Phát biểu khai mạc Hội nghị lần thứ tư Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa VII), ngày 4/1/1993

Chăm sóc, bồi dưỡng và phát huy nhân tố con người vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội văn minh

Thưa các đồng chí Cố vấn,

Thưa các đồng chí Uỷ viên Trung ương,

Quán triệt đường lối đổi mới do Đại hội VI và Đại hội VII đề ra, và để cụ thể hóa đường lối đó, qua ba kỳ họp hội nghị toàn thể, Ban Chấp hành Trung ương Khóa VII đã bàn và ra quyết định về các vấn đề kinh tế, quốc phòng, an ninh, đối ngoại và xây dựng Đảng. Nghị quyết các kỳ họp ấy đều đề cập những vấn đề có ý nghĩa chiến lược, nhằm thúc đẩy sự nghiệp cách mạng của nhân dân ta trong giai đoạn mới.

Với tư cách là Đảng cầm quyền, Đảng ta rất chăm lo xây dựng nhà nước pháp quyền Việt Nam vững mạnh, làm cho Nhà nước ta thực sự là của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân; duy trì hiệu lực của pháp luật, giữ vững trật tự, kỷ cương, chống tham nhũng và các tệ nạn xã hội. Hiến pháp 1992 đã được Quốc hội Khóa VIII nhất trí thông qua; cuộc bầu cử đại biểu Quốc hội Khóa IX đã thành công tốt đẹp.

Chúng ta nhớ lại vào năm 1991, trước bối cảnh quốc tế diễn biến hết sức phức tạp và tình hình trong nước có rất nhiều khó khăn, không ít người băn khoăn liệu đất nước có đứng vững được qua phong ba, bão táp? Nhờ có đường lối, chủ trương, chính sách đúng đắn của Đảng và Nhà nước, nhờ quyết tâm sắt đá và sự nỗ lực vượt bậc của toàn Đảng, toàn dân và toàn quân, của các ngành, các cấp, trong hai năm qua, nhân dân ta đã đạt những thành tựu rất quan trọng, đầy khích lệ, cho phép khẳng định rằng đất nước chẳng những vượt qua được thử thách hiểm nghèo để đứng vững mà còn tiến lên bằng chính trí tuệ và sức lực của mình. Những thành tựu và kinh nghiệm thu được tạo điều kiện cho chúng ta tiếp tục vươn lên, khắc phục những khó khăn, trở ngại đang còn khá lớn, đưa sự nghiệp đổi mới đi vào chiều sâu, ngày càng đồng bộ và toàn diện, đẩy nhanh hơn tốc độ phát triển của đất nước trong năm 1993 và những năm sau, phấn đấu hoàn thành thắng lợi nhiệm vụ đã được đề ra tại Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VII.

Để thực hiện điều đó và để tiếp tục cụ thể hóa Nghị quyết Đại hội VII, tại kỳ họp toàn thể lần thứ tư này, Ban Chấp hành Trung ương sẽ thảo luận và ra nghị quyết về một số vấn đề có liên quan trực tiếp đến đời sống, nhất là đời sống tinh thần và sức khỏe của nhân dân. Đó là những vấn đề về giáo dục, và đào tạo, văn hóa, văn nghệ, về công tác bảo vệ và nâng cao sức khỏe của nhân dân, công tác dân số và kế hoạch hóa gia đình và công tác đối với thanh thiếu niên, chuẩn bị hành trang cho nhân dân ta, đặc biệt là cho thế hệ trẻ, vững bước tiến vào thế kỷ XXI.

Mỗi vấn đề trên đây đều có báo cáo và dự thảo nghị quyết trình Hội nghị Trung ương. Vì vậy, tôi không đi vào chi tiết mà chỉ nhấn mạnh một số điều quan trọng nhất.

Thưa các đồng chí,

Kể từ năm 1986, khi Đảng ta khởi xướng và lãnh đạo công cuộc đổi mới đất nước, đây là lần đầu tiên hội nghị toàn thể Ban Chấp hành Trung ương thảo luận cụ thể và ra nghị quyết theo tinh thần đổi mới về phương hướng, mục tiêu, điều kiện, giải pháp thuộc một số lĩnh vực nhằm phát triển con người, với tư cách vừa là động lực, vừa là mục đích của cách mạng, của sự nghiệp đổi mới đất nước.

Đảng ta từng khẳng định: con người là vốn quý nhất, chăm lo cho hạnh phúc của con người là mục tiêu phấn đấu cao nhất của chế độ ta, và đã cố gắng làm nhiều việc theo hướng đó. Song, cũng cần nhận rõ rằng những cố gắng ấy, những việc đã làm được còn thấp xa so với yêu cầu phát triển của đất nước và nguyện vọng của nhân dân. Chúng ta cần hiểu sâu sắc những giá trị lớn lao và ý nghĩa quyết định của nhân tố con người, chủ thể của mọi sáng tạo, mọi nguồn của cải vật chất và văn hóa, mọi nền văn minh của các quốc gia. Phải xuất phát từ tinh thần nhân văn sâu sắc, nhằm phát triển con người toàn diện, xây dựng một xã hội công bằng, nhân ái, thiết lập quan hệ thật sự tốt đẹp và tiến bộ giữa con người với con người trong sản xuất và trong đời sống, để từ đó làm tăng gấp bội hiệu quả kinh tế và xã hội. Con người phát triển cao về trí tuệ, cường tráng về thể chất, phong phú về tinh thần, trong sáng về đạo đức là động lực của sự nghiệp xây dựng xã hội mới, đồng thời là mục tiêu của chủ nghĩa xã hội. Vì vậy, mọi chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước phải quán triệt việc chăm sóc, bồi dưỡng và phát huy nhân tố con người.

Để bồi dưỡng và phát huy nhân tố con người, đặc biệt là đối với thế hệ trẻ, nhất thiết phải từng bước hiện đại hóa đất nước và đời sống xã hội. Chúng ta thường nói về những ưu việt của chủ nghĩa xã hội. Nhưng những ưu việt ấy không thể do ai đưa đến cho ta, cũng không thể tự nhiên mà có. Đó phải là kết quả của những nỗ lực vượt bậc và bền bỉ của toàn dân ta, với những con người phát triển cả về trí lực và thể lực, cả về khả năng lao động, về tính tích cực chính trị - xã hội, về đạo đức, tình cảm trong sáng. Cần hiểu rằng chỉ có thể tăng trưởng nguồn lực con người khi quá trình hiện đại hóa các ngành giáo dục, văn hóa, văn nghệ, bảo vệ sức khỏe, dân số và kế hoạch hóa gia đình gắn liền với việc kế thừa và phát huy những giá trị truyền thống và bản sắc dân tộc. Phát triển tách khỏi cội nguồn dân tộc thì nhất định sẽ lâm vào nguy cơ tha hóa. Đi vào kinh tế thị trường, hiện đại hóa đất nước mà xa rời những giá trị truyền thống sẽ làm mất bản sắc dân tộc, đánh mất bản thân mình, trở thành cái bóng mờ của người khác, của dân tộc khác.

