nước ngoài, phải phát triển các hình thức tổ chức phù hợp để tập hợp, vận động quần chúng, qua đó lựa chọn bồi dưỡng những người ưu tú kết nạp vào Đảng. Đảng viên hoạt động trong các vùng tôn giáo và dân tộc phải làm tốt công tác vận động quần chúng, có quan hệ tích cực với các chức sắc tôn giáo, già làng, tộc trưởng... (sẽ có hướng dẫn riêng).

ở những doanh nghiệp tư nhân, hợp tác, liên doanh với nước ngoài nếu có đủ số lượng đảng viên theo quy định thì lập tổ chức đảng. Nếu chưa có điều kiện lập tổ chức đảng thì đảng viên hoạt động qua các đoàn thể. Những cơ sở chưa có đảng viên thì cấp uỷ địa phương xây dựng cốt cán hoạt động trong các đoàn thể quần chúng để phát triển đảng viên, tiến tới lập tổ chức đảng.

Tách các tổ chức cơ sở đảng ở các doanh nghiệp nhà nước ra khỏi tổ chức đảng ở các cơ quan bộ, ngành và đảng uỷ khối các cơ quan trung ương, đưa về trực thuộc thành uỷ, tỉnh uỷ, hoặc huyện uỷ, thị uỷ, quận uỷ tuỳ theo quy mô, tính chất của các cơ sở đó. Đối với thành phố có nhiều doanh nghiệp có thể tổ chức đảng uỷ theo từng khối trực thuộc thành uỷ.

Nghiên cứu thành lập đảng uỷ hoặc ban cán sự đảng các tổng công ty, liên hiệp xí nghiệp.

Lập tổ chức đảng uỷ dân chính đảng cấp tỉnh, thành. Một số thành phố lớn có thể lập đảng uỷ khối cơ quan. Giải quyết tốt mối quan hệ giữa đảng uỷ dân chính đảng, đảng uỷ khối với đảng uỷ cơ quan và ban cán sự.

Đặc biệt coi trọng củng cố các tổ chức cơ sở đảng ở những địa bàn và lĩnh vực trọng yếu về kinh tế và chính trị. Bố trí lại cán bộ chủ chốt ở những nơi cần thiết. Chọn một số cán bộ có đủ tiêu chuẩn và điều kiện ở các cơ quan trung ương, tỉnh, huyện về tăng cường cho cơ sở. Cử cấp uỷ viên và cán bộ có kinh nghiệm trực tiếp chỉ đạo, củng cố các cơ sở, thu hẹp diện yếu kém.

Các đồng chí Uỷ viên Trung ương và cấp uỷ viên các cấp phải quan tâm và trực tiếp làm công tác Đảng trong phạm vi mình phụ trách.

Về công tác đảng viên, trước hết phải xác định rõ tiêu chuẩn đảng viên trong tình hình mới. Đảng viên phải là người có giác ngộ chính trị, trung thành với mục tiêu lý tưởng xã hội chủ nghĩa, đặt lợi ích của Tổ quốc và nhân dân lên trên lợi ích cá nhân; có đạo đức và lối sống lành mạnh, gắn bó với quần chúng; gương mẫu và phấn đầu trở thành người sản xuất, công tác và quản lý giỏi, hoàn thành nhiệm vụ được giao, chấp hành đúng Điều lệ Đảng và pháp luật Nhà nước; thường xuyên học tập nâng cao trình độ nhận thức và năng lực công tác; có ý thức tổ chức kỷ luật, giữ gìn sự đoàn kết thống nhất trong Đảng.

Tổ chức, hướng dẫn và kiểm tra đảng viên học tập lý luận chính trị, đường lối của Đảng và pháp luật Nhà nước, nâng cao trình độ chuyên môn, nghiệp vụ, kinh nghiệm sản xuất kinh doanh, quản lý theo cơ chế mới nhằm phát huy vai trò tiên phong gương mẫu của đảng viên.

Tiến hành sàng lọc đội ngũ đảng viên, kiểm tra, phân tích chất lượng đảng viên, tổ chức cho mỗi đảng viên tự phê bình, tự đánh giá, kết hợp với nhận xét đánh giá của chi bộ, phê bình góp ý kiến của quần chúng và kiểm tra của cấp trên. Trên cơ sở đó có giải pháp đối với từng loại đảng viên như sau:

- Bồi dưỡng và phát huy những đồng chí giữ được tư cách đảng viên, có phẩm chất chính trị và đạo đức tốt, có trình độ và năng lực hoàn thành nhiệm vụ, được quần chúng tín nhiệm.

- Giúp đỡ những đồng chí hạn chế về kiến thức, năng lực, hoặc hoàn cảnh khó khăn. Những trường hợp không khắc phục được khó khăn hoặc không còn khả năng vươn lên hoàn thành nhiệm vụ thì bản thân tự xem xét hoặc chi bộ động viên các đồng chí đó tự nguyện rút ra khỏi Đảng; tổ chức đảng có thẩm quyền cấp giấy xác nhận tuổi đảng và thường xuyên quan tâm giúp đỡ. Những người lạc hậu về chính trị, không còn tha thiết với Đảng, không còn tác dụng với quần chúng, thì vận động ra khỏi Đảng.

- Giáo dục, xử lý hoặc định thời hạn phấn đấu cho những đảng viên vi phạm tư cách, vi phạm nguyên tắc tổ chức và sinh hoạt đảng, không hoàn thành nhiệm vụ được giao; nếu không có chuyển biến thì đưa ra khỏi Đảng.

- Xử lý nghiêm khắc những người cơ hội về chính trị, nói và làm trái quan điểm đường lối của Đảng, tham nhũng, thoái hoá, biến chất, bị quần chúng oán ghét.

