Tiếp tục đổi mới và phát triển mạnh mẽ kinh tế - xã hội nông thôn
Thưa các đồng chí Cố vấn,
Thưa các đồng chí Trung ương,
Thưa các đồng chí,
Trải qua các thời kỳ cách mạng từ khi thành lập đến nay, Đảng ta và Bác Hồ kính yêu luôn luôn khẳng định ý nghĩa to lớn của vấn đề nông dân. Khẩu hiệu chiến lược: Độc lập cho Tổ quốc, ruộng đất cho dân cày đã trở thành ngọn cờ tập hợp toàn dân đấu tranh giành thắng lợi trong sự nghiệp cách mạng dân tộc, dân chủ. Công cuộc đổi mới do Đảng ta khởi xướng và lãnh đạo trong những năm qua cũng lấy nông thôn làm một địa bàn trọng điểm, lấy nông nghiệp làm khâu đột phá. Chỉ thị 100 của Ban Bí thư (Khóa IV) và Nghị quyết 10 của Bộ Chính trị (Khóa VI) là hai mốc lớn, góp phần rất quan trọng tạo ra bước ngoặt trên con đường phát triển của nông nghiệp và nông thôn nước ta.
Thực hiện đường lối đổi mới đó, trong mấy năm qua, nền nông nghiệp nước ta đạt được nhiều tiến bộ với những kết quả đáng phấn khởi, chủ yếu là do sức sản xuất ở nông thôn được giải phóng một bước quan trọng, do tiềm năng to lớn của nông dân được phát huy. Nổi bật là sản lượng lương thực tăng liên tục mấy năm liền, đến năm 1992 đã đạt 24 triệu tấn, tiến gần tới mục tiêu mà Đại hội VII đề ra. Đó là thành tựu quan trọng góp phần ổn định chính trị - xã hội ở nông thôn và trên cả nước, tạo tiền đề tăng tốc độ phát triển kinh tế và đẩy mạnh công nghiệp hóa trong thời gian tới.
Cùng với sự gia tăng về diện tích, năng suất và sản lượng cây lương thực, sản xuất cây công nghiệp ngắn ngày và dài ngày, cây ăn quả, cây đặc sản, chăn nuôi, nghề rừng, nghề cá, nhất là nghề nuôi tôm cá, các loại đặc sản ven biển và nội địa, tiểu, thủ công nghiệp đều có tiến bộ, cả về năng suất, sản lượng, chủng loại và chất lượng; đáp ứng tốt hơn nhu cầu trong nước và tăng nhanh kim ngạch xuất khẩu nông lâm thủy sản, làm cho một số vùng nông thôn nước ta thoát dần khỏi thế độc canh, thuần nông, hướng tới một nền kinh tế hàng hóa với hiệu quả cao hơn.
Kinh tế nhiều thành phần phát triển với những hình thức đa dạng, khơi dậy nhiều nguồn lực, làm cho sản xuất kinh doanh phát triển năng động hơn. Cơ sở vật chất - kỹ thuật trong nông lâm ngư nghiệp và phục vụ nông lâm ngư nghiệp có bước phát triển; tiến bộ khoa học - kỹ thuật được tiếp thu và ứng dụng tốt hơn; công tác khuyến nông bước đầu được coi trọng. Bộ mặt nông thôn và đời sống nông dân có nhiều thay đổi tích cực. Hệ thống chính trị trong nông thôn bước đầu có chuyển biến phù hợp hơn với quá trình đổi mới về kinh tế.
Đạt được những thành tựu đó là nhờ đường lối chủ trương đổi mới của Đảng đã đúc kết được kinh nghiệm sáng tạo của quần chúng, hợp quy luật, hợp lòng dân, sự quản lý, điều hành ngày càng tiến bộ hơn của Nhà nước; nhờ nỗ lực vượt bậc của toàn dân, nhất là của nông dân; nhờ cố gắng đầu tư và sử dụng có hiệu quả hơn cơ sở vật chất kỹ thuật, trong nông nghiệp và phục vụ nông nghiệp, ứng dụng tốt hơn một số tiến bộ khoa học - kỹ thuật, quan tâm hơn đến công tác khuyến nông. Sự giúp đỡ quốc tế cũng góp phần không nhỏ vào thành tựu đã đạt được.
Mặc dầu có nhiều tiến bộ, song về cơ bản, nông nghiệp nước ta vẫn chưa thoát khỏi tình trạng sản xuất nhỏ, tự cung tự cấp, tỷ suất hàng hóa thấp và ít hiệu quả, chủ yếu lấy công làm lãi; kỹ thuật canh tác lạc hậu, năng suất cây trồng, vật nuôi, nhất là năng suất trên một lao động, đều thấp xa so với nhiều nước trong khu vực và trên thế giới. Nhiều tiềm năng của đất nước và của nhân dân chưa được phát huy, thậm chí một số mặt còn bị kìm hãm, có mặt bị hủy hoại nghiêm trọng, gây hậu quả lâu dài.
Chúng ta chưa phát huy được truyền thống cần cù, trí thông minh, kinh nghiệm và năng lực sáng tạo của đội ngũ lao động đông đảo thuộc nhiều lĩnh vực, nhiều thành phần kinh tế; chưa sử dụng có hiệu quả những năng lực sản xuất và cơ sở vật chất hiện có; chưa động viên được cao độ khả năng tiết kiệm để đầu tư phát triển sản xuất kinh doanh nông, lâm, ngư nghiệp, dịch vụ. Một bộ phận không nhỏ lao động nông thôn còn thiếu việc làm; đất canh tác chưa được sử dụng tốt; hàng chục triệu ha đất trống đồi trọc, bãi bồi ven biển còn bị hoang hóa; hàng chục vạn ha mặt nước, nhất là vùng biển khơi chưa được khai thác đáng kể.
Cơ cấu kinh tế nông nghiệp và nông thôn chậm đổi mới. Những ưu thế của nông nghiệp nhiệt đới và á nhiệt đới với hệ số tăng trưởng cao về sinh học chưa được tận dụng để thâm canh tăng vụ, nâng cao năng suất cây trồng, vật nuôi, đa canh hóa và đa ngành hóa nông nghiệp, tạo ra nền sản xuất hàng hóa có hiệu quả cao, đáp ứng nhu cầu trong nước và xuất khẩu. Các ngành nghề tiểu, thủ công nghiệp, công nghiệp, dịch vụ mới chiếm tỷ trọng nhỏ và tăng trưởng chậm, chưa thu hút được bao nhiêu lao động dôi thừa và phân công lại lao động nông nghiệp, nông thôn một cách hợp lý.
Công tác nghiên cứu và ứng dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật, nhất là công nghệ sinh học, chưa được chú trọng đúng mức.
Tài nguyên đất, rừng, khoáng sản bị khai thác bừa bãi, phá hoại cân bằng sinh thái, đe dọa môi trường sống của cả nước.
Đời sống nông dân còn nhiều khó khăn, thiếu thốn. Một bộ phận chưa thoát khỏi tình cảnh đói nghèo. Các vấn đề về văn hóa, xã hội ở nông thôn chưa được chú trọng đúng mức. Trình độ dân trí còn thấp, tỷ lệ người mù chữ còn lớn; sức khỏe nhân dân chưa được chăm sóc tốt; các đối tượng thuộc chính sách xã hội, nhất là các gia đình có công với nước chưa được quan tâm đầy đủ; chưa làm tốt việc giúp đỡ các hộ nghèo về điều kiện và cách thức làm ăn để vươn lên; bản sắc văn hóa dân tộc chưa được chú ý giữ gìn và phát huy; mê tín, dị đoan phát triển, nhiều tiêu cực xã hội nảy sinh ở nông thôn. Chưa tập trung sức giải quyết các khó khăn về kinh tế - xã hội của đồng bào các dân tộc thiểu số ở vùng cao, vùng sâu, vùng căn cứ cách mạng trước đây. Dân chủ và công bằng xã hội trong nông thôn chưa được bảo đảm.
