ThS. Trần Vǎn Thanh, KS. Bùi Quang Chuyện
Sau thắng lợi vĩ đại của Cách mạng Tháng Tám ở nước ta, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khai sinh ra nền giáo dục mới tiến bộ. Người kêu gọi toàn dân ra sức thực hiện đồng thời ba nhiệm vụ trọng đại và cấp bách là "Diệt giặc đói, diệt giặc dốt và diệt giặc ngoại xâm". Ngay từ thời kỳ đầu của cuộc cách mạng, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã xác định mục tiêu trước mắt là đưa đất nước ra khỏi nghèo nàn và lạc hậu. Người nói: "Một dân tộc dốt là một dân tộc yếu", vì vậy nhiệm vụ đầu tiên đề ra cho cách mạng Việt Nam là mở chiến dịch xoá nạn mù chữ cho toàn dân. Tư tưởng về giáo dục của Chủ tịch Hồ Chí Minh đã trở thành cơ sở tư tưởng và lý luận cho các cuộc cải cách giáo dục đã và đang tiến hành ở nước ta, xây dựng nhà trường xã hội chủ nghĩ a với phương châm giáo dục "Học đi đôi với hành, giáo dục kết hợp với lao động sản xuất, nhà trường gắn liền với xã hội".
Thấm nhuần tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh về giáo dục, trong những nǎm qua, Đảng và Nhà nước ta đã có những định hướng đúng đắn về sự nghiệp giáo dục và đã giành được những thắng lợi to lớn đưa nền giáo dục nước nhà vươn lên tầm cao mới, góp phần tích cực đưa đất nước đi lên chủ nghĩa xã hội.
I- Khái quát tình hình đào tạo của Bộ Công nghiệp
1. Đánh giá tình hình đào tạo trong giai đoạn hiện nay
Nước ta đang tiến hành công nghiệp hoá, hiện đại hoá, xây dựng cơ sở vật chất của chủ nghĩa xã hội trong điều kiện nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần. Mục tiêu của nền giáo dục trong giai đoạn hiện nay đã được định hình rõ nét, giáo dục nhằm "nâng cao dân trí, đào tạo và bồi dưỡng nhân tài", phấn đấu đến hết nǎm 2000 phổ cập cấp tiểu học và nâng tỷ lệ từ 15% hiện nay lên 22 - 25% nhân lực lao động qua đào tạo. Nhà nước tiến hành đa dạng hoá các loại hình đào tạo, xã hội hoá và dân chủ hoá trong hoạt động giáo dục, huy động toàn xã hội tham gia phát triển giáo dục; tǎng cường quan hệ hợp tác và trao đổi với các nước, các tổ chức quốc tế để phát triển nền giáo dục Việt Nam. Từ những mục tiêu, nhiệm vụ trên đặt ra cho nền giáo dục nước nhà nói chung và công tác giáo dục của ngành Công nghiệp nói riêng cần có những chuyển biến cǎn bản để phù hợp với sự phát triển kinh tế xã hội của đất nước.
Trong những nǎm qua, chấp hành đường lối đổi mới của Đảng, Bộ Công nghiệp đã rất chú trọng công tác đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ, công nhân kỹ thuật đáp ứng đủ yêu cầu lao động cho ngành công nghiệp với chất lượng tốt. Bộ Công nghiệp hiện có gần 350 doanh nghiệp được sắp xếp trong 19 tổng công ty Nhà nước với hơn 400.000 lao động. Trước khi sáp nhập, cả 3 bộ có 74 trường. Sau khi sắp xếp lại hiện có 43 trường thực hiện nhiệm vụ đào tạo nguồn nhân lực cho các ngành kinh tế kỹ thuật. Trong đó có:
+ 5 trường cao đẳng đào tạo cán bộ cao đẳng, trung học chuyên nghiệp và công nhân kỹ thuật.
+ 22 trường trung học vừa đào tạo cán bộ trung học chuyên nghiệp, vừa đào tạo công nhân kỹ thuật.
+ 15 trường đào tạo nghề chuyên đào tạo công nhân kỹ thuật.
