TS Phạm Ngọc Anh
Trong tư tưởng Hồ Chí Minh, dân chủ là một phạm trù có cấu trúc rất rộng, từ dân chủ chính trị đến dân chủ trong kinh tế, trong đời sống tinh thần và hoạt động sáng tạo. Riêng dân chủ trong lĩnh vực kinh tế cũng đã bao hàm những nội dung rất phong phú, gắn bó với nhau bởi các bộ phận hợp thành: quan hệ sở hữu; tổ chức quản lý; quan hệ phân phối. Điều đó cho thấy, khai thác những luận điểm về dân chủ trong quản lý kinh tế (QLKT) ở Hồ Chí Minh sẽ đem lại nhiều giá trị trong quản lý nền kinh tế thị trường định hướng XHCN ở nước ta hiện nay, mặc dầu nền kinh tế mà Hồ Chí Minh trực tiếp chỉ đạo và nền kinh tế thị trường định hướng XHCN là hai kiểu cơ chế tổ chức và vận hành khác nhau.
Nét độc đáo và giá trị thực tiễn cao của dân chủ với tư cách là nguyên tắc tổ chức hoạt động QLKT theo Hồ Chí Minh bắt nguồn từ quan niệm và chỉ dẫn cụ thể về thực chất, nội dung QLKT. Theo Hồ Chí Minh: "Quản lý một nước cũng như quản lý một doanh nghiệp : phải có lãi. Cái gì ra, cái gì vào, việc gì phải làm ngay, việc gì chờ, hoãn, hay bỏ, món nào đáng tiêu, người nào đáng dùng. Tất cả mọi thứ đều phải tính toán cẩn thận"1. Đặc trưng này của hoạt động quản lý có tính phổ quát cho mọi loại hình tổ chức sản xuất , các hình thức doanh nghiệp. Người nhấn mạnh: "ở xí nghiệp phải biết quản lý: có quản lý mới biết thu vào và tiêu ra, mới biết lỗ lãi, mới biết ai làm tốt, ai làm xấu, ai làm vượt mức, ai làm không vượt mức, muốn làm được như thế, phải biết quản lý"2. Thực chất QLKT đã bộc lộ hai yếu tố nền móng của dân chủ: khả nǎng lựa chọn các loại phương án tiến hành hoạt động kinh tế đem lại hiệu quả cao nhất, tối ưu và quản lý để có cơ sở xác định mức độ thu nhập bằng hiệu quả đạt được và nǎng lực thể hiện trong quá trình sản xuất. Nắm chắc khâu quản lý có tác dụng kiểm soát (ở trình độ tự giác) và điều chỉnh thu nhập thực tế, thực hiện phân phối theo lao động.
Do vị trí đặc thù của nó, QLKT phải bao quát hết các mắt khâu trọng yếu nhất của quá trình sản xuất, hợp thành nội dung quản lý. Hồ Chí Minh chỉ rõ: "Trong cuộc vận động xây dựng nước nhà, việc quản lý kinh tế tài chính là cực kỳ quan trọng. Nếu quản lý không chặt chẽ, thì cái gì thiếu không biết, cái gì thừa không hay, công việc sẽ bị bế tắc". Vì thế, phải tǎng cường và củng cố quản lý sản xuất, quản lý vật tư, quản lý lao động, quản lý kỹ thuật, quản lý tiền lương, v.v. tǎng cường việc quản lý từ trung ương đến địa phương.
Khái niệm quản lý mà Hồ Chí Minh đề cập với thực chất và nội dung như vậy là một loại hình quản lý kiểu mới: quản lý dân chủ (QLDC). ở Hồ Chí Minh, quản lý gắn liền với dân chủ; còn dân chủ là một thuộc tính của quản lý và QLDC là nhu cầu khách quan, trở thành động lực để phát triển sản xuất, là một nấc thang, trình độ tiến hoá trong quá trình phát triển của các quan hệ quản lý, phản ánh bản chất của quan hệ, nguyên tắc, cơ chế QLKT của chế độ xã hội XHCN. Trong vấn đề này, quan điểm của Hồ Chí Minh rất rõ ràng, có tính chất chỉ đạo: "Công tác cải tiến quản lý, cải tiến kỹ thuật và cải tiến tổ chức như cái kiềng ba chân, nếu hai chân dài, một chân ngắn thì không thể nào đứng vững được. Muốn làm tốt các việc này phải thực hiện dân chủ. Cán bộ phải dựa vào quần chúng để giải quyết khó khǎn, 10 người làm không được thì 100 người góp 100 ý kiến lại nhất định sẽ làm được..."3. Cũng như trong bất kỳ một lĩnh vực nào khác, thực hành dân chủ là chiếc chìa khoá vạn nǎng để giải quyết các nhiệm vụ, các vấn đề QLKT.