Những khuyết điểm, yếu kém trên đây có phần do những khó khăn khách quan về kinh tế - xã hội của đất nước, hậu quả chiến tranh còn rất nặng nề, tình hình quốc tế diễn biến rất phức tạp. Song chủ yếu là do Cương lĩnh và Chiến lược mà Đại hội VII đã đề ra, chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước chưa được quán triệt sâu sắc trong nhận thức, quan điểm, giải pháp về phát triển kinh tế - xã hội trong nông nghiệp, nông thôn. Một số vấn đề mới nảy sinh chưa được thảo luận kỹ và xử lý kịp thời để thống nhất ý chí và hành động trong toàn Đảng, toàn dân.
Kiến thức, kinh nghiệm và trình độ tổ chức, quản lý, điều hành của Nhà nước chưa theo kịp yêu cầu mới, bệnh quan liêu, xa thực tế, cửa quyền, tham nhũng và những biểu hiện tiêu cực khác trong bộ máy còn khá nặng nề.
Đảng, chính quyền, mặt trận và các đoàn thể nhân dân ở cơ sở còn chậm và lúng túng trong đổi mới tổ chức, nội dung, phương thức hoạt động. Công tác đào tạo, bồi dưỡng, lựa chọn cán bộ không theo kịp sự phát triển của công cuộc đổi mới ở nông thôn.
Thưa các đồng chí,
Đối với mọi quốc gia, nông nghiệp luôn luôn là một trong những lĩnh vực quan trọng nhất. Điều đó lại càng đúng đối với nước ta, khi 80% dân số đang làm ăn sinh sống ở nông thôn. Trong sự nghiệp đấu tranh giành độc lập và bảo vệ Tổ quốc, dưới sự lãnh đạo của Đảng, giai cấp nông dân đã giữ vai trò đội quân chủ lực, góp phần to lớn cùng giai cấp công nhân và toàn dân hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ giải phóng dân tộc. Ngày nay, trong khối đại đoàn kết toàn dân với liên minh công nhân - nông dân - trí thức là nền tảng, giai cấp nông dân tiếp tục đóng vai trò to lớn trong sự nghiệp xây dựng đất nước và bảo vệ Tổ quốc.
Những thành quả trong nông nghiệp cần được tích cực phát huy, những yếu kém phải sớm được khắc phục, những vấn đề mới nảy sinh cần được khẩn trương giải quyết, làm cho nền kinh tế - xã hội nói chung và nông nghiệp, nông thôn nói riêng tiến nhanh hơn và vững chắc hơn. Yêu cầu đó đặt ra cho kỳ họp Trung ương lần này nhiệm vụ rất quan trọng. Đây là lần đầu tiên Ban Chấp hành Trung ương bàn sâu về chính sách đối với nông dân, nông nghiệp, nông thôn nhằm cụ thể hóa và phát triển nội dung Đại hội VII, tiếp tục đổi mới và phát triển mạnh mẽ kinh tế - xã hội nông thôn nước ta. Những quyết định của Trung ương tại kỳ họp này phải hợp quy luật, hợp lòng dân, bắt kịp yêu cầu cuộc sống, mở ra một thời kỳ phát triển mới của nông thôn nước ta.
Mục tiêu đặt ra là tiếp tục giải phóng sức sản xuất, khai thác và huy động cao nhất mọi nguồn lực, mọi tiềm năng để phát triển mạnh nông nghiệp và kinh tế nông thôn, bảo đảm thu hút đại bộ phận lao động dôi thừa thông qua sự phát triển đa dạng của kinh tế nông thôn và công cuộc công nghiệp hóa đất nước; tăng năng suất lao động xã hội, tạo ra khối lượng sản phẩm lớn, chất lượng cao, giá thành hạ, giải quyết vững chắc nhu cầu lương thực và thực phẩm cho nhân dân, đáp ứng yêu cầu nguyên liệu cho công nghiệp, tăng kim ngạch xuất khẩu và tăng tích lũy cho sự nghiệp công nghiệp hóa; giữ gìn và khai thác hợp lý tài nguyên, bảo vệ và cải thiện môi trường sinh thái.
Tăng thu nhập, cải thiện một bước cơ bản đời sống vật chất - văn hóa của nông dân; khắc phục cơ bản nạn suy dinh dưỡng. Tăng thêm diện giàu và đủ ăn, thu hẹp diện nghèo và vùng nghèo.
Xây dựng nông thôn mới. Xây dựng hệ thống chính trị vững mạnh, phát huy dân chủ, bảo đảm công bằng xã hội; tăng cường ổn định chính trị, giữ vững trật tự xã hội, củng cố vững chắc quốc phòng, an ninh.
Để đạt được mục tiêu trên đây, phải gắn phát triển nông nghiệp và kinh tế nông thôn với quá trình công nghiệp hóa và hiện đại hóa đất nước, coi đó là nhiệm vụ có tầm quan trọng hàng đầu và có ý nghĩa chiến lược. Thực hiện nhất quán và lâu dài chính sách kinh tế nhiều thành phần trong nông nghiệp và kinh tế nông thôn; xây dựng, đổi mới quan hệ sản xuất phù hợp với tính chất, trình độ và yêu cầu phát triển không ngừng của lực lượng sản xuất theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Gắn phát triển kinh tế với phát triển văn hóa, xã hội nông thôn, xây dựng nông thôn mới. Đổi mới kinh tế đi đôi với đổi mới hệ thống chính trị ở nông thôn. Đặt sự phát triển nông nghiệp và kinh tế - xã hội nông thôn trong bối cảnh mở cửa và cạnh tranh trong khu vực và trên thế giới; có chiến lược thị trường, chiến lược khoa học và công nghệ, chính sách khuyến khích và bảo vệ sản xuất trong nước đúng đắn, vừa tăng khả năng đáp ứng nhu cầu nội địa, vừa bảo đảm cạnh tranh thắng lợi trên thị trường nước ngoài, đẩy mạnh xuất khẩu đi đôi với thay thế nhập khẩu, không ngừng nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh. Đó là những quan điểm cần nắm vững.
Nhiều chủ trương giải pháp đã được nêu lên trong báo cáo của Bộ Chính trị trình Hội nghị Trung ương, làm cơ sở để Ban Chấp hành Trung ương thảo luận và ra nghị quyết. Tôi thấy cần phân tích rõ và nhấn mạnh thêm một số điểm sau đây.
Trước hết, về vấn đề chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông thôn.
Đến nay, mặc dầu còn nhiều khó khăn, thử thách, song có thể nói đất nước ta đang có nhu cầu cấp bách và đã có một số điều kiện trong nước cũng như quốc tế cần thiết để đẩy mạnh sự nghiệp công nghiệp hóa. Là một bộ phận hữu cơ của toàn bộ nền kinh tế quốc dân, ở nông thôn cũng sẽ diễn ra quá trình hình thành cơ cấu kinh tế mới: nông - công nghiệp và dịch vụ, bao gồm cả nông - lâm - ngư nghiệp, công nghiệp chế biến nói riêng và công nghiệp nông thôn nói chung, thương nghiệp, du lịch và các dịch vụ khác.
