Nhận thức của Hồ Chí Minh về vai trò của công nghiệp hoá, của khoa học công nghệ trong tiến trình lịch sử

TS. Nguyễn Huy Oánh

Một trong những di sản lý luận mà Hồ Chí Minh để lại cho chúng ta là những nhận thức của Người về vai trò của công nghiệp, của khoa học công nghệ đối với sự phát triển kinh tế xã hội ở nước ta. Những nhận thức của Người về vai trò của công nghiệp, của khoa học công nghệ gắn liền với nhiệm vụ cách mạng mà Hồ Chí Minh đảm trách trong từng giai đoạn của lịch sử. Chúng ta biết rằng Hồ Chí Minh không phải là người viết dài dòng và nói mà không làm. Người chỉ viết và nói những gì cần thiết nhất, cô đọng nhất. Đất nước cần gì, cách mạng cần gì, nhân dân cần gì thì Người viết và nói về cái đó. Bởi vậy mỗi vấn đề Người viết và nói đều gắn liền với yêu cầu của lịch sử, của cách mạng. Nhận thức của Người về công nghiệp, về khoa học công nghệ cũng không ngoài thông lệ này. 

I- Nhận thức của Hồ Chí Minh về công nghiệp, khoa học công nghệ thời kỳ trước cách mạng 

Đây là thời kỳ Hồ Chí Minh tìm đường cứu nước giải phóng dân tộc. Lúc này nhiệm vụ trọng tâm của Người là tố cáo tội ác của chủ nghĩa tư bản, chủ nghĩa đế quốc dưới bộ mặt chủ nghĩa thực dân đối với nhân dân các nước thuộc địa ở châu á, châu Phí, trước hết là tội ác của thực dân Pháp đối với nhân dân Việt Nam, khơi dậy lòng cǎm thù trong quần chúng, tuyên truyền chủ nghĩa Mác - Lênin trong nhân dân, chuẩn bị điều kiện cho cách mạng giành chính quyền. 

Trong những bài viết của Người thời kỳ này nói nhiều đến tội ác của chủ nghĩa tư bản, chủ nghĩa thực dân, đến nỗi khổ của quần chúng lao động Việt Nam.qua những bài viết ấy. Người cũng đề cập đến vai trò của công nghiệp, công nghiệp hoá, trên các mặt sau đây: 

Thứ nhất, công nghiệp hoá tư bản chủ nghĩa đã nâng cao trình độ bóc lột của chủ nghĩa tư bản ở các nước thuộc địa. 

Tác phẩm Chủ nghĩa tư bản đế quốc Pháp ở Đông Dương được Người viết vào nǎm 1928 là tác phẩm đề cập nhiều đến công nghiệp thuộc địa, đến lợi nhuận mà bọn tư bản thu được qua các công ty công nghiệp tư bản chủ nghĩa bóc lột người bản xứ. Trong tác phẩm này Người đã nêu lên những con số về tích luỹ tư bản, về lợi nhuận và về công nghiệp hoá thuộc địa. Người nêu rõ quá trình công nghiệp hoá thuộc địa nhanh chóng của chủ nghĩa tư bản Pháp ở Đông Dương là nhằm tạo ra những điều kiện cho chủ nghĩa tư bản Pháp bóc lột Đông Dương nhiều hơn. Người đã nêu ra chỉ trong thời gian ngắn sau Chiến tranh thế giới thứ nhất, 29 công ty công nghiệp với số vốn từ 1 triệu phrǎng trở lên đã mọc ra ở Việt Nam. Đó là các công ty khai thác mỏ (Than,Vàng, Antraxit...), các công ty công nghiệp nhẹ khai thác nguyên liệu nông sản (Côn gty Sơn, Tơ lụa, Xay xát, Nhựa cây và Sơn, Đồ thuỷ tinh...) và một số công ty đóng tàu, xây dựng kết cấu hạ tầng, xuất nhập khẩu khoáng sản. Những công ty này hàng nǎm thu những khoản lợi nhuận khổng lồ mà theo Người "đôi khi vượt cả những tư bản ứng trước" 13. 

