GS, TS. Nguyễn Trọng Phúc
Trong chuyến đi thǎm nước Pháp nǎm 1946, khi trả lời các nhà báo, Chủ tịch Hồ Chí Minh nêu rõ: "Muốn cho chủ nghĩa cộng sản thực hiện được, cần phải có kỹ nghệ, nông nghiệp và tất cả mọi người đều được phát triển hết khả nǎng của mình"1 . Theo Người, sự phát triển cao của công nghiệp, của khoa học, kỹ thuật, công nghệ, của nông nghiệp cũng như sự phát triển cao của trí tuệ. Khả nǎng lao động, làm việc của mọi người là những điều kiện cần thiết, phải có, phải tạo dựng để thực hiện mục tiêu của chủ nghĩa xã hội. Những điều kiện đó là yêu cầu và cũng là nội dung rất cơ bản mà Đảng ta xác định trong đường lối công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.
Muốn tạo dựng những điều kiện đó phải có sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản và Nhà nước phải có kế hoạch cụ thể, thiết thực, trong quá trình kiến thiết đất nước. Sự lãnh đạo của Đảng và quản lý của Nhà nước, phải thể hiện trước hết ở chiến lược phát triển đất nước, ở kế hoạch cụ thể để từng bước xây dựng phát triển công nghệ, xây dựng một quốc gia công nghiệp. Ngay trong thời kỳ kháng chiến chống thực dân Pháp, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nêu rõ vai trò lãnh đạo thông qua kế hoạch. "Kế hoạch sản xuất không định theo cách quan liêu, mà phải liên hệ chặt chẽ với tình hình kinh tế, với nguồn của cải, với sự tính toán rõ rệt sức hậu bị của ta " - "Kế hoạch không nên sụt lại sau, nhưng cũng không nên chạy quá trước sự phát triển của công nghệ, không nên xa rời nông nghiệp, không nên quên lãng sức tiết kiệm của ta". Người nhấn mạnh: "Nền tảng phát triển công nghệ phải dựa trên sự cần thiết cho thị trường trong nước, trước hết là thị trường nông dân, và dựa trên phạm vi của cải của ta. Đó là nền tảng để liên hệ công nghệ với kinh tế của nông dân"40.
Lãnh đạo và quản lý khi định kế hoạch phát triển công nghệ phải tính toán đến vốn liếng đến thị trường, đến tính hiệu quả thiết thực phục vụ cho sự phát triển nền kinh tế trước hết là kinh tế nông nghiệp. Đó là những lời chỉ dẫn quý báu của Chủ tịch Hồ Chí Minh khi thực hiện sự lãnh đạo phát triển nền công nghệ quốc gia. Hồ Chí Minh lưu ý: "Có người theo ảo tưởng của mình mà định kế hoạch, chứ không nghĩ đến vốn liếng. Họ quên rằng: nếu không có một số vốn tối thiểu, không có một số tiền hậu bị tối thiểu, thì chẳng những không đạt được kế hoạch công nghệ nào, mà cũng không xây dựng được những xí nghiệp "to lớn bao la" 41. Người cho rằng: "Chỉ liên hệ chặt chẽ với nông nghiệp, không xa rời sức tiết kiệm và ǎn khớp với vốn liếng và sức hậu bị của ta - thì công nghệ mới làm tròn nhiệm vụ vẻ vang của nó là lãnh đạo và cải tạo kinh tế quốc dân 42.