Trong khi đất nước còn nghèo nàn, lạc hậu thì trước tiên phải lo phát triển kinh tế. Nhưng chúng ta sẽ phạm sai lầm nếu không quan tâm giải quyết tốt những vấn đề xã hội, cân đối, hài hòa giữa kinh tế và xã hội, tạo ra động lực phát triển kinh tế. Ngày nay, sự phát triển con người đã trở thành tiêu chí ngày càng quan trọng trong việc xếp hạng các nước trên thế giới. Năm 1990, chương trình phát triển của Liên hợp quốc (PNUD) đã đưa ra chỉ dẫn nhằm đánh giá tiến bộ kinh tế và xã hội của một nước, không chỉ ở tổng sản phẩm quốc dân như trước đây, mà dựa trên cơ sở của ba chỉ tiêu cơ bản: thu nhập, trình độ giáo dục và tuổi thọ.

Nhiều nước phát triển trên thế giới, cùng với mức tăng trưởng kinh tế rất cao, đang phải đối phó với hàng loạt vấn đề gay gắt về xã hội. Từ kinh nghiệm lịch sử đó, các nước đang phát triển, trong đó có nước ta, đã rút ra bài học là ngay từ những bước đầu tiên hoạch định chiến lược và chương trình phát triển, nhất thiết phải bảo đảm tính đồng bộ giữa kinh tế và xã hội. Song song với những nỗ lực phát triển kinh tế, phải chú trọng xây dựng những mặt thuộc hạ tầng của đời sống xã hội như giáo dục, y tế, phúc lợi công cộng. Chiến lược ổn định và phát triển kinh tế - xã hội của Việt Nam đến năm 2000 đã thể hiện tinh thần ấy: "Tăng trưởng kinh tế phải gắn liền với tiến bộ và công bằng xã hội, phát triển văn hóa, bảo vệ môi trường".

Để thực hiện được điều đó, phải vận dụng đúng đắn, sáng tạo quan điểm: cách mạng là sự nghiệp của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân; động viên toàn xã hội và từng gia đình chăm lo đầu tư phát triển con người, nhất là đối với thanh, thiếu niên; đồng thời Nhà nước cần có chính sách và nguồn ngân sách thích đáng dành cho công việc trọng đại đó.

Hướng bồi dưỡng và phát huy nhân tố con người Việt Nam là không ngừng gia tăng tính tự giác, năng động, tự chủ, phát huy sức mạnh bên trong của mỗi cá nhân kết hợp với sức mạnh của cả cộng đồng, xây dựng nền tảng tinh thần vững chắc của chế độ mới. Đồng thời, cũng cần nhận rõ rằng, mỗi cá nhân không tách rời hoàn cảnh xã hội. Sinh thời, Bác Hồ thường nói: "Mỗi con người đều có cái thiện và cái ác ở trong lòng. Ta phải biết làm cho phần tốt ở trong mỗi con người nảy nở như hoa mùa xuân và phần xấu bị mất dần đi, đó là thái độ của người cách mạng". Cần thấm nhuần những ý tưởng sâu sắc của Bác Hồ đối với việc bồi dưỡng, nêu gương "người tốt, việc tốt".

Trong khi quan tâm đến ngày mai, cần nhấn mạnh rằng mọi kế hoạch xây dựng và phát triển nhất thiết phải gắn với kế hoạch đầu tư cho chính sự phát triển về nhân cách, trí tuệ, tình cảm, niềm vui và hạnh phúc của mỗi người dân, mỗi gia đình ngay ngày hôm nay. Tương lai tươi đẹp phải được xây dựng trên nền tảng vững chắc của hiện tại.

Vì những lý do trên, Hội nghị Trung ương lần này có ý nghĩa rất quan trọng, đòi hỏi toàn thể các đồng chí trong Ban Chấp hành nhận thức sâu sắc hơn nữa vai trò của con người trong chiến lược phát triển kinh tế - xã hội, từ đó mà tạo ra những điều kiện vật chất và tinh thần cho sự phát triển toàn diện của chính bản thân con người. Trên cơ sở nhận thức ấy mà hoạch định một hệ thống chính sách thiết thực và nhất quán về giáo dục và đào tạo, về cuộc sống văn hóa lành mạnh, về chăm sóc và quản lý sức khỏe của nhân dân, về dân số và kế hoạch hóa gia đình, tạo điều kiện và môi trường thuận lợi phát huy mạnh mẽ nhân tố con người, đặc biệt là thế hệ trẻ, nhằm vun đắp gốc rễ bền vững, lâu dài để xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.

Thưa các đồng chí,

Trong nhiều thập kỷ qua, Đảng ta luôn coi trọng sự nghiệp giáo dục và đào tạo, chăm lo đến việc "trồng người" "vì lợi ích trăm năm" của đất nước, của dân tộc. Hơn 40 năm qua, ngành giáo dục và đào tạo đã góp phần chủ yếu vào việc nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài. Gần đây, văn kiện Đại hội VII lại khẳng định rằng cùng với khoa học và công nghệ, giáo dục và đào tạo phải được xem là quốc sách hàng đầu. Điều khẳng định đó hoàn toàn chính xác. Giáo dục và đào tạo là chìa khóa để mở cửa tiến vào tương lai. Song, chúng ta phải nhận rõ điều thiếu sót là thực tế của nền giáo dục hiện nay đang thấp xa so với yêu cầu của đất nước. Những biểu hiện xuống cấp về giáo dục những năm gần đây khá nặng nề. Có nhiều nguyên nhân dẫn đến tình trạng ấy; trong đó, điều quan trọng là chúng ta vẫn chưa thấy đầy đủ vai trò của trí tuệ và phẩm chất, nguồn tài sản quý báu nhất của quốc gia, do đó mà chưa đặt giáo dục cùng với khoa học và công nghệ vào đúng vị trí trung tâm của nó trong chiến lược phát triển kinh tế - xã hội và quyết tâm tìm mọi biện pháp khắc phục.

Trong khi nhiều nước trên thế giới và trong khu vực, kể cả một số nước cách đây không lâu vốn cùng trong hoàn cảnh giống nước ta, đã bước vào giai đoạn mới của tiến bộ khoa học và công nghệ và đang lao vào cuộc chạy đua phát triển giáo dục với những chuẩn mực quốc tế về chất lượng, tạo cơ sở cho sự tăng tốc trong chạy đua về kinh tế, thì đất nước ta, về trình độ lực lượng sản xuất, về khoa học và công nghệ, còn thuộc loại thấp nhất trong nhóm nước chậm phát triển; nhiều vấn đề xã hội khá gay gắt đang đòi hỏi phải giải quyết. Tình hình đó đặt ra những yêu cầu rất cao cho sự nghiệp giáo dục và đào tạo, cơ sở để phát huy nhân tố con người.

Điều đáng lo ngại là trong nhiều năm qua, tốc độ nâng cao dân trí ở nước ta quá chậm. Năm 1979, số năm đi học của mỗi người dân từ 7 tuổi trở lên bình quân là 4,4; đến 1989, tức là 10 năm sau, con số đó mới chỉ nhích lên đến 4,5 năm. Cùng với mặt bằng dân trí còn thấp, số người được đào tạo có trình độ tay nghề cao cũng như người có học vấn đại học và sau đại học đều đang còn ít. Đến nay, phần đông người lao động chưa được đào tạo về nghề nghiệp. Trong số cán bộ giảng dạy đại học và nghiên cứu khoa học, tỷ lệ người có học vị từ phó tiến sĩ trở lên còn rất thấp, mới chỉ khoảng 12% so với 30% là tỷ lệ cần đạt tới. Điều đó có nghĩa là phải có quyết tâm cao và có chính sách đầu tư hữu hiệu để sớm nâng cả mặt bằng lẫn đỉnh cao dân trí nước ta lên trình độ của một quốc gia phát triển.