Công tác phát triển đảng phải nhằm tăng thêm sinh lực cho Đảng, trẻ hoá đội ngũ, bảo đảm sự kế thừa và phát triển của Đảng. Làm tốt công tác tạo nguồn để lựa chọn, bồi dưỡng, kết nạp những người ưu tú có đủ tiêu chuẩn trong Đoàn thanh niên, trong công nhân, nông dân, trí thức, chiến sĩ các lực lượng vũ trang..., chú ý những cơ sở trọng yếu, những nơi còn ít và chưa có đảng viên. Coi trọng chất lượng, không chạy theo số lượng, bảo đảm chặt chẽ về nguyên tắc; đồng thời không định kiến, hẹp hòi. Quy định lại những thủ tục xem xét kết nạp đảng viên cho phù hợp với tình hình mới. Các đồng chí giới thiệu phải thực sự chịu trách nhiệm; người được giới thiệu phải trải qua thử thách cần thiết.

Phải thường xuyên quan tâm lãnh đạo xây dựng Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh, coi đây là một nhiệm vụ quan trọng của công tác xây dựng Đảng. Đặt công tác phát triển Đảng trong thanh niên thành chương trình kế hoạch cụ thể và tổ chức chỉ đạo chặt chẽ, mang lại kết quả thiết thực.

Trong tình hình hiện nay phải đặc biệt coi trọng công tác bảo vệ Đảng, trước hết là bảo vệ quan điểm, đường lối của Đảng, giữ gìn sự trong sạch của tổ chức đảng, cảnh giác và tỉnh táo không để cho những phần tử cơ hội về chính trị, phản động len lỏi vào hàng ngũ Đảng, nhất là vào các cơ quan lãnh đạo và cơ quan tham mưu của Đảng và Nhà nước. Giữ gìn bí mật nội bộ và bí mật quốc gia. Chống âm mưu thủ đoạn khống chế, mua chuộc cán bộ từ bên ngoài. Việc công bố và phê phán các vụ việc tiêu cực trên các phương tiện truyền thông đại chúng cần có sự cân nhắc về hướng giải quyết và tác dụng giáo dục, tránh để địch lợi dụng xuyên tạc bôi nhọ Đảng và Nhà nước, kích động chia rẽ Đảng, Nhà nước với nhân dân. Chấn chỉnh quy chế công tác của các cơ quan và cán bộ làm công tác cơ mật.

5- Tạo bước chuyển biến quan trọng về công tác cán bộ. Cần nắm vững một số quan điểm và nguyên tắc cơ bản trong công tác cán bộ.

Việc đánh giá cán bộ phải dựa vào tiêu chuẩn cán bộ. Tiêu chuẩn hàng đầu của cán bộ lãnh đạo và quản lý hiện nay là: có lập trường chính trị vững vàng, kiên định mục tiêu và con đường xã hội chủ nghĩa, quyết tâm thực hiện thắng lợi sự nghiệp đổi mới; có kiến thức và năng lực tham gia các quyết định của tập thể và khả năng tổ chức thực tiễn, làm việc có hiệu quả; có đạo đức cách mạng cần kiệm liêm chính, chí công vô tư, kiên quyết đấu tranh bảo vệ các quan điểm, đường lối của Đảng; có ý thức tổ chức kỷ luật, giữ gìn sự đoàn kết trong Đảng; gắn bó với quần chúng, được quần chúng tín nhiệm. Đồng thời, dựa vào hiệu quả công tác thực tế, bao gồm cả hiệu quả kinh tế, chính trị, xã hội.

Đánh giá cán bộ phải toàn diện, cụ thể, công tâm; khắc phục tình trạng đánh giá theo cảm tính chủ quan, phiến diện, hẹp hòi, thành kiến, thiếu công tâm, thiếu dân chủ.

Việc bố trí và sử dụng cán bộ phải căn cứ vào yêu cầu công tác và sự đánh giá đúng cán bộ. Quán triệt quan điểm giai cấp công nhân trong công tác cán bộ để đoàn kết tập hợp rộng rãi cán bộ theo tư tưởng và phong cách của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Khuyến khích và thu hút nhân tài của đất nước ở tất cả các lĩnh vực, các thành phần kinh tế - xã hội, bao gồm cả những người Việt Nam yêu nước sinh sống ở nước ngoài, tạo điều kiện để mọi người đều có thể mang hết nhiệt tình, trí tuệ, tài năng phục vụ Tổ quốc.

Trên cơ sở bảo đảm tiêu chuẩn, thực hiện trẻ hoá đội ngũ cán bộ; đồng thời tích cực bồi dưỡng để tiếp tục phát huy năng lực và kinh nghiệm của cán bộ lớn tuổi, bảo đảm tính liên tục và tính kế thừa trong đội ngũ cán bộ.

Đối với cán bộ đã nghỉ hưu, cần tạo điều kiện để các đồng chí tiếp tục đóng góp cho sự nghiệp cách mạng tuỳ theo khả năng và điều kiện sức khoẻ của mỗi người.

Nắm vững nguyên tắc Đảng thống nhất lãnh đạo và quản lý cán bộ, đồng thời phát huy trách nhiệm của các tổ chức trong hệ thống chính trị.

Đảng đề ra đường lối, quan điểm, chủ trương, chính sách và quy chế quản lý cán bộ; lãnh đạo và kiểm tra các cấp, các ngành tổ chức thực hiện; trực tiếp quản lý cán bộ lãnh đạo chủ chốt trong các tổ chức của hệ thống chính trị như cán bộ lãnh đạo các cơ quan nhà nước, lực lượng vũ trang, đoàn thể nhân dân, tổ chức kinh tế - xã hội; quản lý cán bộ theo chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước và điều lệ của đoàn thể.

Đối với việc đề bạt, điều động và thi hành kỷ luật cán bộ thuộc diện Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư quản lý, các cơ quan chức năng, các đảng uỷ, ban cán sự, đảng đoàn đề xuất các phương án để Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư xem xét và quyết định. Ngoài các đối tượng trên, Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư uỷ nhiệm cho các cấp uỷ, các ban chức năng, đảng đoàn, ban cán sự trực tiếp quản lý (sẽ có quy chế và hướng dẫn cụ thể).