+ 1 trường bồi dưỡng tại chức.
Trong các trường trên, có 21 trường thuộc Bộ quản lý, 22 trường trực thuộc các Tổng công ty, Công ty quản lý.
Bộ đã triển khai thực hiện Nghị quyết Hội nghị lần thứ hai Ban Chấp hành Trung ương khoá VIII, sắp xếp lại hệ thống tổ chức các trường cao đẳng, trung học chuyên nghiệp và đào tạo nghề thuộc Bộ một cách hợp lý hơn trên cơ sở phát huy và khai thác tối đa tiềm nǎng của các trường, phát triển quy mô, mở rộng ngành nghề, đa dạng hoá các loại hình đào tạo.
- Quy mô đào tạo ngày càng tǎng. Theo số liệu thống kê, số lượng học sinh được đào tạo, bồi dưỡng bình quân trong nǎm 1996 và 30.670 người thì đến nǎm 1998 đã tǎng lên 53.500 người. Nǎm 1998 đã có 16.332 học sinh tốt nghiệp hệ chính quy các ngành kinh tế - kỹ thuật; số lượng học sinh tính đến tháng 9 nǎm 1999 có 17.415 học sinh tốt nghiệp hệ chính quy (trong đó có 1220 học sinh tốt nghiệp hệ cao đẳng, 2.482 học sinh hệ trong học chuyên nghiệp và 13.713 học sinh tốt nghiệp hệ công nhân kỹ thuật), mở rộng đào tạo nhiều ngành nghề mới đáp ứng cho nhu cầu của ngành công nghiệp như ngành điện tử, tin học, kỹ thuật môi trường, kỹ thuật may và thời trang v.v..
- Đa dạng hoá các loại hình đào tạo, nhiều trường đã tổ chức liên kết mở các lớp đào tạo hệ kỹ sư thực hành tại các doanh nghiệp, tạo điều kiện cho cán bộ - công nhân viên của các doanh nghiệp có thể vừa làm vừa học để nâng cao trình độ chuyên môn.
- Cải tiến nội dung và phương pháp giảng dạy, biên soạn lại nhiều giáo trình, chương trình cho phù hợp với nhu cầu đào tạo và xây dựng nhiều mô hình học cụ phục vụ cho giảng dạy.
- Công tác bồi dưỡng cán bộ quản lý và đội ngũ giáo viên được chú trọng. Bằng nhiều hình thức đào tạo, bồi dưỡng như cử đi học dài hạn các hệ đại học và sau đại học ở trong và ngoài nước nên trình cán bộ - giáo viên đã được nǎng lên rõ rệt. Nǎm 1996 số cán bộ - giáo viên có trình độ cao đẳng - đại học chiếm 34,3% và trên đại học là 2,9% thì đến nǎm 1998 đã nâng lên 73,9% và 7%; nǎm 1999 các số liệu tương ứng là 75,7% và 7,3%. Cùng với các hoạt động trên, cơ sở vật chất cũng được đầu tư nâng cấp bằng nhiều nguồn vốn, góp phần cải tạo và nâng cao điều kiện phục vụ đào tạo.
2. Những tồn tại và nguyên nhân
Bên cạnh những thành tựu đáng kể trên đây, công tác giáo dục và đào tạo hiện nay còn có những yếu kém. Nǎng lực của hệ thống giáo dục đào tạo trên các mặt về đội ngũ cán bộ, cơ sở vật chất, tài chính, tổ chức quản lý còn thấp so với yêu cầu nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực và bồi dưỡng nhân tài cho xã hội trong giai đoạn mới.
- Chưa chuẩn bị tốt nguồn nhân lực cho công nghiệp hoá, hiện đại hoá do nhiều yếu tố tác động đến chất lượng, quy mô đào tạo và thiếu sự phối hợp của các ngành liên quan để xây dựng nhu cầu đào tạo, mất cân đối giữa các ngành đào tạo nên có nhiều ngành nghề sau khi đào tạo không giải quyết được việc làm và ngược lại có ngành có nhu cầu sử dụng nhưng không có nơi đào tạo, chưa gắn đào tạo với sử dụng việc làm trong thị trường sức lao động ở các ngành nghề và địa bàn. Chưa xây dựng được quy hoạch và kế hoạch phát triển định hướng chiến lược về nhân lực, tỷ lệ lao động qua đào tạo còn thấp (khoảng 15%).