Hồ Chí Minh chỉ rõ sở dĩ lợi nhuận bọn tư bản tǎng nhanh là do chúng khai thác tài nguyên tại chỗ, và bóc lột công nhân bản xứ. Người viết "Từ nǎm 1914 đến 1924, gia sinh hoạt tǎng thêm 47%, nhưng tiền lương của công nhân hầu như vẫn đứng nguyên tại chỗ". 

Người nêu cụ thể Công ty Than Bắc kỳ chiếm 21.000 ha đất mỏ và sử dụng 16.500 công nhân bản xứ. Với vốn tư bản 16 triệu phrǎng, nǎm 1925 công ty đó đã kiếm được 35 triệu phrǎng tiền lời, trong khi đó người thợ mỏ mỗi ngày chỉ được lĩnh 25 xu2 , 14 . Ngoài ra, Hồ Chí Minh còn nêu tên một loạt cong ty nhờ bóc lột thuộc địa mà lợi nhuận tǎng lên nhanh chóng. 

Thứ hai, công nghiệp hoá tư bản chủ nghĩa tạo phương tiện để bọn tư bản có khả nǎng cạnh tranh kinh tế. 

Ngay sau khi Chiến tranh thế giới kết thúc, Hồ Chí Minh viết một bài đǎng trên báo L'Humqnité, nhân tố cáo Pháp bóc lột, kìm hãm nền kinh tế Việt Nam, Người đã đề cập đến khả nǎng cạnh tranh kinh tế mạnh mẽ của Nhật Bản khi vào Đông Dương do nước Nhật đã có nền công nghiệp mạnh. Hồ Chí Minh viết: "Người Nhật, nhờ ở chính phủ khôn khéo của họ, có các phương tiện rất đầy đủ, được trang bị tốt để tiến hành đấu tranh kinh tế; trong khi đó thì người An Nam - chúng tôi đã nói vì sao - lại hoàn toàn là con số không 15. Phương tiện đầy đủ, được trang bị tốt mà Người nêu ra ở đây chỉ là việc nước Nhật đã thực hiện công nghiệp hoá tư bản chủ nghĩa nền kinh tế của mình. 

Điều có ý nghĩa là ngay từ những nǎm 20, Hồ Chí Minh đã đề cập đến sự tất yếu phải giao lưu kinh tế và Người nhấn mạnh: "Xét về nguyên tắc, tiến bộ chung phụ thuộc vào việc phát triển chủ nghĩa quốc tế; và vǎn minh chỉ có lợi khi các quan hệ quốc tế được mở rộng và tǎng cường 16. Để mở rộng quốc tế đòi hỏi mỗi nước phải có nội lực mạnh, mà yếu tố quan trọng quyết định nội lực là công nghiệp để đứng vững phát triển trong cạnh tranh quốc tế. 

Thứ ba, công nghiệp hoá tư bản chủ nghĩa phát triển sẽ tǎng cường số lượng và chất lượng giai cấp công nhân, làm sâu sắc mâu thuẫn giai cấp, tất yếu đưa đến phong trào Cách mạng ở các nước thuộc địa. Hồ Chí Minh viết: "Sự phát triển của chủ nghĩa tư bản thực dân ở Đông Dương đã tạo ra ở xứ đó hai giai cấp vô sản, giai cấp vô sản công nghiệp và giai cấp vô sản nông nghiệp" 17. Và Người đã nêu ra số công nhân ở Việt Nam vào nǎm đó (1928) là 30.000 thợ mỏ, 11.500 công nhân đường sắt, 7.000 công nhân xay xát gạo, 2.000 công nhân dệt, gần 50 công nhân sửa chữa tàu thuỷ, nấu rượu, in, làm gạch, ngói... Số công nhân này bị bóc lột nặng nề, bị lao động khổ sai sẽ là miếng đất tốt cho sự ra đời tổ chức cách mạng cộng sản, Hồ Chí Minh viết: "Việc đã tạo ra một giai cấp vô sản và dạy cho người An Nam biết sử dụng súng ống là một bằng cớ chứng tỏ chủ nghĩa đế quốc tự mình đào hố để chôn mình" 18. Người cũng chứng mình điều này qua số lượng công nhân và phong trào đấu tranh của công nhân ấn Độ, Trung Quốc. Từ những tư liệu này, Người đã rút ra kết luận quan trọng cho cách mạng: "Sự tàn bạo của chủ nghĩa tư bản đã chuẩn bị đất rồi; chủ nghĩa xã hội chỉ còn phải làm cái việc là gieo hạt giống của công cuộc giải phóng nữa thôi" 19. 