Trong di sản lý luận Hồ Chí Minh, thực hành dân chủ trong QLKT có nội hàm rất rộng, gắn liền với tất cả các mắt khâu, các công đoạn của chu trình quản lý: xác định mục tiêu; thu thập thông tin; đề xuất quyết định; tổ chức thực hiện, tìm kiếm các biện pháp triển khai thực hiện quyết định... cũng như tất cả các lĩnh vực. ở đây, chúng tôi xin khái quát những nội dung chủ yếu nhất.
Hồ Chí Minh nhất quán một quan niệm: dân chủ trong QLKT nghĩa là dân là chủ và dân làm chủ hoạt động đó. Vị thế của mối quan hệ tương tác chủ thể - khách thể trong quản lý đã có sự thay đổi rất lớn: Người dân không còn đơn giản là đối tượng bị quản lý mà thực sự trở thành người chủ các hoạt động QLKT; QLDC là dân làm chủ quản lý. Hồ Chí Minh dùng những câu chữ khác nhau: làm chủ, tinh thần làm chủ, làm chủ tập thể; nhưng khi áp dụng vào QLKT thì "làm chủ" là cách dùng phổ biến ở Hồ Chí Minh.
Làm chủ trong QLKT là một quan hệ bao gồm nhiều mặt: vị thế, vai trò, tư cách của người lao động, quan trọng nhất là lợi ích kinh tế. Sự đan xen hài hoà các loại lợi ích kinh tế là đặc trưng nổi bật nhất của dân chủ kinh tế nói chung và dân chủ trong QLKT nói riêng. Xử lý các quan hệ lợi ích này một cách thích đáng có lợi cho cả xã hội, tập thể, cá nhân người lao động là mục đích và động lực của dân chủ quản lý; đồng thời nó bao hàm cả hai mặt quyền và nghĩa vụ của người làm chủ các quan hệ quản lý đích thực. Vì thế, làm chủ còn là một quan hệ kinh tế có bản chất. Hồ Chí Minh có lúc nhấn mạnh"làm chủ thực sự", "làm chủ cho ra làm chủ" để đối lập với "làm chủ phất phơ".
Những nội dung làm chủ thể hiện ở hai cấp độ, với công nhân xí nghiệp và nhà nước; với nông dân hợp tác xã và nhà nước. Dù ở cấp độ nào, thì làm chủ cũng là mục tiêu cần cố gắng đạt tới, nhất là đối với giai cấp công nhân với tư cách là giai cấp lãnh đạo. "Muốn thực hiện đúng vai trò làm chủ, giai cấp công nhân phải quản lý tốt kinh tế, quản lý tốt xí nghiệp, làm cho nǎng suất lao động không ngừng nâng cao, của cải xã hội ngày càng nhiều với phẩm chất tốt, giá thành hạ"4. Bởi lẽ "Vai trò của công nhân tham gia quản lý, đó là biểu hiện quyền hành làm chủ tập thể của công nhân, viên chức trong mọi hoạt động của xí nghiệp. Quyền lợi của công nhân, viên chức gắn liền với sự phát triển của xí nghiệp và kinh doanh có lãi. Từ làm chủ tư liệu sản xuất, họ phải được làm chủ việc quản lý kinh tế, làm chủ việc phân phối sản phẩm lao động"5.
