Đại đoàn kết toàn dân tộc dưới sự lãnh đạo của Đảng

Đại hội X của Đảng xác định: "Đại đoàn kết toàn dân tộc trên nền tảng liên minh giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức, dưới sự lãnh đạo của Đảng, là đường lối chiến lược của cách mạng Việt Nam; là nguồn sức mạnh, động lực chủ yếu và là nhân tố có ý nghĩa quyết định bảo đảm thắng lợi bền vững của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc".

Và nhấn mạnh: "Đại đoàn kết là sự nghiệp của toàn dân tộc, của cả hệ thống chính trị mà hạt nhân lãnh đạo là các tổ chức đảng, được thực hiện bằng nhiều biện pháp, hình thức, trong đó các chủ trương của đảng và chính sách, pháp luật của Nhà nước có ý nghĩa quan trọng hàng đầu".

Những chủ trương lớn của Đảng về đại đoàn kết toàn dân tộc trong giai đoạn hiện nay

Để đường lối chiến lược nêu trên đi vào cuộc sống, Đại hội X của Đảng chủ trương:

1- Lấy mục tiêu giữ vững độc lập, thống nhất của Tổ quốc vì "Dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh" làm điểm tương đồng

Mục tiêu trên là ước vọng ngàn đời của mọi người Việt Nam yêu nước, thương nòi. Yêu nước, đoàn kết cùng nhau xây dựng và bảo vệ đất nước đã trở thành lẽ sống của cả dân tộc; của mỗi người Việt Nam qua các thời đại.

Mục tiêu trên cũng là hoài bão, thể hiện ham muốn tột bậc của Chủ tịch Hồ Chí Minh: "Tôi chỉ có một ham muốn, ham muốn tột bậc, là làm sao cho nước ta được hoàn toàn độc lập, dân ta được hoàn toàn tự do, đồng bào ai cũng có cơm ăn, áo mặc, ai cũng được học hành".

Đó cũng là điều mong muốn cuối cùng của Người trước lúc đi xa: "Toàn Đảng, toàn dân ta đoàn kết phấn đấu xây dựng một nước Việt Nam hòa bình, thống nhất, độc lập, dân chủ và giàu mạnh".

Giữ vững độc lập dân tộc, thống nhất của Tổ quốc vì "Dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh" là mẫu số chung, là chất kết dính để gắn bó đồng bào các dân tộc, các tôn giáo, các tầng lớp nhân dân ở trong nước và người Việt Nam định cư ở nước ngoài.

Mục tiêu "Dâu giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, văn minh" được xác định từ Hội nghị giữa nhiệm kỳ khóa VII của Đảng họp tháng 1-1994, được Đại hội IX của Đảng bổ sung thành "Dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh" và được Đại hội X tái khẳng định.

2- Xây dựng tinh thần cởi mở, tin cậy lẫn nhau vì sự ổn định chính trị và đồng thuận xã hội

Nước ta là nước đa dân tộc, đa tôn giáo. Nhân dân ta đã từng trải qua hơn một phần ba thế kỷ tiến hành các cuộc kháng chiến cứu nước và bảo vệ Tổ quốc. Đất nước cũng đã từng bị chia cắt tạm thời làm hai miền. Tuy đất nước đã thống nhất được hơn 30 năm, nhưng "những mặc cảm, những khoảng cách còn lại" ở nơi này, nơi khác, thậm chí trong mỗi gia đình, nhất là các tỉnh phía nam và trong một bộ phận đồng bào có đạo và đồng bào ta định cư ở nước ngoài vẫn tồn tại với những mức độ khác nhau.

Mặt khác, chấp nhận phát triển kinh tế nhiều thành phần, định hướng xã hội chủ nghĩa cũng có nghĩa là chấp nhận thu nhập khác nhau, mức sống, lối sống khác nhau và chấp nhận sự tồn tại lợi ích khác nhau giữa các giai cấp và tầng lớp xã hội.

Trên cơ sở thừa nhận còn tồn tại những khác biệt đó, Đại hội X của Đảng xác định: Để thực hiện đại đoàn kết toàn dân tộc ở tầm cao mới phải: "xóa bỏ mọi mặc cảm, định kiến, phân biệt đối xử về quá khứ, thành phần giai cấp. Tôn trọng những ý kiến khác nhau không trái với lợi ích của dân tộc. Đề cao truyền thống nhân nghĩa, khoan dung, xây dựng tinh thần cởi mở, tin cậy lẫn nhau vì sự ổn định chính trị và đồng thuận xã hội".

