Thạc sỹ Phạm Vǎn Bích
Thực tế cách mạng Việt Nam suốt thế kỷ XX đã chứng tỏ vấn đề liên minh công nhân, nông dân và trí thức luôn sôi động trong chương trình nghị sự của cách mạng.
Cách mạng không phải là kết quả của những hoạt động có tính chất âm mưu và là sự vùng dậy của đông đảo quần chúng có giác ngộ về mục tiêu chung nhằm đánh đổ chế độ thống trị cũ, xây dựng chế độ mới. c giải phóng dân tộc cũng thế, đó là sự vùng dậy của cả một dân tộc, để đánh đổ ách thống trị của nước ngoài, giành lại quyền độc lập tự do cho dân tộc mình. Giai cấp vô sản tiến hành cách mạng vô sản nói chung và sự nghiệp giải phóng dân tộc nói riêng không thể một mình làm nổi mà phải liên mình với giai cấp nông dân và tầng lớp trí thức và đoàn kết với mọi lực lượng yêu nước trong dân tộc. Đây chính là tư tưởng chỉ đạo của Hồ Chí Minh và sự nhận thức đúng đắn của những người cộng sản Việt Nam trong tiến trình cách mạng ở nước ta.
Vấn đề bạn đồng minh của giai cấp vô sản được chủ nghĩa Mác - Lênin coi là vấn đề chiến lược của cách mạng. Giai cấp vô sản chỉ có thể chiến thắng kẻ thù khi tranh thủ được nhiều bạn đồng minh trong và ngoài nước, nhất là tranh thủ được người bạn "đồng minh tự nhiên" của mình là nông dân. Do thấm nhuần quan điểm trên của chủ nghĩa Mác - Lênin và vận dụng vào điều kiện Việt Nam, Hồ Chí Minh và các lãnh tụ tiền bối cách mạng đã nhận thức đúng vai trò và sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân Việt Nam ngay từ những nǎm đang chuyển mình từ tự phát sang tự giác. Đồng thời thấy rõ giai cấp nông dân Việt Nam là một lực lượng cách mạng đông đảo to lớn, một trong những cái "gốc" của cách mạng và vai trò "ngòi pháo" cách mạng của tầng lớp trí thức Chính vì vậy trong các vǎn kiện của Đảng Cộng sản Việt Nam, tư tưởng liên minh công - nông - trí thức xuất hiện khá sớm.
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ II của Đảng Cộng sản Việt Nam khẳng định: Trí thức là một trong những động lực đáng kể của cách mạng Việt Nam: Họ là bạn đồng minh tin cậy được của giai cấp công nhân. Cũng không phải ngẫu nhiên mà trong Báo cáo chính trị tại Đại hội lần thứ II của Đảng, Chủ tịch Hồ Chí Minh nêu rõ: Về thành phần, Đảng Lao động Việt Nam sẽ kết nạp những công nhân, nông dân, lao động trí óc, thật hǎng hái, thật giác ngộ cách mạng" 1. Việc khẳng định công dân, nông dân, trí thức là thành phần cơ bản của đảng và coi nông dân và trí thức là bạn đồng minh tin cậy của giai cấp công nhân là những nhận thức mới của Hồ Chí Minh và Đảng Cộng sản Việt Nam. Chính do nhận thức đúng và đã thực hiện tốt sự liên minh giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và tầng lớp trí thức, Đảng Cộng sản Việt Nam đứng đầu là Chủ tịch Hồ Chí Minh lãnh đạo Cách mạng Việt Nam giành được thắng lợi rực rỡ trong cách mạng dân tộc dân chủ và những thành công bước đầu trong xây dựng chủ nghĩa xã hội.
Cũng cần lưu ý rằng, trong các tác phẩm, bài nói, bài viết của mình, Hồ Chí Minh chưa sử dụng toàn bộ cụm từ liên minh công-nông-trí thức, mà chủ yếu sử dụng cum từ liên minh công-nông. Những vấn đề Người đề cập vừa mang tính khái quát lý luận vừa thể hiện tính hiện thực của cách mạng Việt Nam. Người xác định "chỉ có giai cấp công nhân lãnh đạo, thì nông dân mới được giải phóng. Cũng chỉ có thắt chặt liên minh với nông dân thì giai cấp công nhân mới lãnh đạo cách mạng đến thắng lợi" 2. Song trong thực tế Người cũng rất coi trọng việc giác ngộ, tập hợp những trí thức Việt Nam vào hàng ngũ cách mạng, phát huy vai trò "ngòi pháo" đồng thời làm cho họ trở thành một động lực cách mạng quan trọng. Những hội viên đầu tiên của "Việt Nam Thanh niên Cách mạng đồng chí hội" do Người tổ chức ở Quảng Châu (1925) là những người có học, những thanh niên trí thức yêu nước thời bấy giờ.
Trong đấu tranh giành chính quyền, Hồ Chí Minh coi công - nông là gốc của cách mạng còn trí thức tiểu tư sản là bầu bạn của công - nông. Khi có chính quyền, việc củng cố xây dựng chính quyền nói riêng và xã hội mới nói chung là rất quan trọng và Người cho rằng trí thức Việt Nam là vốn quý là lực lượng xung kích trong quá trình chấn hưng đất nước. Phát biểu tại cuộc họp đầu tiên của Uỷ ban nghiên cứu kế hoạch kiến quốc ngày 10-1-1946, Hồ Chí Minh nói: "Các chiến sĩ đã hy sinh cho cách mạng thành công và đang hy sinh để giữ vững đất nước. Còn các ngài, đã đem tài nǎng tri thức lo bồi bổ về mặt kinh tế và xã hội. Các ngài xứng đáng là những chiến sĩ xung phong" 3.