II- Nhận thức của Hồ Chí Minh về vai trò của công nghiệp, khoa học - kỹ thuật trong thời kỳ giành được chính quyền và tiến hành cuộc kháng chiến chống thực dân pháp 

Sau khi giành được chính quyền, bên cạnh việc củng cố, xâydựng chính quyền non trẻ của Nhà nước cộng hoà, Hồ Chí Minh đã nghĩ đến việc mở rộng quan hệ quốc tế, xây dựng đất nước ngày càng vững mạnh. Để đưa đất nước Việt Nam còn rất nghèo nàn lên con đường phát triển, sánh vai cùng với các cường quốc nǎm châu, Hồ Chí Minh rất coi trọng việc học tập khoa học - kỹ thuật của các nước phát triển mà nước đầu tiên người nghĩ đến là nước Mỹ. Trong bức thư gửi Bộ trưởng Ngoại giao Hoa Kỳ ngày 1-11-1945 (2 tháng sau khi đọc Tuyên ngôn độc lập) Hồ Chí Minh đã nêu nguyện vọng muốn gửi 50 thanh niên Việt Nam sang Hoa Kỳ để mở rộng quan hệ hữu nghị, nhưng chủ yếu là để "xúc tiến việc tiếp tục nghiên cứu về kỹ thuật, nông nghiệp cũngnhư các lĩnh vực chuyên môn khác". Vì theo Người những thành tựu kỹ thuật hiện đại của Mỹ" đã có sức hấp dẫn mạnh mẽ đối với giới trí thức Việt Nam" 20. Trong bối cảnh chiến tranh thế giới thứ hai và trong điều kiện bộn bề công việc củamột đất nước mới giành độc lập, ý tưởng của Người thể hiện tư duy của một lãnh tụ thiên tài có tầm nhìn xa thấy rộng. 

Tuy nhiên, với dã tâm xâm lược nước ta một lần nữa, thực dân Pháp đã tiến hành cuộc chiến tranh hòng lật đổ chính quyền còn trứng nước của ta. Nhiệm vụ trọng tâm lúc này là huy động mọi nguồn nhân lực, vật lực, tài lực để chống ngoại xâm, giữ vững nền độc lập. Để có tài lực, vật lực phải đẩy mạnh sản xuất ở hậu phương mà việc đầu tiên là đẩy mạnh sản xuất công nghiệp. Trong bài Động viên kinh tế (12-1946), Người đã nêu: "Mở nhiều những công nghệ sản xuất những nhu cầu cho cuộc kháng chiến... Thiên di những xưởng công nghệ cần thiết về các vùng hẻo lánh. Chú ý nhất về việc cung cấp nguyên liệu" 21. 

Khi cuộc kháng chiến chống Pháp đã giành những thắng lợi lớn, hậu phương mở rộng, nhiệm vụ hàng đầu là chúng ta phải sản xuất ra nhiều của cải và hàng tiêu dùng thiết yếu bảo đảm cho quân đội đánh thắng kẻ thù, cho việc nâng cao đời sống nhân dân. Để phát triển sản xuất, có nhiều của cải thì vai trò của công nghệ rất to lớn. Trong bài Thực hành tiết kiệm, chống tham ô, lãng phí, chống bệnh quan liêu Hồ Chí Minh đã dẫn một số ý kiến của Lênin và Xtalin, trong đó nhấn mạnh rất nhiều đến vai trò của công nghệ đối với sự phát triển nền kinh tế để nhắc nhở các ngành, các cấp thực hiện. Chúng ta có thể nêu ra các ý kiến đó: "Chỉ có liên hệ chặt chẽ với nông nghiệp, không rời xa sức tiết kiệm và ǎn khớp với vốn liếng và sức hậu bị của ta - thì công nghệ mới làm tròn nhiệm vụ vẻ vang của nó, là lãnh đạo và cải tạo kinh tế của quốc dân, mất liên hệ với nó, thì công nghệ không lãnh đạo được kinh tế của quốc dân" 22. Rõ ràng ở đây Hồ Chí Minh đã rất coi trọng vai trò của công nghiệp, Người đồng tình với Xtalin là công nghệ có vai trò lãnh đạp và cải tạo nền kinh tế khi trích dẫn những tư tưởng này trong một tác phẩm quan trọng giáo dục cán bộ đảng viên chúng ta. 