Tất cả các quyết định về cán bộ phải theo nguyên tắc tập thể dân chủ đồng thời phát huy đầy đủ trách nhiệm cá nhân. Những vấn đề về chủ trương, chính sách, nhận xét, đánh giá, đề bạt, khen thưởng, kỷ luật đối với cán bộ nhất thiết phải do tập thể có thẩm quyền quyết định theo đa số. Các cơ quan chức năng và cá nhân được phân công chuẩn bị các phương án để tập thể thảo luận, quyết định và chịu trách nhiệm về những ý kiến đề xuất của mình.

Những nhiệm vụ chủ yếu trước mắt trong công tác cán bộ là:

- Phải rà soát, sắp xếp, điều chỉnh, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ hiện có, trước hết là cán bộ lãnh đạo và quản lý chủ chốt ở các ban, bộ, ngành trung ương, tỉnh, thành, quận, huyện, đơn vị kinh tế then chốt và các cơ sở trọng điểm thuộc các lĩnh vực. Bổ sung những cán bộ có đủ tiêu chuẩn, có triển vọng đảm đương tốt công việc, đồng thời đưa ra khỏi cơ quan lãnh đạo những cán bộ có quan điểm, lập trường và việc làm sai trái nghiêm trọng với đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước, vi phạm phẩm chất đạo đức, ý thức tổ chức kỷ luật kém, cá nhân chủ nghĩa, địa vị, cục bộ, gây mất đoàn kết, quần chúng không tín nhiệm. Đối với cán bộ kiến thức và năng lực yếu không đảm đương nổi nhiệm vụ, cần điều chỉnh, bố trí công việc thích hợp. ở những nơi trì trệ, yếu kém kéo dài, phải thay ngay cán bộ chủ chốt. Trường hợp cần thiết có thể tăng cường cán bộ cấp trên xuống.

Đề bạt những cán bộ đã qua thử thách, đã được đào tạo đủ tiêu chuẩn vào các cương vị thích hợp. Chú trọng những người ưu tú trong công nhân, nông dân, trí thức. Đối với cán bộ bị kỷ luật hoặc do năng lực yếu không đảm đương được nhiệm vụ thì cần giáo dục, giúp đỡ, sắp xếp công việc tại chỗ. Nhất thiết không điều động những người bị kỷ luật, không đảm đương được nhiệm vụ ở nơi này sang nhận nhiệm vụ tương đương hoặc cao hơn ở nơi khác. Phải theo nguyên tắc "vì việc đặt người", "có lên có xuống", "có vào có ra", tránh tình trạng bố trí cán bộ vào những việc mà bản thân cán bộ đó chưa được học, chưa từng làm, hoặc chưa am hiểu. Việc thay đổi và luân chuyển cán bộ cần kết hợp chặt chẽ với việc ổn định cán bộ, tránh tuỳ tiện, gây xáo trộn không cần thiết. Những cán bộ trực tiếp quản lý sản xuất kinh doanh, những cán bộ chuyên môn, nghiệp vụ cần được chuyên môn hoá. Phân rõ cán bộ thuộc hệ dân cử và hệ bổ nhiệm để tạo điều kiện cho cán bộ đi sâu vào chuyên môn, nghiệp vụ. Mở rộng việc thực hiện chế độ hợp đồng.

Trong việc bố trí cán bộ, cần lưu ý tính đồng bộ, kết hợp các loại cán bộ, các lớp cán bộ, cán bộ có trình độ lý luận và cán bộ từng trải thực tiễn, cán bộ các miền, các vùng... để bổ sung cho nhau. Chống tư tưởng cục bộ, địa phương.

Thực hiện đúng chế độ nghỉ hưu của Nhà nước. Một số cán bộ lãnh đạo và quản lý tuy tuổi cao nhưng còn sức khoẻ, làm việc còn hiệu quả, thì chuyển sang làm chuyên viên một thời gian. Một số ít đồng chí chủ chốt có thể tiếp tục giữ cương vị lãnh đạo và quản lý nếu tổ chức có yêu cầu và đủ tín nhiệm. Đối với các nhà khoa học, văn nghệ sĩ, cần có hình thức sử dụng linh hoạt.

Những cán bộ có khuyết điểm, có đơn tố cáo cần được kiểm điểm, xem xét và kết luận rõ ràng, xử lý kịp thời.

Sớm xây dựng và ban hành quy chế về đánh giá, tuyển chọn, đề bạt, miễn nhiệm cán bộ.

- Xúc tiến chuẩn bị cán bộ kế cận.

Đổi mới nội dung và phương thức quy hoạch cán bộ, tập trung xây dựng đội ngũ lãnh đạo chủ chốt ở trung ương, các tỉnh, thành và các cơ sở trọng yếu. ở mỗi cấp hình thành cho được đội ngũ cán bộ có ba độ tuổi kế tiếp nhau. Điều chỉnh, phân công lại một số cán bộ, đưa cán bộ dự bị vào các vị trí kế cận để đào tạo bồi dưỡng. Cán bộ chủ trì phải điều hành thực hiện quy hoạch chung về công tác cán bộ, đồng thời trực tiếp bồi dưỡng người kế cận thay mình. Trong một năm phải có ít nhất một lần kiểm điểm việc thực hiện quy hoạch của cấp mình và kiểm tra việc thực hiện quy hoạch của cấp dưới để kịp thời bổ sung, điều chỉnh. Trước mắt, phải chuẩn bị cán bộ bổ sung trong Hội nghị đại biểu Đảng giữa nhiệm kỳ và chuẩn bị cho Đại hội VIII. Đồng thời nghiên cứu xây dựng chiến lược cán bộ cho những năm tiếp theo.