- Chưa đạt được sự tiến bộ cần thiết về nội dung, phương pháp và phương tiện dạy học, công tác xây dựng chương trình, giáo trình và tài liệu giảng dạy chưa được chú trọng đầu tư thích đáng, chưa có nhiều giáo trình chuẩn cấp quốc gia. Đặc biệt đồ dùng giảng dạy, thí nghiệm, thực nghiệm, v.v.. đối với các trường đại học, cao đẳng, trung học chuyên nghiệp và đào tạo nghề còn lạc hậu và thiếu không theo kịp tiến bộ khoa học mới.
- Đội ngũ giáo viên vừa thiếu về số lượng, vừa chưa đảm bảo được yêu cầu về chất lượng. Phần đông cán bộ quản lý và giáo viên ít được bồi dưỡng cập nhật kiến thức mới, trình độ ngoại ngữ còn nhiều hạn chế.
- Nguồn ngân sách Nhà nước dành cho giáo dục - đào tạo còn thấp (chiếm khoảng 8,9 - 11,59% tổng số ngân sách hàng nǎm) mới đáp ứng khoảng 60% so với nhu cầu chi cần thiết nên có ảnh hưởng lớn đến sự nghiệp giáo dục - đào tạo của các trường. Đặc biệt với chủ trương xã hội hoá giáo dục, Nhà nước chuyển một số trường chuyên nghiệp từ các Bộ về trực thuộc tổng công ty, nhiều tổng công ty sản xuất chưa có hiệu quả, vì vậy các trường gặp nhiều khó khǎn về tài chính, chất lượng giáo dục - đào tạo bị hạn chế.
Nguyên nhân của những yếu kém: Về mặt khách quan do nước ta còn nghèo, thu nhập quốc dân trên đầu người còn thấp, nguồn tài chính cho giáo dục còn hạn hẹp, trong khi đó quy mô và nhu cầu giáo dục tǎng nhanh. Song về mặt chủ quan chúng ta nhận thấy rằng công tác quản lý giáo dục còn những mặt hạn chế, cơ chế quản lý của ngành giáo dục - đào tạo chưa hợp lý, chưa có những quyết định đủ mạnh về chính sách, cơ chế và biện pháp tổ chức thực hiện. Một số ngành sản xuất kinh doanh chưa có hiệu quả, chưa thu hút và khuyến khích được nhân lực lao động, do vậy chưa tạo ra được động lực đối với người học.
Tóm lại, trong hoàn cảnh đất nước vừa trải qua chiến tranh, với nhiều khó khǎn liên tiếp song nền giáo dục và đào tạo nước ta trong giai đoạn vừa qua đã có nhiều cố gắng để vươn lên thực hiện mục tiêu giáo dục, đào tạo, bước đầu có những chuyển biến tích cực đẩy mạnh nền kinh tế - xã hội. Đặc biệt công tác giáo dục của ngành công nghiệp đã có những tiến bộ nhất định. Để xây dựng và phát triển nền giáo dục, đào tạo trong thời kỳ mới, thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, công tác giáo dục cần phải có sự thay đổi mạnh cả về lượng lẫn về chất.
II- Xây dựng và phát triển nền giáo dục đáp ứng yêu cầu công nghiệp hoá theo tư tưởng Hồ Chí Minh
1. Các quan điểm và cǎn cứ chủ yếu để xây dựng và phát triển giáo dục ngành công nghiệp
Nhận thức đầy đủ giáo dục là tiền đề quan trọng trong sự phát triển của các lĩnh vực xã hội, chính trị, kinh tế, vǎn hoá, v.v.. Đảng Cộng sản Việt Nam luôn luôn vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh vào quá trình phát triển nền giáo dục nước nhà, với cách nhìn "phát triển nền quốc học nhân dân" Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nêu lên những quan điểm sâu sắc: "Muốn xây dựng chủ nghĩa xã hội, trước hết cần có những con người xã hội chủ nghĩa", xây dựng nền giáo dục mới với mục tiêu "Học để làm việc, làm người, làm cán bộ, học để phụng sự đoàn thể, giai cấp, nhân dân, tổ quốc và nhân loại" và "học để hành" v.v..