3- Đại đoàn kết là sự nghiệp của toàn dân tộc, của cả hệ thống chính trị mà hạt nhân lãnh đạo là các tổ chức Đảng, được thực hiện bằng nhiều biện pháp, hình thức, trong đó các chủ trương của Đảng và chính sách, pháp luật của Nhà nước có ý nghĩa quan trọng hàng đầu

Phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc trước hết là trách nhiệm của Đảng vì Đảng là hạt nhân lãnh đạo của hệ thống chính trị, Đảng lãnh đạo toàn xã hội. Đường lối đúng đắn của Đảng là yếu tố quan trọng hàng đầu để khơi dậy và phát huy sức mạnh toàn dân tộc. Đổi mới, chỉnh đốn đảng, nâng cao năng lực và sức chiến đấu của Đảng để Đảng đoàn kết, thống nhất, thật sự trong sạch, vững mạnh cả về chính trị, tư tưởng, tổ chức và đào tạo xây dựng một đội ngũ cán bộ, đảng viên đủ phẩm chất và năng lực, gắn bó mật thiết với nhân dân là việc làm có ý nghĩa sống còn đối với Đảng và sự nghiệp đại đoàn kết toàn dân tộc.

Phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc là trách nhiệm của Nhà nước, vì Nhà nước là trụ cột của hệ thống chính trị, người tổ chức thực hiện đường lối của Đảng. Cần tiếp tục xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, bảo đảm nguyên tắc: tất cả quyền lực Nhà nước thuộc về nhân dân; cán bộ, công chức phải thật sự là công bộc của dân. Đây là yếu tố rất quan trọng, bảo đảm sự bền vững của hệ thống chính trị và khối đại đoàn kết toàn dân tộc.

Phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc là trách nhiệm của Mặt trận Tổ quốc (bao gồm các đoàn thể nhân dân). Là tổ chức liên minh chính trị, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam có vai trò rất quan trọng trong việc củng cố, tăng cường khối đại đoàn kết toàn dân, thắt chặt mối quan hệ giữa nhân dân với Đảng và Nhà nước, góp phần tạo nên sự đồng thuận cao trong xã hội, động viên nhân dân phát huy quyền làm chủ, tích cực tham gia xây dựng Đảng, xây dựng chính quyền trong sạch, vững mạnh, gắn bó mật thiết với nhân dân.

Tăng cường và phát huy sức mạnh khối đại đoàn kết toàn dân tộc là truyền thống quý báu, là đường lối chiến lược của Đảng.

Những nhiệm vụ chủ yếu nhằm xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc trong giai đoạn hiện nay

1- Phát huy dân chủ XHCN dưới sự lãnh đạo của Đảng:

Từ những bài học về dân chủ được tổng kết qua 20 năm tiến hành công cuộc đổi mới và tổng kết Chỉ thị số 30 CT/T.Ư ngày 18-2-1998 "Về xây dựng và thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở" của Bộ Chính trị (khóa VIII), Đại hội X của Đảng chủ trương: tiếp tục hoàn thiện nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, thực hiện và phát huy mạnh mẽ quyền làm chủ của nhân dân; cụ thể hóa hơn nữa cơ chế dân chủ ở các đơn vị cơ sở nhằm đẩy nhanh quá trình dân chủ hóa xã hội, góp phần thúc đẩy tính tích cực trong các tầng lớp dân cư và sự đồng thuận xã hội với các nội dung:

- Dân chủ xã hội chủ nghĩa vừa là mục tiêu, vừa là động lực của công cuộc đổi mới.

- Xây dựng một xã hội dân chủ, trong đó cán bộ, đảng viên và công chức phải thật sự là công bộc của nhân dân.

- Nhà nước không ngừng hoàn thiện hệ thống pháp luật và quản lý, tạo điều kiện để nhân dân được làm những việc mà pháp luật không cấm.

- Nhà nước và nhân dân cùng nỗ lực phấn đấu cho sự phát triển của đất nước, kết hợp hài hòa lợi ích cá nhân với lợi ích tập thể và lợi ích toàn xã hội.

2- Thực hiện đồng bộ các chính sách và luật pháp của Nhà nước nhằm động viên các tầng lớp nhân dân tham gia các phong trào thi đua yêu nước