Đào tạo, đào tạo lại và bồi dưỡng cán bộ, đáp ứng yêu cầu của cơ chế thị trường và mở rộng quan hệ quốc tế. Có nhiều hình thức phù hợp với từng đối tượng. Coi trọng đào tạo qua thực tiễn công tác và phong trào quần chúng; tổng kết kịp thời những kinh nghiệm thực tế. Mở một số khoá đào tạo cán bộ lãnh đạo có triển vọng để chuẩn bị cho những năm sau.

Ngân sách đào tạo cán bộ thống nhất do Nhà nước cấp. Có chính sách trợ cấp cho cán bộ đi học dài hạn, cán bộ dân tộc thiểu số, cán bộ nữ.

- Chính sách đãi ngộ cán bộ phải bảo đảm công bằng, chú ý tương quan giữa cán bộ đảng, cán bộ nhà nước, cán bộ đoàn thể, cán bộ giữa các vùng, các lĩnh vực. Khuyến khích những người làm việc tốt, có hiệu quả, khắc phục tình trạng phân phối bình quân và sự chênh lệch quá lớn về thu nhập giữa các loại cán bộ. Cán bộ có công phải được khen thưởng thích đáng; có khuyết điểm phải bị xử phạt nghiêm minh.

Thực hiện chế độ tiền lương mới, xoá bỏ bao cấp, đặc quyền, đặc lợi. Sửa đổi những chính sách đã quá lạc hậu, cản trở phát triển tài năng của cán bộ.

Từng bước thực hiện thống nhất chủ trương bí thư, chủ tịch xã, phường được hưởng chế độ đãi ngộ tương đương với trưởng, phó phòng huyện, quận. Tăng thêm các phương tiện và điều kiện công tác. Việc thực hiện các chế độ trên trước hết bằng các nguồn thu của ngân sách xã, phường; phần còn thiếu do ngân sách tỉnh cấp.

ở các doanh nghiệp, bí thư và cán bộ làm công tác đảng phải là những người có đủ tiêu chuẩn về phẩm chất và năng lực; không bố trí những cán bộ năng lực kém phụ trách công tác đảng, trên cơ sở đó có chế độ đãi ngộ bí thư tương đương với giám đốc.

Bổ sung và thực hiện tốt chính sách khuyến khích cán bộ dân tộc thiểu số, vùng cao, cán bộ miền xuôi lên công tác ở miền núi. Đối với những người có thái độ chính trị tốt và có uy tín trong các dân tộc, tôn giáo (như linh mục, sư sãi, già làng...) cần có chính sách phát huy và tạo điều kiện cần thiết để các vị đó phục vụ tốt sự nghiệp xây dựng và bảo vệ đất nước.

Chăm sóc cán bộ có công với cách mạng, cán bộ hưu trí.

Thực hiện quy định cán bộ làm việc gì thì hưởng lương tương ứng với chất lượng và số lượng công việc đó. Phải căn cứ vào năng lực thực tế, hiệu quả công việc mà xác định trình độ chuyên môn và giá trị xã hội của cán bộ. Trả lương thích đáng cho những chuyên gia giỏi, những người thật sự có tài, công tác có hiệu quả, tạo ra bầu không khí thi đua trong cán bộ; khuyến khích suy nghĩ, tìm tòi, sáng tạo, phát huy trách nhiệm và quyền hạn, tạo điều kiện để cán bộ đóng góp tốt cho đất nước.

Thực hiện chế độ phân công, phân cấp quản lý cán bộ.

Quản lý cán bộ phải kết hợp chặt chẽ giữa ngành và lãnh thổ. Khi bổ nhiệm, đề bạt, điều động, khen thưởng, kỷ luật cán bộ, cơ quan quản lý theo ngành dọc phải tham khảo ý kiến cấp uỷ địa phương; cấp uỷ địa phương phải tham khảo ý kiến của ngành trước khi quyết định.

Các cấp uỷ, ban cán sự và đảng đoàn được Bộ Chính trị, Ban Bí thư uỷ nhiệm quản lý theo đối tượng quy định phải chịu trách nhiệm trước Trung ương. Các bộ, ban, ngành cần xác định và ban hành chức danh cán bộ do cấp mình quản lý (sẽ có quy chế hướng dẫn cụ thể).

Các Uỷ viên Bộ Chính trị, Ban Bí thư phụ trách lĩnh vực công tác nào có trách nhiệm cùng với tổ chức đảng cơ quan chăm lo công tác cán bộ trong lĩnh vực đó. Lãnh đạo cơ quan cùng với bí thư cấp uỷ có trách nhiệm trực tiếp chăm lo công tác cán bộ và đội ngũ cán bộ của ngành hoặc địa phương mình.

Đấu tranh chống tham nhũng và các hiện tượng tiêu cực khác.

Làm nghiêm từ trong Đảng ra và từ trên xuống. Kết hợp sự kiểm tra của Đảng với thanh tra của Nhà nước và thanh tra nhân dân, sự phát hiện, đấu tranh của quần chúng và công luận. ở trung ương, các cơ quan pháp luật kết luận và xử lý nghiêm một số vụ. Cấp uỷ và chính quyền các cấp cũng phải làm như vậy đối với cán bộ thuộc diện mình quản lý, không thụ động chờ cấp trên.

Thực hiện dân chủ và công khai chế độ phân phối ở tất cả các cơ quan, nhất là ở đơn vị sản xuất, kinh doanh. Những cán bộ, đảng viên giàu có bất thường, quần chúng có dư luận thì phải báo cáo trung thực nguồn thu nhập với tổ chức; tổ chức có trách nhiệm kiểm tra và kết luận. Phải có quy chế cụ thể về vấn đề cán bộ, đảng viên xây dựng và sử dụng nhà cửa, nhận quà biếu và tặng phẩm, giao dịch và quan hệ với người nước ngoài... Nghiêm cấm việc lấy của công để biếu xén, quà cáp, tiếp đãi, liên hoan... sai quy định và nhằm mục đích vụ lợi.