Cũng trong tác phẩm này Người còn dẫn lời của Lênin khi nói về vai trò của công nghiệp nặng và công nghiệp ở nước Nga sau cách mạng tháng Mười: "Nếu không cứu vãn công nghệ nặng, không khôi phục công nghệ, thì không xây dựng được công nghệ nào hết. Mà không xây dựng công nghệ, thì không giữ được địa vị độc lập của nước mình" 23. Như vậy ở đây Hồ Chí Minh còn thấy công nghiệp có vai trò đặc biệt quan trọng là giữ gìn nền độc lập của một đất nước. 

Từ nhận thức vai trò của công nghệ như vậy nên trong tư tưởng chỉ đạo kinh tế Người rất coi trọng xây dựng kế hoạch công nghệ, coi kế hoạch côngnghệ đúng đắn và hợp lý là điều kiện chủ chốt của chiến lược đầu tư. Người viết: "Đặt kế hoạch công nghệ cho đúng đắn và hợp lý - là một điều kiện chủ chốt trong việc tiêu dùng tiền của" 24. 

Những nhận thức của Hồ Chí Minh về vai trò của công nghiệp, của khoa học công nghệ nêu ra trên đây được Người viết từ trong thời kỳ kháng chiến chống Pháp, xuất phát từ yêu cầu giáo dục nâng cao nhận thức cán bộ đảng viên khi xâydựng kinh tế hậu phương, phục vụ sự nghiệp kháng chiến. Những tư tưởng trên của Người vẫn giữ nguyên giá trị cho đến ngày nay. 

III- Nhận thức của Hồ Chí Minh về vai trò của công nghiệp và khoa học công nghệ trong thời kỳ xây dựng chủ nghĩa xã hội 

Sau khi miền Bắc được giải phóng, nhiệm vụ của cách mạng Việt Nam lúc này là xâydựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc và đấu tranh thực hiện thống nhất nước nhà. Trong việc vạch đường lối và chỉ đạo thực hiện đường lối xây dựng chủ nghĩa xã hội, nhận thức về vai trò của công nghiệp và khoa học công nghệ của Hồ Chí Minh có những điều đáng chú ý sau đây: 

1. Về sự nghiệp công nghiệp hoá xã hội chủ nghĩa. Theo Người, muốn xây dựng đuợc chủ nghĩa xã hội chúng ta phải trải qua một thời kỳ quá độ lâu dài gian khổ: Để " biến nước ta từ một nước nông nghiệp lạc hậu thành một nước công nghiệp" 25 , Người nhấn mạnh: "Nhiệm vụ quan trọng nhất của chúng ta là phải xây dựng nền tảng vật chất và kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội" 26. 

Hồ Chí Minh cho rằng, một nước xã hội chủ nghĩa phải là một nước công nghiệp và xâydựng nền tảng vật chất kỹ thuật của xã hội, xã hội chủ nghĩa là nhiệm vụ quan trọng nhất. Tại sao Người lại nói như vậy? Trong nhiều bài viết Người đã trả lời câu hỏi này bằng các luận điểm: 

Một là: "Nước ta vốn là một nước nông nghiệp lạc hậu. Đó là chỗ bắt đầu của chúng ta". 

Hai là: "Đời sống nhân dân chỉ có thể thật dồi dào, khi chúng ta dùng máy móc để sản xuất một cách thật rộng rãi" 27. 

