TS. Lê Thị Phương Thảo
Phó Giám đốc Phân viện Hà Nội- Học viện CTQG Hồ Chí Minh
Là người sáng lập và rèn luyện Đảng ta, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn quan tâm tới việc xây dựng Đảng vững mạnh, xứng đáng là đội tiên phong của giai cấp công nhân Việt Nam, đại biểu trung thành cho lợi ích của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và của cả dân tộc. Người đã có nhiều chỉ dẫn quan trọng cho việc xây dựng, chỉnh đốn Đảng, có giá trị chỉ đạo xuyên suốt quá trình phát triển của Đảng.
Một là, tự đổi mới, tự chỉnh đốn Đảng là công việc phải tiến hành thường xuyên, chứ không chỉ là giải pháp tình thế, là một yêu cầu tất yếu của một đảng cách mạng, nhằm giữ vững bản chất giai cấp công nhân, tính tiền phong, nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng, bảo đảm cho Đảng đủ sức hoàn thành thắng lợi mọi nhiệm vụ cách mạng.
Đây là một nội dung xuyên suốt trong tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng Đảng, đã có mầm mống trong tác phẩm "Đường cách mệnh" (1927). Trong tác phẩm này, thông qua việc trình bày tư cách của người cách mạng, tư cách Đảng cách mạng, Hồ Chí Minh yêu cầu cán bộ cách mạng "phải thường xuyên cả quyết sửa lỗi mình"; "phải giữ chủ nghĩa cho vững"; "phải dân chúng (công nông) làm gốc"; "phải bền gan, phải hy sinh, phải thống nhất"; khi thất bại "không được ngã lòng" mà phải bình tĩnh "nghiên cứu lại, phê bình lại"... Những yêu cầu này đặt cơ sở cho những chỉ dẫn quý báu về đổi mới, chỉnh đốn Đảng sau này của Người.
Hồ Chí Minh cho rằng, cùng với bước phát triển cúa tiến trình cách mạng thì vai trò, trách nhiệm của Đảng không ngừng tăng lên, nhiệm vụ của Đảng hết sức nặng nề, mới mẻ, phức tạp. Trong khi đó trình độ nhận thức, năng lực lãnh đạo, quản lý của đội ngũ cán bộ, đảng viên còn nhiều hạn chế, dễ mắc phải sai lầm. Đặc biệt khi trở thành Đảng cầm quyền, phần lớn đảng viên được bố trí nắm giữ các cương vị quan trọng trong bộ máy nhà nước, dễ biến mình thành những "ông quan cách mạng", mưu lợi cá nhân. Nguy cơ này chẳng những làm tôn hại sự nghiệp cách mạng mà còn làm suy yếu, phai mờ bản chất cách mạng của chính bản thân Đảng.
Trong nhiều tác phẩm, bài viết, bài nói, Người đã chỉ ra những điều kiện làm cho Đảng dễ mắc sai lầm, khuyết điểm, trong đó có đặc điểm của một nước nông nghiệp lạc hậu, tàn dư của chế độ thực dân phong kiến vẫn còn ăn sâu trong không ít cán bộ, đảng viên. Người cũng nêu rõ: "Đảng ta không phải trên trời sa xuống. Nó ở trong xã hội mà ra. Vì vậy, tuy nói chung, thì đảng viên phần nhiều là những phần tử tốt nhưng vẫn có một số chưa bỏ hết những thói tự tư tự lợi, kiêu ngạo xa hoa, v.v... Những thói xấu đó có đã lâu, nhất là trong 80 năm nô lệ. Những thói xấu đó, họ mang từ xã hội vào Đảng" (1). Người ví những người có thói xấu đó "cũng như một nhà có rể khờ, dâu dại, không thể cấm họ gặp gỡ bà con. Đảng ta dù muốn giấu những người và những việc không tốt kia cũng không thể giấu" (2). Do đó, việc tự đổi mới, tự chỉnh đốn là một công việc tất yếu của một Đảng cách mạng chân chính. Tổ chức Đảng cũng như đội ngũ đảng viên phải luôn tự xem xét lại mình, đánh giá lại mình, để phát huy cái đúng, cái tốt và sửa chữa, khắc phục cái sai, cái yếu kém, làm cho Đảng ngày một vững mạnh hơn.
Hai là, trong điều kiện Đảng cầm quyền thì đổi mới, chỉnh đốn Đảng chẳng những có tác dụng làm cho Đảng trong sạch, vững mạnh mà còn là một điều kiện tiên quyết, một giải pháp tối ưu để xây dựng Nhà nước thực sự của dân, do dân và vì dân.
Khi chuyển từ hoạt động bí mật sang lãnh đạo chính quyền thì Đảng phải thường xuyên đấu tranh chống các căn bệnh vốn có như cậy thế, hách dịch, quan liêu tham ô, lãng phí... Những căn bệnh này chẳng những làm suy yếu nhà nước cách mạng mà còn là thứ "giặc nội xâm" làm thoái hoá, xói mòn Đảng cầm quyền.