Cùng với việc xử lý kiên quyết và dứt khoát những vụ việc trước mắt, phải có biện pháp cơ bản để ngăn chặn tệ tham nhũng từ gốc:

- Nghiên cứu, xây dựng, hoàn chỉnh các chính sách, luật pháp, cơ chế quản lý kinh tế. Sửa đổi những sơ hở trong cơ chế và chính sách để hạn chế, ngăn chặn tình trạng lợi dụng tham ô, ăn cắp, gây lãng phí của Nhà nước, trước hết là đối với các tổ chức và đơn vị kinh tế quốc doanh.

- Tăng cường và kiện toàn các cơ quan bảo vệ pháp luật có bản lĩnh, công minh, chính trực và năng lực chuyên môn.

- Kiện toàn tổ chức bộ máy nhà nước, tinh giản biên chế, làm cho bộ máy hoạt động có hiệu lực.

6- Đổi mới và tăng cường công tác vận động nhân dân, củng cố mối quan hệ giữa Đảng và nhân dân.

Các cấp uỷ đảng cần tiến hành sơ kết việc thực hiện Nghị quyết Trung ương 8 (khoá VI), khảo sát tình hình đời sống và tâm trạng các tầng lớp nhân dân, đề ra những nhiệm vụ tiếp tục thực hiện nghị quyết về công tác vận động nhân dân của địa phương và ngành mình.

Phổ biến kinh nghiệm của những điển hình tiên tiến. Các cơ quan thông tin báo chí thường xuyên đưa tin và bài về vấn đề này. Các trường đảng, trường hành chính, trường chuyên nghiệp có nội dung huấn luyện về công tác quần chúng. Các trường đoàn thể cần nâng cao chất lượng huấn luyện nghiệp vụ công tác vận động nhân dân.

Các cấp uỷ hàng năm có chương trình công tác quần chúng, tổ chức phối hợp, kiểm tra và kịp thời xử lý những vấn đề mới phát sinh trong nội bộ nhân dân, trong quan hệ công tác giữa các tổ chức có liên quan. Cử cấp uỷ viên có phẩm chất và năng lực phụ trách công tác đoàn thể. Chi bộ thực hiện chế độ phân công đảng viên làm công tác vận động nhân dân, định kỳ lấy ý kiến nhân dân nhận xét phê bình cán bộ, đảng viên. Mỗi đảng viên phải báo cáo kết quả và kinh nghiệm công tác vận động nhân dân, coi đó là một nội dung sinh hoạt của chi bộ cơ sở.

Nâng cao trách nhiệm của hệ thống chính quyền đối với công tác dân vận. Các bộ, ngành và chính quyền các cấp phải thực hiện cơ chế bảo đảm cho nhân dân và các đoàn thể tham gia ý kiến xây dựng luật pháp và các chế độ chính sách có quan hệ trực tiếp đến nghĩa vụ, lợi ích của nhân dân trước khi quyết định. Dựa vào mặt trận và các đoàn thể trong việc vận động nhân dân thực hiện các chủ trương, chính sách và luật pháp của Nhà nước.

Các đại biểu Quốc hội và hội đồng nhân dân các cấp thường xuyên liên hệ với cử tri, nắm vững yêu cầu, nguyện vọng của quần chúng để xây dựng, hoàn thiện luật pháp, chính sách; đồng thời làm tốt công tác tuyên truyền vận động nhân dân thực hiện các chính sách, pháp luật.

Giáo dục viên chức nhà nước nâng cao trách nhiệm, ý thức phục vụ nhân dân; chống tệ quan liêu, hách dịch, cửa quyền, tham nhũng, ức hiếp quần chúng. Công bố các quy chế về trách nhiệm phục vụ nhân dân của viên chức nhà nước để dân biết, theo dõi, kiểm tra và góp ý.

Có chương trình xây dựng luật về các đoàn thể nhân dân, quy chế phối hợp công tác giữa chính quyền với mặt trận và các đoàn thể. Kiện toàn các cơ quan nhà nước về công tác vận động nhân dân.

Đổi mới tổ chức và hoạt động của mặt trận và các đoàn thể nhân dân cho phù hợp với quá trình đổi mới kinh tế - xã hội. Mặt trận thực hiện tốt phương thức hiệp thương chính trị, phối hợp hành động giữa các tổ chức thành viên nhằm củng cố và tăng cường khối đại đoàn kết toàn dân, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.

Các đoàn thể chính trị - xã hội cần đổi mới tổ chức và hoạt động, hướng về cơ sở, xây dựng lực lượng nòng cốt, tập hợp rộng rãi các tầng lớp nhân dân, thực hiện các nhiệm vụ chính trị, đáp ứng các lợi ích thiết thực của đoàn viên, hội viên.

Các hội nghề nghiệp, văn hoá, nhân đạo, hữu nghị,... cần được xây dựng tổ chức và hoạt động thích hợp phục vụ lợi ích của hội viên và xã hội. Xây dựng và phát triển các hiệp hội theo ngành nghề.

Nhà nước dành tỷ lệ ngân sách cần thiết để tài trợ cho hoạt động của các đoàn thể. Mặt trận và các đoàn thể cần rút kinh nghiệm về tổ chức các hoạt động gây quỹ (sản xuất, kinh doanh, dịch vụ, tranh thủ viện trợ...) theo đúng luật pháp và phù hợp với điều kiện, khả năng quản lý. Các đoàn thể tham gia thực hiện các chương trình kinh tế - xã hội của Nhà nước được cung cấp tài chính và phương tiện theo hợp đồng.

Kiện toàn Ban Dân vận Trung ương và ban dân vận các tỉnh, thành. ở quận, huyện lập khối dân vận gồm các đồng chí lãnh đạo các đoàn thể, do một đồng chí uỷ viên thường vụ cấp uỷ phụ trách. Có chính sách đãi ngộ công bằng đối với cán bộ dân vận và đoàn thể.