Bảo đảm lợi ích của các giai cấp, tầng lớp xã hội và kết hợp hài hòa lợi ích cá nhân, lợi ích tập thể và toàn xã hội là yếu tố quan trọng nhất để củng cố và mở rộng khối đại đoàn kết toàn dân tộc, là điều kiện tiên quyết để tổ chức và động viên nhân dân tham gia các phong trào thi đua yêu nước. Điều đó chủ yếu phụ thuộc vào chính sách, pháp luật của Nhà nước. Trong những năm đổi mới, Nhà nước ta đã ban hành nhiều luật, pháp lệnh và chính sách có liên quan đến mọi lĩnh vực, đặc biệt là lĩnh vực kinh tế - xã hội. Những chính sách đó đã và đang khơi dậy, phát huy tiềm năng lao động sáng tạo của các tầng lớp nhân dân, khuyến khích mọi người thi đua làm kinh tế giỏi, thi đua làm giàu cho mình, cho cộng đồng và đất nước. Tuy nhiên, có những chính sách kinh tế - xã hội chưa sát với cuộc sống, phải sửa đổi luôn, thực hiện thiếu đồng bộ, không thống nhất nên chậm vào cuộc sống. Để khắc phục những thiếu sót nêu trên, Đại hội X của Đảng đề ra nhiệm vụ: "Thực hiện đồng bộ các chính sách và pháp luật của Nhà nước nhằm phát huy dân chủ và giữ vững kỷ cương trong xã hội. Tổ chức và động viên nhân dân tham gia các phong trào thi đua yêu nước, làm kinh tế giỏi, phát triển kinh tế đi liền với phát triển văn hóa xã hội; mỗi người, mỗi hộ đều phấn đấu làm giàu cho mình, cho cộng đồng và đất nước".

Nhằm phát huy cao độ tính năng động, sáng tạo của mọi công dân, Đại hội đã đề ra những định hướng, chính sách lớn đối với các giai cấp và tầng lớp xã hội, trong đó lần đầu tiên đặt ở vị trí rất quan trọng việc tôn trọng và phát huy vai trò gương mẫu, dẫn dắt của những người tiêu biểu, có uy tín trong cộng đồng dân cư, các dân tộc, các tôn giáo cũng như xác định đúng mức vị trí của doanh nhân.

Đối với giai cấp công nhân: Cùng với quá trình đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, giai cấp công nhân Việt Nam tiếp tục tăng nhanh cả về số lượng lẫn chất lượng. Song tỷ lệ tăng không đồng đều, trong đó, các doanh nghiệp tư nhân và doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài tăng nhanh nhất. Vấn đề bảo vệ quyền lợi, tăng cường ý thức giác ngộ giai cấp công nhân trong các thành phần kinh tế đang là vấn đề vừa cơ bản, vừa cấp bách. Đại hội X nêu rõ nhiệm vụ quan trọng và cấp bách hiện nay đối với giai cấp công nhân là: "Nâng cao giác ngộ và bản lĩnh chính trị, trình độ học vấn và nghề nghiệp, xứng đáng là lực lượng đi đầu trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Giải quyết việc làm, giảm tối đa công nhân thiếu việc làm và thất nghiệp. Thực hiện tốt chính sách và pháp luật về lao động, tiền lương, bảo hiểm y tế và bảo hiểm xã hội, bảo hiểm thất nghiệp, bảo hộ lao động... Có chính sách ưu đãi nhà ở đối với công nhân bậc cao. Xây dựng tổ chức, phát triển đoàn viên công đoàn, nghiệp đoàn đều khắp ở các cơ sở sản xuất kinh doanh thuộc các thành phần kinh tế...".

Đối với giai cấp nông dân: Thực hiện Nghị quyết Đại hội IX của Đảng, trong những năm gần đây có sự chuyển dịch mạnh trong sản xuất nông nghiệp và sự chuyển dịch đó ngày càng nhanh, quy mô sản xuất ngày càng được mở rộng và tăng dần đầu tư theo chiều sâu. Năng suất và hiệu quả sản xuất được nâng lên. Yếu tố sản xuất hàng hóa trong nông nghiệp thể hiện ngày càng rõ thông qua việc phát triển các trang trại sản xuất kinh doanh và hệ thống thương mại dịch vụ cung ứng vật tư, tiêu thụ sản phẩm.Tuy nhiên, đến nay tỷ lệ lao động nông nghiệp còn rất lớn; số hộ thuần nông vẫn chiếm số đông; cuộc sống của nông dân, nhất là nông dân vùng sâu, vùng xa, vùng cao, vùng dân tộc thiểu số còn gặp rất nhiều khó khăn.

Xuất phát từ tình hình trên, Đại hội chủ trương: "Đối với giai cấp nông dân phát huy vai trò quan trọng trong sự nghiệp đổi mới và công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn. Thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông thôn, đưa công nghệ tiên tiến vào nông nghiệp, nông thôn. Thực hiện tốt chính sách về ruộng đất. Tạo điều kiện thuận lợi để giúp nông dân chuyển sang làm công nghiệp và dịch vụ. Khuyến khích nông dân hợp tác với các doanh nghiệp, hợp tác xã, chủ trang trại để phát triển sản xuất, ổn định và cải thiện đời sống. Tăng hiệu quả sử dụng đất, tiêu thụ nông sản hàng hóa. Hỗ trợ và khuyến khích nông dân học nghề, tiếp nhận và áp dụng thành tựu khoa học, công nghệ".