Vì vậy ngay sau khi cách mạng tháng Tám thành công, tháng 10-1945, Hồ Chí Minh đã gửi thư cho uỷ ban nhân dân các cấp nhắc nhở, uốn nắn và phòng ngừa những lệch lạc, sai sót trong thái độ, lề lối, phong cách làm việc của cán bộ, nhân viên cơ quan nhà nước. Người yêu cầu các cơ quan nhà nước không được gây phiền hà cho nhân dân, mà phải tận tâm, tận lực phục vụ nhân dân: "Việc gì có lợi cho dân, ta phải hết sức làm. Việc gì có hại cho dân ta phải hết sức tránh" (3). Đầu năm 1947, Người gửi thư cho các đồng chí ở Bắc Bộ, Trung Bộ nhắc nhở mọi người phải: khắc phục khuyết điểm, đồng tâm hiệp lực, đoàn kết nội bộ, mở rộng hàng ngũ, chấn chỉnh công tác để lãnh đạo toàn dân hăng hái kháng chiến,... Cũng dọ tầm quan trọng và tính cấp thiết của việc củng cố, chỉnh đốn Đảng trong điều kiện Đảng cầm quyền mà khi cuộc kháng chiến chống Pháp đang ở giai đoạn gay go, Người vẫn dành thời gian viết cuốn sách nổi tiếng "Sửa đổi lối làm việc" (xuất bản đầu năm 1948), đề cập một cách sâu sắc, toàn diện về xây dựng, chỉnh đốn Đảng. Phát biểu tại buổi bế mạc Hội nghị cán bộ lần thứ sáu (18-1-1949), Hồ Chí Minh đã chỉ ra những nhiệm vụ to lớn, nặng nề của cách mạng nước ta lúc bấy giờ và đi đến kết luận: "Muốn làm được những việc trên, trước hết phải chỉnh đốn nội bộ Đảng" (4).
Năm 1952, khi cuộc kháng chiến chống Pháp bước vào giai đoạn tổng phản công, Người chỉ ra yêu cầu bức thiết phải chỉnh đốn Đảng để tạo ra sức mạnh mới cho Đảng, đẩy cuộc kháng chiến đi lên. Người nói: "Muốn lãnh đạo vững thì trước hết cán bộ và đảng viên phải có tư tưởng và lập trường vững chắc để lãnh đạo, để xung phong làm gương mẫu. Vì vậy, chỉnh đốn Đảng là việc chính chúng ta phải làm ngay" (5). Trước khi từ biệt đồng bào, chiến sĩ cả nước, trong "Di chúc", điều mà Người quan tâm "trước hết" cũng chính là "nói về Đảng" Người cũng thấy rõ những nhiệm vụ cách mạng đầy khó khăn, phức tạp đặt ra sau khi cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước thắng lợi. Do đó, "việc cần làm trước tiên là chỉnh đốn lại Đảng, làm cho mỗi đảng viên, mỗi đoàn viên, mỗi chi bộ đều ra sức làm tròn nhiệm vụ Đảng giao phó cho mình, toàn tâm toàn ý phục vụ nhân dân"(6).
Ba là, đổi mới, chỉnh đốn Đảng phải được tiến hành trên tất cả các mặt chính trị, tư tưởng và tổ chức, nhằm xây dựng Đảng vững mạnh toàn diện.
Về chính trị tư tưởng: đây là lĩnh vực hết sức quan trọng phức tạp, nhạy cảm, dễ mắc sai lầm lệch lạc, nhất là trong điều kiện Đảng cầm quyền. Vì vậy, Người yêu cầu "phải xem xét lại tất cả công tác của Đảng", "xem xét lại những nghị quyết đã thi hành thế nào" nhằm làm cho đường lối chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước ngày càng đúng, sát thực tiễn, hiệu quả, phản ánh được lợi ích của dân tộc và giai cấp. Đề cập đến việc chỉnh đốn Đảng về tư tưởng, Người đòi hỏi cán bộ, đảng viên phải thấm nhuần sâu sắc mục tiêu tôn chỉ hoạt động của Đảng, từ đó mà hy sinh phấn đấu thực hiện, "toàn Đảng phải tư tưởng nhất trí, hành động nhất trí, đoàn kết nhất trí mới làm tròn nhiệm vụ của Đảng". Muốn có tư tưởng nhất trí, hành động nhất trí thì phải luôn đứng vững trên lập trường giai cấp công nhân, nắm vững quan điểm, đường lối của Đảng, phải có đạo đức cách mạng trong sáng, phải "quét sạch chủ nghĩa cá nhân" trong mỗi cán bộ, đảng viên.
Về tổ chức: Người hết sức coi trọng lĩnh vực này, bởi "Đảng mạnh là do chi bộ tốt, chi bộ tốt là do các đảng viên đều tốt".