7- Tiếp tục đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng.

Là đảng cầm quyền, Đảng ta có trách nhiệm lãnh đạo tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội. Trong tình hình mới, cần có phương thức thích hợp để nâng cao chất lượng và hiệu quả lãnh đạo của Đảng, phát huy mạnh mẽ vai trò, hiệu lực của Nhà nước và các đoàn thể nhân dân, xây dựng một hệ thống chính trị hoạt động năng động, có hiệu lực và hiệu quả.

Về đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước, Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư căn cứ vào Nghị quyết Đại hội VII và Hiến pháp mới, từng bước hoàn chỉnh và cụ thể hoá các quan điểm, nguyên tắc về xây dựng Nhà nước của dân, do dân và vì dân; lãnh đạo Nhà nước xây dựng luật về tổ chức các cơ quan nhà nước; hoàn thiện dần các văn bản pháp quy về mặt này để đưa vào thực hiện. Đồng thời cần có quy chế về phương thức lãnh đạo, quan hệ công tác giữa Đảng và các cơ quan Nhà nước.

Đối với Quốc hội, sự lãnh đạo của Đảng phải nhằm phát huy quyền lực của Quốc hội, làm cho hoạt động của Quốc hội thể hiện đầy đủ hơn nữa quyền làm chủ của nhân dân theo Hiến pháp và Luật tổ chức Quốc hội.

Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị lãnh đạo Quốc hội bằng những quan điểm định hướng về xây dựng Hiến pháp, các đạo luật, các chính sách lớn, các vấn đề trọng đại về quốc kế dân sinh...; thông qua đảng đoàn Quốc hội và Ban Cán sự của Chính phủ, cụ thể là các đồng chí Chủ tịch nước, Chủ tịch Quốc hội, Thủ tướng Chính phủ để giới thiệu với Quốc hội bầu các chức vụ chủ chốt của Nhà nước, của Quốc hội và Chính phủ.

Đảng lựa chọn và giới thiệu các đảng viên có trình độ, năng lực và phẩm chất, có tính đảng sang hoạt động ở Quốc hội. Một số cán bộ lãnh đạo ban của Trung ương có thể tham gia các Uỷ ban của Quốc hội (đương nhiên phải thông qua bầu cử theo quy định của Nhà nước).

Trung ương và Bộ Chính trị thông qua đảng đoàn Quốc hội và các đảng viên là đại biểu Quốc hội để lãnh đạo hoạt động của Quốc hội. Đảng đoàn có trách nhiệm hướng dẫn, kiểm tra, giám sát hoạt động của các đảng viên là đại biểu Quốc hội; thông qua thảo luận, tranh luận thật sự dân chủ mà thuyết phục, vận động các đại biểu Quốc hội ngoài Đảng làm theo đường lối, quan điểm của Đảng. Các đảng viên phải chấp hành các quyết định của tổ chức đảng một cách nghiêm túc. Trong những trường hợp cần thiết, cần tổ chức quán triệt nghị quyết của Đảng trong các đảng viên là đại biểu Quốc hội trước khi đưa ra Quốc hội bàn; hoặc người đại diện của Đảng trình bày quan điểm của Trung ương với Quốc hội để Quốc hội thảo luận.

Chính phủ có trách nhiệm thể chế hoá đường lối, chủ trương, chính sách lớn của Đảng và các quyết định của Quốc hội thành các chính sách, quyết định của Chính phủ và tổ chức thực hiện. Ban cán sự đảng ở các cơ quan của Chính phủ phải chủ động báo cáo với Bộ Chính trị, Ban Bí thư về các chủ trương quan trọng trước khi quyết định và thi hành; bảo đảm thực hiện đúng nghị quyết của Đảng và pháp luật của Nhà nước.

Các đảng đoàn, ban cán sự phải định kỳ báo cáo công tác với Bộ Chính trị, Ban Bí thư.

Đối với hoạt động của các toà án và viện kiểm sát, cấp uỷ định kỳ nghe ban cán sự báo cáo tình hình và nêu những định hướng chỉ đạo và kiểm tra để bảo đảm thực hiện đúng pháp luật. Đối với những vụ án lớn có ảnh hưởng chính trị rộng, có liên quan đến quốc phòng, an ninh, đối ngoại, hoặc liên quan đến những cán bộ thuộc diện cấp uỷ quản lý, cấp uỷ cần có ý kiến về tư tưởng chỉ đạo việc xét xử, song cấp uỷ không định tội danh và mức án. Khi xét xử, toà án chỉ tuân theo pháp luật. Chấm dứt tình trạng một số đồng chí trong cấp uỷ can thiệp vào công tác xét xử của toà án.

ở địa phương, sự lãnh đạo của cấp uỷ đối với chính quyền cần dựa theo cách thức ở trung ương và có sự vận dụng thích hợp với đặc điểm của địa phương mình. Bí thư hoặc phó bí thư cấp uỷ có thể ứng cử vào chức vụ chủ tịch Hội đồng nhân dân; một số cấp uỷ viên được giới thiệu đứng đầu cơ quan quản lý ngành của chính quyền (nhưng nhất thiết phải bảo đảm đúng tiêu chuẩn của từng chức danh theo quy định của Nhà nước).

Đổi mới sự lãnh đạo của Đảng đối với mặt trận và các đoàn thể nhân dân, Đảng định hướng phát triển trước mắt và lâu dài của các đoàn thể, lãnh đạo các đoàn thể cải tiến sinh hoạt và hình thức tập hợp quần chúng, nâng cao chất lượng đoàn viên, hội viên, khắc phục bệnh quan liêu, hành chính. Lựa chọn những cán bộ đủ tiêu chuẩn do đảng đoàn đề xuất và giới thiệu vào các chức vụ chủ chốt của đoàn thể để các đoàn thể bầu cử theo điều lệ của mỗi tổ chức.