Mục tiêu của việc chuyển dịch đó là nhằm khai thác tốt nguồn tài nguyên to lớn về đất đai, rừng, biển, bao gồm vùng đặc quyền kinh tế rộng lớn của nước ta, nguồn lao động dồi dào, ưu thế địa lý và sinh thái, nhằm tăng năng suất cây trồng, vật nuôi, tăng hiệu quả sản xuất, kinh doanh, từng bước đa dạng hóa nông nghiệp và kinh tế nông thôn, cải thiện đời sống nông dân, tăng tổng sản phẩm xã hội và thu nhập quốc dân, tạo nguồn tích lũy và thị trường rộng lớn để đẩy mạnh công nghiệp hóa. Vấn đề phải xác định là bắt đầu từ đâu, nắm những khâu trọng yếu nào và lựa chọn cơ cấu đầu tư, cơ cấu công nghệ, cơ cấu thị trường ra sao để bảo đảm hiệu quả của quá trình chuyển dịch đó.
Cần khẳng định rằng, sản xuất lương thực luôn luôn là một trong những nhiệm vụ chiến lược để ổn định cuộc sống của nhân dân, ổn định xã hội. Trong những năm tới, cần chú trọng các vùng trọng điểm sản xuất lương thực và những tiểu vùng có khả năng làm lương thực; tiếp tục đổi mới chính sách và cơ chế để khuyến khích áp dụng tiến bộ khoa học và công nghệ, trong gieo trồng, chăm sóc, thu hoạch nhằm sản xuất lương thực đáp ứng nhu cầu của cả nước, có dự trữ vững chắc và có khối lượng xuất khẩu với chất lượng và hiệu quả cao.
Đồng thời, để thoát khỏi thế độc canh của nền nông nghiệp truyền thống, từng bước tiến tới một nền nông nghiệp hiện đại, cơ cấu nông nghiệp phải hướng vào tăng nhanh tỷ suất hàng hóa phù hợp với nhu cầu của thị trường, nâng cao năng suất và hiệu quả trên mỗi đơn vị diện tích và mỗi lao động. Theo hướng đó, phải đẩy mạnh thâm canh để tăng năng suất, sản lượng lương thực và dành được diện tích phát triển cây công nghiệp, cây ăn quả có giá trị cao. Đưa chăn nuôi lên thành một ngành chính. Đẩy mạnh phát triển và khai thác có hiệu quả các nguồn lợi rừng và biển. Chú trọng phát triển các vùng có khối lượng nông sản hàng hóa lớn, chuyên canh kết hợp với đa dạng hóa sản phẩm nông nghiệp, đa dạng hóa ngành nghề ở nông thôn, phù hợp với đặc điểm kinh tế - xã hội, hệ sinh thái và lợi thế so sánh của từng vùng, đi đôi với mở rộng giao lưu trong nước và ngoài nước; có chương trình, giải pháp thiết thực để hỗ trợ những vùng nghèo, vùng khó khăn vươn lên nhanh.
Cùng với sự chuyển dịch nội bộ nông nghiệp như trên, phải có chính sách và chương trình, biện pháp xúc tiến quá trình công nghiệp hóa nông thôn, nhằm triệt để giải phóng sức sản xuất, tạo thêm việc làm, thúc đẩy phân công lại lao động, theo hướng ai giỏi việc gì làm việc nấy. Mấy năm qua năng suất cây trồng trên một đơn vị diện tích tăng đáng kể. Song, năng suất trên một lao động nông nghiệp nước ta hiện còn quá thấp. Vì vậy, phải chuyển dịch cơ cấu để chuyển dần lao động trong nông nghiệp sang khu vực công nghiệp và dịch vụ nói chung, trước hết là ngay tại chỗ. Chỉ có như vậy mới có thể vươn tới hiệu quả thực sự của một nền sản xuất hàng hóa trong kinh tế thị trường; thúc đẩy nhu cầu tiếp cận với công nghiệp hiện đại và khoa học, công nghệ tiên tiến, nâng cao dân trí và tăng nhanh đội ngũ trí thức ở nông thôn; cải thiện điều kiện lao động và đời sống của nông dân.
Trước mắt, nếu không sớm phát triển công nghiệp nông thôn, đặc biệt là công nghiệp chế biến nông lâm thủy sản ở cả nông thôn và thành phố, thị xã thì hàng hóa nông sản sẽ bị ứ đọng do dư thừa vào lúc thu hoạch rộ, chất lượng và giá cả bị giảm đi rất nhiều, gây thiệt hại cho nông dân, làm giảm nhiệt tình của họ đối với sản xuất. Vì vậy, phải coi công nghiệp chế biến nông lâm thủy sản là một trọng tâm phát triển công nghiệp tại nông thôn, theo hướng chung là cơ chế tại chỗ và tinh chế tập trung. Mặt khác, cần phát triển công nghiệp nông thôn một cách toàn diện, từ công nghiệp hàng tiêu dùng đến công nghiệp vật liệu xây dựng, công nghiệp cơ khí, chế tạo và sửa chữa… với quy mô nhỏ và vừa là chủ yếu. Lựa chọn các loại hình công nghiệp thích hợp với từng bước phát triển ở từng vùng, vừa tranh thủ công nghệ hiện đại, vừa kết hợp tận dụng công nghệ truyền thống; chú trọng những công nghệ thu hút nhiều lao động, tạo nhiều công ăn việc làm. Công nghiệp và nông nghiệp có mối quan hệ khăng khít, giúp đỡ, thúc đẩy nhau cùng phát triển; trong đó, công nghiệp đóng vai trò chủ đạo, vì chỉ có công nghiệp hóa thì nông nghiệp mới có thể đạt năng suất và hiệu quả cao. Giữa thành phố và nông thôn cũng phải có mối quan hệ hiệp tác, hỗ trợ, bình đẳng, cùng có lợi và cùng phát triển.
Phải có chính sách mở rộng thị trường, khuyến khích khôi phục và phát triển các ngành nghề truyền thống, nâng cao độ tinh xảo, tính dân tộc độc đáo trong các chủng loại mặt hàng. Đồng thời, mở mang nhiều ngành nghề mới ở nông thôn. Khuyến khích các hộ nông dân và các tổ chức hợp tác đầu tư phát triển công nghiệp, đi đôi với khuyến khích các nhà kinh doanh từ thành phố, thị trấn về nông thôn lập nghiệp, góp phần tích cực cùng nông dân phát triển mạnh mẽ công nghiệp nông thôn.
Công nghiệp nông thôn vừa phục vụ nhu cầu tại chỗ, nhu cầu trong nước, vừa tham gia thị trường xuất khẩu. Theo hướng đó, phải phấn đấu đáp ứng nhu cầu ngày càng tăng về sản phẩm tiêu dùng, từ thị trường địa phương vươn ra thị trường cả nước. Đối với xuất khẩu, cần nhanh chóng áp dụng công nghệ chế biến hiện đại, tăng hàm lượng kỹ thuật và giá trị sản phẩm, nâng cao sức cạnh tranh, phấn đấu thâm nhập, từng bước tạo chỗ đứng vững chắc trên thị trường thế giới và khu vực, thu hút nước ngoài đầu tư phát triển công nghiệp và hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn nước ta.
Một nền kinh tế muốn phát triển đòi hỏi phải được cung ứng đủ, kịp thời, với chất lượng tốt các dịch vụ cần thiết. Vì vậy, cùng với và nhằm tạo điều kiện thuận lợi phát triển nông nghiệp và công nghiệp, phải phát triển mạnh dịch vụ nông thôn. Dịch vụ nông thôn nước ta có nhiều dạng, nhiều cấp độ khác nhau và ngày càng phong phú theo đà phát triển của nền kinh tế. Yêu cầu quan trọng và cấp bách đối với các hoạt động dịch vụ ở nông thôn là phải đảm nhiệm vai trò cung ứng các yếu tố của sản xuất và gắn sản xuất với thị trường.