Trong tư tưởng giáo dục của Chủ tịch Hồ Chí Minh, vấn đề cơ bản nhất, nổi bật nhất là xây dựng và hoàn thiện con người bằng các hoạt động giáo dục và tự giáo dục. để đạt được mục tiêu giáo dục, Chủ tịch Hồ Chí Minh chủ trương giáo dục toàn diện, chú trọng mọi mặt: đạo đức, cách mạng, giác ngộ xã hội chủ nghĩa, vǎn hoá, kỹ thuật, lao động và sản xuất.
Vận dụng tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh về giáo dục, hội nghị lần thứ hai Ban Chấp hành Trung ương Đảng khoá VIII đã xây dựng định hướng chiến lược phát triển giáo dục - đào tạo trong thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá, tạo điều kiện phát triển giáo dục đào tạo trong thời kỳ mới trên cơ sở tư tưởng Hồ Chí Minh, cǎn cứ vào chiến lược phát triển công nghiệp Việt Nam đến nǎm 2010, Bộ Công nghiệp đã xác định quan điểm, mục tiêu và các giải pháp chính sách lớn đảm bảo thực hiện công nghiệp hoá, hiện đại hoá với các nội dung sau:
Về quan điểm phát triển ngành công nghiệp: Phát triển công nghiệp trong tổng thể phát triển kinh tế - xã hội theo định hướng phát huy nội lực và hội nhập vào nền công nghiệp khu vực, phát triển với nhịp độ cao đáp ứng những yêu cầu cơ bản của xã hội, tạo ra cơ cấu của ngành để có sản phẩm tốt theo yêu cầu của thị trường, khuyến khích mọi thành phần kinh tế tham gia phát triển sản xuất công nghiệp theo cơ chế thị trường mở, phát triển một cách toàn diện - hiện đại; ưu tiên các ngành công nghiệp phục vụ cho nông nghiệp và chế biến (nhất là chế biến các sản phẩm từ nông nghiệp) , phát triển ngành công nghiệp gắn với phát triển đô thị và phù hợp với yêu cầu củng cố quốc phòng an ninh.
Về mục tiêu chiến lược: Phấn đấu đến nǎm 2020 đưa nước ta cơ bản trở thành một nước công nghiệp, ngành công nghiệp thực sự là động lực thúc đẩy nền kinh tế - xã hội, đưa tỷ trọng đóng góp của công nghiệp và xây dựng vào GDP lên 34 - 35% vào nǎm 2000, 37 - 38% vào nǎm 2010 và 40 - 41% vào nǎm 2020, chuyển dịch cơ cấu sản xuất công nghiệp hướng về xuất khẩu và thay thế nhập khẩu, tǎng nhanh kim ngạch xuất khẩu hàng công nghiệp, từng b ước xây dựng một số ngành công nghiệp mũi nhọn như điện, khai thác cơ khí, điện tử - tin học, chế biến dầu khí v.v.., chú trọng các ngành công nghiệp sản xuất hàng xuất khẩu và các mặt hàng tiêu dùng, tiểu thủ công nghiệp. Trong giai đoạn 2010 - 2020, song song với việc phát triển ngành công nghiệp chế biến, dệt may v.v.. cần tập trung xây dựng phát triển ngành công nghiệp hiện đại, công nghiệp với công nghệ cao và công nghiệp sản xuất vật liệu mới. Coi trọng phát triển ngành công nghiệp cơ bản như cơ khí, điện tử - tin học, hoá chất và ngành mỏ - luyện kim. Đẩy mạnh phát triển ngành công nghiệp chế biến.