Thông qua đảng đoàn và các đảng viên trong mặt trận và các đoàn thể để hướng dẫn các đoàn thể hoạt động đúng hướng; kịp thời uốn nắn những nhận thức và hoạt động không đúng.

Xây dựng mối quan hệ giữa mặt trận, các đoàn thể nhân dân với cơ quan Nhà nước các cấp.

Đổi mới và hoàn thiện phương thức hoạt động, phong cách công tác của Đảng.

Tập trung hơn nữa thời gian và sức lực vào công tác lý luận, tổng kết thực tiễn và công tác chính trị tư tưởng. Chỉ đạo công tác lý luận chặt chẽ và thường xuyên hơn. Tăng cường các cơ quan nghiên cứu lý luận đủ sức giúp Trung ương nghiên cứu những vấn đề lý luận, quan điểm, đường lối, từng bước làm sáng tỏ và sâu sắc hơn các vấn đề về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam.

Cải tiến việc ra các nghị quyết, quyết định. Cấp uỷ và tổ chức đảng chỉ ra nghị quyết khi thấy thật cần thiết và lựa chọn đúng vấn đề. Những điều đã nói nhiều , đã quyết định cần chỉ đạo thực hiện cho bằng được. Khi thấy nghị quyết sai hoặc không còn phù hợp với tình hình mới, hoặc còn thiếu sót, sơ hở thì kịp thời bổ sung, sửa chữa hoặc quyết định lại. Nghị quyết cần có nội dung thiết thực, có cơ sở khoa học, có khả năng thực thi và quy định rõ thời gian thực hiện. Các quan điểm chung phải được thể hiện ra ở các chủ trương, giải pháp cụ thể.

Coi trọng lãnh đạo việc tổ chức thực hiện. Phải lãnh đạo làm tốt việc cụ thể hoá và thể chế hoá nghị quyết của Đảng thành các chính sách, kế hoạch, pháp luật của Nhà nước, và những quy chế, quy định cụ thể của Đảng. Trong quá trình chuẩn bị nghị quyết, phải đồng thời xây dựng các kế hoạch, chương trình công tác cụ thể để sau khi nghị quyết được thông qua thì triển khai thực hiện được ngay.

Cải tiến việc triển khai học tập, quán triệt nghị quyết sao cho thiết thực, hiệu quả, đỡ hình thức, tốn kém. Đối với mỗi nghị quyết, tuỳ theo tính chất, phải làm quán triệt quan điểm, chủ trương, chính sách đối với những đối tượng có trách nhiệm trực tiếp tổ chức thực hiện.

Thực hiện nghiêm túc các chế độ kiểm tra, bảo đảm thực hiện tốt các nghị quyết của Đảng. Các cấp uỷ phải nắm chắc nhiệm vụ kiểm tra, tăng cường kiểm tra, và lãnh đạo các đoàn thể kiểm tra, bảo vệ luật pháp nhà nước, giúp cho Nhà nước hoạt động có hiệu lực và hiệu quả. Bên cạnh việc kiểm tra tư cách đảng viên, kiểm tra việc chấp hành Điều lệ Đảng, vấn đề rất quan trọng là phải kiểm tra việc thực hiện nghị quyết của Đảng, kịp thời phát hiện những nhân tố mới, biểu dương những việc làm tốt, uốn nắn những thiếu sót, lệch lạc, tổng kết kinh nghiệm để bổ sung, hoàn chỉnh đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước.

Cải tiến lề lối làm việc, giảm bớt các cuộc họp, dành thời gian đi nghiên cứu, khảo sát thực tế; chú trọng sơ kết, tổng kết thực tiễn, hướng mạnh về cơ sở, chỉ đạo tại chỗ. Nói đi đôi với làm và làm có hiệu quả. Cán bộ lãnh đạo phải thực hiện chế độ học tập, đi khảo sát thực tế, gặp gỡ đối thoại với đảng viên và nhân dân một cách thiết thực, không phô trương hình thức. Coi trọng chương trình làm việc của cơ quan nhà nước đã thành quy chế.

8- Biện pháp chỉ đạo thực hiện Nghị quyết.

Các cấp uỷ đảng, toàn thể cán bộ, đảng viên, trước hết là các đồng chí Uỷ viên Trung ương, các đồng chí lãnh đạo chủ chốt các cấp, cần nhận thức sâu sắc những yêu cầu cấp bách của vấn đề xây dựng Đảng, có quyết tâm cao và tập trung sức làm tốt nhiệm vụ trọng yếu này. Một mặt, phải nghiên cứu, tổng kết những vấn đề về xây dựng Đảng trong điều kiện Đảng cầm quyền, lãnh đạo xây dựng và phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần hiện nay, nâng cao nhận thức và có ý thức đầy đủ về xây dựng Đảng. Mặt khác, phải thực sự bắt tay vào hành động, chỉ đạo thực hiện có hiệu quả và bản thân phải gương mẫu chấp hành các nguyên tắc tổ chức sinh hoạt đảng, nêu cao tính đảng. Chống hữu khuynh, nể nang, làm lướt; đồng thời đề phòng tả khuynh, đề phòng những nơi mất đoàn kết nội bộ lợi dụng cơ hội này để trừng trị, thanh lọc nhau.

Bộ Chính trị, Ban Bí thư cần tập trung chỉ đạo việc đổi mới và chỉnh đốn Đảng. Chuẩn bị các chương trình và kế hoạch để ngay sau Hội nghị Trung ương triển khai thực hiện một cách tích cực, mang lại kết quả cụ thể, trước hết ở các cơ quan trung ương, Ban Bí thư có chỉ thị hướng dẫn các cấp thực hiện, chọn làm điểm một số tỉnh, thành, bộ, ngành. Mỗi tỉnh chọn làm điểm một số huyện và cơ sở trọng yếu. Cử một số cán bộ có năng lực ở các ban giúp cấp uỷ chỉ đạo điểm trong một thời gian.