Trước hết, đó là những dịch vụ thuộc kết cấu hạ tầng như thủy lợi, điện, giao thông vận tải, thông tin liên lạc, vừa tạo ra năng lực sản xuất mới, vừa tăng nhanh khả năng tiếp thị. Đây là lĩnh vực Nhà nước phải tập trung đầu tư, kết hợp với huy động sức dân ở những khâu cần thiết và có điều kiện. Các loại dịch vụ khác không kém phần quan trọng là dịch vụ cung ứng vật tư kỹ thuật và công nghệ, từ giống, phân bón, phòng trừ sâu bệnh, đến công nghệ bảo quản sau thu hoạch, hệ thống kho tàng, bốc xếp chuyên chở, bao bì, là những khâu hiện còn rất yếu và chưa được quan tâm thích đáng. Các dịch vụ tiếp thị và tiêu thụ sản phẩm, dịch vụ tài chính, pháp lý cũng ngày càng cần thiết với nông dân.
Nông dân vừa là người cung cấp sản phẩm nông nghiệp cho thị trường trong nước và xuất khẩu, vừa là người tiêu dùng đông đảo, với nhu cầu ngày càng tăng, cả về khối lượng, chủng loại và chất lượng hàng hóa - dịch vụ. Nông thôn cung cấp sản phẩm cho thị trường, đồng thời chính nông thôn là một thị trường rộng lớn mà các ngành sản xuất, dịch vụ phải hướng vào phục vụ, đáp ứng nhu cầu cả về sản xuất lẫn tiêu dùng, cả về vật chất cũng như về văn hóa. Phát triển kinh tế nông thôn sẽ làm tăng sức mua của nông dân, tạo động lực thúc đẩy các ngành công nghiệp và dịch vụ.
Tóm lại, chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông thôn, công nghiệp hóa nông nghiệp và nông thôn là con đường cơ bản để tiến hành phân công lại lao động, xã hội hóa nền sản xuất, phát triển kinh tế hàng hóa, tạo ra nhiều việc làm, sản xuất ra nhiều của cải, nâng cao thu nhập, tăng sức mua, ổn định và cải thiện đời sống của đồng bào, tác động tích cực đến phát triển công nghiệp và dịch vụ của cả nước. Thực hiện "rời ruộng không rời làng", không làm nông nghiệp nhưng vẫn sinh sống ở nông thôn là cách làm đúng đắn, bằng biện pháp kinh tế là chủ yếu để ngăn làn sóng cư dân nông thôn đổ vào thành phố và các trung tâm công nghiệp lớn, gây rất nhiều khó khăn và hậu quả lâu dài về kinh tế - xã hội như nhiều nước đang gặp phải. Đó là bài học kinh nghiệm lớn mà chúng ta cần tránh và hoàn toàn có khả năng làm việc đó.
Hiện nay công nghiệp hóa nông nghiệp đang là nhu cầu cấp bách để nâng cao giá trị hàng hóa nông sản, tăng năng suất lao động, phân công lại lao động xã hội nông thôn nước ta. Chúng ta đang phải xuất khẩu hầu hết nông sản dưới dạng thô, với giá rẻ; lại phải nhập rất nhiều vật tư kỹ thuật, hàng hóa công nghiệp, vừa mất việc làm, giảm thu nhập, chịu thiệt thòi do lệ thuộc vào bên ngoài và do cánh kéo giá cả có lợi cho các nước công nghiệp. Trong khi đó, nhiều năng lực sản xuất, nhiều nguồn lực chưa được huy động để đẩy mạnh quá trình công nghiệp hóa nông nghiệp, nông thôn.
Nhiều cơ sở công nghiệp hiện có, bao gồm công nghiệp chế biến nông sản, công nghiệp hóa chất, phân bón, cơ khí, sản xuất hàng tiêu dùng, v.v. chưa huy động hết công suất sản xuất, chưa định hướng phục vụ nông nghiệp, nông thôn có hiệu quả. Nhiều vùng nông thôn đã có điện, nhưng chủ yếu mới dùng để thắp sáng. Nếu dành một phần vốn của Nhà nước để hỗ trợ đầu tư chiều sâu, đổi mới trang thiết bị, có chính sách khuyến khích phát triển sản xuất kinh doanh tốt hơn, bảo hộ sản xuất trong nước đúng mức hơn thì hoàn toàn có thể tăng năng lực sản xuất công nghiệp phục vụ nông nghiệp một cách đáng kể trong thời gian tương đối ngắn.
Nhiều ngành nghề, làng nghề truyền thống trong nông thôn đang được khôi phục và phát triển ở nhiều nơi trong cả nước, chứng tỏ còn nhiều tiềm năng có thể khai thác tốt hơn để phân công lại lao động, chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông thôn theo hướng tiến bộ. Sắp tới cần điều tra, tổng kết về những điển hình này để nhân rộng ra nhiều nơi khác với sự hướng dẫn, giúp đỡ của Nhà nước.
Đương nhiên, chỉ tận dụng các năng lực sản xuất hiện có, phát triển các ngành nghề tiểu, thủ công nghiệp thì chưa đủ. Sắp tới, chúng ta phải xúc tiến xây dựng mới một số cơ sở công nghiệp thiết yếu, từng bước hiện đại hóa công nghệ - kỹ thuật. Khó khăn chính là vốn. Nhưng một phần không nhỏ nguồn vốn trong dân và nguồn lực của Nhà nước đang bị lãng phí hoặc chưa được huy động. Nếu có chính sách tích lũy, tiêu dùng hợp lý, động viên mọi người tiết kiệm để đầu tư, kết hợp với thu hút vốn bên ngoài dưới nhiều hình thức, thì có thể đẩy mạnh hơn quá trình công nghiệp hóa và hiện đại hóa.
Cùng với việc mở rộng quan hệ đối ngoại, phát triển hợp tác làm ăn với bên ngoài, chúng ta ngày càng có thêm điều kiện tranh thủ nguồn vốn, tiếp thụ tiến bộ kỹ thuật và công nghệ, thúc đẩy cạnh tranh, mở rộng thị trường cho việc phát triển công nghiệp nông thôn và công nghiệp phục vụ nông nghiệp. Cần nhạy bén, chủ động, tranh thủ tận dụng có hiệu quả những khả năng này.
Thưa các đồng chí,
Để phát huy những thành tựu và tiến bộ mấy năm qua, tiếp tục đẩy mạnh sự nghiệp đổi mới trong kinh tế nông thôn và nông nghiệp, Đảng ta khẳng định trước sau như một kiên trì và nhất quán thực hiện chính sách phát triển kinh tế nhiều thành phần vận động theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa, tạo môi trường thuận lợi khuyến khích mọi người dân, mọi thành phần kinh tế phát huy cao độ nguồn lực và tài năng sáng tạo, ra sức phát triển sản xuất, kinh doanh vì lợi ích của mình và của toàn xã hội.
Sự tồn tại các thành phần kinh tế khác nhau là một tất yếu khách quan trên con đường đi lên của đất nước. Tất cả mọi người, mọi doanh nghiệp, mọi thành phần kinh tế không phân biệt quan hệ sở hữu, đều bình đẳng trước pháp luật. Mọi hoạt động sản xuất, kinh doanh cũng như hoạt động xã hội phù hợp với pháp luật đều được hoan nghênh, khuyến khích.
Chúng ta nhất thiết không lặp lại cách làm cũ nhiều năm trước đây: phát triển tràn lan kinh tế quốc doanh, gò ép tập thể hóa, phủ nhận vai trò tự chủ của hộ xã viên, kỳ thị kinh tế tư nhân, cá thể. Song điều đó không có nghĩa là cứ để các thành phần tự nó phát triển mà vẫn có thể đưa nông thôn đi theo con đường xã hội chủ nghĩa. Phải có sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng, sự quản lý, điều hành có hiệu lực của Nhà nước, củng cố và phát huy hơn nữa vai trò chủ đạo của kinh tế quốc doanh trong toàn bộ nền kinh tế; khuyến khích, hỗ trợ và thúc đẩy sự phát triển của các loại hình hợp tác xã; tạo đủ điều kiện nhằm huy động tối đa tiềm năng to lớn của kinh tế hộ gia đình xã viên, hộ nông dân cá thể, hộ tư nhân; mở rộng và tăng cường các quan hệ liên doanh liên kết giữa các thành phần, trong đó quốc doanh và hợp tác xã là nòng cốt, dần dần hình thành "chế độ kinh tế hợp tác" trong nông nghiệp và nông thôn như Lênin từng đề cập.