Lênin đã từng đánh giá rất cao sự liên minh của giai cấp vô sản với tầng lớp trí thức trong công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Nga, Người cho rằng "Trước sự liên minh của các đại biểu khoa nhọc, giai cấp vô sản và giới kỹ thuật, không một thế lực đen tối nào đứng vững được" 4. Cùng với ý nghĩa ấy, khi miền Bắc đi vào xây dựng chủ nghĩa xã hội, Hồ Chí Minh khẳng định: "Trong sự nghiệp cách mạng, trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội, lao động trí óc có một vai trò quan trọng và vẻ vang, và công, nông, trí cần phải đoàn kết chặt chẽ thành một khối" 5. Tư tưởng liên minh công nông, trí thức của Hồ Chí Minh được thể hiện, đặc biệt rõ ràng trong quan điểm trên đây. Đã nhiều lần Người nói rõ thái độ của mình và của Đảng Cộng sản Việt Nam với trí thức. Người khẳng định "Cách mạng rất cần trí thức và chính ra chỉ có cách mạng mới biết trong trí thức 6 và "lao động trí óc cần được khuyến khích giúp đỡ, phát triển tài nǎng" 7. Trên thực tế Hồ Chí Minh và Đảng Cộng sản Việt Nam đã làm như thế. Bởi một lẽ hiển nhiên rằng: Liên minh giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và tầng lớp trí thức chẳng những là yêu cầu khách quan về chính trị, làm nền tảng vững chắc cho Nhà nước trong sự nghiệp xây dựng, bảo vệ chính quyền, mà còn là yêu cầu khách quan trong sự nghiệp phát triển kinh tế, vǎn hoá, xã hội của đất nước. Nếu các nước phát triển đi lên Chủ nghĩa xã hội cần có liên minh công-nông - trí thức, thì ở các nước kém phát triển nơi nông dân chiếm số đông trong dân cư càng phải nhận thức đầy đủ ý nghĩa chiến lược của khối liên minh này.
Vậy nội dung chủ yếu nhằm củng cố và phát triển khối liên minh công nông - trí thức trong thời kỳ công nghiệp hoá nước ta là gì?
Quá trình công nghiệp hoá đất nước, tự bản thân nó tạo ra những điều kiện cho công, nông, trí thức cố kết với nhau, liên minh với nhau chặt chẽ hơn do quan hệ của họ với tư liệu sản xuất, với sự phát triển lực lượng sản xuất trong quan hệ với tư liệu tiêu dùng và trong tiến bộ về đời sống tinh thần, vǎn hoá. Đây thực sự là một quá trình "công nông trí thức hoá. Trí thức công nông hoá" như Hồ Chí Minh đã nói. Song sự biến động cơ cấu giai cấp xã hội này có làm cho khối liên minh công - nông - trí thức được củng cố vững chắc hay không hoàn toàn tuỳ thuộc vào thái độ của giai cấp công nhân đối với nông dân và trí thức. Đành rằng công nghiệp hoá đất nước không trực tiếp giải quyết những quan hệ chính trị, mà bản thân của đấu tranh hay liên minh giai cấp trước hết là những quan hệ chính trị. Nhưng công nghiệp hoá là một quá trình chuyển biến cách mạng từ xã hội nông nghiệp lạc hậu sang xã hội công nghiệp vǎn minh, là quá trình cải biến về phương thức sản xuất, về quan hệ và cơ cấu xã hội. Thích ứng với phương thức sản xuất mới và quan hệ xã hội mới do công nghiệp hoá đạt được phải là một thượng tầng chính trị mới. Đây thực sự là một cuộc cách mạng triệt để. Quá trình này đòi hỏi giai cấp công nhân mà đại diện là Đảng Cống sản phải thực sự mạnh, phải có ý chí chiến đấu cao, bền bỉ, quyết tâm phấn đấu vì lợi ích của giai cấp, của dân tộc. Nói cách khác là giai cấp công nhân cùng với đội tiên phong của mình là Đảng Cộng sản phải có uy tín trong xã hội, trong dân tộc, thường xuyên giữ vững và phát triển uy tín trong xã hội và trong nhân dân.
Những lợi ích cơ bản, lâu dài của giai cấp công nhân, giai cấp nông dân, tầng lớp trí thức và của cả dân tộc về cǎn bản là thống nhất. Nó từng bước được thực hiện trong quá trình công nghiệp hoá nhằm đưa Việt Nam trở thành một nước giàu mạnh, công bằng vǎn minh, mọi người dân được sống ấm no, tự do, hạnh phúc. Mục tiêu chung của liên minh công - nông - trí thức trong quá trình công nghiệp hoá là thống nhất, nhưng giữa nông dân và trí thức có nhiều điểm khác nhau. Vì vậy nội dung cụ thể nhằm củng cố, phát triển liên minh này trong quá trình công nghiệp hoá phải đặt ra những vấn đề khác nhau đối với nông dân và trí thức.
I. Đối với nông dân
Nội dung liên minh công - nông trong quá trình công nghiệp hoá thể hiện rõ trên các lĩnh vực chính trị, kinh tế, xã hội.
Nội dung chính trị của liên minh giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông dân thể hiện trước hết ở chỗ, hai giai cấp đoàn kết, gắn bó chặt chẽ, trở thành lực lượng cách mạng chủ yếu nhất để bảo vệ thành quả cách mạng đã giành được, bảo vệ vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản, xây dựng và bảo vệ Nhà nước xã hội chủ nghĩa, một công cụ chủ yếu để nhân dân lao động từng bước thực sự làm chủ xã hội. Để thực hiện được những nội dung và lợi ích nêu trên, việc không ngừng nâng cao vai trò, nǎng lực và uy tín lãnh đạo của Đảng, hiệu lực quản lý của Nhà nước... là yêu cầu khách quan, bức thiết. Có như vậy, xét về mặt chính trị - tư tưởng, Đảng mới có thể từng bước chǎm lo việc tuyên truyền, giáo dục giác ngộ xã hội chủ nghĩa cho giai cấp công nhân, đặc biệt là giai cấp nông dân... để cho họ có điều kiện nhận thức và thực hiện đúng đường lối cách mạng của Đảng, pháp luật và chính sách của Nhà nước trên mọi hoạt động của xã hội.