Cùng với việc tạo ra nguồn lực vật chất và nguồn lực tài chính, và để phát huy các nguồn lực đó, thì điều quan trọng nhất hiện nay là cần tăng trưởng nguồn lực con người Việt Nam, tạo ra khả năng lao động ở một trình độ mới, cao hơn nhiều so với trước đây. Phải tiến hành công việc này đối với những người lao động, những người đang học ở bậc đại học và trung học chuyên nghiệp cũng như đối với học sinh phổ thông, chuẩn bị một thế hệ lao động mới có trình độ cao. Đó là một quá trình không đơn giản, đầy khó khăn và mâu thuẫn. Song, do yêu cầu bức bách phát triển đất nước trước mắt cũng như lâu dài, chúng ta phải đặt nó lên hàng đầu, quyết tâm giải quyết những mâu thuẫn, vượt qua mọi khó khăn.

Hiện nay, xu hướng ứng dụng công nghệ tiên tiến, hiện đại trong sản xuất, kinh doanh, quản lý đang phát triển, hàm lượng chất xám, nội dung trí tuệ tăng dần trong sản phẩm; lao động mang tính sáng tạo nhiều hơn và trở nên hứng thú hơn. Song, đó mới chỉ là ở một bộ phận còn nhỏ. Lao động ở nước ta hiện nay phổ biến vẫn là lao động chân tay nặng nhọc và lao động giản đơn. Điều này ảnh hưởng tiêu cực tới thái độ đối với lao động, tới quá trình phát triển của nền kinh tế, của xã hội và tới lối sống của con người.

Để nâng khả năng lao động lên trình độ mới, phải kịp thời đưa các thành tựu khoa học, kỹ thuật hiện đại và công nghệ mới vào giáo dục, loại bỏ những hình thức và nội dung giáo dục không còn thích hợp. Cải cách nội dung và phương pháp giáo dục theo hướng hiện đại, thiết thực, có hiệu quả cao. Chẳng hạn, muốn nâng cao trình độ trí tuệ thì phải cố gắng triển khai nhanh việc đưa tin học vào giáo dục. Ngay từ đầu, việc đổi mới nền giáo dục kể từ tuổi ấu thơ, khi các cháu bắt đầu vào mẫu giáo, cho đến bậc phổ thông, đại học, đều phải thấm nhuần tinh thần nhân văn, gắn tiếp thụ nền văn minh của thời đại với việc kế thừa, phát huy truyền thống dân tộc. Làm được như vậy thì dân tộc ta dù trong tương lai phát triển đến mức nào, vẫn giữ mãi bản sắc của mình, làm sâu đậm thêm tình yêu quê hương, đất nước và lòng nhân nghĩa, vốn là bản chất của người Việt Nam, của cả dân tộc Việt Nam, được hình thành và hun đúc trong suốt lịch sử lâu dài dựng nước và giữ nước.

Vì vậy, khi thảo luận nhiệm vụ của giáo dục, đề nghị các đồng chí đặc biệt quan tâm tới mục tiêu nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài, hình thành nhân cách, trau dồi đạo đức và tình cảm, nhất là đối với thanh, thiếu niên, tạo ra sự phát triển hài hòa cả đức lẫn tài ở mỗi thành viên trong xã hội, như Chủ tịch Hồ Chí Minh thường căn dặn.

Những mục tiêu của sự nghiệp giáo dục là rất lớn lao và cao cả. Vấn đề đặt ra là Đảng ta cần có chủ trương, chính sách đúng đắn.

Trước đây, với 5% số dân biết chữ, ta đã nhanh chóng khắc phục nạn mù chữ nhờ biết phát động nhân dân theo khẩu hiệu "Người biết chữ dạy người chưa biết chữ". Ngày nay, khoảng 90% nhân dân ta đã biết chữ, trong đó một bộ phận đã đạt trình độ học vấn cao. Không lý gì chúng ta lại không thanh toán được nạn mù chữ bằng cách dựa vào sức của dân mà chỉ đòi có ngân sách thì mới làm cho người mù chữ trở thành người biết chữ. Đương nhiên, Nhà nước cần đầu tư nhiều hơn cho giáo dục, nhưng vấn đề rất quan trọng là phải quán triệt sâu sắc và tiến hành tốt việc xã hội hóa các nguồn đầu tư, mở rộng phong trào xây dựng, phát triển giáo dục trong nhân dân, coi giáo dục là sự nghiệp của toàn xã hội.

Để bảo đảm chất lượng của giáo dục và đào tạo, phải giải quyết tốt vấn đề thầy giáo, kế thừa và phát huy truyền thống tôn sự trọng đạo của dân tộc ta. Phải đổi mới hệ thống sư phạm, đào tạo lại và đào tạo mới một đội ngũ giáo viên giỏi, có trách nhiệm, có lương tâm, có lòng tự hào về nghề nghiệp. Đó là điều kiện quyết định để nâng cao chất lượng giáo dục. Có những giải pháp thích đáng để cải thiện đời sống vật chất và tinh thần của nhà giáo. Lâu nay, kể cả lương và các khoản trợ cấp, đời sống giáo viên vẫn khó khăn, phải làm thêm nhiều việc khác, thậm chí đến mức không ít thầy cô giáo coi dạy học chỉ là nghề phụ. Tình trạng này đã kéo dài, nay phải có biện pháp tích cực tháo gỡ, phấn đấu để "thầy ra thầy" thì "trò mới ra trò" được.

Để đáp ứng nhu cầu lớn về học tập của nhân dân, nhất là của thanh thiếu niên, phải mở ra nhiều hình thức giáo dục và đào tạo, có đóng học phí, không hạn chế người cũng như tuổi đi học, tạo điều kiện mở rộng diện học tập cho đông đảo mọi người, thật sự thể hiện tinh thần giáo dục là sự nghiệp của toàn dân, với đầu tư thích đáng của Nhà nước. Đi đôi với phổ cập giáo dục tiểu học, chủ yếu lấy kinh phí từ ngân sách, chúng ta khuyến khích mở trường, lớp dân lập ở các bậc học phổ thông, đại học, dạy nghề. Đồng thời, coi việc người nghèo phải được đi học là vấn đề có tính nguyên tắc. Từ đó mà quy định chế độ miễn giảm học phí cho những học sinh đáng được miễn giảm, có trợ cấp cho những học sinh cần được hưởng. Đặc biệt đối với học sinh thuộc các dân tộc thiểu số, không những phải thực hiện chính sách miễn phí mà còn phải mở các trường dân tộc nội trú ở cấp tỉnh và huyện, giúp cho một bộ phận trẻ em ở đây được học hành tốt hơn, chu đáo hơn.

Trong những năm tới, Nhà nước sẽ tổ chức lại hệ thống dạy nghề, cố gắng phổ cập nghề song song với phổ cập giáo dục, thật sự làm cho học đi đôi với hành, dạy chữ đi đôi với dạy nghề. Sắp xếp lại hệ thống đại học, gắn một số viện nghiên cứu với trường đại học, làm cho đào tạo và nghiên cứu khoa học hỗ trợ lẫn nhau tốt hơn, nâng cao chất lượng và hiệu quả đào tạo; gắn đào tạo, nghiên cứu khoa học với sản xuất, phấn đấu trong một, hai thập kỷ tới xây dựng được một nền giáo dục và khoa học tiên tiến, không thua kém các nước trong khu vực.