Mục tiêu cơ bản của giáo dục là nhằm xây dựng những con người và thế hệ thiết tha gắn bó với lý tưởng độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, có đạo đức trong sáng, ý chí kiên cường xây dựng và bảo vệ tổ quốc, xây dựng đất nước có nền công nghiệp hiện đại, khoa học kỹ thuật tiên tiến, thông qua giáo dục - đào tạo để nâng cao mặt bằng dân trí, đào tạo nguồn nhân lực và bồi dưỡng nhân tài đáp ứng cho yêu cầu sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, phấn đấu đạt các chỉ tiêu về giáo dục trong những nǎm trước mắt và lâu dài theo Nghị quyết Trung ương 2 đã đề ra. Để thực hiện mục tiêu của ngành công nghiệp, ngoài việc nâng cao nǎng lực cạnh tranh và hiệu quả của các doanh nghiệp, phát huy nội lực tối đa, thu hút nguồn vốn đầu tư và công nghệ nước ngoài thì phải coi trọng việc giáo dục, - đào tạo nguồn nhân lực và bồi dưỡng nhân tài cho công nghiệp hoá, hiện đại hoá, đòi hỏi đội ngũ lao động phải có trí tuệ cao, trình độ khoa học và công nghệ tiên tiến, hiện đại trên tất cả các lĩnh vực khoa học quản lý, khoa học xã hội, khoa học tự nhiên và công nghệ, có như vậy mới đáp ứng nhu cầu phát triển của các ngành công nghiệp Việt Nam.
Coi giáo dục là quốc sách hàng đầu: Vǎn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ VIII của Đảng khẳng định: "Cùng với khoa học và công nghệ, giáo dục và đào tạo là quốc sách hàng đầu nhằm nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài"1, không những ở những ở Việt Nam mà nhiều nước trên thế giới đã xếp giáo dục vào vị trí quốc sách hàng đầu và bởi vậy nền giáo dục mới được ưu tiên hàng đầu trong các chính sách quốc gia, giáo dục ngày nay đang trở thành một bộ phận đặc biệt của cấu trúc hạ tầng xã hội.
Với những quan điểm đổi mới của Đảng. Đầu tư cho giáo dục là đầu tư phát triển, do vậy Nhà nước đã có nhiều chính sách ưu đãi cho ngành giáo dục, đặc biệt là ưu tiên xây dựng đội ngũ giáo viên, tạo điều kiện về tiền lương, phụ cấp ưu đãi, v.v. để thu hút và khuyến khích những người học giỏi vào ngành sư phạm, tôn vinh giá trị xã hội của người thầy. Đồng thời Nhà nước sẽ nâng dân tỷ lệ đầu tư cho giáo dục 11,51% lên 15% nǎm2000, 20% nǎm 2010 v.v. trong tổng chi ngân sách.
Phát triển giáo dục - đào tạo gắn với nhu cầu phát triển kinh tế - xã hội và khoa học công nghệ
Giáo dục - đào tạo cùng với khoa học và công nghệ là nhân tố quyết định tǎng trưởng kinh tế và phát triển xã hội, đảm bảo mối quan hệ hữu cơ giữa phát triển giáo dục và phát triển kinh tế để tạo ra sự hài hoà giữa tǎng trưởng kinh tế với tiến bộ xã hội. Trong việc phát triển kinh tế trước trước hết phải xem xét quy hoạch đào tạo nguồn nhân lực đáp ứng cho nhu cầu phát triển kinh tế, giáo dục - đào tạo là cái "nôi" để phát triển khoa học, nền giáo dục phải gắn liền với nền khoa học hiện đại và ngược lại chiến lược khoa học công nghệ góp phần quan trọng và là nền tảng, động lực cho công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Như vậy chiến lược phát triển giáo dục phải gắn với chiến lược phát triển khoa học và công nghệ và cả hai đều phải gắn với chiến lược phát triển kinh tế - xã hội. Cǎn cứ vào định hướng phát triển khoa học kỹ thuật ngành công nghiệp đến nǎm 2000 thì công tác giáo dục - đào tạo ngành công nghiệp chú trọng phát triển nguồn nhân lực cho công nghiệp chế biến sản phẩm, công nghiệp tiêu dùng, công nghiệp thực phẩm, công nghiệp sản xuất vật liệu mới (như nǎng lượng, hoá dầu, phần mềm tin học, cơ khí chế tạo v.v..) và các ngành công nghiệp cơ bản.