Để củng cố và phát triển liên minh công - nông trên lĩnh vực chính trị, ngoài việc xây dựng và củng cố hệ thống chính trị trên cả nước, cần đặc biệt chú ý đổi mới nhận thức tổ chức và phương thức hoạt động hệ thống chính trị ở nông thôn. Hiện nay, các cấp bộ Đảng, Nhà nước, các tổ chức xã hội ở nông thôn, bên cạnh những thành tựu, còn nhiều mặt yếu kém. ở nhiều nơi những biểu hiện tiêu cực, vi phạm quyền làm chủ của nông dân rất nghiêm trọng. Điều đó chẳng những là trở lực lớn đối với sản xuất nông nghiệp và đời sống nông dân, mà còn làm cho lòng tin của nông dân đối với giai cấp công nhân với Đảng và Nhà nước, với chủ nghĩa xã hội... bị suy giảm, trực tiếp làm suy yếu liên minh công - nông ở cơ sở - nơi trực tiếp thực hiện những nội dung cụ thể của liên minh, trực tiếp biến đường lối cách mạng, pháp luật, chính sách thành hiện thực, trên địa bàn rộng lớn nhất của cả nước. Đây thực sự là một vấn đề hệ trọng phải khắc phục một cách có hiệu quả trên thực tế, nếu muốn công nghiệp hoá và phát triển về chính trị, kinh tế, xã hội trong cả nước.
Trước hết, cần đổi mới nhận thức, tổ chức và phương thức hoạt động của các cấp bộ đảng ở nông thôn. Từng cấp bộ đảng đến mỗi đảng viên ở nông thôn phải thể hiện trước nông dân như những đại biểu tiên tiến của giai cấp công nhân, hoạt động trực tiếp ở nông thôn, góp phần lãnh đạo nông dân, nông thôn từng bước đi lên chủ nghĩa xã hội. Không ít cấp bộ đảng ở nông thôn (chi bộ, đảng bộ xã, thôn) vẫn còn tình trạng thể hiện ra như là tổ chức có tính chất tiểu nông của làng, xã, thân tộc, không chú ý đến tiêu chuẩn cấp uỷ viên, chất lượng đảng viên.
Vì vậy, việc thường xuyên kiểm tra, đánh giá, đổi mới đội ngũ cấp uỷ viên, đảng viên ở nông thôn, đi đôi với quá trình giáo dục, bồi dưỡng, đào tạo những cán bộ, đảng viên đáp ứng yêu cầu công nghiệp hoá là nhiệm vụ rất cấp thiết.
Nông dân gắn bó trực tiếp với Đảng, chủ yếu là qua cấp uỷ Đảng và đảng viên nông thôn. Qua những hoạt động trong sản xuất và đời sống mỗi cán bộ, đảng viên mới thể hiện được vai trò và tác dụng lãnh đạo của mình, đồng thời mới thực sự gần gũi, động viên nông dân tham gia đóng góp ý kiến xây dựng Đảng, giám sát hoạt động của cán bộ đảng viên. Qua đó, cấp uỷ mới quản lý được đảng viên, mới có điều kiện lựa chọn cấp uỷ viên có phẩm chất, nǎng lực, đồng thời thâu nạp được những quần chúng nông dân tiên tiến vào Đảng để thường xuyên đổi mới và nâng cao chất lượng của các cấp uỷ đảng và đảng viên ở nông thôn.
Cũng qua phong trào thực tiễn, cấp uỷ đảng mới có thể lãnh đạo để quần chúng nông dân phát huy dân chủ thực sự trong quá trình bầu cử (và bãi miễn) các cơ quan Nhà nước ở nông thôn theo hướng đổi mới. Đảng và Nhà nước cần trưng cầu ý kiến nông dân, điều tra để nắm bắt được những điều kiện, hoàn cảnh và nguyện vọng chính đáng của nông dân trước khi đưa ra những vấn đề về luật pháp, chính sách... có quan hệ trực tiếp đến sản xuất và đời sống của nông dân, trả lời, giải quyết kịp thời những vấn đề nông dân đặt ra... theo hướng vừa đáp ứng lợi ích của nông dân, vừa giáo dục, định hướng cho họ có ý thức và hành động thực tế để bảo vệ và xây dựng chủ nghĩa xã hội, tiến hành công nghiệp hoá.
Đối với tổ chức xã hội, các đoàn thể ở nông thôn cần tổ chức gọn nhẹ, khắc phục bệnh hình thức, hành chính hoá cồng kềnh, ít hiệu quả... Cần đổi mới nội dung và hình thức hoạt động, đúng với vai trò và chức nǎng cụ thể của mỗi loại tổ chức, thu hút và tổ chức nông dân hoạt động có kết quả thiết thực. Đặc biệt là làm cho hội nông dân các cấp trở thành tổ chức quần chúng rộng rãi và vững mạnh của nông dân, có khả nǎng tham gia vào công việc của chính quyền, của các hợp tác xã, giáo dục nông dân đoàn kết, giúp đỡ nhau trong sản xuất và đời sống, tham gia giải quyết nhiều vấn đề kinh tế, xã hội, bảo vệ lợi ích chính đáng của nông dân, đấu tranh chống mọi biểu hiện tiêu cực ở nông thôn.
- Nội dung kinh tế là nội dung cơ bản và quyết định nhất, làm cơ sở vững chắc cho liên minh công nông trong quá trình công nghiệp hoá.