Thưa các đồng chí,

Cùng với việc nâng cao nhận thức đối với giáo dục, chúng ta phải hiểu sâu sắc hơn vai trò của văn hóa trong việc bồi dưỡng và phát huy nhân tố con người, trong việc phát triển xã hội và xây dựng con người mới.

Văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội, thể hiện tầm cao và chiều sâu về trình độ phát triển của một dân tộc, là sự kết tinh những giá trị tốt đẹp nhất trong quan hệ giữa người với người, với xã hội và với thiên nhiên. Nó vừa là một động lực thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội, vừa là một mục tiêu của chúng ta. Văn học, nghệ thuật là một bộ phận trọng yếu của nền văn hóa, thể hiện khát vọng của nhân dân về chân - thiện - mỹ. Vì vậy, cùng với việc xây dựng và phát triển nền kinh tế hàng hóa, phải xây dựng và phát triển nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, theo định hướng xã hội chủ nghĩa với những đặc trưng cơ bản là dân tộc, hiện đại, nhân văn như Hiến pháp năm 1992 đã ghi. Đó là nền văn hóa đại chúng, vì nhân dân lao động cùng đội ngũ trí thức của mình là người tham gia sáng tạo những giá trị văn hóa, đồng thời là người phải được hưởng thụ những thành quả do mình làm ra.

Trong những năm qua, hoạt động văn hóa, văn nghệ có nhiều cố gắng, đạt những thành tựu quan trọng. Song, phải thừa nhận rằng so với yêu cầu phát triển của đất nước và nhu cầu ngày càng lớn của nhân dân thì vẫn còn khoảng cách khá xa. Điều đáng quan tâm là các quan hệ đạo đức giữa người với người, một trong những phương diện quan trọng nhất của văn hóa, có nhiều mặt bị sa sút nghiêm trọng. Trong lĩnh vực văn nghệ, đã để những quan điểm lệch lạc, những biểu hiện tiêu cực kéo dài. Văn hóa, văn nghệ chịu tác động sâu sắc của nhiều yếu tố như: hậu quả chiến tranh, khủng hoảng kinh tế - xã hội, những mặt trái của xu hướng "thương mại hóa" và những diễn biến phức tạp trên thế giới. Nhưng, nguyên nhân chủ yếu của việc chậm khắc phục những biểu hiện tiêu cực trong văn hóa, văn nghệ là do lãnh đạo và quản lý bị buông lỏng, hữu khuynh, thiếu những luật lệ, thể chế của Nhà nước, thiếu đầu tư thích đáng cho lĩnh vực văn hóa, văn nghệ. Tình hình đó làm nảy sinh nguy cơ phá hoại những giá trị nhân bản, những truyền thống lâu đời của dân tộc ta. Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư, các cấp, các ngành phải tự phê bình nghiêm khắc về trách nhiệm của mình và tìm mọi biện pháp khắc phục.

Nhiệm vụ trung tâm của văn hóa, văn nghệ nước ta là góp phần bồi dưỡng con người Việt Nam về trí tuệ, đạo đức, tâm hồn tình cảm, lối sống, có nhân cách cao đẹp, có bản lĩnh ngang tầm sự nghiệp đổi mới đất nước, mau chóng bắt kịp xu thế phát triển của thời đại ngày nay. Để góp phần tích cực vào việc đó, các hoạt động văn hóa, văn nghệ phải được phát triển lành mạnh, phong phú và đa dạng.

Việc tạo ra môi trường văn hóa của chủ nghĩa xã hội, trong đó có sự kết hợp hài hòa giữa các giá trị truyền thống và giá trị hiện đại, thấm nhuần tinh thần dân tộc, nhân văn là trách nhiệm to lớn của toàn Đảng và toàn dân ta, đặc biệt là của ngành văn hóa, văn nghệ. Phải lấy việc mở rộng các hoạt động văn hóa lành mạnh, bổ ích, sáng tạo những giá trị mới, sâu sắc, có tầm cỡ, bồi dưỡng, bảo vệ và phát huy mọi tài năng làm phương hướng phấn đấu không mệt mỏi để chấn hưng và phát triển nền văn hóa Việt Nam lên tầm cao mới.

Văn hóa, văn nghệ là một bộ phận khăng khít của sự nghiệp đổi mới do Đảng ta khởi xướng và lãnh đạo. Thấm nhuần quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh: "văn hóa, nghệ thuật là một mặt trận. Anh chị em là chiến sĩ trên mặt trận ấy", cần nâng cao tính chiến đấu trong sáng tác, lý luận, phê bình, đoàn kết rộng rãi, tập hợp mọi văn nghệ sĩ, mọi nhà hoạt động văn hóa yêu nước, vì mục tiêu độc lập của Tổ quốc, tự do của nhân dân, hạnh phúc của đồng bào.

Tính chiến đấu của các hoạt động văn hóa và văn học, nghệ thuật thể hiện trước hết trong việc khẳng định mạnh mẽ những nhân tố mới, những xu hướng tích cực trong cuộc sống, những giá trị cao đẹp của xã hội ta, kiên quyết phê phán những gì đang cản trở quá trình phát triển của đất nước đi lên chủ nghĩa xã hội; đẩy lùi các tệ nạn xã hội đang phá hoại thuần phong, mỹ tục; bài trừ hủ tục, mê tín, dị đoan và những biểu hiện lạc hậu khác. Văn học, nghệ thuật không né tránh việc phản ánh bóng đen của xã hội, nhưng là để làm nổi bật ánh sáng của chế độ mới, cuộc sống mới. Phê phán cái sai, lên án cái ác, cái xấu là để hướng con người tới cái đúng, cái thiện, cái đẹp. Phải kiên quyết đấu tranh loại trừ những nọc độc về văn hóa, khắc phục cơ bản những mặt tiêu cực và những khuynh hướng lệch lạc hiện nay trong lĩnh vực văn hóa, văn nghệ.

Một mặt, phải bảo đảm dân chủ, tự do cho mọi sự sáng tạo và hoạt động văn hóa. Mặt khác, cần nhấn mạnh rằng sự sáng tạo chân chính gắn liền với trách nhiệm trước công chúng, trước dân tộc và thời đại. Bình đẳng trước công lý, sáng tạo và hưởng thụ văn hóa, văn học, nghệ thuật trong khuôn khổ của pháp luật là những định hướng giá trị căn bản của mọi hoạt động của chúng ta. Đồng thời, chính sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng và những chuẩn mực pháp luật có hiệu lực của Nhà nước tạo điều kiện thuận lợi cho mỗi người bồi dưỡng, nâng cao đạo đức và thẩm mỹ, vừa hiện đại, vừa dân tộc. Chúng ta khuyến khích tự do sáng tạo các giá trị văn hóa, vun đắp các tài năng, đồng thời đòi hỏi mỗi văn nghệ sĩ, trước hết là các đảng viên làm công tác văn hóa, văn nghệ, có ý thức đầy đủ về trách nhiệm công dân, nghiêm chỉnh chấp hành kỷ luật của Đảng, pháp luật của Nhà nước, góp phần tích cực vào quá trình đổi mới và dân chủ hóa mọi mặt đời sống, bảo đảm ổn định chính trị, củng cố niềm tin, xây dựng lẽ sống cao đẹp.