Thực hiện công bằng xã hội trong giáo dục - đào tạo
Với phương châm "Ai cũng được học hành", Nhà nước đã có những chính sách khuyến khích mọi người học tập, động viên những học sinh có kết quả học tập và rèn luyện tốt, có các chế độ ưu đãi đối với các con em thuộc diện chế độ chính sách, thể hiện sự quan tâm của Nhà nước và sự ưu đãi của chế độ xã hội chủ nghĩa.
Cùng với sự phát triển kinh tế của nước ta trong nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần, Nhà nước đang tiến hành xã hội hoá giáo dục, hệ thống các trường được mở rộng quy mô với đa cấp học, đa phương hoá ngành nghề đào tạo, thu hút và tập hợp các tổ chức, cá nhân cùng tham gia vào quá trình phát triển giáo dục. Các trường cao đẳng và trung học chuyên nghiệp ngoài việc đào tạo các ngành ở trình độ theo cấp học còn đào tạo đội ngũ ở bậc thấp hơn, tǎng cường liên kết đào tạo các ngành đặc thù mà xã hội có nhu cầu sử dụng như công nghiệp địa chất, hoá chất, dầu khí, luyện kim, thời trang, v.v..
2. Một số giải pháp chính
Để đưa Nghị quyết của Đảng vào thực tiễn của cuộc sống, cần có những giải pháp cơ bản, đó là:
Tiếp tục đổi mới công tác quản lý giáo dục: Vị trí của nền giáo dục rất quan trọng nên phải đưa giáo dục vào quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế - xã hội của cả nước và từng khu vực để định hướng phát triển cho công tác giáo dục ở các cấp. Đồng thời hoá công tác quản lý Nhà nước về giáo dục - đào tạo của các cấp bộ, ngành ở Trung ương, tránh sự chồng chéo. Nâng cao lực lượng đội ngũ cán bộ làm công tác quản lý giáo dục. Thực hiện quản lý giáo dục bằng Luật Giáo dục và hệ thống các vǎn bản dưới luật. Để quản lý tốt chất lượng đào tạo của các trường thuộc bộ, Bộ Công nghiệp thường xuyên quan tâm đến việc quản lý mục tiêu, kế hoạch và chương trình đào tạo của các trường theo kế hoạch từng nǎm học.
Cải tiến đồng bộ mục tiêu, nội dung, phương pháp đào tạo
Phải chuẩn mục tiêu, chương trình đào tạo cho phù hợp với sự phát triển kinh tế - xã hội của đất nước, tích cực đổi mới phương pháp giáo dục, khắc phục lối truyền thụ kiến thức một chiều và phát triển nếp tư duy sáng tạo của người học, từng bước áp dụng các phương pháp giáo dục tiên tiến và phương tiện dạy học hiện đại vào quá trình dạy học "Học phải đi đôi với hành"; tạo điều kiện và khuyến khích các phong trào tự học, học thường xuyên và học suốt đời... Đối với các ngành kỹ thuật, ngoài việc trang bị cho người lao động có kiến thức về lý thuyết thì cần phải trang bị các kỹ nǎng, kỹ xảo, nǎng lực thực hành để người lao động có thể vận hành tốt các trang thiết bị phục vụ cho nhu cầu sản xuất.
Tǎng cường đầu tư cho giáo dục. Nguồn ngân sách Nhà nước giữ vai trò chủ yếu trong tổng nguồn lực chi cho giáo dục - đào tạo, Nhà nước có chủ trương xã hội hoá giáo dục do vậy cần khai thác và huy động mọi tiềm nǎng kinh tế của các tổ chức, cá nhân để đầu tư cho giáo dục, nên có những quy định về đóng góp kinh phí của doanh nghiệp có sử dụng lao động được đào tạo. Nhà nước cần có chính sách hỗ trợ về kinh phí đối với các trường thuộc các tổng công ty sản xuất chưa có lãi để các trường này yên tâm và duy trì ổn định quá trình đào tạo.