Công cuộc đổi mới trong những năm tới đây cần quán triệt sâu sắc hơn tư tưởng chỉ đạo đó.
Trong chủ trương đổi mới hợp tác xã nông nghiệp, với việc xác định hộ nông dân xã viên là đơn vị kinh tế tự chủ và với chính sách kinh tế nhiều thành phần, chúng ta đã cụ thể hóa một bước rất quan trọng đường lối chiến lược của Đảng: giải phóng sức sản xuất, khai thác tiềm năng to lớn của nông dân. Hàng triệu hộ nông dân trên cả nước, bao gồm các hộ xã viên hợp tác xã, hộ công nhân viên thuộc các đơn vị quốc doanh nông, lâm, ngư nghiệp và hộ cá thể, tư nhân đã hăng hái hưởng ứng và ra sức thực hiện, đưa đến những thành tựu nổi bật trong nông thôn, nông nghiệp mấy năm qua.
Việc phát huy vai trò đơn vị kinh tế tự chủ của hộ nông dân trong thời gian qua là một nhân tố quyết định sự chuyển biến mạnh mẽ trong nông nghiệp, nông thôn. Bản thân hộ nông dân có vị trí không thay thế được. Song không thể vì thế mà đi đến tuyệt đối hóa kinh tế hộ; có những giới hạn mà riêng từng hộ không thể vượt qua. Phải liên kết, hiệp tác lại, có sự lãnh đạo của Đảng và sự quản lý, hỗ trợ của Nhà nước thì mới tạo ra được sức mạnh, mới làm nên được sự nghiệp chung của cả dân tộc và của mỗi người, mà từng cá nhân, từng hộ riêng rẽ không thể nào làm được. Đương nhiên, chúng ta sẽ không tập hợp lại theo cách nghĩ, cách làm giản đơn trước đây, mà phải có quan điểm mới, phù hợp với điều kiện, hoàn cảnh và yêu cầu trong giai đoạn mới. Đó là sự tập hợp của các hộ nông dân với tư cách là các đơn vị kinh tế tự chủ, tự nguyện liên kết với nhau để cùng hợp sức làm những công việc mà từng hộ một làm không có hiệu quả hoặc không làm được.
Các tổ chức kinh tế hợp tác của hộ nông dân tự chủ có nhiều hình thức, nhiều quy mô, mức độ và trình độ, trên từng lĩnh vực hoặc trên nhiều lĩnh vực, ngành nghề, do nông dân tự nguyện tham gia, phục vụ cho lợi ích của chính họ. Các tổ chức đó phải lấy nội dung kinh tế làm mục tiêu hoạt động, từ đó mà xây dựng vững chắc cơ sở chính trị, xã hội ở nông thôn, thực hiện tốt liên minh kinh tế, chính trị, xã hội giữa nông dân với công nhân và trí thức, giữa nông nghiệp, công nghiệp và dịch vụ, giữa nông thôn và đô thị. Những năm trước đây, trong hoàn cảnh chiến tranh với những yêu cầu đặc biệt, hợp tác xã nông nghiệp đã đóng vai trò to lớn trong sự nghiệp giải phóng dân tộc. Song trong điều kiện và hoàn cảnh mới, chức năng, nhiệm vụ trước đây của hợp tác xã có nhiều điểm không còn phù hợp. Quá trình đổi mới diễn ra trong nông thôn, nông nghiệp mấy năm qua đã và đang đặt ra những đòi hỏi khách quan phải đổi mới một cách căn bản các hợp tác xã cả về tổ chức, phương thức hoạt động, nội dung kinh doanh và cơ chế quản lý. Việc đổi mới đó hoàn toàn không có nghĩa là không cần có hợp tác xã. Ngược lại, khi kinh tế nông nghiệp, nông thôn càng phát triển thì càng có nhu cầu hợp tác rất đa dạng, phong phú, từ thấp đến cao, trên từng lĩnh vực, từng địa bàn cụ thể, hợp tác trong nội bộ nông dân, hợp tác giữa các đơn vị kinh tế, hợp tác trong từng ngành và hợp tác liên ngành nông nghiệp, công nghiệp và dịch vụ, hợp tác giữa các thành phần kinh tế. Đó là quy luật vận động khách quan của quá trình hình thành và phát triển nền sản xuất hàng hóa lớn trong nông thôn, nông nghiệp.
Các hợp tác xã nông nghiệp từ chỗ là người trực tiếp quản lý ruộng đất, chỉ huy sản xuất và phân phối sản phẩm, nay chuyển sang thực hiện chức năng hướng dẫn và làm dịch vụ cho hoạt động sản xuất của các hộ xã viên, chăm lo phát triển ngành nghề tiểu, thủ công nghiệp và công nghiệp nông thôn, làm tốt các khâu dịch vụ: thủy lợi, làm đất, giống, vật tư, bảo vệ thực vật, thú y, ứng dụng công nghệ mới… cũng như dịch vụ chế biến, bảo quản, tiêu thụ sản phẩm của các hộ xã viên và các hộ nông dân khác; bảo vệ quyền lợi hợp pháp của xã viên; đồng thời tham gia cùng chính quyền chăm lo phúc lợi xã hội, kiến thiết nông thôn mới. Quá trình đổi mới hợp tác xã đi liền với việc hoàn thiện quyền tự chủ của các hộ xã viên, giúp đỡ kinh tế hộ nông dân phát triển. Đến nay, một bộ phận hợp tác xã đã chuyển được cả về tổ chức, phương thức và nội dung hoạt động của mình phù hợp với cơ chế mới. Số đông còn lại tuy có cố gắng, song đang gặp nhiều lúng túng trong việc chuyển sang cơ chế mới. Vì vậy, cần sớm tổ chức tổng kết việc này, giúp các hợp tác xã về kinh nghiệm chuyển đổi, để hợp tác xã thật sự trở thành tổ chức tập hợp nông dân, lấy việc hỗ trợ kinh tế hộ xã viên phát triển làm mục tiêu hoạt động chủ yếu. Điều lệ hợp tác xã phải thể hiện nguyên tắc tự nguyện, dân chủ và cùng có lợi, tôn trọng tính sáng tạo, quyền làm chủ của xã viên. Ban quản trị được xã viên trực tiếp bầu ra, chọn trong số người có uy tín và có khả năng nhất để bảo đảm hiệu quả sản xuất, kinh doanh. Bộ máy quản lý phải gọn nhẹ, thu nhập dựa vào hiệu quả kinh doanh của hợp tác xã.
Những hợp tác xã chỉ tồn tại trên hình thức, sau nhiều lần tiến hành đổi mới nhưng vẫn không còn tác dụng và không có khả năng chuyển đổi, nông dân không đồng tình thì cấp ủy đảng, chính quyền ở đó xem xét kỹ, làm rõ nguyên nhân, có giải pháp xử lý để nông dân tổ chức các hình thức hợp tác mới phù hợp với yêu cầu của bà con.