Văn hóa, văn nghệ là một sự nghiệp đòi hỏi sự đóng góp của toàn xã hội, phải được xã hội hóa. Theo quan điểm đó, tiến hành sắp xếp lại lực lượng và tổ chức trong toàn ngành; phát triển các hoạt động văn hóa, văn nghệ của Nhà nước, tập thể và cá nhân, đúng đường lối của Đảng và tuân thủ sự quản lý thống nhất của Nhà nước. Động viên mọi khả năng của các tầng lớp xã hội để xây dựng cơ sở vật chất, kỹ thuật cho sự nghiệp văn hóa, văn nghệ; đồng thời, Nhà nước cần có chính sách đầu tư thích đáng, khuyến khích những tài năng chân chính phát huy sức sáng tạo, bảo đảm cho các nhà văn hóa, văn nghệ sĩ chuyên nghiệp có thể sống tốt bằng những công trình nghiên cứu và sáng tác của mình. Phổ biến rộng rãi những tác phẩm, công trình có giá trị về tư tưởng và nghệ thuật thông qua các phương tiện thông tin đại chúng, như phát thanh, truyền hình, sách báo, thư viện…; bảo tồn và phát huy những di sản văn hóa tốt đẹp của dân tộc; tiếp thụ những tinh hoa văn hóa, nghệ thuật của nhân loại. Có chính sách khuyến khích xuất khẩu văn hóa phẩm nhằm mở rộng giao lưu văn hóa, làm cho người nước ngoài hiểu biết về nền văn hóa Việt Nam; đồng thời, khuyến khích nhập khẩu văn hóa phẩm lành mạnh, tạo điều kiện để nhân dân ta tiếp cận với nền văn minh của loài người, góp phần củng cố, tăng cường tình hữu nghị giữa các dân tộc trên thế giới. Nghiêm cấm việc truyền bá những sản phẩm phản động, đồi trụy đang lan tràn, đầu độc đời sống tinh thần của nhân dân ta, nhất là thế hệ trẻ. Thực sự đổi mới phương thức lãnh đạo và quản lý văn hóa, văn nghệ, vừa bảo đảm nội dung tư tưởng chính trị cao, đạt được mục tiêu và định hướng của Đảng và Nhà nước, vừa bảo đảm quyền tự do sáng tạo của cá nhân, tạo điều kiện cho mọi tài năng nảy nở và phát triển. Khắc phục cả tình trạng "hành chính hóa" các tổ chức văn hóa, văn nghệ lẫn xu hướng "thương mại hóa" trong lĩnh vực này.

Thưa các đồng chí,

"Giáo dục cho mọi người" là một mục tiêu có ý nghĩa chiến lược. Nhưng "sức khỏe cho mọi người" cũng không kém phần quan trọng. Trí tuệ là tài sản quý giá nhất trong mọi tài sản, nhưng chính sức khỏe là một tiền đề cần thiết để làm ra tài sản đó. Vì vậy, cùng với giáo dục, văn hóa, văn nghệ chúng ta phải quan tâm thích đáng đến sự nghiệp y tế của nước ta. Từ những ngày đầu Cách mạng Tháng Tám, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã rất quan tâm chăm lo sức khỏe của toàn dân. Người thường nói: mỗi người dân khỏe thì cả nước khỏe. Tư tưởng đó cần được nhắc lại để mọi người chúng ta luôn ghi nhớ và cùng nhau thực hiện. Điều này đặc biệt quan trọng đối với thanh niên, lực lượng trụ cột trong việc bảo tồn và phát triển giống nòi. Thanh niên phải ra sức học tập, rèn luyện để có học vấn, trí tuệ cao, tâm hồn trong sáng, lành mạnh và thân thể khỏe mạnh, cường tráng.

Những quan điểm chỉ đạo lớn của Đảng và Nhà nước đối với công tác này như chăm lo phát triển sự nghiệp thể dục, thể thao, coi đó là biện pháp hàng đầu để tăng cường sức khỏe, nâng cao khả năng đề kháng của cơ thể đối với bệnh tật; coi trọng y học dự phòng, kết hợp y học cổ truyền dân tộc với y học hiện đại, chăm sóc sức khỏe ban đầu cho nhân dân…, đã được cụ thể hóa bằng nhiều chính sách và biện pháp thiết thực, hữu hiệu. Ngành y tế và thể dục thể thao đã có nhiều cố gắng chăm lo bảo vệ sức khỏe, nâng cao thể lực của nhân dân, chăm sóc người già, phụ nữ và trẻ em và đã đạt những thành tựu to lớn. Đã từng có thời kỳ giáo dục và y tế nhân dân đánh giá là hai bông hoa đẹp của xã hội ta. Bè bạn trên thế giới cũng khẳng định đó là hai thành tựu rất lớn trong sự nghiệp xây dựng đất nước ta.

Song, trong những năm gần đây, ngành y tế có nhiều biểu hiện xuống cấp, có mặt khá nghiêm trọng. Do những khó khăn về kinh tế - xã hội, do ngân sách đầu tư vào y tế còn rất eo hẹp và nhất là do nhận thức của chúng ta chưa coi y tế là sự nghiệp của toàn xã hội, của toàn dân, nên ở nhiều nơi, bệnh viện không còn ra bệnh viện, phòng khám không còn ra phòng khám. Cũng cần nhấn mạnh rằng, những quan niệm lệch lạc về kinh tế thị trường được thực hiện trong một số bệnh viện, một số cơ sở y tế đã làm tổn hại đến đạo lý của ngành. Có rất nhiều vấn đề cần được làm rõ trong quá trình xây dựng, đổi mới sự nghiệp bảo vệ và tăng cường sức khỏe của nhân dân, khôi phục và đề cao y đức của cha ông: "thày thuốc như mẹ hiền".

Hiện nay, một số bệnh tật sau nhiều năm đã được thanh toán hoặc từng bước bị đẩy lùi, nay lại đang có xu thế tăng lên, như bệnh sốt rét, bệnh lao, bệnh tả. Trong khi đó, ở nhiều địa phương, dân ốm mà thuốc không đến tay, do quá đắt so với sức mua của dân, hoặc gặp thuốc giả. Bệnh viện thì ở xa, trạm y tế cơ sở hoặc đã bị xóa sổ, hoặc không còn ra trạm y tế. Vì thế người bệnh nặng nhiều khi bị chết do không kịp chuyển đến bệnh viện.

Sự xuống cấp còn biểu hiện ở tình trạng mất vệ sinh của nhiều bệnh viện, ở thái độ phục vụ của một số thầy thuốc. Điều đó khiến chúng ta, những người lãnh đạo Đảng, Nhà nước và nhất là ngành y tế, phải thấy rõ trách nhiệm của mình, suy nghĩ để mau chóng đổi mới cách chỉ đạo, tổ chức công tác phòng bệnh, khám, chữa bệnh, chăm sóc sức khỏe của nhân dân.