Hồ Chí Minh thường xuyên nhấn mạnh: phải chú trọng thu hút quần chúng lao động tham gia QLKT, quản lý xã hội. Theo Hồ Chí Minh, để người lao động thật sự tham gia tích cực QLKT phải có hai điều kiện then chốt. Một là, bản thân người lao động phải không ngừng vươn lên về mọi mặt, ý thức rõ vai trò làm chủ của mình trong toàn bộ quá trình sản xuất xã hội; họ phải thường xuyên được giáo dục, học tập về khoa học kỹ thuật, chuyên môn, nghiệp vụ, có khả nǎng tham gia quản lý. Đây cũng là cơ sở để biểu hiện nǎng lực thực hành dân chủ, kiểm soát, giám sát hoạt động của các cơ quan quản lý. Hai là, phải có một đội ngũ cán bộ QLKT công tâm, có tác phong làm việc dân chủ và luôn tạo điều kiên để người lao động thật sự trở thành người chủ, phát huy vai trò làm chủ. Theo Hồ Chí Minh, cán bộ quản lý với tư cách "đầy tớ công cộng", thực hiện sự uỷ quyền của nhân dân, hướng dẫn họ thực hành dân chủ, làm quen để đi đến tham gia quản lý thật sự, thực chất.
Là nhu cầu khách quan, thể hiện hình thức và nǎng lực thực hành dân chủ trong cuộc sống, sự tham gia của người lao động vào quá trình QLKT, được thực hiện ở tất cả các khâu. Trước hết là ở việc tổ chức bộ máy QLKT, lựa chọn cán bộ vào cơ quan quản lý từ Trung ương đến địa phương. Công việc này được tiến hành theo hai định chế dân chủ: trực tiếp hoặc đại diện, chủ yếu là theo phương thức dân chủ đại diện. Hồ Chí Minh đặc biệt lưu ý đến vấn đề lựa chọn cán bộ QLKT, phải có tài cao, đức trọng, nếu không khéo họ dễ thoái hoá, biến chất, dùng quyền lực của dân để ức hiếp, đi ngược lại lợi ích của dân vì những người này nắm giữ các đầu mối, các cơ sở tiền tài vật lực, "dễ sinh lòng tham muốn vật chất".
Việc tham gia của người lao động vào quá trình QLKT có vai trò đặc biệt quan trọng ở khâu xác định mục tiêu, kế hoạch phát triển trong phạm vi quốc gia cũng như trong từng xí nghiệp, từng hợp tác xã. Phương châm và nguyên tắc xây dựng kế hoạch là từ dưới lên: từ cơ sở, địa phương đến Trung ương; từ mỗi người lao động đến lãnh đạo xí nghiệp, hợp tác xã. Nguyên tắc này đảm bảo tính thực tế, thực tiễn. Nhưng chiều sâu và hạt nhân cốt lõi là vấn đề xử lý các quan hệ lợi ích, trong mỗi kế hoạch phải bao quát được lợi ích của người lao động, của tập thể và lợi ích xã hội; nếu bỏ qua một lợi ích nào đó thì kế hoạch sẽ rất dễ trở nên phiêu lưu, không thể thực hiện được. Vì thế "Khi đặt kế hoạch phải nhìn xa. Có nhìn xa mới quyết định đúng đắn thời kỳ nào phải làm công việc gì là chính. Phải thấy rộng. Có thấy rộng mới sắp đặt các ngành hoạt động một cách cân đối. Khi đi vào thực hiện thì mỗi ngành mỗi nghề phải rất tỉ mỉ, chu đáo, thật sát với mỗi cơ sở. Đó là "một bộ ba" để hoàn thành tốt kế hoạch"6. Cách làm kế hoạch như vậy với tư cách là một công cụ QLKT, xét về thực chất là cơ chế dân chủ để đề ra chỉ tiêu, pháp lệnh. Các chỉ tiêu này đã có sự tham gia đóng góp của từng người dân, từng cơ sở, phản ánh tính chất sinh động của đời sống hiện thực.