Sử dụng có hiệu quả và tǎng cường đầu tư kinh phí, trang thiết bị cho hoạt động giáo dục tại các trường, các viện nghiên cứu đồng thời khai thác triệt để những nguồn lực vật chất đã được đầu tư một cách có hiệu quả.
Củng cố và phát triển đội ngũ giáo viên và cán bộ giảng dạy:
Theo Luật Giáo dục, giáo viên là nhân tố có ảnh hưởng quyết định đến chất lượng giáo dục do vậy cần tǎng cường đội ngũ giáo dục do vậy cần tǎng cường đội ngũ giáo viên đủ về số lượng, mạnh về chất lượng, chuẩn hoá giáo viên ở các cấp, bậc học, phát triển đội ngũ cán bộ và các chuyên gia đầu ngành trong các trường sư phạm. Có chính sách khuyến khích những học sinh giỏi vào các trường sư phạm và các cán bộ khoa học kỹ thuật có trình độ cao tham gia giảng dạy ở các cơ sở đào tạo. Đội ngũ giáo viên thường xuyên được học tập nâng cao trình độ và cập nhật kiến thức để kịp thời ứng dụng những kiến thức để kịp thời ứng dụng những tiến bộ khoa học kỹ thuật vào lý luận dạy học. Phấn đấu đến hết nǎm 2000 các trường thuộc bộ có 100% cán bộ quản lý và đội ngũ giáo viên đạt chuẩn về trình đội chuyên môn và nghiệp vụ sư phạm theo tiêu chuẩn của Nhà nước đã đề ra.
Phát triển sự hợp tác quốc tế về giáo dục:
Hợp tác quốc tế trong giáo dục là phát huy mọi khả nǎng nhằm khai thác tối đa các nguồn viện trợ quốc tế góp phần tǎng cường nguồn lực để đổi mới và từng bước hiện đại hoá cơ sở vật chất thiết bị, góp phần nâng cao chất lượng đào tạo ở các cấp, bậc học. Tiếp tục hợp tác với các nước Trung Quốc, Nhật Bản, ốxtrâylia, Hàn Quốc, Đức.v.v. trong việc phát triển hợp tác để bồi dưỡng nghiệp vụ về công tác quản lý và đào tạo đội ngũ cán bộ khoa học, công nhân kỹ thuật, kỹ thuật viên có trình độ và tay nghề cao.
*
* *
Công nghiệp hoá là một nhiệm vụ rất quan trọng và cần thiết để đưa nước ta đi lên chủ nghĩa xã hội, khắc phục nguy cơ tụt hậu, đuổi kịp các nước trong khu vực và thế giới. Công nghiệp hoá trước hết phải có vốn đầu tư nhưng điều quan trọng hơn cả là phải có đội ngũ lao động lành nghề và đội ngũ cán bộ khoa học kỹ thuật biết sử dụng và khai thác tiềm nǎng về cơ sở vật chất. Muốn làm được điều đó phải coi việc xây dựng và phát triển nền giáo dục là nhiệm vụ hàng đầu.
Trong những nǎm qua tư tưởng xây dựng và phát triển nền giáo dục của Chủ tịch Hồ Chí Minh đã được phát huy và vận dụng một cách có hiệu quả. Để ước nguyện của Người: "Ai cũng có cơm ǎn, áo mặc, ai cũng được học hành"1 trở thành hiện thực, Đảng và Nhà nước ta cần quan tâm hơn nữa, cần có sự chỉ đạo đúng đắn và biện pháp mạnh mẽ đối với sự nghiệp trồng người, quyết tâm thực hiện mục tiêu dân giàu nước mạnh, xã hội công bằng vǎn minh.
NXB. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2000
1. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, t.4, tr.161