Bản chất sâu xa của liên minh công-nông, xét về mặt kinh tế, chính là quá trình giải quyết đúng đắn mối quan hệ giữa các lợi ích kinh tế của hai giai cấp và của toàn xã hội. Các lợi ích kinh tế này không đối kháng mà về cơ bản là thống nhất nhưng vẫn luôn luôn nảy sinh mâu thuẫn cần phát hiện và giải quyết những điều kiện cụ thể. Quá trình kết hợp đúng đắn các lợi ích kinh tế biểu hiện ở các quan hệ tác động qua lại giữa công nghiệp và nông nghiệp, công nhân và nông dân, đặc biệt là quan hệ giữa Nhà nước và nông dân.
Quan hệ giữa công nghiệp và nông nghiệp trong quá trình liên minh là mối quan hệ cơ bản nhất trong sự nghiệp phát triển kinh tế nước ta. Từ lâu, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nhận thức rõ và khẳng định: "Công nghiệp và nông nghiệp phải giúp đỡ lẫn nhau và cùng nhau phát triển, như hai chân đi khoẻ và đi đều thì tiến bước sẽ nhanh và nhanh chóng đi đến mục đích" 8.
Cương lĩnh của Đảng khẳng định và phát triển thêm phương hướng đó, tạo điều kiện cho giai cấp công nhân, giai cấp nông dân đoàn kết gắn bó với nhau để từng bước công nghiệp hoá đất nước theo hướng hiện đại gắn liền với phát triển nền nông nghiệp toàn diện... nhằm từng bước xây dựng cơ sở vật chất - kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội, không ngừng nâng cao nǎng suất lao động xã hội và cải thiện đời sống nhân dân 9. Xác định đúng vị trí, tiềm nǎng, bước đi của công nghiệp và nông nghiệp trong từng thời kỳ, trong sự phát triển gắn bó chặt chẽ, tạo điều kiện cho nhau cùng phát triển.
Nông nghiệp không thể có nǎng suất cao, hàng hoá nông sản nhiều và chất lượng tốt nếu không có sự tác động trực tiếp của công nghiệp. Trong điều kiện hiện, cần tập trung phát triển những cơ sở công nghiệp nặng phục vụ một cách thiết thực và có hiệu quả cao cho nông nghiệp, nông nghiệp hàng tiêu dùng, hàng xuất khẩu, để vừa thúc đẩy nông nghiệp phát triển, vừa cải thiện đời sống nhân dân, trong đó đại bộ phận là công nhân và nông dân.
Công nghiệp không thể phát triển vững chắc và ngày càng hiện đại, không thể tiến hành công nghiệp hoá đất nước, nếu không có nền nông nghiệp phát triển toàn diện, có sản lượng hàng hoá cao... làm cơ sở, đồng thời là thị trường rộng lớn. Trong điều kiện nước ta hiện nay, phương hướng chung để phát triển nông nghiệp là phát triển toàn diện, chuyên canh kết hợp với kinh doanh tổng hợp, tạo nhiều hàng hoá nông sản phong phú, chất lượng tốt, đặc biệt là lương thực, đáp ứng đủ nhu cầu trong nước và xuất khẩu, đồng thời phát triển chǎn nuôi, cây thực phẩm và cây công nghiệp, đáp ứng nhu cầu đời sống của xã hội, nhu cầu nguyên liệu cho công nghiệp và hàng xuất khẩu.
Để gắn công nghiệp với nông nghiệp, ngoài phương hướng về phát triển nông nghiệp, về cơ cấu kinh tế ở tầm "vĩ mô", các địa phương cần xác định cụ thể và đúng đắn cơ cấu kinh tế của mình, gắn với việc phục vụ những mục tiêu chung của cả nước. Sự gắn bó công nghiệp với nông nghiệp, công nhân với nông dân, thành thị với nông thôn trong phương hướng phát triển kinh tế của đất nước thể hiện cả trong quá trình liên kết liên doanh sản xuất công nghiệp và nông nghiệp, lẫn trong quá trình lưu thông, giao lưu, trao đổi hàng hoá, phân phối và tiêu dùng sản phẩm. Đồng thời đó cũng là quá trình kết hợp các lợi ích kinh tế một cách đúng đắn, tạo ra động lực cǎn bản nhất để công nhân và nông dân yên tâm, phấn khởi cùng đẩy mạnh sản xuất trong sự liên kết chặt chẽ và lâu dài, qua đó mới có điều kiện bảo đảm lợi ích của Nhà nước, của toàn xã hội.