ở một số nơi hợp tác xã và tập đoàn sản xuất tan rã hoặc chỉ còn là hình thức, nông dân đã lập ra nhiều tổ chức hợp tác với mức độ khác nhau, từ vần đổi công, tổ hợp đường nước, làm đất, dịch vụ cho sản xuất, sơ chế và tiêu thụ sản phẩm. Thực tế đó cần được tổng kết và có sự hướng dẫn, giúp đỡ cần thiết để các tổ chức hợp tác này hoạt động có hiệu quả. Do tính đa dạng của sản xuất nông nghiệp, với đặc thù sinh học và do trình độ ở các vùng rất khác nhau, chúng ta phải chấp nhận tính đa dạng trong quá trình tổ chức và hoạt động của các hình thức kinh tế hợp tác, nhất thiết không thể máy móc, áp đặt; đồng thời phải lãnh đạo tốt, bảo đảm các hình thức hợp tác đó phát triển đúng hướng, hoạt động thật sự vì lợi ích của nông dân.
Đổi mới các hợp tác xã hiện có, phát triển rộng rãi các hình thức kinh tế hợp tác mới là một quá trình. Việc thực hiện chủ trương Nhà nước trực tiếp giao ruộng đất cho hộ nông dân lâu dài là một yếu tố quan trọng thúc đẩy quá trình đó. Không phải mọi vấn đề đã được giải quyết xong mà sự vật đang vận động, cuộc sống còn phát triển, thực tiễn sẽ chỉ cho ta những bước đi, cách làm thích hợp. Phải coi trọng tổng kết, phổ biến kinh nghiệm và kiên trì hướng dẫn nông dân những cách làm hay để bà con vận dụng.
Trong cơ cấu các thành phần kinh tế, kinh tế quốc doanh có vai trò quan trọng. Đó là một công cụ của Nhà nước để hỗ trợ nông dân sản xuất, kinh doanh có hiệu quả. Vì vậy, chúng ta khẳng định cần thiết phải có các doanh nghiệp quốc doanh trong nông - lâm - ngư nghiệp, kết hợp với các doanh nghiệp quốc doanh trong công nghiệp, dịch vụ để phục vụ nông dân. Sự có mặt của kinh tế quốc doanh có ý nghĩa to lớn thúc đẩy kinh tế nông nghiệp và nông thôn phát triển, bảo đảm mối quan hệ tốt giữa công nghiệp, dịch vụ với nông nghiệp.
Để vươn lên đóng vai trò trung tâm lôi cuốn, hướng dẫn các thành phần kinh tế khác, các nông, lâm, ngư trường quốc doanh phải tìm tòi và áp dụng các hình thức khoán thích hợp đến công nhân viên chức, gia đình thành viên, và hộ dân cư sở tại, phát huy tốt nhất tiềm năng đơn vị kinh tế tự chủ của hộ. Đồng thời làm tốt quy hoạch, định rõ phương hướng sản xuất, kinh doanh; đưa tiến bộ khoa học và công nghệ vào nông thôn, nông nghiệp; tổ chức chế biến, tiêu thụ sản phẩm; thực hiện tốt vai trò trung tâm công nghiệp dịch vụ, nhất là công nghiệp chế biến; trung tâm khoa học kỹ thuật, trung tâm văn hóa - xã hội đối với các thành phần kinh tế và dân cư trên địa bàn.
Quốc doanh công nghiệp, giao thông vận tải phải thực sự đóng vai trò đòn bẩy trong việc xây dựng kết cấu hạ tầng, thực hiện tốt các quá trình thủy lợi hóa, sinh học hóa, cơ giới hóa, điện khí hóa, hóa học hóa trong nông nghiệp một cách hợp lý, mở mang ngành nghề, phục vụ đắc lực công cuộc công nghiệp hóa nông thôn.
Quốc doanh thương nghiệp, tín dụng phải vươn lên giữ vai trò chủ đạo, để cùng các thành phần kinh tế khác làm tốt việc cung ứng về vốn, vật tư kỹ thuật… và tiêu thụ sản phẩm. Trong quan hệ với nông dân, một mặt phải thực hiện trao đổi ngang giá, nhất thiết không được độc quyền, ép buộc, bắt chẹt nông dân; mặt khác, phải hỗ trợ nông dân trong cuộc đấu tranh chống đầu cơ, trục lợi.
Tiếp tục khuyến khích kinh tế tư nhân, kể cả tư bản tư nhân trong nước và thu hút đầu tư nước ngoài phát triển nông nghiệp, công nghiệp và dịch vụ nông thôn, vận dụng và phát triển tư tưởng của Lênin về chủ nghĩa tư bản nhà nước trong thời đại hiện nay, phù hợp với hoàn cảnh nước ta. Động viên các hộ tư nhân đầu tư phát triển các giống cây, con mới có hiệu quả kinh tế cao; khai thác đất trống, đồi trọc ở các vùng trung du, miền núi, bãi bồi ven biển; nuôi trồng và khai thác thủy sản; ra khơi đánh cá; xây dựng các nông - lâm - ngư trại với quy mô thích hợp; phát triển tiểu, thủ công nghiệp và công nghiệp, dịch vụ nông thôn; tham gia xây dựng kết cấu hạ tầng. Đồng thời, ngăn chặn những biểu hiện tiêu cực, xử lý nghiêm minh những hành vi phạm pháp.
Để bảo đảm cho nền kinh tế - xã hội nói chung và kinh tế - xã hội nông thôn nói riêng phát triển liên tục, duy trì được nhịp độ tăng trưởng cao, đúng hướng và lành mạnh, phải tăng cường hiệu lực quản lý nhà nước. Trên thế giới, không một quốc gia nào, một nền kinh tế nào có thể phát triển nếu không có vai trò thích đáng của nhà nước, đặc biệt là khi chính trị gắn chặt với kinh tế như ngày nay. Nội dung quản lý nhà nước bao gồm các biện pháp đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng kinh tế - xã hội; phát triển một số ngành sản xuất và dịch vụ trọng yếu; tạo môi trường thuận lợi, đặc biệt là môi trường pháp lý nghiêm minh, tài chính, tiền tệ ổn định; ban hành hệ thống chính sách đòn bẩy để định hướng và hỗ trợ các hoạt động kinh tế - xã hội trong nông nghiệp, nông thôn.
Nhà nước dành phần ngân sách thích đáng để xây dựng kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội ở nông thôn. Xác định thứ tự ưu tiên đầu tư theo lĩnh vực và theo địa bàn. Về lĩnh vực, trước hết cho thủy lợi, kế đó đến giao thông, điện, thông tin liên lạc. Chú ý cơ sở hạ tầng xã hội, trước hết là trường học, trạm xá. Về địa bàn, cần đầu tư đẩy nhanh nhịp độ phát triển kinh tế hàng hóa ở một số vùng trọng điểm, làm đầu tầu lôi kéo các vùng khác phát triển theo. Đồng thời, có giải pháp thích đáng giúp các vùng khó khăn vươn lên, đặc biệt quan tâm đến vùng đồng bào các dân tộc thiểu số, vùng cao, vùng sâu, vùng căn cứ cách mạng, làm cho trình độ phát triển của các vùng xích dần lại gần nhau. Có kế hoạch, chương trình, dự án tiến hành trong một số năm để đạt mục tiêu trên, không thể nóng vội, rải số vốn ít ỏi khắp nơi, không ra tấm món nào, hiệu quả rất thấp.
Nhà nước cũng phải đầu tư nguồn lực thích đáng để sản xuất những hàng hóa - dịch vụ có ý nghĩa quyết định đến sự phát triển nông nghiệp và kinh tế - xã hội nông thôn, trong đó có những hàng hóa dịch vụ mà khu vực ngoài quốc doanh không đủ sức làm hoặc không muốn làm cũng như những hàng hóa - dịch vụ phải do quốc doanh trực tiếp làm.
Nhà nước phải quản lý, điều tiết, can thiệp vào thị trường đúng lúc, đúng chỗ khắc phục tình trạng nắm chặt cái cần buông, nhưng lại buông lỏng cái cần nắm. Bỏ mặc thị trường không can thiệp hoặc can thiệp một cách tuỳ tiện, không cần thiết đều làm trở ngại cho sự phát triển.