Thế nhưng, đặt kế hoạch, tham gia xây dựng kế hoạch mới chỉ là bước đầu của quy trình QLDC và mức độ tham gia của người lao động nhiều khi bị hạn chế do địa vị công tác, nhận thức, tầm nhìn. ở khâu triển khai, tìm các giải pháp thực hiện mới thấy hết tính sáng tạo của người lao động. Cùng một kế hoạch, người lao động có nhiều biện pháp khác nhau để hoàn thành tốt. Đây chính là quá trình phát huy sáng kiến, cải tiến kỹ thuật nhằm nâng cao nǎng suất, chất lượng sản phẩm, bộc lộ ý thức làm chủ của mỗi công dân. Vấn đề đặt ra, theo Hồ Chí Minh, là phải sử dụng hết các đòn bẩy kinh tế để khuyến khích, động viên tài nǎng sáng tạo trong dân chúng theo nguyên tắc "đem tài dân, sức dân, của dân làm lợi cho dân". Ngay ở khâu thực hiện kế hoạch, lợi ích kinh tế vẫn đứng ở vị trí hạt nhân, có tác dụng điều chỉnh và tận dụng tối đa nǎng lực, chất lượng quản lý, hoạt động thực tiễn. Vì thế, sẽ rất có lý khi cho rằng lợi ích, quan hệ lợi ích là điểm nhạy cảm nhất trong hoạt động quản lý và cơ chế phối thuộc các loại lợi ích là nguồn gốc làm nảy nở nǎng lực thực hành dân chủ (trên quy mô xã hội) hoặc làm triệt tiêu nguồn nǎng lượng tinh thần vốn có của bản thân chế độ xã hội.
Xét trên hai bình diện vừa nêu, trong QLKT, đó là sự gắn bó chặt chẽ giữa yếu tố dân chủ và yếu tố tập trung. Theo Hồ Chí Minh, dân chủ tập trung là một trong các nguyên tắc nền móng trong QLKT của xã hội ta. Trong QLKT, dân chủ và tập trung thống nhất với nhau. Người nói: tập thể lãnh đạo là dân chủ. Cá nhân phụ trách là tập trung. Tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách là dân chủ tập trung. Hồ Chí Minh đòi hỏi phải mở rộng dân chủ để đảm bảo sự lãnh đạo tập trung, thống nhất. Dân chủ để đi đến tập trung, là cơ sở để tập trung, còn tập trung là trên cở sở dân chủ. Nguyên tắc tập trung dân chủ có vai trò chủ đạo trong xây dựng kế hoạch phát triển kinh tế. Nguyên tắc này đảm bảo thông tin hai chiều, nghĩa là vừa đảm bảo sự quản lý tập trung của nhà nước, vừa đảm bảo quyền tự chủ của địa phương, cơ sở, các ngành và đầu mối kinh tế.
Gắn liền với nguyên tắc tập trung dân chủ, ngay từ rất sớm Hồ Chí Minh đã cảnh báo và ngǎn chặn các cǎn bệnh phát sinh trong quá trình quản lý nền kinh tế quốc dân, vi phạm quyền làm chủ của nhân dân.
Một là, cǎn bệnh bàng quan, vô trách nhiệm trong quản lý, nó trái với tinh thần dân chủ. Bởi vì trong hoạt động QLKT, dân chủ luôn đi liền với tập trung, lãnh đạo tập thể phải gắn chặt với trách nhiệm cá nhân. Cô lập hoặc đối lập hai mặt đó sẽ dẫn đến vô chính phủ, mất dân chủ. Hồ Chí Minh yêu cầu, trong quản lý "Nội bộ phải thật đoàn kết. Mọi việc đều bàn bạc một cách dân chủ và tập thể. Khi đã quyết định rồi thì phân phối công tác phải rành mạch, giao cho một hoặc mấy đồng chí phụ trách làm đến nơi đến chốn. Trong khi thi hành phải tôn trọng nguyên tắc báo cáo và thỉnh thị"7. Nếu quyết định được thực hiện sai thì người điều hành trực tiếp phải chịu trách nhiệm. Theo tinh thần Hồ Chí Minh, trong QLKT càng mở rộng dân chủ thì càng nâng cao tinh thần trách nhiệm, kỷ luật và ý thức tự giác chấp hành kỷ luật của tập thể. Tính quy phạm và giới hạn tích cực của dân chủ trong QLKT chính là ở việc giải quyết mối quan hệ mấu chốt này.