Ba là: "Công nghiệp và nông nghiệp là hai chân của nền kinh tế... Công nghiệp phát triển thì nông nghiệp mới phát triển... như hai chân đi khoẻ và đi đều thì tiến bước sẽ nhanh và nhanh chóng đi đến mục đích" 28. 

Từ những luận điểm trên, Người điđến kết luận: Muốn xâydựng chủ nghĩa xã hội tất yếu phải công nghiệp hoá xã hội chủ nghĩa. Muốn đảm bảo đời sống sung sướng mãi mãi, phải công nghiệp hoá xã hội chủ nghĩa. Hồ Chí Minh nhiều lần nhắc đến phát triển nông nghiệp làm gốc là chính, nhưng Người vẫn nhấn mạnh công nghiệp hoá mới là con đường cơ bản để phát triển kinh tế nâng cao đời sống: " Hiện nay, chúng ta lấy sản xuất nông nghiệp làm chính. Vì muốn mở mang công nghiệp thì phải có đủ lương thực, nguyên liệu. Nhưng công nghiệp hoá xã hội chủ nghĩa vẫn là mục tiêu phấn đấu chung, là con đường no ấm thật sự của nhân dân ta" 29. 

Khi nói về công nghiệp hoá xã hội chủ nghĩa, Hồ Chí Minh nhấn mạnh đến vai trò của công nghiệp nặng: Người nói: "Để xây dựng thắng lợi chủ nghĩa xã hội, chúng ta phải quyết tâm phát triển tốt công nghiệp nặng" 30. Thậm chí có chỗ Người còn đặt khái niệm công nghiệp nặng bên cạnh khái niệm công nghiệp hóa như là khái niệm đồng nhất. Chúng ta có thể nêu ví dụ: "Muốn đảm bảo đời sống sung sướng mãi mãi, phải công nghiệp hoá xã hội chủ nghĩa, phải xây dựng công nghiệp nặng" 31. Muón có nhiều máy, thì phải mở mang các ngành công nghiệp làm ra máy, ra gang, thép, than dầu... Đó là con đường phải đi của chúng ta, con đường công nghiệp hoá nước nhà" 32. Sở dĩ Hồ Chí Minh coi trọng công nghiệp nặng vì Người cho rằng: "Công nghiệp nặng làm cơ sở cho nền kinh tế độc lập" 33, công nghiệp nặng cung cấp máy móc, phân bón, thuốc trừ sâu cho nông nghiệp, công nghiệp nặng cũng phải cung cáp máy móc các loại cho công nghiệp nhẹ và cho thủ công nghiệp. 

Có hai điều lưu ý khi Hồ Chí Minh viết và nói về công nghiệp và công nghiệp nặng trọng giai đoạn xâydựng chủ nghĩa xã hội. 

Một là: Trong các bài viết và nói của mình, Người không nói đến cụm từ ưu tiên phát triển công nghiệp nặng một cách hợp lý. Ngay trong bài nói chuyện tại Hội nghị của Bộ Công nghiệp nặng ngày 31-12-1964 Người cũng chỉ nói công nghiệp và công nghiệp nặng phải cung cấp máy móc, phân hoá học cho nông nghiệp, cung cấp đủ máy móc cho công nghiệp nhẹ và thủ công nghiệp. Phải chǎng, bằng kinh nghiệm từng trải của bản thân mình, Hồ Chí Minh thấy nếu hiểu không đúng nội dung này, rất dễ dẫn đến đầu tư không có hiệu quả, dẫn đến hiểu sai một quan điểm cần quán triệt ở một nước nông nghiệp lạc hậu đi lên chủ nghĩa xã hội như nước ta: Sự phát triển của công nghiệp nặng trước hết phải xuất phát từ đòi hỏi trong sự phát triển của công nghiệp nhự và nông nghiệp. 