Sự phát triển của công nghệ, quá trình công nghiệp hoá gắn liền với sự phát triển của giai cấp công nhân. Hồ Chí Minh đã viết: Mai sau, công nghệ ta ngày càng phát triển thì số lượng công nhân ngày càng tǎng thêm... Cho nên quyền lãnh đạo chỉ đạo do giai cấp công nhân nắm, Đảng của giai cấp công nhân lãnh đạo sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội, công cuộc đổi mới công nghiệp hoá và chính công cuộc biến đổi cách mạng sâu sắc đó lại củng cố sự lãnh đạo của Đảng và giai cấp công nhân; Đặc tính cách mạng của giai cấp công nhân là: kiên quyết, triệt để, tập thể, có tổ chức, có kỷ luật . Lại vì là giai cấp tiên tiến nhất trong sức sản xuất, gánh trách nhiệm đánh đổ chế độ tư bản và đế quốc, để xây dựng một xã hội mới, giai cấp công nhân có thể thấm nhuần một tư tưởng cách mạng nhất, tức là chủ nghĩa Mác - Lênin. Đồng thời, tinh thần đấu tranh của họ ảnh hưởng và giáo dục các tầng lớp khác. Vì vậy, về mặt chính trị, tư tưởng, tổ chức và hành động giai cấp công nhân đều giữ vai trò lãnh đạo... Lãnh đạo được hay không là do đặc tính cách mạng, chứ không phải do số lượng nhiều ít của giai cấp.
Hồ Chí Minh cho rằng, cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa là môt cuộc biến đổi khó khǎn nhất và sâu sắc nhất: Phải "dần dần biến nước ta từ một nước nông nghiệp lạc hậu thành một nước công nghiệp" 43. Người nhán mạnh "trong thời kỳ cách mạng xã hội chủ nghĩa, Đảng cần phải mạnh hơn bao giờ hết. Muốn cải tạo xã hội mà đảng viên không tự cải tạo mình, không nâng cao mình thì không thể được. Cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa đòi hỏi đảng viên và cán bộ phải có lập trường giai cấp vô sản thật vững chắc, giác ngộ về chủ nghĩa xã hội cao... đòi hỏi cán bộ và đảng viên phải khắc phục các bệnh quan liêu và cô độc hẹp hòi để liên hệ chặt chẽ với quần chúng, do đó mà phải phát huy được đầy đủ tính sáng tạo của hàng triệu quần chúng nhân dân xây dựng chủ nghĩa xã hội, vì chủ nghĩa xã hội chỉ có thể xây dựng được với sự giác ngộ đầy đủ và lao động sáng tạo của hàng triệu người. Muốn thế phải nâng cao trình độ lý luận chung của Đảng, phải tổ chức học tập lý luận trong Đảng, trước hết là trong những cán bộ cốt cán của Đảng" 44.
Như vậy, sự nghiệp cách mạng xã hội chủ nghĩa nói chung và công cuộc kiến thiét đất nước theo hướng xây dựng một nước công nghiệp là một quá trình tự giác và sáng tạo của nhân dân dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản, một Đảng có lý luận có tổ chức, có đội ngũ vững mạnh và có khả nǎng tập hợp, lãnh đạo, tổ chức quần chúng nhân dân tiến hành cuộc biến đổi khó khǎn và sâu sắc đó.
Nǎm 1959, Hồ Chí Minh nêu rõ đường lối: "tiến dần từ chế độ dân chủ nhân dân lên chủ nghĩa xã hội bằng cách phát triển và cải tạo nền kinh tế quốc dân theo chủ nghĩa xã hội với công nghiệp và nông nghiệp hiện đại, khoa học và kỹ thuật tiên tiến". Kỷ niệm 30 nǎm ngày thành lập Đảng (1960) Hồ Chí Minh nêu rõ con đường "công nghiệp hoá nước nhà" và Người khẳng định "Đó là con đường phải đi của chúng ta". Với tư cách là đội tiên phong lãnh đạo, Đảng vận dụng lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin vào thực tiễn của đất nước để nhận thức và chỉ ra con đường phải đi đó. Đó chính là Đảng nhận thức và vận dụng đúng đắn quy luật khách quan của quá trình cách mạng xã hội chủ nghĩa ở một nước mà đặc điểm to lớn nhất là "từ một nước nông nghiệp lạc hậu tiến thẳng lên chủ nghĩa xã hội, không kinh qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa". Tiếp đó, Hồ Chí Minh lại lưu ý: "Hiện nay, chúng ta lấy sản xuất nông nghiệp làm chính. Vì muốn mở mang công nghiệp thì phải có đủ lương thực, nguyên liệu. Nhưng công nghiệp hoá xã hội chủ nghĩa vẫn là mục tiêu phấn đấu chung, là con đường no ấm thật sự của nhân dân ta" 45. Hồ Chí Minh luôn luôn nói rõ, mục đích của chủ nghĩa xã hội là không ngừng nâng cao mức sống của nhân dân, muốn bảo đảm đời sống sung sướng phải công nghiệp hoá xã hội chủ nghĩa ở một nước nông nghiệp lạc hậu như nước ta.