Nhà nước cần quy định rõ những điều kiện và ban hành những chính sách nhằm bảo đảm cho mọi người nghèo đều được khám và chữa bệnh trong điều kiện thuốc men và phương tiện y tế hiện có. Trong xã hội ta, mọi người nghèo phải được khám, chữa bệnh và chăm sóc chu đáo, dù không có tiền.

Bằng mọi cách, phải bảo đảm thuốc đến tay người dân thật sự cần dùng nó. Nghiêm trị những kẻ sản xuất và buôn bán thuốc giả. Chấn chỉnh ngay tình trạng lộn xộn của bệnh viện. Phục hồi các trạm y tế cơ sở ở từng cụm dân cư. ở vùng sâu, vùng cao phải tổ chức những đội y tế lưu động để chăm sóc sức khỏe nhân dân.

Ngành y tế nghiên cứu và sớm trình Nhà nước đề án trả lương cho cán bộ y tế cơ sở cũng như những đề án về thuốc cho dân, về chế độ bảo hiểm sức khỏe cho cán bộ, công nhân viên, cho nhân dân, đặc biệt là các đối tượng chính sách và về xây dựng một số trung tâm y tế hiện đại. Ban hành những quy định về khám, chữa bệnh và quản lý chặt chẽ việc thực hiện những quy định đó.

Trước đây, việc giải quyết các vấn đề xã hội nói chung và y tế nói riêng thường dựa vào ngân sách do Nhà nước bao cấp. Nay phải chuyển mạnh sang phương thức xã hội hóa, nhà nước và nhân dân cùng làm. Cần nhấn mạnh rằng, sự nghiệp chăm sóc, bảo vệ và nâng cao sức khỏe cho nhân dân không chỉ do ngành y tế thực hiện, mà phải có sự lãnh đạo, chỉ đạo của đảng bộ, chính quyền các cấp, có sự đóng góp của các ngành, của toàn dân, của cả xã hội. Phải coi trọng việc kế thừa và phát triển y học cổ truyền dân tộc; hiện đại hóa không chỉ tây y mà cả đông y. Xuất phát từ quan điểm đó, Nhà nước cho phép mở bệnh viện dân lập, bệnh viện, phòng khám, cửa hàng dược phẩm và các dịch vụ y tế tư nhân theo những quy định của Bộ Y tế, đúng pháp luật hiện hành.

Môi trường sống của chúng ta đang bị ô nhiễm nặng nề. Trong thành phố cũng như ở làng xã, từ đồng bằng đến miền núi, trong nhà máy, cơ quan, trường học, cửa hàng, nơi làm việc cũng như nơi ở đều có tình trạng mất trật tự, mất vệ sinh. Chúng ta thường nói đến chăm sóc sức khỏe, nhưng lại ít nói đến giáo dục sức khỏe, thực hiện phương châm "phòng bệnh hơn chữa bệnh". Tri thức nuôi con đúng khoa học còn thiếu, để các cháu còi cọc, ốm yếu, suy dinh dưỡng. Nạn nghiện hút, ma túy, mãi dâm phát triển do nhiều nguyên nhân, trong đó có phần do thiếu kiểm tra, hướng dẫn, giám sát của các cơ quan quản lý nhà nước về y tế, của các đoàn thể, có phần đáng kể là do nhân dân ít được giáo dục để tránh những tệ nạn đó.

Đối với những việc này, nếu yêu cầu phải có đầu tư mới làm thì cả lúc nước ta trở nên giàu có cũng không thể nào làm tốt, huống hồ là khi còn khó khăn như hiện nay. Cần thống nhất quan điểm là trong khi còn nghèo, chúng ta vẫn có thể làm nhiều việc có tác dụng tốt bảo vệ và tăng cường sức khỏe với mức đầu tư rất ít, như ăn ở hợp vệ sinh, giữ gìn nhà cửa, xóm ngõ, trường học, nơi làm việc sạch sẽ, phong quang, thường xuyên luyện tập thể dục, thể thao, tránh lối sống gây độc hại như ma túy, mãi dâm, cờ bạc, rượu chè… Làm tốt những việc đó thì chẳng những không mất tiền mà còn tiết kiệm được để nâng cao mức sống và đầu tư phát triển. Điều quan trọng là phải tuyên truyền, giáo dục sâu rộng để mọi người có ý thức và quyết tâm biến thành thói quen trong nếp sống hàng ngày, tạo ra phong trào quần chúng rộng khắp, nhất là đối với tuổi trẻ.

Thưa các đồng chí,

Toàn bộ vấn đề giáo dục, văn hóa văn nghệ, y tế đều có mối liên quan mật thiết với công tác dân số và kế hoạch hóa gia đình. Sự gia tăng nhanh chóng dẫn đến tình trạng bùng nổ dân số là một nguy cơ đe dọa nhân loại, cũng là nguy cơ đe dọa nước ta, làm cho những mục tiêu về đời sống vật chất và văn hóa, dân trí và sức khỏe mới được đề ra đã không thể thực hiện được.

Chúng ta cần nhận thức sâu sắc rằng nếu tốc độ phát triển dân số không phù hợp thì dù kinh tế tăng trưởng nhanh, thu nhập bình quân đầu người, cũng tức là chỉ tiêu về mức sống vật chất, văn hóa của nhân dân, chẳng những không tăng lên mà còn bị suy giảm. Hơn ba năm qua, với mức tăng dân số xấp xỉ 2,3%, chúng ta đã có thêm 4,5 triệu người, gần bằng dân số của ba tỉnh Thái Bình, Quảng Nam - Đà Nẵng, Tiền Giang cộng lại. Trong khi đó, mức tăng trưởng kinh tế của nước ta mặc dù có nhiều tiến bộ, song vẫn còn chậm chạp, khiến cho đời sống của một bộ phận nhân dân có chiều giảm sút, hạn chế đáng kể sự phát triển về thể lực và trí lực nói riêng của giống nòi, làm cho nước ta ngày càng trở thành lạc hậu so với các nước trong khu vực. Chẳng hạn, với nhịp độ tăng thu nhập quốc dân 5,3% như năm 1992, cần đến 24 năm chúng ta mới tăng được gấp đôi thu nhập quốc dân bình quân đầu người, trong khi nhiều nước chỉ cần 10 năm để làm việc đó. Điều này cho thấy rõ tầm quan trọng của vấn đề dân số kế hoạch hóa gia đình ở nước ta hiện nay.

Do dân số tăng nhanh, cùng với lực lượng lao động tăng nhanh hơn so với nhịp độ tạo ra việc làm, nên đã nảy sinh nhiều vấn đề phức tạp, ảnh hưởng trực tiếp đến mức sống, sức khỏe, việc học hành, sinh hoạt văn hóa… của từng người dân, từng gia đình và của cả cộng đồng, gây sức ép nhiều mặt lên xã hội. Đó là một trong những nguyên nhân quan trọng làm phát sinh nhiều tệ nạn xã hội như trộm cắp, mãi dâm, ma túy…

Thông thường thì giữa trình độ phát triển của một nước và tốc độ tăng dân số có mối quan hệ ngược chiều nhau. Một mặt, để giảm mức tăng dân số, chúng ta phải chăm lo nâng cao dân trí, phát triển kinh tế và văn hóa. Mặt khác, đối với một nước nghèo, chậm tiến và đang đứng trước nguy cơ bùng nổ dân số như nước ta hiện nay thì việc giảm tỷ lệ tăng dân số lại tạo tiền đề quan trọng cho việc đẩy nhanh tốc độ phát triển kinh tế và văn hóa, nâng cao dân trí. Cần nhận thức rõ điều này để có chính sách dân số và kế hoạch hóa gia đình chủ động, tích cực, và có quyết tâm lãnh đạo toàn xã hội thực hiện bằng được mục tiêu đề ra trong hai thập kỷ tới, phấn đấu ổn định quy mô dân số từ giữa thế kỷ sau.