Vì vậy, "mỗi đảng viên, trước hết là mỗi cán bộ, phải thật thà tự phê bình, tự sửa chữa những khuyết điểm của mình. Đặt lợi ích của Đảng, của dân tộc lên trên hết. Kiên quyết chống bệnh tự mãn tự túc, tự tư tự lợi, kiêu ngạo ba hoa. Phải thực hành khẩu hiệu: "Chí công, vô tư; cần, kiệm, liêm, chính !" (7). Trong xây dựng đội ngũ cán bộ thì chú trọng đến việc bồi dưỡng nâng cao trình độ lý luận cách mạng; trong chỉnh đốn tổ chức thì nhấn mạnh đến lề lối làm việc tác phong công tác, phong cách lãnh đạo của đội ngũ cán bộ, đảng viên các cơ quan Đảng, Nhà nước và đoàn thể. Người yêu cầu phải khắc phục bệnh chủ quan, hẹp hòi, quan liêu bàn giấy của cán bộ, công chức. Tổ chức Đảng cũng như từng đảng viên trong quá trình lãnh đạo phải vừa học hỏi quần chúng, bám sát nhân dân, bám sát cơ sở, lắng nghe ý kiến, nguyện vọng của nhân dân, "sự lãnh đạo của Đảng phải từ trong quần chúng, trở lại nơi quần chúng". Người cảnh báo rằng: "...xa dân chúng, không liên hệ chặt chẽ với dân chúng, cũng như đứng lơ lửng giữa trời, nhất định thất bại"(8). Ngoài ra, Hồ Chí Minh cũng đề cập đến yêu cầu làm trong sạch đội ngũ đảng viên bằng cách sàng lọc, thải loại những đảng viên thoái hoá biến chất ra khỏi Đảng, tăng cường công tác kiểm tra và giữ gìn kỷ luật của Đảng, chăm lo xây dựng tổ chức cơ sở Đảng vững mạnh, v.v...
Bốn là, trong tiến hành đổi mới và chỉnh đốn Đảng cần có cách thức, bước đi thích hợp.
Hồ Chí Minh yêu cầu mọi công tác của Đảng phải chuẩn bị chu đáo, xác định rõ mục đích, yêu cầu và có phương châm chỉ đạo đúng đắn. Người viết: "Chỉnh Đảng phải làm từng bước, phải có trọng tâm:
Chỉnh huấn cán bộ trước rồi mới chỉnh đốn chi bộ.
Chỉnh đốn tư tưởng trước rồi mới chỉnh đốn tổ chức
Chỉnh huấn cán bộ cao cấp phải do Trung ương trực tiếp lãnh đạo vì đó là mấu chốt của việc chỉnh đốn toàn Đảng"(9). Trong đổi mới, chỉnh đốn Đảng, việc tự phê bình và phê bình có ý nghĩa quan trọng. Trong "Di chúc", Người vẫn còn nhắc nhở: "Trong Đảng thực hành dân chủ rộng rãi, thường xuyên và nghiêm chỉnh tự phê bình và phê bình là cách tốt nhất để củng cố và phát triển sự đoàn kết, thống nhất của Đảng" (10). Việc tự phê bình và phê bình phải nghiêm túc, thiết thực, không đao to búa lớn nhưng cũng tránh dễ dãi, qua loa, hình thức chủ nghĩa. Cần động viên, khuyến khích và tạo điều kiện thuận lợi để quần chúng tham gia phê bình, góp ý, chất vấn cán bộ, đảng viên, nhưng tuyệt nhiên "không theo đuôi quần chúng": gắn chỉnh đốn Đảng với chỉnh đốn, kiện toàn bộ máy Nhà nước và các đoàn thể chính trị xã hội khác; có sơ - tổng kết theo định kỳ để rút kinh nghiệm cho những lần triển khai tiếp theo...
Với Hồ Chí Minh, xây dựng Đảng gắn liền với chỉnh đốn, đổi mới Đảng là một vấn đề có tính nguyên tắc, có tính quy luật là một biện pháp cơ bản, hữu hiệu xuyên suốt quá trình phát triển của Đảng bảo đảm cho Đảng vững mạnh, hoàn thành mọi nhiệm vụ cách mạng.
Những chỉ dẫn quý báu trên của Người đã góp phần to lớn vào việc rèn luyện Đảng ta trưởng thành, đủ sức lãnh đạo cách mạng Việt Nam đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác. Nó vẫn là cơ sở lý luận mang tính khoa học và cách mạng soi sáng cho công cuộc xây dựng, chỉnh đốn Đảng trong thời kỳ đổi mới hiện nay.
Tạp chí Giáo dục lý luận, số 2/2000
l,2 - Hồ Chí Minh: Toàn tập, tập 5, Nxb CTQG, H, 1995, tr.262-263, 262.
3 - Hồ Chí Minh: Toàn tập, tập 4, Nxb CTQG, H, 1995, tr.56-57.
4 - Hồ Chí Minh: Toàn tập, tập 5, Nxb CTQG, H, 1995, tr.551.
5 - Hồ Chí Minh: Toàn tập, tập 6, Nxb CTQG, H, 1995, tr. 465.
6 - Hồ Chí Minh: Toàn tập, tập 12, Nxb CTQG, H, 1996, tr. 503.
7,8 - Hồ Chí Minh: Toàn tập, tập 5, Nxb CTQG, H, 1995, tr. 2G8, 286
9,10 - Sđd, tập 6, 1995, tr. 465.