Đặc biệt, phải giải quyết đúng đắn quan hệ giữa nhà nước và nông dân ngoài quan hệ trực tiếp giữa công nhân và nông dân thông qua phát triển công nghiệp và nông nghiệp, nội dung kinh tế của liên minh còn được thể hiện qua quan hệ Nhà nước với nông dân. Trong quan hệ đó, Nhà nước vừa là một chủ thể lợi ích - đại diện xã hội - có quan hệ dân chủ, bình đẳng cùng có lợi với nông dân, vừa có trách nhiệm, khả nǎng giúp đỡ, định hướng và điều tiết hợp lý các hoạt động, các quan hệ lợi ích, thông qua luật pháp, chính sách và những cơ sở kinh tế quốc doanh. Trong quan hệ Nhà nước với nông dân, nông dân quan tâm thường xuyên về những luật lệ, chính sách và khả nǎng của nhà nước có quan hệ thiết thân đến lợi ích và nghĩa vụ, đến nhu cầu của họ trong sản xuất và đời sống. Trước hết, nông dân quan tâm đến luật pháp, chính sách, cơ chế về sở hữu và sử dụng ruộng đất, rừng biển. Trong khi xác định những tài nguyên ấy là của toàn xã hội, đồng thời Nhà nước cần trao quyền sử dụng, quản lý những tài nguyên ấy một cách tương đối lâu dài và ổn định cho nông dân để các hộ gia đình nông dân thực sự là những đơn vị kinh tế tự chủ, sản xuất có hiệu quả và hoàn thành nghĩa vụ đối với xã hội. Nông dân cũng rất chú ý đến luật pháp và chính sách đầu tư vốn, vật tư, khoa học và công nghệ, cán bộ... vào nông nghiệp và nông thôn. Trên thực tế, nông dân rất nhạy cảm với các chính sách thuế nông nghiệp và giá cả nông sản, giá vật tư và hàng công nghiệp, trong quá trình làm nghĩa vụ trao đổi, mua bán giữa Nhà nước và nông dân theo hợp đồng, thoả thuận. Nông dân yêu cầu Nhà nước có chính sách, cơ chế tiêu thụ, chế biến, bảo hiểm cho hàng hoá nông sản... Nhà nước cũng là mắt khâu chủ yếu gắn nông dân với thị trường thế giới trong sản xuất kinh doanh (đặc biệt là cơ chế, quy hoạch sản xuất - nhập khẩu có quan hệ trực tiếp đến nông nghiệp, nông dân và nông thôn). Trong cơ chế kinh tế hàng hoá nhiều thành phần, Nhà nước chấp nhận việc phân hoá giầu nghèo ở nông thôn, nhưng cũng có chính sách, biện pháp, giúp đỡ nông dân nghèo về vốn, vật tư, về cách làm ǎn để họ vươn lên trong sản xuất và đời sống. Đồng thời, Nhà nước vừa khuyến khích nông dân làm giầu chính đáng, vừa điều tiết quan hệ lợi ích và ngǎn chặn mọi hình thức làm giàu phi pháp.
Trong quá trình từng bước xây dựng quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa ở nông thôn với những hình thức và bước đi phù hợp, thì vai trò lãnh đạo của Đảng, vai trò quản lý, giúp đỡ của Nhà nước, tác động của công nhân và công nghiệp là đặc biệt quan trọng. Nội dung kinh tế này của liên minh công nông không chỉ đơn thuần thuộc lĩnh vực kinh tế, mà còn quan hệ đến các lĩnh vực chính trị, vǎn hoá, xã hội. Xa rời nội dung có tính quy luật, tính nguyên tắc định hướng này thì liên minh cũng sẽ xa rời con đường đi lên chủ nghĩa xã hội, sẽ không thực hiện được lợi ích chung, cơ bản và lâu dài của giai cấp công nhân, giai cấp nông dân và của nhân dân lao động trên toàn xã hội. Vấn đề cơ bản nhất của quá trình cải tạo quan hệ sản xuất là ở chỗ, các hình thức của quan hệ sản xuất mới phải phủ hợp với tính chất, trình độ, yêu cầu của sự phát triển lực lượng sản xuất trong những điều kiện cụ thể, bảo đảm lợi ích, đời sống của người lao động. Trong nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần, các hình thức kinh tế của nông dân nước ta hiện nay có kinh tế hợp tác xã, kinh tế cá thể (kể cả trang trại) và một số hình thức hợp tác sản xuất thấp hơn như tổ đổi công, nhóm các hộ gia đình... (nhất là ở miền núi). Thực hiện từng bước một cách có hiệu quả các hình thức kinh tế ấy phải là một quá trình có lãnh đạo, có định hướng, có tổ chức thường xuyên trong suốt thời kỳ công nghiệp hoá. Vừa không buông lỏng lãnh đạo, không thể "tư nhân hoá", "giải tán hợp tác xã"... trong sản xuất nông nghiệp; vừa không chủ quan, cưỡng bức nông dân lập ra những tổ chức kinh tế chỉ mang hình thức bề ngoài. Phải thực hiện nguyên tắc đúng đắn mà Đảng ta đã nhiều lần nhấn mạnh đó là tự nguyện, dân chủ, cùng có lợi thì nông dân mới từng bước vững chắc đi lên chủ nghĩa xã hội.
Phương hướng chung của các hợp tác xã nông nghiệp là vừa phát huy sức mạnh của kinh tế tập thể, vừa phát huy vai trò chủ động của hộ gia đình xã viên để phát triển sản xuất, quản lý xã hội và xây dựng nông thôn mới.
Đổi mới phương thức hoạt động của các hợp tác xã nông nghiệp theo luật nhất là bộ máy quản lý phối hợp với chính quyền thôn xã, chủ yếu hướng vào việc đảm bảo dịch vụ sản xuất, chế biến và tiêu thụ nông sản cho nông dân (những vấn đề mà hộ gia đình gặp khó khǎn hoặc làm không có hiệu quả, hoặc không thể làm được); định hướng cơ cấu sản xuất chung có lợi nhất, hướng dẫn phương thức làm ǎn theo khoa học và công nghệ mới; chủ trì các trung tâm liên kết, liên doanh; quản lý kinh tế về mặt luật pháp, giải quyết những vấn đề bất hợp lý thường nảy sinh trong sản xuất và đời sống ở nông thôn.
Về nội dung xã hội của liên minh công - nông: Trong các xã hội cũ, các giai cấp thống trị dùng công nghiệp bóc lột nông nghiệp, nông dân; dùng thành thị thống trị nông thôn, tạo ra sự đối lập và cách biệt giữa thành thị và nông thôn, vì lợi ích của giai cấp thống trị. Quá trình công nghiệp hoá xã hội chủ nghĩa là quá trình từng bước xoá bỏ đối lập và cách biệt giữa thành thị và nông thôn để cùng tiến lên theo hướng hiện đại, vǎn minh. Thực hiện ngày càng có hiệu quả phương hướng ấy thì liên minh công-nông về mặt xã hội mới thực sự công bằng, mới được củng cố vững chắc.