Cũng như toàn bộ công cuộc xây dựng và phát triển kinh tế, quá trình công nghiệp hoá đất nước phải được tiến hành có kế hoạch từng bước vững chắc. Hồ Chí Minh nhiều lần nhắc nhở các cấp lãnh đạo khi đề ra kế hoạch một thì biện pháp phải hai, ba quyết tâm phải mười. Muốn tiến nhạnh vững chắc theo Người phải có hai điều kiện "Một là, không ngừng cải tiến công tác; hai là, lúc nào cũng phải làm bước trước chuẩn bị bước sau, làm hôm nay chuẩn bị ngày mai". Công nghiệp hoá đòi hỏi phải có vốn ban đầu và không ngừng tích luỹ vốn. Chủ nghĩa tư bản khi tiến hành công nghiệp hoá đã dựa trên sự bóc lột sức lao động của giai cấp vô sản bần cùng hoá quần chúng lao động ở trong nước và khai thác vơ vét các thuộc địa. Chủ nghĩa xã hội tiến hành công nghiệp hoá phải dựa trên cơ sở phát triển sản xuất khai thác mọi tiềm nǎng của đất nước, vừa phải tích luỹ vốn cho công nghiệp hoá vừa phải cải thiện đời sống nhân dân. Hồ Chí Minh yêu cầu" vừa cải thiện đời sống, vừa tích luỹ. Cải thiện đời sống từng bước theo khả nǎng, đồng thời tích luỹ để kiến thiết" 46.
Hồ Chí Minh cho rằng liên quan trọng bậc nhất trong kế hoạch kinh tế của chúng ta hiện nay là nhằm cải thiện đời sống của nhân dân - Tất cả những việc Đảng và Chính phủ đề ra đều nhằm cải thiện đời sống của nhân dân. Nhưng Đảng, Chính phủ, cán bộ phải lãnh đạo nhân dân, đoàn kết nhân dân, tổ chức nhân dân cải thiện đời sống. Tránh sự trông chờ, ỷ lại. Người nhấn mạnh "Việc cải thiện đời sống cho nhân dân cũng phải do nhân dân tự giúp lấy mình là chính" 47. Theo quan điểm của Hồ Chí Minh "Đảng cần có kế hoạch thật tốt để phát triển kinh tế và vǎn hoá nhằm không ngừng cải thiện đời sống của nhân dân".
Công nghiệp hoá là con đường tất yếu để phát triển nhanh nền kinh tế, cải thiện đời sống của nhân dân, thực hiện những mục tiệu của chủ nghĩa xã hội. Công nghiệp hoá phải có kế hoach, phải có giải pháp cụ thể và phải giải quyết những mối quan hệ trong đó có mối quan hệ cơ bản là giữa tích luỹ cho công nghiệp hoá và cải thiện đời sống. Chú trọng mối quan hệ giữa công nghiệp và nông nghiệp, nông nghiệp là cơ sở để phát triển công nghiệp, công nghiệp phát triển lại thúc đẩy nông nghiệp, phải coi công nghiệp và nông nghiệp như hai chân của nền kinh tế "Nền kinh tế xã hội chủ nghĩa có hai chân là công nghiệp và nông nghiệp". Phát triển kinh tế "gắn liền với phát triển khoa học và kỹ thuật, với sự phát triển vǎn hoá của nhân dân".