Công tác dân số và kế hoạch hóa gia đình có mục đích sâu xa, đồng thời cũng là một yếu tố cơ bản để nâng cao chất lượng cuộc sống của từng người và của toàn xã hội thông qua việc xây dựng gia đình, gắn liền với việc bảo vệ bà mẹ và trẻ em, nâng cao dân trí và phát triển kinh tế. Vì vậy, công tác dân số và kế hoạch hóa gia đình là một bộ phận quan trọng của chiến lược phát triển đất nước, được đưa vào danh mục các vấn đề kinh tế - xã hội hàng đầu.

Đảng và Nhà nước trực tiếp lãnh đạo và chỉ đạo công tác này theo một chiến lược và chương trình quốc gia, được hoạch định trên cơ sở khoa học và thực tiễn, động viên lực lượng toàn xã hội tham gia, nhất là giáo dục để tất cả các thành viên chủ chốt của từng gia đình nhận thức đầy đủ tầm quan trọng của vấn đề này và tích cực thực hiện; đồng thời, quản lý tập trung các nguồn lực để sử dụng có hiệu quả. Coi trọng việc tăng cường tổ chức sinh hoạt văn hóa, nhất là ở nông thôn, tạo môi trường thuận lợi cho công tác kế hoạch hóa gia đình.

Phải coi đầu tư cho công tác dân số và kế hoạch hóa gia đình là đầu tư mang lại hiệu quả cao và trực tiếp về kinh tế - xã hội. Nguồn lực đầu tư cho công tác này được huy động từ ngân sách, viện trợ quốc tế và sự đóng góp của toàn xã hội. Trong giai đoạn đầu, chủ yếu Nhà nước phải làm; khi đã thành phong trào tự nguyện và rộng khắp của toàn dân thì từng người, từng gia đình sẽ đảm nhiệm vai trò chính.

Thưa các đồng chí,

Những vấn đề giáo dục và đào tạo, văn hóa văn nghệ, chăm sóc và bảo vệ sức khỏe, dân số và kế hoạch hóa gia đình thực chất là vấn đề đầu tư phát triển con người, đặc biệt là thế hệ trẻ. Đảng ta nhận thức sâu sắc về vai trò của thanh niên, coi thanh niên vừa là lớp người được thừa hưởng lâu dài những kết quả của sự phát triển, vừa là lực lượng chính trong việc làm ra những kết quả ấy. Vì vậy, không phải ai khác mà chính thanh niên giữ vị trí trung tâm trong chiến lược phát huy nhân tố và nguồn lực con người của nước ta.

Thật vậy, sự nghiệp đổi mới đất nước có thành công hay không, đất nước ta bước vào thế kỷ XXI có vị trí xứng đáng trong cộng đồng thế giới hay không, chủ yếu là do lực lượng thanh niên ngày nay quyết định. Cách mạng Việt Nam có vững bước theo con đường xã hội chủ nghĩa hay không là tùy thuộc vào việc bồi dưỡng, rèn luyện thế hệ thanh niên. Có thể nói công tác thanh niên là vấn đề sống còn của dân tộc, là một trong những nhân tố quyết định sự thành bại của cách mạng, đúng như Bác Hồ đã nói: "Vì lợi ích mười năm thì phải trồng cây, vì lợi ích trăm năm thì phải trồng người".

Thanh niên nước ta là lực lượng lao động đông đảo, có tiềm năng to lớn. Song thanh niên cũng đang gặp nhiều khó khăn gay gắt về việc làm, về học tập và sức khỏe. Mặt khác, một số thanh niên có những lệch lạc, tiêu cực về lối sống và mắc nhiều tệ nạn xã hội nghiêm trọng.

Để phát huy đầy đủ sức mạnh và tiềm năng to lớn của thanh niên, giúp thanh niên vượt qua những khó khăn, khắc phục những tiêu cực, thực hiện tốt vai trò của tuổi trẻ, Đảng ta phải gấp rút tăng cường và đổi mới công tác thanh niên. Trong đó, việc quan trọng hàng đầu là phải xây dựng một chiến lược thanh niên trong thời kỳ mới.

Mục tiêu mà chiến lược đó cần đạt tới là một mặt, phải đào tạo, bồi dưỡng, hình thành một thế hệ con người mới có ý thức trách nhiệm công dân, có tri thức, có sức khỏe và lao động giỏi, sống có văn hóa và tình nghĩa, giàu lòng yêu nước và tinh thần quốc tế chân chính; trong đó xuất hiện một lớp thanh niên ưu tú có giác ngộ chính trị cao, có tài năng, đi đầu mở đường cho đất nước ta bước vào thời kỳ mới. Mặt khác, phải đạt tới sự đổi mới thật sự công tác thanh niên của Đảng, của Nhà nước và toàn xã hội, để thanh niên thực hiện được trách nhiệm lịch sử của mình.

Để đạt tới mục tiêu đó, Đảng và Nhà nước ta phải xây dựng và hoàn thiện các chính sách đối với thanh niên nhằm vừa phát huy tiềm năng sáng tạo của tuổi trẻ, vừa tạo điều kiện và môi trường thuận lợi để thanh niên cống hiến tốt nhất, nhiều nhất và trưởng thành nhanh nhất. Cổ vũ thanh niên hăng say lập thân và lập nghiệp, chấn hưng đất nước, bảo vệ chế độ, động viên thanh niên đi đôi với bồi dưỡng và đãi ngộ công bằng. Những chính sách đó bao gồm các vấn đề sử dụng tốt nguồn lực trẻ, tạo việc làm, giao trách nhiệm xứng đáng, bồi dưỡng các mặt trí, đức, thể, mỹ, phát huy tài năng trẻ, chăm lo những vấn đề xã hội của thanh niên.

Phải nâng cao trách nhiệm và năng lực công tác vận động thanh niên của các tổ chức đảng, mỗi cán bộ, đảng viên cần có sự hiểu biết về thế hệ trẻ, góp phần chăm sóc thế hệ trẻ; hình thành các tổ chức cần thiết làm tham mưu cho cấp ủy đảng về công tác thanh niên. Trong đó, điều rất quan trọng là cán bộ, đảng viên phải gương mẫu trong công việc và trong đời sống, làm tấm gương sáng cho thanh niên. Muốn dạy người tốt, trước hết phải biết tự dạy mình.

Để phát huy lực lượng thanh niên, điều quan trọng hàng đầu là Đảng phải lãnh đạo việc xây dựng và củng cố Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh, nâng cao chất lượng của tổ chức đoàn và từng đoàn viên, để Đoàn thực sự đóng được vai trò hạt nhân chính trị của phong trào thanh niên. Đồng thời, phải mở rộng khối đoàn kết, tập hợp mọi tầng lớp thanh niên trong các tổ chức thích hợp, mau chóng hình thành mặt trận thanh niên rộng rãi, phấn đấu vì lợi ích của đất nước và của tuổi trẻ.