Hai là: Hồ Chí Minh nhiều lần sử dụng cụm từ công nghiệp xã hội hoá. Trongbài phát biểu tại cuộc mít tinh của nhân dân Bucarét chào mừng Đoàn đại biểu Đảng và Nhà nước ta sang thǎm Rumani ngày 20-8-1957, Người nói: "Ngày nay, nên công nghiệp được xã hội hoá, công nhân trở thành người chủ của nhà máy" 34. Người cũng dùng cả cụm từ xã hội hoá đối với. Theo chúng tôi hiểu, Người dùng chữ xã hội hoá ở đây trên hai mặt: Thứ nhất, là sự phát triển về số lượng khiến cho công nghiệp và nông nghiệp phát triển mạnh mẽ, rộng khắp. Thứ hai, là sự phát triển về chất lượng, là sự gắn kết chặt chẽ giữa các ngành của công nghiệp, nông nghiệp và của cả nền kinh tế do sự phát triển của kỹ thuật, công nghệ quy định. 

2. Trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội, đi liền với xây dựng cơ sở vật chất - kỹ thuật, Người rất chú trọng đến công tác nghiên cứu khoa học kỹ thuật và công tác phổ biến khoa học kỹ thuật phục vụ sản xuất. Người chỉ rõ: "Khoa học phải từ sản xuất mà ta và phải trở lại phục vụ sản xuất, phục vụ quần chúng, nhằm nâng cao nǎng suất lao động và không ngừng cải thiện đời sống nhân dân... Nhiệm vụ của khoa học, kỹ thuật là cực kỳ quan trọng, cho nên mọi ngành, mọi người đều phải tham gia công tác khoa học, kỹ thuật" 35. Để phát triển nghiên cứu và ứng dụng khoa học kỹ thuật, Người rất coi trọng nâng cao trình độ vǎn hoá cho người lao động cũng như rất coi trọng lao động trí óc. Người nói: Lao động trí óc có quý không? Quý, lao động chân tay có quý không? Quý, lao động chân tay có quý không? Quý. Người lao động trí óc mà không liên hệ với lao động chân tay thì chỉ là trí thức một nửa. Còn người lao động chân tay mà vǎn hoá kém, không biết lao động trí óc thì cũng là người không hoàn toàn, cũng chỉ được một nửa 36. 

Hồ Chí Minh còn cǎn dặn những cán bộ khoa học kỹ thuật: "Phải ra sức đem hiểu biết khoa học, kỹ thuật của mình truyền bá rộng rãi trong nhân dân lao động, để nhân dân đẩy mạnh sản xuất nhiều, nhanh, tốt, rẻ" 37. 

3. Hồ Chí Minh cho rằng, từ một nước nông nghiệp lạc hậu đi lên chủ nghĩa xã hội, việc thực hiện cách mạng kỹ thuật phải được triển khai lâu dài, Người gọi đó là: "Con đường muôn dặm của cách mạng kỹ thuật". Do đó, Người nhiều lần động viên công nhân, nông dân, quân đội cải tiến kỹ thuật. Cuộc vận động cải tiến quản lý, cải tiến kỹ thuật triển khai rất mạnh mẽ trong các xí nghiệp, hợp tác xã vào đầu những nǎm 60 đã thể hiện tư tưởng, quan điểm nhất quán của Người, quan điểm quần chúng mà Người suốt đời theo đuổi. Người cho rằng, trí tuệ và sáng kiến của quần chúng là vô tận. "Nhân dân ta rất cần cù, thông minh và khéo léo. Trong sản xuất và sinh hoạt, họ có rất nhiều kinh nghiệm quý báu" 38. Tư tưởng này của Người vẫn hoàn toàn giữ nguyên giá trị trong điều kiện hiện nay, dù rằng cuộc Cách mang khoa học công nghệ đang tác động mạnh mẽ và sâu sắc đến nền kinh tế nước ta. Chúng ta không thể ngay một lúc thay đổi toàn bộ kỹ thuật thiết bị hiện có của chúng ta. Bên cạnh việc thay thế các thiết bị lạc hậu, cũ kỹ bằng thiết bị mới hiện đại, chúng ta cần phải biết cải tiến tận dụng những thiết bị hiện có thông qua đội ngũ kỹ sư, công nhân lành nghề. Đó là cách làm mang lại hiệu quả kinh tế lớn phù hợp với hoàn cảnh Việt Nam. Kinh nghiệm của một số nhà máy cơ khí lớn đã chứng tỏ điều đó. 