Nửa đầu thập niên sáu mưới công nghiệp hoá được đẩy mạnh trên miền Bắc theo đường lối Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ III của Đảng. Do hoàn cảnh chiến tranh nên từ 1965 phải chuyển hướng kinh tế. Tuy vậy, Đảng ta vẫn chủ trương tiếp tục xây dựng chủ nghĩa xã hội trong điều kiện có chiến tranh, đương nhiên quy mô tốc công nghiệp hoá có sự điều chỉnh. Với đường lối công nghiệp hoá xã hội chủ nghĩa, miền Bắc đã đầu tư xây dựng những khu trung tâm công nghiệp lớn và cũng hình thành phát triển những ngành công nghiệp mũi nhọn của nền kinh tế như điện, than, cơ khí luyện kim, hoá chất, v.v.. Đẩy mạnh cuộc cách mạng khoa học, kỹ thuật, coi trọng đưa tiến bộ khoa học kỹ thuật vào các ngành kinh tế, nhất là nông nghiệp (cơ giới hoá, thuỷ lợi hoá, cách mạng về giống cây trồng và con vật nuôi). Phát triển giáo dục, cả giáo dục phổ thông, đại học, trung học chuyên nghiêp và dạy nghề đào tạo đội ngũ trí thức xã hội chủ nghĩa, lớp người lao động mới có giác ngộ xã hội chủ nghĩa, tinh thần yêu nước và tác phong công nghiệp. Đó là một trong những thành quả cần ghi nhận của cách mạng xã hội chủ nghĩa và quá trình công nghiệp hoá ở miền Bắc.
Nǎm 1970 Đảng ta xác định miền Bắc đang ở bước đi ban đầu của thời kỳ quá độ với hai nhiệm vụ kinh tế cơ bản là "tích luỹ vốn cho công nghiệp hoá và bảo đảm nhu cầu của đời sống nhân dân". Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IV của Đảng (12-1976) đề ra đường lối chung của cách mạng xã hội chủ nghĩa trên cả nước, trong đó khẳng định "đẩy mạnh công nghiệp hoá xã hội chủ nghĩa là nhiệm vụ trung tâm của cả thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội 48. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ V của Đảng (3-1982) nêu rõ mấy vấn đề cần đặc biệt chú ý trong đó có vấn đề tiến hành công nghiệp hoá xã hội chủ nghĩa. Đại hội đề cập sự cần thiết phải đề ra "Chiến lược kinh tế - xã hội cho chặng đường đầu tiên của quá trình công nghiệp hoá xã hội chủ nghĩa". Đại hộii V đã điều chỉnh một bước nhận thức về công nghiệp hoá khi khẳng định "cần tập trung sức phát triển mạnh nông nghiệp, coi nông nghiệp là mặt trận hàng đầu đưa nông nghiệp một bước lên sản xuất lớn xã hội chủ nghĩa, ra sức đẩy mạnh sản xuất hàng tiêu dùng và tiếp túc xây dựng một số ngành công nghiệp nặng quan trọng; kết hợp nông nghiệp, công nghiệp hàng tiêu dùng và công nghiệp nặng trong một cơ cấu công - nông nghiệp hợp lý. Đó là những nội dung chính của công nghiệp hoá xã hội chủ nghĩa trong chặng đường trước mắt" 49.
Đường lối đổi mới do Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng (12-1986) hoạch định đã mở ra thời kỳ mới của công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Đại hội đề ra ba chương trình mục tiêu về lương thực - thực phẩm, hàng tiêu dùng và hàng xuất khẩu và coi đó là sự "cụ thể hoá nội dung chính của công nghiệp hoá xã hội chủ nghĩa trong chặng đường đầu tiên" 50 . Tiếp đến Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII của Đảng (6-1991) thông qua Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội và chiến lược phát triển kinh tế xã hội đến nǎm 2000; khẳng định tư tưởng Hồ Chí Minh cùng với chủ nghĩa Mác - Lênin là nền tảng tư tưởng và kim chỉ nam cho hoạt động của Đảng; nêu ra mô hình chế độ xã hội chủ nghĩa mà Đảng và nhân dân ta phấn đấu xây dựng. Trong khi đổi mới cơ cấu kinh tế thực hiện chính sách kinh tế nhiều thành phần, đổi mới cơ chế quản lý thực hiện nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa, Đại hội VII càng coi trọng quá trình công nghiệp hoá và hiện đại hoá đất nước. Công nghiệp hoá gắn liền với hiện đại hoá đất nước.