Trong điều kiện nước ta hiện nay, những vấn đề xã hội ở nông thôn cần giải quyết là:
Thứ nhất, nước ta vừa trải qua chiến tranh lâu dài và ác liệt, trong đó nông dân, nông thôn có đóng góp trực tiếp, to lớn về người và của. Vì vậy, đại bộ phận các gia đình liệt sĩ, thương binh, gia đình có công với cách mạng, người cô đơn, già cả, về hưu... là ở nông thôn. Hiện nay, trong cơ chế kinh tế mới, đại bộ phận các gia đình này gặp khó khǎn (thiếu vốn, lao động, sức khoẻ yếu hoặc mất sức lao động), do đó, không sản xuất được hoặc sản xuất kém hiệu quả, đời sống không đảm bảo. Đây là một vấn đề bức xúc mà Đảng, Nhà nước cần có chủ trương, chính sách để kịp thời giải quyết thoả đáng. Vấn đề này không chỉ nằm trong nội dung liên minh công - nông mà còn là một vấn đề xã hội chung của cả nước; chẳng những là một trong những vấn đề về công bằng xã hội, về trách nhiệm phải đền đáp công lao đối với những người có công với cách mạng... mà còn là việc tiếp tục thực hiện và đổi mới chính sách hậu phương trong nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc.
Thứ hai, giải quyết việc làm cho nhiều người lao động ở nông thôn, nhất là thanh niên, học sinh, bộ đội hoàn thành nghĩa vụ... trong điều kiện đổi mới về kinh tế, lập lại trật tự, kỷ cương xã hội. Đây cũng là một trong những vấn đề xã hội ngày càng rõ rệt và phổ biến ở nông thôn, cần kịp thời có chính sách và biện pháp khắc phục. Hiện nay ở nông thôn cần gắn vấn đề giải quyết việc làm với việc giúp đỡ các gia đình nông dân nghèo khó và giảm tỷ lệ phát triển dân số.
Thứ ba, nâng cao dân trí, chủ yếu là cho nông dân trước hết là xoá nạn mù chữ. Từ đó mới có điều kiện để nông dân hiểu được những vấn đề cǎn bản nhất của đường lối, chính sách, pháp luật, quyền dân chủ, nghĩa vụ và trách nhiệm công dân. Trên cơ sở phát triển kinh tế mà từng bước nâng cao điều kiện ǎn ở, đi lại, y tế, giáo dục, vǎn nghệ, thể dục, thể thao và đấu tranh loại trừ dần các tệ nạn quan liêu, tham nhũng, mất dân chủ, những hủ tục ở nông thôn.
Thứ tư, việc quy hoạch phát triển công nghiệp đô thị phải gắn với quy hoạch và phát triển nông thôn mới. đây là một vấn đề xã hội, với ý nghĩa là mọi người cần thấy rõ nông nghiệp không chỉ là ngành kinh tế mà còn là một lĩnh vực có tính sinh thái - xã hội đáp ứng những nhu cầu sinh sống cǎn bản nhất của mọi người. Do vậy, mọi ngành, mọi người đều có trách nhiệm góp phần vào sự nghiệp phát triển nông nghiệp và nông thôn. Đồng thời việc xây dựng nông thôn ngày càng tiến bộ còn là điều kiện để công nghiệp, thành thị giao lưu có hiệu quả hơn trong lĩnh vực kinh tế trên mọi thị trường rộng lớn nhất...
II. Đối với tầng lớp trí thức do yêu cầu khách quan và cấp thiết của sự nghiệp công nghiệp hoá, trong điều kiện trình độ kinh tế của nước ta còn thấp, Đảng ta đã chủ trương "sử dụng có hiệu quả và tǎng nhanh tiềm lực khoa học và công nghệ của đất nước. Phát triển đồng bộ khoa học xã hội, khoa học tự nhiên, khoa học kỹ thuật đi đôi với phát triển giáo dục và vǎn hoá, nâng cao dân trí" 10. Những nhiệm vụ nổi bật của trí thức nước ta hiện nay là xây dựng luận cứ khoa học cho đường lối cách mạng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam là những quyết định lớn về chiến lược phát triển kinh tế xã hội chung của đất nước. Đồng thời, trí thức vừa là lực lượng nghiên cứu thực tế, đề xuất những chính sách, giải pháp và trực tiếp tham gia vào những hoạt động đổi mới hệ thống chính trị, đổi mới kinh tế, vǎn hoá, xã hội... theo hướng xã hội chủ nghĩa vǎn minh, hiện đại. Trí thức là lực lượng chủ yếu và trực tiếp góp phần nâng cao dân trí cho cả nước, đào tạo những người lao động mới, đào tạo nhân tài, giáo dục thế giới quan khoa học, phát triển trí tuệ và nǎng lực sáng tạo cho nhân dân, xây dựng nền khoa học tiên tiến của đất nước.
Trong quá trình thực hiện liên minh giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và tầng lớp trí thức để trí thức có thể làm tốt vai trò của mình, Đảng và Nhà nước phải có chiến lược phát triển khoa học và công nghệ đúng đắn. Trong chiến lược ấy, có những chính sách lớn vừa tạo điều kiện động viên, khuyến khích đội ngũ trí thức phát huy tài nǎng, vừa đổi mới cơ chế tổ chức, quản lý lãnh đạo trí thức để hưởng trí thức vào mục tiêu công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.