Hai là, cǎn bệnh đặc quyền, đặc lợi trong đội ngũ cán bộ QLKT. Đặc quyền, đặc lợi là sự lợi dụng quyền lực công để mưu lợi ích riêng, nó đi ngược lại nguyên lý kết hợp hài hoà các loại lợi ích. Một khi còn có sự phân biệt, đối xử, đặc quyền, đặc lợi thì không thể có quản lý minh bạch, công khai, không thể có dân chủ theo đúng nghĩa là dân làm chủ. Tính công khai trong QLKT là yêu cầu cung cấp đủ thông tin, tài liệu, làm cơ sở cho phép quần chúng kiểm kê, kiểm soát các hoạt động kinh tế và bản thân các cơ quan tham gia QLKT, tránh tình trạng đem của công làm lợi riêng, hy sinh lợi ích tập thể, xã hội vì lợi ích cá nhân cục bộ.
Ba là, cǎn bệnh quan liêu trong hoạt động quản lý. Hồ Chí Minh cho đây là cǎn bệnh có tính phổ biến của mọi hoạt động quản lý nhà nước. Riêng trong QLKT, quan liêu dẫn tới những hậu quả khó lường. Xét về bản chất, quan liêu hoàn toàn đối lập với dân chủ, quản lý dân chủ thật sự không có chỗ cho những biểu hiện quan liêu. Xác định bản chất thật sự của quan liêu, Hồ Chí Minh khẳng định: "Quan liêu là không dân chủ. Muốn tránh bệnh đó thì phải gần gũi quần chúng, gần gũi thực tế, gần gũi công tác, học hỏi quần chúng"8. Hay nói cách khác, muốn tránh được quan liêu, khắc phục bệnh quan liêu phải dùng các giải pháp dân chủ và xây dựng cho được cơ chế QLKT dân chủ, trong đó quần chúng lao động thật sự trở thành người làm chủ QLKT.
Như vậy, trong quan niệm Hồ Chí Minh, QLDC là phương thức tối ưu, đem lại hiệu quả kinh tế cao, trên cơ sở phát huy tính nǎng động sáng tạo của quần chúng lao động với tư cách là người làm chủ các hoạt động sản xuất, trong đó bao hàm cả hoạt động quản lý. Nhằm đảm bảo hạt nhân nền móng của dân chủ - lợi ích thực tế của người lao động - vừa tạo ra động lực cǎn bản làm cho hoạt động kinh tế luôn sinh động, được tiếp thêm nǎng lượng, tránh được sự trì trệ, khô cứng, kém hấp dẫn, Hồ Chí Minh luôn cố gắng tìm tòi các phương thức quản lý hiện đại. Trong sự tìm kiếm đó, Hồ Chí Minh đã phát hiện ra những ưu thế của chế độ làm khoán - một chế độ QLKT có thể kết hợp hài hoà cả ba loại lợi ích như là một đặc trưng tổng quát nội tại của CNXH: "Chế độ làm khoán là một điều kiện của chủ nghĩa xã hội, nó khuyến khích người công nhân luôn luôn tiến bộ, cho nhà máy tiến bộ. Làm khoán là ích chung và lại lợi riêng... làm khoán tốt thích hợp và công bằng dưới chế độ ta hiện nay"9. Tư duy và cách thức quản lý Hồ Chí Minh đã rọi sáng bản chất cốt lõi của quan hệ QLKT : lợi ích con người và sự giải phóng tiềm nǎng cá nhân. Tư duy và cơ chế QLKT dân chủ hiện đại cũng chưa thể vượt qua quan niệm nền tảng về phương thức quản lý này của Hồ Chí Minh.
1,2. Hồ Chí Minh : Về kinh tế và quản lý kinh tế, NXB Thông tin lý luận, H, 1990, tr. 82 - 83, 85
3,7. Hồ Chí Minh Toàn tập, CTQG, H, 1996, T. 10, tr. 51, 68
4, 5. Sđd, T. 12, tr. 564, 567 - 568
6. Sđd, T.11, tr. 367
8,9. Sđd, T.8, tr. 386, 341.