Ngày 30-7-1994 Hội nghị lần thứ bảy Ban Chấp hành Trung ương Đảng Khoá VII đã ra Nghị quyết về phát triển công nghiệp, công nghệ đến nǎm 2000 theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước và xây dựng giai cấp công nhân trong giai đoạn mới. Nghị quyết đã làm rõ khái niệm công nghiệp hoá, hiện đại hoá. "công nghiệp hoá, hiện đại hoá là quá trình chuyển đổi cǎn bản toàn diện các hoạt động sản xuất, kinh doanh, dịch vụ và quản lý kinh tế, xã hội từ sử dụng lao động thủ công là chính sang sử dụng một cách phổ biến sức lao động cùng với công nghiệp, phương tiện và phương pháp tiên tiến, hiện đại, dựa trên sự phát triển của công nghiệp và tiến bộ khoa học - công nghệ tạo ra nǎng suất lao động xã hội chủ nghĩa cao" 51. Mục tiêu lâu dài của công nghiệp hoá, hiện đại hoá là cải biến nước ta thành một nước công nghiệp có cơ sở vật chất - kỹ thuật hiện đại, có cơ cấu kinh tế hợp lý, quan hệ sản xuất tiến bộ, phù hợp với trình độ phát triển của sức sản xuất, mức sống vật chất và tinh thần cao, quốc phòng - an ninh vững chắc, dân giàu nước mạnh, xã hội công bằng vǎn minh".
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII của Đảng (6-1996) nêu rõ những quan điểm về công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Giữ vững độc lập tự chủ đi đôi với mở rộng hợp tác quốc tế, đa phương hoá, đa dạng hoá quan hệ đối ngoại. Dựa vào nguồn lực trong nước là chính đi đôi với tranh thủ tối đa nguồn lực bên ngoài. Xây dựng nền kinh tế mở, hội nhập với khu vực và thế giới, hướng mạnh về xuất khẩu, đồng thời thay thế nhập khẩu bằng những sản phẩm trong nước sản xuất có hiệu quả. Công nghiệp hoá, hiện đại hoá là sự nghiệp của toàn dân, của mọi thành phần kinh tế, trong đó kinh tế Nhà nước là chủ đạo. Lấy việc phát huy nguồn lực con người làm yếu tố cơ bản cho sự phát triển nhanh và bền vững. Động viên toàn dân cần kiệm xây dựng đất nước, không ngừng tǎng tích luỹ cho đầu tư phát triển. Tǎng trưởng kinh tế gắn liền với cải thiện đời sống nhân dân, phát triển vǎn hoá, giáo dục, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội chủ nghĩa, bảo vệ môi trường, khoa học và công nghệ là động lực của công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Kết hợp công nghệ truyền thống với công nghệ hiện đại; tranh thủ đi nhanh vào hiện đại ở những khâu quyết định. Lấy hiệu quả kinh tế - xã hội làm tiêu chuẩn cơ bản để xác định phương án phát triển, lựa chọn dự án đầu tư và công nghệ. Đầu tư chiều sâu để khai thác tối đa nǎng lực sản xuất hiện có. Trong phát triển mới, ưu tiên quy mô vừa và nhỏ, công nghệ tiên tiến, tạo nhiều việc làm, thu hồi vốn nhanh; đồng thời xây dựng một số công trình quy mô lớn thật cần thiết và có hiệu quả. Tạo ra những mũi nhọn trong từng bước phát triển. Tập trung thích đáng nguồn lực cho các lĩnh vực, các địa bàn trọng điểm; đồng thời quan tâm đáp ứng nhu cầu thiết yếu của mọi vùng trong nước; có chính sách hỗ trợ những vùng khó khǎn, tạo điều kiện cho các vùng đều phát triển. Kết hợp kinh tế với quốc phòng - an ninh.