* * 

Những quan điểm, nhận thức về vai trò của công nghiệp và khoa học công nghệ của Hồ Chí Minh trong tiến trình lịch sử nêu ra trên đây có thể chưa đầy đủ, song cũng thể hiện tư tưởng của một lãnh tụ luôn luôn bám sát cuộc sống vừa mang tính cách mạng vừa mang tính khoa học. 

Ngày nay, trong sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, hơn lúc nào hết, chúng ta cần học tập và vận dụng sáng tạo những quan điểm nêu trên của Hồ Chí Minh vào sự nghiệp cách mạng này. 





NXB. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2000

13. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, t. 2, tr. 348 
14 Sđd, tr. 357. 
15. Hồ Chí MInh: Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, t. 1, tr. 10. 
16. Sđd, t. 9 - 10. 
17. Sđd, t,2, tr.357. 
18. Sđd, t.2, tr.361. 
19. Sđd, t.1, tr.28. 
20. Sđd, t.4, tr.80-81. 
21. Sđd, t.4, tr.478-479 
22. Hồ Chí Minh: Toàn tập, NXB chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, t.6, tr.499. 
23. Sđd, tr.497. 
24. Sđd., tr. 499. 
25. Sđd , t.8, tr.493. 
26. Sđd , t.10, tr.13 
27. Sđd , t.10, tr.40-41. 
28. Sđd , t.11, tr.544-545. 
29. Sđd., t.10, tr. 41 
30. Sđd, t.10, tr.159. 
31. Sđd , t.10, tr.159. 
32. Sđd , t.11, tr.352. 
33. Sđd , t.11, tr.459. 
34. Sđd , t.8, tr.476. 
35. Hồ Chí Minh; Toàn tập, NXB chính trị quốc gia, Hà Nội, 1996, t.11, tr.78. 
36. Xem Sđd , t.8, tr.364 
37 Sđd , t.11, tr.78. 
38 . Sđd, t. 11, tr. 79.

Phản hồi

Thông tin người gửi phản hồi

Quy trình kỷ luật đảng viên thuộc thẩm quyền của Trung ương Đảng, Bộ Chính trị, Ban Bí thư

(ĐCSVN) - Thay mặt Bộ Chính trị, Thường trực Ban Bí thư Lương Cường vừa ký Quyết định số 165-QĐ/TW ngày 6/6/2024 của Bộ Chính trị ban hành Quy trình xem xét, thi hành kỷ luật đối với tổ chức Đảng, đảng viên thuộc thẩm quyền của Ban Chấp hành Trung ương Đảng, Bộ Chính trị, Ban Bí thư.

Về thẩm quyền của người đứng đầu trong việc tạm đình chỉ công tác với cán bộ cấp dưới

(ĐCSVN) - Ngày 23/5/2024, đồng chí Lương Cường đã ký ban hành Quy định 148-QĐ/TW về thẩm quyền của người đứng đầu trong việc tạm đình chỉ công tác đối với cán bộ cấp dưới trong trường hợp cần thiết hoặc khi có dấu hiệu vi phạm nghiêm trọng quy định của Đảng, pháp luật của Nhà nước.

Quy định về chuẩn mực đạo đức cách mạng của cán bộ, đảng viên trong giai đoạn mới

(ĐCSVN) - Ngày 9/5, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã ký ban hành Quy định số 144-QĐ/TW của Bộ Chính trị về chuẩn mực đạo đức cách mạng của cán bộ, đảng viên trong giai đoạn mới.

Bộ Chính trị ban hành quy định phòng chống tham nhũng, tiêu cực trong điều tra, xét xử

(ĐCSVN) – Ngày 27/10/2023, Bộ Chính trị đã ban hành Quy định số 132-QĐ/TW về kiểm soát quyền lực, phòng, chống tham nhũng, tiêu cực trong hoạt động điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án.

Liên kết website