"Đào tạo, bồi dưỡng và phát huy mọi tiềm nǎng của đội ngũ trí thức để tạo nguồn lực trí tuệ và nhân tài cho đất nước" 11. Đó là một vấn đề có ý nghĩa chiến lược, thể hiện trên một số nội dung chủ yếu sau đây:
Thứ nhất, cần có chính sách sử dụng, bồi dưỡng và đãi ngộ thoả đáng đối với trí thức, sao cho vừa thể hiện việc trọng dụng nhân tài, vừa đãi ngộ chính đáng cán bộ khoa học - kỹ thuật theo chất lượng và hiệu quả công việc. Đi đôi với việc bảo đảm và khuyến khích vật chất, cần có những hình thức động viên về tinh thần nhằm tǎng thêm hoài bão khoa học, nhiệt tình, nghiên cứu sáng tạo của đội ngũ trí thức hiện có. Theo hướng đó, cần đưa việc công nhận học hàm, học vị khoa học và nền nếp thường xuyên và có chất lượng cao, thực hiện bình xét để trao các giải thưởng khoa học của Nhà nước cho các tập thể và cá nhân nhà khoa học có những phát minh, sáng chế, cống hiến có giá trị... một cách kịp thời và thoả đáng. Đặc biệt, chú ý bồi dưỡng và tạo điều kiện cho các nhà khoa học và uy tín thực sự, trở thành những nhà khoa học đầu đàn để họ phát huy vai trò của mình trong phát minh, sáng chế, trong việc hướng dẫn, tổ chức đào tạo đội ngũ cán bộ khoa học kế cận. Có biện pháp, chính sách khuyến khích và thu hút cán bộ khoa học, kỹ thuật gắn việc nghiên cứu, giảng dạy, phát minh... với các cơ sở sản xuất, cơ sở đào tạo, về nông thôn và miền núi, đưa các thành tựu khoa học và công nghệ phục vụ sản xuất, đời sống mọi mặt của nhân dân lao động.
Bộ phận trí thức Việt Nam định cư ở nước ngoài là lực lượng khoa học đáng kể và thường được tiếp xúc với nhiều hoạt động và thành tựu khoa học hiện đại. Nhiều người trong số đó luôn hướng về Tổ quốc, mong muốn góp phần xây dựng quê hương. Đảng và Nhà nước cần có chính sách và biện pháp cụ thể nhằm khuyến khích động viên, tạo điều kiện để họ thực hiện được đóng góp trí tuệ và những phương tiện vật chất vào sự nghiệp công nghiệp hoá đất nước.
Thứ hai, đào tạo đội ngũ trí thức mới đủ sức đáp ứng những yêu cầu của sự phát triển khoa học và công nghệ hiện đại của đất nước trong những nǎm sắp tới. Quy hoạch đào tạo phải gắn liền với yêu cầu, mục tiêu của sự phát triển khoa học và công nghệ hiện đại của đất nước trong những nǎm sắp tới. Quy hoạch đào tạo phải gắn liền với yêu cầu, mục tiêu của sự phát triển đất nước trên mọi lĩnh vực, đáp ứng những nhiệm vụ trước mắt cũng như lâu dài. Đào tạo trí thức mới phải có cơ cấu cân đối, đồng bộ về lĩnh vực khoa học, về ngành nghề, về trình độ. Trước mắt, cần tǎng cường cán bộ khoa học cho các cơ quan nghiên cứu, đội ngũ cán bộ khoa học xã hội, quản lý kinh tế, quản lý nhà nước, cán bộ xây dựng Đảng, cán bộ giáo dục có trình độ cao để từng bước cân đối với đội ngũ cán bộ khoa học tự nhiên, cán bộ kỹ thuật. Cần chú ý cán bộ nghiên cứu lý thuyết cơ bản, tạo nền tảng cho sự phát triển lâu dài và vững chắc của các ngành khoa học này, đồng thời chú ý đào tạo cán bộ khoa học ứng dụng, đặc biệt trong các ngành then chốt, cho các ngành và vùng có nhu cầu cấp thiết nhất. Trong đó đào tạo, cần bảo đảm tỷ lệ hợp lý giữa các trình độ (cao đẳng, đại học, trên đại học), giữa lý thuyết cơ bản và ứng dụng, nghiệp vụ, v.v.. Nguồn tuyển chọn để đào tạo trí thức mới cần chú trọng những người có khả nǎng tư duy lý luận, sáng tạo... trong công nhân, nông dân và trí thức. Điều này không cản trở việc tuyển chọn những người có tài, có đức ở các thành phần xã hội khác. Phải có ý thức, kế hoạch phát hiện và bồi dưỡng nhân tài ngay từ các lớp học sinh phổ thông và có hướng ưu tiên, tập trung đầu tư thành những nhân tài. Mục tiêu chung là đào tạo những trí thức có phẩm chất chính trị và đạo đức cách mạng, trung thành với sự nghiệp xây dựng đất nước tiến lên chủ nghĩa xã hội, có nǎng lực phát triển trí tuệ khoa học và vận dụng, gắn liền với thực tế cuộc sống, có triển vọng vươn lên ngang tầm với trí tuệ khoa học của nhân loại để phục vụ thiết thực cho đất nước, cho sự phát triển khoa học. Cần chú ý giao lưu quốc tế một cách đúng hướng, có hiệu quả trong cả nghiên cứu, ứng dụng khoa học lẫn trong đào tạo trí thức mới.
Trên cơ sở chủ trương của Đảng, Nhà nước, kiện toàn hệ thống các tổ chức, cơ quan khoa học,kỹ thuật để đi vào hoạt động đồng bộ trong sự phối hợp giữa các ngành khoa học và trong mỗi lĩnh vực... đạt hiệu quả cao hơn cho xã hội. Trước mắt, cần sắp xếp, chấn chỉnh hệ thống đào tạo, nâng cao chất lượng hiệu quả đào tạo. Các trường Đại học vừa đào tạo cán bộ khoa học, vừa nghiên cứu ứng dụng khoa học và công nghệ. Chuyển một số nhiệm vụ nghiên cứu lý thuyết về các trường đại học với hình thức thích hợp về tận dụng khả nǎng của cán bộ giảng dạy và cơ sở vật chất - kỹ thuật của các trường này. Chuyển một số viện nghiên cứu thành những cơ sở nghiên cứu ứng dụng, gắn liền với nhu cầu thực tiễn xã hội, nhất là về kinh tế và quản lý xã hội; đồng thời, chú ý đào tạo cán bộ khoa học có trình độ cao. Xây dựng những trung tâm khoa học có trình độ, uy tín cao, với những nhà khoa học đầu đàn, đồng bộ, vững vàng về mọi mặt.