Nội dung cơ bản của công nghiệp hoá, hiện đại hoá cũng được Đại hội VIII của Đảng xác định rõ. Trước hết là công nghiệp hóa, hiện đại hoá nông nghiệp và nông thôn với những định hướng và nhiệm vụ rõ ràng. Phát triển các ngành công nghiệp trong đó ưu tiên các ngành chế biến lương thực - thực phẩm, phát triển chọn lọc một số cơ sở công nghiệp nặng, kết hợp kinh tế với quốc phòng. Xây dựng kết cấu hạ tầng. Phát triển nhanh du lịch dịch vụ. Phát triển hợp lý các vùng lãnh thổ. Mở rộng và nâng cao hiệu quả kinh tế đối ngoại.
Sự lãnh đạo của Đảng đối với công cuộc công nghiệp hoá là cả một quá trình phát triển nhận thức dựa trên cơ sở lý luận về thời kỳ quá độ, đặc điểm của đất nước và tổng kết thực tiễn. Từ đó làm rõ đường lối và giải pháp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất bước với một hệ thống các quan điểm chỉ đạo, nội dung cơ bản, đồng thời làm rõ khái niệm, mục tiêu của công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Với tư cách Đảng cầm quyền, Đảng lãnh đạo thông qua Nhà nước và động viên toàn dân tham gia vào sự nghiệp công nghiệp hoá, kiến thiết nước nhà theo con đường của chủ nghĩa xã hội.
Hồ Chí Minh quan niệm công cuộc kiến thiết đất nước trong đó có công nghiệp hoá là sự nghiệp của toàn dân và cũng vì cuộc sống ấm no, hạnh phúc của nhân dân. sự nghiệp đó phải có sự lãnh đạo và tổ chức của Đảng và Nhà nước mới thành công. Sự lãnh đạo đó trước hết ở việc nhận rõ công nghiệp hoá như một quy luật khách quan của quá trình cách mạng xã hội chủ nghĩa ở nước ta; xác định đường lối, mục tiêu, quan điểm, nội dung, tốc độ, bước đi, những giải pháp cụ thể ở từng chặng đường cụ thể của quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Sự lãnh đạo còn thể hiện ở khả nǎng tổ chức toàn dân, động viên toàn dân đóng góp công sức, tiền của cho công nghiệp hoá, phát huy độc lập tự chủ và tiềm nǎng của đất nước kết hợp với tranh thủ sự giúp đỡ và hợp tác với bên ngoài. Hồ Chí Minh đã nhận thức rất rõ vai trò, nội dung của công nghiệp hoá, đặt nền tảng tư tưởng cho đường lối công nghiệp hoá của Đảng. Quan điểm Hồ Chí Minh về vai trò lãnh đạo của Đảng đối với công nghiệp hoá, và sự lãnh đạo, chỉ đạo trực tiếp của Người trong quá trình đó vẫn có ý nghĩa thời sự khi đất nước bước vào thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá.
NXB. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2000
39. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, t. 4, tr. 272.
40. Hồ Chí Minh: Toàn tập,, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, t. 6, tr. 498, 499
41. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, t. 6, tr. 489, 499.
42. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, t. 6, tr. 489, 499.
43. Sđd, t.8, tr. 493 - 495.
44. Sđd, t. 8, tr. 493 - 495.
45. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1996, t. 10, tr. 41.
46. Sđd, t. 10, tr. 159.
47. Sđd, t.8, tr. 150
48. Đảng Cộng sản Việt Nam: Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IV, Nxb Sự thật, Hà Nội, 1977.
49. Đảng Cộng sản Việt Nam: Vǎn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ V, NXB Sự thật, Hà Nội, 1982, tr.62.
50. Đảng Cộng sản Việt Nam: Vǎn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI, NXB Sự thật, Hà Nội, 1987, tr.48.
51. Đảng Cộng sản Việt Nam: Vǎn kiện Hội nghị lần thứ bảy Ban Chấp hành Trung ương khoá VII, tr.65.