Cùng với việc giữ nghiêm kỷ cương phép nước, bảo đảm hiệu lực của pháp luật, Nhà nước phải có lực lượng vật tư hàng hóa và tài chính đủ sức can thiệp kịp thời vào thị trường khi cần thiết, giữ cho nền kinh tế hoạt động ổn định, cân đối, lành mạnh; khắc phục những đột biến do nhiều nguyên nhân khác nhau; ngăn chặn tệ đầu cơ, trục lợi.
Mặc dầu còn nhiều khó khăn, chúng ta phải quan tâm đúng mức đến đầu tư cho giáo dục, y tế, văn hóa và xã hội ở nông thôn. Chăm lo đến cuộc sống vật chất và văn hóa, phổ cập các phương tiện truyền thông, nâng cao dân trí và sức khỏe của đồng bào vừa là mục tiêu, vừa tạo ra động lực to lớn phát triển kinh tế - xã hội nông thôn. Bài học kinh nghiệm của một số nước phát triển nhanh là ngay từ lúc bắt tay vào kiến thiết đất nước, cùng với xây dựng kết cấu hạ tầng vật chất, phải chăm lo xây dựng cơ sở hạ tầng xã hội, coi đó là nền móng để phát triển lâu bền.
Cùng với pháp luật, Nhà nước phải ban hành hệ thống chính sách để định hướng và thúc đẩy nền kinh tế phát triển theo những mục tiêu đã đề ra. Đối với nông nghiệp và nông thôn, chính sách ruộng đất là một trong những chính sách quan trọng nhất. Nông dân cả nước đang chăm chú theo dõi và chờ đợi các quyết định của hội nghị Trung ương và kỳ họp Quốc hội sắp tới về vấn đề này. Trên cơ sở xác định đất đai thuộc sở hữu toàn dân, hội nghị Trung ương lần này và kỳ họp Quốc hội sắp tới sẽ bàn và quyết định về những quyền và nghĩa vụ của nông dân về ruộng đất, sao cho trên mỗi mảnh đất, mỗi khoảnh rừng, mặt nước đều có người làm chủ cụ thể, làm cho đất đai, đồng ruộng ngày càng màu mỡ, phì nhiêu, sinh lời ngày càng lớn, hiệu quả khai thác ngày càng cao, gắn với bảo vệ và cải thiện môi trường sinh thái.
Các quyền mà dân được giao, nghĩa vụ mà dân phải thực hiện, thời hạn và mức độ đến đâu là những điều chúng ta cần thảo luận kỹ. Những quyền tự chủ về ruộng đất giao cho nông dân phải đủ rộng rãi để khuyến khích bà con yên tâm đầu tư phát triển lâu dài; song đó không phải là quyền tư hữu, vì Nhà nước nắm quyền định đoạt tối cao. Người được giao quyền mà không làm tròn nghĩa vụ của mình, vi phạm các quy định của pháp luật thì đất đai có thể sẽ bị thu hồi. Quyết định đúng đắn về giao quyền tự chủ ruộng đất cho nông dân sẽ tạo ra động lực phát triển nông nghiệp, nông thôn. Cần tránh khuynh hướng sai lầm muốn tư hữu hóa ruộng đất, trái với Cương lĩnh của Đảng, Hiến pháp của Nhà nước, với đường lối phát triển nông nghiệp, nông thôn theo định hướng xã hội chủ nghĩa, làm thiệt hại đến lợi ích của chính nông dân.
Trước mắt, phải làm sao cho mỗi nông dân có nhu cầu sản xuất nông nghiệp đều có quyền làm chủ một phần ruộng đất, với giới hạn tùy theo đặc điểm của từng vùng. Đó cũng là thực hiện công bằng xã hội trong thời điểm hiện nay. Trong tương lai, trên con đường công nghiệp hóa đất nước, công nghiệp hóa nông nghiệp và nông thôn, sẽ diễn ra phân công lại lao động, đa dạng hóa ngành nghề ngay tại nông thôn, thì tất yếu cũng diễn ra quá trình tích tụ ruộng đất. Phải làm cho quá trình này diễn ra một cách lành mạnh, bảo đảm đoàn kết và ổn định ở nông thôn, thúc đẩy nâng cao năng suất trên mỗi đơn vị diện tích và mỗi lao động, nâng cao hiệu quả kinh tế nông nghiệp, nông thôn. Đồng thời, pháp luật phải nghiêm cấm phát canh thu tô, buôn đi bán lại ruộng đất kiếm lời; ngăn chặn chuyển nhượng ruộng đất để tiêu xài, rượu chè, cờ bạc. Có chính sách điều tiết thích hợp để thực hiện công bằng xã hội.
Ngoài chính sách ruộng đất, cần đổi mới và bổ sung thêm các chính sách về thị trường tiêu thụ nông sản, chính sách thuế, tín dụng, bảo hiểm, khuyến nông, chính sách hỗ trợ đối với sản xuất nông nghiệp và đối với nông dân; chính sách ưu đãi về thuế, vốn, lãi suất đối với vùng miền núi và vùng đồng bào dân tộc còn nhiều khó khăn; đối với việc ra khơi đánh bắt cá, lên trung du miền núi phủ xanh đất trống đồi trọc, mở mang tiểu, thủ công nghiệp và công nghiệp nông thôn, tạo nhiều việc làm cho nông dân, tận dụng lao động nông nhàn, tạo ra giống cây, con mới, ứng dụng công nghệ cao…, phục vụ thiết thực phát triển nông nghiệp, nông thôn, phân công lại lao động, xã hội hóa nền sản xuất.
Có chính sách đầu tư, khuyến khích nghiên cứu và ứng dụng tiến bộ khoa học - kỹ thuật, nhất là công nghệ sinh học, vào phát triển nông nghiệp và kinh tế nông thôn.
Chính sách xã hội có vai trò rất quan trọng, nhất là trong hoàn cảnh nước ta hiện nay, vừa phải khắc phục những hậu quả lâu dài, dai dẳng của mấy thập kỷ chiến đấu, hy sinh giành độc lập, vừa đang chuyển mạnh sang kinh tế thị trường. Những hậu quả cũ chưa khắc phục xong thì những vấn đề mới lại nảy sinh, đòi hỏi phải giải quyết. Tư tưởng chỉ đạo của Đảng ta là: tăng trưởng kinh tế đi đôi với công bằng xã hội, phát triển văn hóa, bảo vệ môi trường. Đương nhiên, Nhà nước phải dành ngân sách để giải quyết vấn đề xã hội, song một nguồn quan trọng nữa là phải động viên toàn xã hội cùng Nhà nước chăm lo. Nhà nước và nhân dân mãi mãi biết ơn những người con đã hy sinh xương máu, cuộc đời cho độc lập, tự do của Tổ quốc. Việc đền ơn đáp nghĩa không chỉ là trách nhiệm, nghĩa vụ của chúng ta, mà còn là tấm lòng, tình cảm sâu đậm thuộc bản chất dân tộc.
Xây dựng nông thôn là sự nghiệp của toàn Đảng, toàn dân, trực tiếp là của nông dân. Vì vậy, phải động viên toàn xã hội cùng nông dân cả nước xây dựng nông thôn mới, thực hiện phương châm Nhà nước và nhân dân cùng làm. Ra sức phát triển sản xuất, thực hành tiết kiệm để tăng đầu tư phát triển bằng nguồn trong nước là chính. Đồng thời tận dụng các nguồn viện trợ, vốn vay xây dựng nông thôn - nông nghiệp đúng mục đích, đúng đối tượng. Có cơ chế và tổ chức để kiểm soát chặt chẽ, bảo đảm mọi nguồn vốn đều đến tận tay người trực tiếp sử dụng, nhất thiết không được "bẻ lái" để làm việc khác; chống mọi biểu hiện tiêu cực, tham nhũng, đục khoét, nghiêm trị những hành vi xâm phạm tài sản và vốn liếng của Nhà nước và của nhân dân.