Xây dựng, củng cố và phát huy tác dụng của các hội đồng khoa học ở các cơ quan khoa học, để các hội đồng này làm tốt vai trò tư vấn khoa học cho các cấp bộ Đảng và Nhà nước. Khuyến khích, tạo điều kiện cho các hội khoa học xã hội, khoa học tự nhiên, khoa học kỹ thuật hoạt động nhằm đoàn kết, tập hợp mọi lực lượng cán bộ khoa học của đất nước trong sự cộng tác chặt chẽ để tập trung trí tuệ, sức lực xây dựng và bảo vệ đất nước thông qua các hoạt động khoa học, kỹ thuật chuyên ngành và liên ngành. Khắc phục tình trạng tách rời, phân tán, đố kỵ... trong quan hệ giữa các lực lượng trí thức ở các lĩnh vực, các ngành khác nhau.
Từng bước hoàn thiện cơ chế quản lý khoa học, kỹ thuật theo hướng phát triển kinh tế hàng hoá nhiều thành phần. Các cơ quan quan khoa học được quyền chủ động nghiên cứu, ứng dụng các thành tựu khoa học và công nghệ vì lợi ích của xã hội và của chính mình. Qua đó, thực hiện lợi ích của các cán bộ và các cơ quan khoa học, kỹ thuật và lợi ích của xã hội.
Mở rộng và nâng cao việc hợp tác quốc tế trong nghiên cứu, ứng dụng và đào tạo... để ngày càng tiếp thu nhiều hơn những thành tựu khoa học và công nghệ hiện đại của thế giới. Sử dụng một cách có hiệu quả thiết thực thực sự giúp đỡ về khoa học và công nghệ ở nước ta hiện nay. Phải thực sự dân chủ, tự do tư tưởng, độc lập trong tư duy... để đi đến chân lý khoa học, phục vụ có hiệu quả trong thực tiễn... thì khoa học, công nghệ và đội ngũ trí thức mới có thể phát triển vững mạnh và phát huy vai trò của mình. Tuy nhiên, cũng cần phải tránh dân chủ hình thức, dân chủ cực đoan, một chiều dẫn đến những biểu hiện vô ký luật, vô nguyên tắc..., đồng thời, cần chống bảo thủ, quan liêu, trù đạp, bè phái, độc tôn... ngay trong hoạt động khoa học của đội ngũ trí thức và quá trình quản lý, lãnh đạo trí thức.
Tǎng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với đội ngũ trí thức trong sự nghiệp công nghiệp hoá đất nước. Khoa học và công nghệ không chỉ là động lực phát triển kinh tế xã hội mà còn là một trong những cơ sở quan trọng để củng cố, đổi mới và nâng cao vai trò lãnh đạo, tiên phong của Đảng. Trong quá trình lãnh đạo, Đảng phải xây dựng các định hướng chiến lược đúng đắn cho sự phát triển khoa học và công nghệ gắn với sự phát triển đội ngũ trí thức, Đảng đề ra những chính sách lớn về phát triển khoa học và công nghệ, về xây dựng, phát triển, khuyến khích đội ngũ trí thức. Đảng thường xuyên và thực sự lắng nghe những ý kiến của đội ngũ trí thức, qua đó mà không ngừng nâng cao nǎng lực trí tuệ trong vai trò lãnh đạo của mình. Các cấp bộ đảng, đảng viên ngay trong đội ngũ trí thức phải là những tấm gương sáng trên thực tế về mở rộng việc thực hiện dân chủ đối với hoạt động khoa học của trí thức, khuyến khích tìm tòi sáng tạo, tranh luận trao đổi... để tìm ra chân lý và những giải pháp tối ưu trong thực tiễn. Đồng thời, Đảng chǎm lo bồi dưỡng, nâng cao trình độ lý luận Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh nhận thức đúng về đường lối, quan điểm của Đảng để nâng cao ý thức, lập trường chính trị cũng như đạo đức xã hội chủ nghĩa cho tầng lớp trí thức. Các cấp uỷ đảng, Đảng viên Cộng sản ngày càng phải nâng cao trình độ về lý luận chính trị, về khoa học, nghiệp vụ... để vừa trực tiếp cùng đội ngũ trí thức góp sức vào sự nghiệp phát triển khoa học và công nghệ, vừa nâng cao nǎng lực và uy tín trong vai trò quản lý và lãnh đạo của mình. Cần kiện toàn các cơ quan nghiên cứu lý luận, các cơ quan tham mưu giúp đảng lãnh đạo đất nước, trong đó có việc đổi mới, tǎng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với quá trình phát triển khoa học và công nghệ, đối với đội ngũ trí thức.
NXB. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2000
1. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1996, t.6.
2. Sđd., t.6, tr. 459.
3. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, t.4, tr.152.
4. V.I. Lênin: Toàn tập, Nxb. Tiến bộ Mátxcơva, 1978, t.40.
5. Sđd., t.8, tr. 214.
6. Sđd., t.7, tr. 33.
7. Sđd., t.6, tr. 202.
8. Hồ Chí Minh. Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc, Hà Nội, 1996, t.10, tr. 545.
9. Đảng Cộng sản Việt Nam: Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, Nxb. Sự thật, Hà Nội, 1991, tr. 9.
10. Sđd., tr. 13.
11. Sđd., tr. 15.