ở mỗi cấp, mỗi ngành, mỗi đơn vị, cấp uỷ phải trực tiếp chỉ đạo quán triệt tinh thần và triển khai thực hiện nghị quyết. Phải khảo sát, đánh giá tình hình, chuẩn bị kế hoạch cụ thể, đẩy mạnh các mặt công tác, xây dựng chương trình hành động, giải quyết dứt điểm từng việc cụ thể. Từng thời gian có sơ kết, tổng kết, rút kinh nghiệm kịp thời.

Giao cho các ban, các cơ quan có liên quan xây dựng các quy chế, quy trình công tác, nhất là về quan hệ làm việc giữa Bộ Chính trị, Ban Bí thư với Quốc hội, Chính phủ, giữa các ban của Đảng với các bộ của Chính phủ, quy chế làm việc của đảng đoàn, ban cán sự; ra các văn bản hướng dẫn thực hiện sàng lọc đảng viên, củng cố từng loại hình cơ sở đảng, sắp xếp tổ chức và bố trí cán bộ, thi hành Điều lệ Đảng...

Có kế hoạch bồi dưỡng các kiến thức về đảng cho các cấp uỷ, trước hết cho đồng chí bí thư. Biên soạn một số tài liệu hướng dẫn công tác đảng cho các cấp uỷ huyện và cơ sở.

Các cơ quan báo chí, thông tin đại chúng cần thông báo kịp thời, cổ vũ, nêu gương, phổ biến kinh nghiệm của những nơi làm tốt và phê bình những nơi làm kém.

Từ nay đến hết năm 1993 phải tập trung giải quyết một số vấn đề cấp bách sau đây:

- Ngăn chặn và đẩy lùi tệ tham nhũng, tiêu cực, gây thất thoát, lãng phí. Các cơ quan pháp luật điều tra, xét xử một số vụ lớn, trước hết ở trung ương và một số tỉnh trọng điểm.

- Giải quyết tình trạng mất đoàn kết ở một số nơi.

- Chỉnh đốn 3 loại tổ chức cơ sở đảng trọng yếu (xã, phường, đơn vị sản xuất kinh doanh, một số cơ quan). Đưa những đảng viên thoái hoá biến chất ra khỏi Đảng.

- Rà soát, sắp xếp, điều chỉnh, bổ sung một số cán bộ, chuẩn bị nhân sự cho Hội nghị đại biểu giữa nhiệm kỳ và Đại hội VIII của Đảng.

- Sắp xếp và củng cố các ban của Đảng từ trung ương đến quận, huyện.

*

*      *

Đảng ta có kinh nghiệm là cứ mỗi lần gặp khó khăn lại biết tự tổ chức, chỉnh đốn đội ngũ để tiến lên. Chúng ta tin tưởng rằng, với quyết tâm cao và những kinh nghiệm bước đầu đã có, sau Hội nghị Trung ương này, Đảng ta nhất định sẽ khắc phục được các thiếu sót, vượt qua mọi khó khăn, tạo ra bước chuyển biến tích cực trong quá trình đổi mới và chỉnh đốn Đảng, đáp ứng yêu cầu của giai đoạn cách mạng hiện nay, xứng đáng với niềm tin và lòng mong đợi của nhân dân cả nước.

T/M BAN CHẤP HÀNH TRUNG ƯƠNG ĐẢNG 
 

Tổng bí thư 
 

Đã ký: Đỗ Mười

Phản hồi

Thông tin người gửi phản hồi

Các tin khác

Ban hành Quy chế bầu cử trong Đảng

(ĐCSVN) - Ngày 10/10, thay mặt Ban Chấp hành Trung ương Đảng, Tổng Bí thư Tô Lâm đã ký Quyết định số 190-QĐ/TW về việc ban hành Quy chế bầu cử trong Đảng.

Kiểm soát quyền lực, phòng, chống tham nhũng, tiêu cực trong quản lý, sử dụng tài chính, tài sản công

(ĐCSVN) - Bộ Chính trị vừa ban hành Quy định số 189-QĐ/TW ngày 08/10/2024 về kiểm soát quyền lực, phòng, chống tham nhũng, tiêu cực trong quản lý, sử dụng tài chính, tài sản công.

Bộ Chính trị ban hành quy định phòng chống tham nhũng, tiêu cực trong điều tra, xét xử

(ĐCSVN) – Ngày 27/10/2023, Bộ Chính trị đã ban hành Quy định số 132-QĐ/TW về kiểm soát quyền lực, phòng, chống tham nhũng, tiêu cực trong hoạt động điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án.

Tập trung tuyên truyền những chủ đề lớn, trọng tâm từ nay đến Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIV của Đảng

(ĐCSVN) - Ban Tuyên giáo Trung ương yêu cầu thông tin chính xác, kịp thời với nhiều hình thức linh hoạt, sáng tạo, phong phú, sinh động gắn với tuyên truyền đại hội đảng bộ các cấp, tiến tới Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIV của Đảng và tuyên truyền kỷ niệm các ngày lễ lớn, sự kiện lịch sử quan trọng của đất nước trong năm 2024, 2025.

Quy trình kỷ luật đảng viên thuộc thẩm quyền của Trung ương Đảng, Bộ Chính trị, Ban Bí thư

(ĐCSVN) - Thay mặt Bộ Chính trị, Thường trực Ban Bí thư Lương Cường vừa ký Quyết định số 165-QĐ/TW ngày 6/6/2024 của Bộ Chính trị ban hành Quy trình xem xét, thi hành kỷ luật đối với tổ chức Đảng, đảng viên thuộc thẩm quyền của Ban Chấp hành Trung ương Đảng, Bộ Chính trị, Ban Bí thư.

Liên kết website