Nhằm động viên toàn dân phát huy cao độ tiềm năng sáng tạo, tiết kiệm để đầu tư phát triển, chủ trương nhất quán, lâu dài của Đảng ta là khuyến khích mọi người thi đua làm giàu hợp pháp, đi đôi với xóa đói giảm nghèo, phấn đấu để mọi gia đình đều trở nên khá giả, thực hiện lời dạy của Bác Hồ, làm cho "người nghèo thì đủ ăn, người đủ ăn thì khá giàu, người khá giàu thì giàu thêm". Khuyến khích nông dân tham gia các hình thức bảo hiểm sản xuất, bảo hiểm sinh hoạt hoặc bảo trợ tự nguyện do nông dân, các hợp tác xã, các doanh nghiệp nhà nước cùng lập ra để ứng phó với rủi ro, thiên tai, khắc phục các khó khăn bất thường về sản xuất và đời sống.
Khuyến khích mọi người làm việc nghĩa và từ thiện. Song, điều quan trọng hơn nữa là giúp những người nghèo, người có hoàn cảnh khó khăn về điều kiện và kinh nghiệm làm ăn, để tự vươn lên thoát khỏi cảnh nghèo, phấn đấu cùng mọi người làm giàu cho mình và cho đất nước. Đó mới là sự giúp đỡ lâu dài, căn bản.
Để thực hiện được phương hướng, nhiệm vụ như đề án đã nêu, phải đổi mới nội dung và phương thức hoạt động của hệ thống chính trị hiện hành.
Cần tổ chức thực hiện tốt Nghị quyết Trung ương 3 về đổi mới và chỉnh đốn Đảng, tăng cường sự lãnh đạo của tổ chức cơ sở đảng ở nông thôn, bảo đảm cho mỗi tổ chức thực sự đóng vai trò hạt nhân lãnh đạo mọi lĩnh vực đời sống xã hội trên từng địa bàn. Đảng bộ phải lãnh đạo tốt quá trình chuyển đổi hợp tác xã hiện có và hình thành các tổ chức hợp tác mới, tôn trọng nguyên tắc tự nguyện, phát huy quyền làm chủ của xã viên và đồng bào nông thôn, bảo đảm cho kinh tế nông nghiệp, nông thôn phát triển mạnh mẽ, làm cho nông dân và nông thôn ngày càng trở nên giàu có hơn, dân chủ và công bằng hơn, củng cố, tăng cường khối đoàn kết toàn dân ở từng làng, xã. Mỗi tổ chức đảng ở nông thôn cần nhận thức rõ nhiệm vụ hàng đầu của mình là đề ra được định hướng phát triển toàn diện kinh tế - xã hội, phương án bảo đảm an ninh - quốc phòng của địa phương, cơ sở, có chương trình, kế hoạch cụ thể, thiết thực để lãnh đạo và tổ chức nhân dân thực hiện.
Giáo dục cán bộ, đảng viên thấu suốt quan điểm, đường lối đổi mới, thể hiện trong các nghị quyết của Đảng, nhất là nghị quyết Hội nghị Trung ương lần này. Từ đó mà giao nhiệm vụ cho đảng viên gương mẫu đi đầu trong mỗi phong trào; nghiêm chỉnh chấp hành pháp luật, chính sách của Đảng và Nhà nước, làm gương cho mọi người noi theo. Đặc biệt là tập trung xây dựng cơ sở đảng trong sạch, vững mạnh; phát huy đầy đủ dân chủ, trước hết là dân chủ trong kinh tế; chống tham nhũng, đặc quyền, đặc lợi, và mọi biểu hiện hống hách, xâm phạm quyền làm chủ của nhân dân trong sản xuất và trong sinh hoạt mọi mặt của thôn, xã.
Chính quyền cấp xã có vị trí rất quan trọng, vì đây là nơi trực tiếp tổ chức thực hiện mọi đường lối, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước, nơi mọi người trực tiếp bày tỏ nguyện vọng và thực hiện nghĩa vụ, quyền lợi công dân của mình. Trong thời gian tới, chính quyền xã cần tập trung thực hiện chức năng quản lý nhà nước trên mọi lĩnh vực đời sống xã hội ở địa phương, xây dựng và chỉ đạo thực hiện quy hoạch, kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội, bảo đảm quốc phòng, an ninh trên địa bàn; xây dựng cơ sở hạ tầng kinh tế - xã hội ở nông thôn. Trước đây, những công việc này thường do các hợp tác xã nông nghiệp đảm nhiệm. Nay chính quyền xã cùng các hợp tác xã và tổ chức kinh tế hợp tác động viên nhân dân toàn xã tích cực tham gia thực hiện những nhiệm vụ đó, có sự đầu tư, hỗ trợ của nhà nước các cấp.
Xu hướng chung là ở nông thôn sẽ ngày càng xuất hiện nhiều ngành nghề, từ nông nghiệp, tiểu, thủ công nghiệp đến thương nghiệp, dịch vụ, nhiều thành phần và tổ chức kinh tế như doanh nghiệp nhà nước, hợp tác xã, hộ xã viên, hộ cá thể, doanh nghiệp tư nhân, liên kết, liên doanh giữa các thành phần kinh tế, và trong một số trường hợp có cả các cơ sở hợp tác, liên doanh với nước ngoài; sẽ hình thành một số thị trấn, thị tứ ngay tại địa bàn thôn, xã. Vì vậy, chính quyền xã cần nâng cao năng lực để thực hiện việc quản lý nhà nước đối với tất cả các lĩnh vực, các thành phần, các tổ chức kinh tế trên địa bàn trong phạm vi chức năng, nhiệm vụ được giao; trước hết tập trung vào việc quản lý đất đai, thu thuế, điều hòa, phối hợp hoạt động kinh tế của các tổ chức, các thành phần, nắm vững pháp luật và chính sách để giải quyết đúng đắn và kịp thời các vấn đề nảy sinh thuộc thẩm quyền và trách nhiệm của mình. Nhà nước cần sớm nghiên cứu đề ra quy chế thích hợp với chức năng, vai trò của xã, của thôn xóm, làng bản trong tình hình mới. Trong khuôn khổ pháp luật và dựa vào những quy định này, xã có thể xây dựng "hương ước" làm cơ sở để tổ chức, quản lý hoạt động kinh tế, xã hội, an ninh, quốc phòng... trên địa bàn.
Để thích ứng với những biến đổi về cơ cấu kinh tế - xã hội nông thôn, cần đổi mới mạnh mẽ nội dung và phương thức hoạt động của mặt trận và các đoàn thể một cách thiết thực. Hội Nông dân, Hội Liên hiệp Phụ nữ, Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh, Hội Cựu chiến binh và các hội nghề nghiệp cần dựa vào chức năng của tổ chức mình mà vận động, tổ chức hội viên, đoàn viên thi đua sản xuất, tiết kiệm, đền ơn đáp nghĩa những người có công với nước, đẩy mạnh phong trào xóa đói giảm nghèo, xóa nạn mù chữ, giúp đỡ người tàn tật, neo đơn, thực hiện kế hoạch hóa gia đình… tham gia xây dựng và thực hiện các chương trình, dự án phù hợp với điều kiện từng vùng, từng địa phương, cơ sở; góp phần giữ gìn an ninh chính trị, trật tự xã hội, củng cố quốc phòng; tăng cường khối đoàn kết dân tộc ở nông thôn.
Các đoàn thể phải củng cố tổ chức vững mạnh, xây dựng lực lượng nòng cốt, đổi mới hình thức sinh hoạt, bàn và làm những việc thiết thực, đáp ứng lợi ích và nguyện vọng của đoàn viên hội viên.