Song, công tác thanh niên không chỉ là việc của Đảng, của Đoàn mà còn là việc của Nhà nước, của mọi tổ chức, của xã hội và của từng gia đình.

Nhà nước có trách nhiệm rất lớn trong việc thực hiện chiến lược thanh niên. Đất nước càng phát triển, trách nhiệm quản lý nhà nước với công tác thanh niên càng rộng và toàn diện hơn. Khẩn trương xây dựng các đạo luật cần thiết, bổ sung và hoàn thiện các chính sách liên quan đến thế hệ trẻ; hình thành các cơ quan quản lý của chính quyền về công tác thanh niên; xây dựng các chương trình, kế hoạch và đầu tư thích đáng cho công tác thanh niên.

Các đoàn thể nhân dân, các tổ chức xã hội có chương trình công tác thanh niên để chăm sóc lợi ích, đào tạo bồi dưỡng và phát huy lực lượng thanh niên trong tổ chức mình.

Tổ chức phối hợp trên quy mô toàn xã hội làm công tác thanh niên cho đến từng gia đình. Tăng cường giúp đỡ các gia đình về nội dung, phương pháp và điều kiện nuôi dạy con cái, làm cho gia đình thực hiện tốt chức năng sản xuất của cải vật chất, tiếp nối và cải tạo giống nòi, nuôi dạy con cái trưởng thành, trở thành những người hữu ích cho xã hội.

Thưa các đồng chí,

Nhân dân cả nước đang chăm chú theo dõi, đặt niềm tin và hy vọng vào Hội nghị lần này, vì hội nghị giải quyết những vấn đề quan trọng, trực tiếp liên quan đến đời sống, đến tương lai của mọi người, mọi gia đình và của toàn xã hội. Vì vậy, chúng ta cần phân tích sâu sắc thực trạng, làm rõ trách nhiệm của các ngành, các cấp, xác định quan điểm cơ bản, những chủ trương và chính sách lớn, tìm mọi biện pháp hữu hiệu để giải quyết những yêu cầu của cuộc sống. Làm thế nào để trong điều kiện cho phép và với cố gắng cao nhất của Đảng, Nhà nước và của toàn dân, ai cũng được chăm sóc về thể chất và tinh thần một cách công bằng, ai cũng được học hành, được tham gia sáng tạo và hưởng thụ văn học, nghệ thuật, được chữa bệnh khi ốm đau. Đáp ứng được những yêu cầu đó, chúng ta sẽ khơi dậy và phát huy cao độ nhân tố và nguồn lực con người trong sự nghiệp phát triển đất nước.

Hội nghị Trung ương 3 đã xác định: "Phát triển kinh tế là nhiệm vụ trung tâm, chi phối các lĩnh vực hoạt động khác". Phát triển kinh tế là tạo cơ sở và điều kiện thuận lợi để giải quyết các vấn đề xã hội. Song, mặt khác, cần nhận rõ rằng không ít vấn đề xã hội có thể giải quyết không hoàn toàn phụ thuộc vào trình độ phát triển kinh tế nếu có nhận thức và chủ trương đúng đắn và biết dựa vào sức mạnh của toàn dân. Đồng thời việc giải quyết tốt các vấn đề xã hội sẽ nâng cao chất lượng cuộc sống của nhân dân, mở ra triển vọng phát triển lực lượng sản xuất nhanh hơn và với chất lượng cao hơn. Chăm sóc, bồi dưỡng và phát huy nhân tố con người vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội văn minh là vấn đề vừa cơ bản, vừa cấp bách mà Ban Chấp hành Trung ương phải thảo luận và quyết định trong kỳ họp lần này.

Trên cơ sở nhận thức sâu sắc những quan điểm cơ bản của Đảng ta về con người, với mục tiêu cao cả "tất cả vì con người; tất cả vì hạnh phúc của nhân dân" mà động viên cao độ sức mạnh với những nỗ lực vượt bậc của toàn bộ hệ thống chính trị, từ Đảng, Nhà nước, Mặt trận, các đoàn thể, các ngành, các cấp đến toàn thể nhân dân, thực hiện một cách thật sáng tạo phương châm "Nhà nước và nhân dân cùng làm, toàn xã hội cùng làm". Phải biến quyết tâm của Đảng, của dân tộc thành quyết tâm của từng gia đình, từng người, đoàn kết phấn đấu vì sự nghiệp đó. Trước mắt, cần khẩn trương tiến hành việc thể chế hóa những nội dung của Nghị quyết Trung ương lần này và tích cực tổ chức thực hiện, làm cho những chủ trương, giải pháp ghi trong nghị quyết sớm trở thành hiện thực.

Chúc các đồng chí khỏe,

Chúc Hội nghị Trung ương thành công.

Phản hồi

Thông tin người gửi phản hồi

Các tin khác

Hướng dẫn kiểm tra, giám sát phục vụ đại hội đảng bộ các cấp tiến tới Đại hội XIV của Đảng

(ĐCSVN) - Tại văn bản số 08-HD/UBKTTW ngày 18/11/2024, Ủy ban Kiểm tra Trung ương hướng dẫn công tác kiểm tra, giám sát phục vụ đại hội đảng bộ các cấp tiến tới Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIV của Đảng.

Phương án nghiên cứu sắp xếp, sáp nhập các bộ, cơ quan thuộc Chính phủ

(ĐCSVN) - Theo phương án nghiên cứu sắp xếp, sáp nhập được Trưởng Ban Tổ chức Trung ương Lê Minh Hưng nêu tại Hội nghị toàn quốc sáng 1/12, sẽ tối thiểu giảm được 5 bộ, 2 cơ quan trực thuộc Chính phủ.

Phương án sáp nhập các ủy ban của Quốc hội và cơ quan thuộc Ủy ban Thường vụ Quốc hội

(ĐCSVN) - Sáng 1/12, Trưởng Ban Tổ chức Trung ương Lê Minh Hưng thông báo chuyên đề về các nội dung chính, trọng tâm việc triển khai tổng kết Nghị quyết 18. Theo phương án định hướng được nêu sẽ giảm 4 ủy ban của Quốc hội và 1 cơ quan trực thuộc Ủy ban Thường vụ Quốc hội.

Phương án giảm 4 cơ quan Đảng, 25 ban cán sự đảng, 16 đảng đoàn trực thuộc Trung ương

(ĐCSVN) - Sáng 1/12, đồng chí Lê Minh Hưng, Uỷ viên Bộ Chính trị, Bí thư Trung ương Đảng, Trưởng ban Tổ chức Trung ương đã trình bày các nội dung chính, trọng tâm việc triển khai tổng kết Nghị quyết 18-NQ/TW của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XII.

Quy trình kỷ luật đảng viên thuộc thẩm quyền của Trung ương Đảng, Bộ Chính trị, Ban Bí thư

(ĐCSVN) - Thay mặt Bộ Chính trị, Thường trực Ban Bí thư Lương Cường vừa ký Quyết định số 165-QĐ/TW ngày 6/6/2024 của Bộ Chính trị ban hành Quy trình xem xét, thi hành kỷ luật đối với tổ chức Đảng, đảng viên thuộc thẩm quyền của Ban Chấp hành Trung ương Đảng, Bộ Chính trị, Ban Bí thư.

Liên kết website