Đối với trí thức: Đội ngũ trí thức nước ta được hình thành trong quá trình đấu tranh cách mạng và xây dựng chủ nghĩa xã hội. Năng lực trí tuệ của người Việt Nam được đánh giá cao trong khu vực và trên thế giới. Trong điều kiện đẩy mạnh CNH, HĐH, sớm đưa nước ta ra khỏi tình trạng kém phát triển, vai trò của đội ngũ trí thức ngày càng quan trọng.

Trong những năm qua, đội ngũ trí thức của chúng ta tăng nhanh nhưng hẫng hụt về chuyên gia đầu đàn và tỷ lệ trí thức có trình độ trên đại học so với số dân còn ít so với các nước trong khu vực. Việc trọng dụng nhân tài chưa được đặt ra một cách đúng mức, v.v...

Đại hội X của Đảng nhấn mạnh đến vai trò quan trọng của trí thức và đặt ra yêu cầu: "Phát huy trí tuệ và năng lực, mở rộng thông tin, phát huy dân chủ, trọng dụng nhân tài. Khuyến khích các trí thức, các nhà khoa học phát minh, sáng tạo. Bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ, đãi ngộ xứng đáng những cống hiến của trí thức cho công cuộc phát triển đất nước. Coi trọng vai trò tư vấn, phản biện của các hội khoa học kỹ thuật, khoa học xã hội và văn học, nghệ thuật đối với các dự án phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội".

Đối với doanh nhân: Chủ trương phát triển mạnh các thành phần kinh tế, các loại hình tổ chức kinh doanh, đã và đang tạo ra một tầng lớp doanh nhân ngày càng đông đảo, năng động, sáng tạo và giữ vai trò ngày càng quan trọng trong công cuộc công nghiệp hóa - hiện đại hóa.

Bên cạnh các doanh nhân thuộc thành phần kinh tế nhà nước và kinh tế tập thể đã xuất hiện ngày càng nhiều và phát triển ngày càng nhanh các doanh nhân trong các thành phần kinh tế khác. Đây là lực lượng quan trọng để thúc đẩy kinh tế phát triển đa dạng và là lực lượng chủ yếu trong việc giải quyết việc làm. Do vai trò ngày càng quan trọng của doanh nhân, Đại hội X của Đảng đặt doanh nhân lên vị trí thứ tư sau công, nông, trí và chủ trương: "tạo điều kiện phát huy tiềm năng và vai trò tích cực trong phát triển sản xuất, kinh doanh; mở rộng đầu tư trong nước và ở nước ngoài; giải quyết việc làm cho người lao động; nâng cao chất lượng sản phẩm; tạo dựng và giữ gìn thương hiệu hàng hóa Việt Nam".

Đối với thế hệ trẻ: Thế hệ trẻ Việt Nam chiếm 60% dân số. Đây là lực lượng lao động chủ yếu đang và sẽ thực hiện quá trình đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước.

Từ nay đến năm 2010, thế hệ sinh ra trong hòa bình sẽ dần dần thay thế đội ngũ cán bộ ngày nay. Bên cạnh những ưu điểm, họ đang có những biểu hiện phức tạp và xuất hiện những chiều hướng phát triển đáng lo ngại như: phai nhạt lý tưởng, thờ ơ với chính trị, chạy theo lối sống thực dụng tầm thường; số thanh, thiếu niên mắc tệ nạn xã hội tăng nhanh, v.v... Từ thực tiễn đó, Đại hội chủ trương: "thường xuyên giáo dục chính trị, truyền thống, lý tưởng, đạo đức và lối sống; tạo điều kiện học tập, lao động, giải trí, phát triển thể lực, trí tuệ... khuyến khích thanh niên tự học, tự nâng cao tay nghề, tự tạo việc làm... Tạo cơ hội cho thanh niên có tài năng đi học ở nước ngoài về phục vụ đất nước".

Đối với phụ nữ: Phụ nữ chiếm 50,8% dân số nước ta và đóng vai trò quan trọng trong hai cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ xâm lược, trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.

Tuy chiếm số đông trong dân số, trong lực lượng lao động, song đa phần phụ nữ phải gánh vác những công việc lao động chân tay nặng nhọc; tỷ lệ nữ tham gia lãnh đạo, quản lý trong các cơ quan Đảng, Nhà nước còn thấp. Đặc biệt, càng ở cấp thấp, tỷ lệ cán bộ nữ tham gia chính quyền càng giảm.

Đại hội chủ trương: "Nâng cao trình độ mọi mặt và đời sống vật chất, tinh thần, thực hiện bình đẳng giới. Tạo điều kiện để phụ nữ thực hiện tốt vai trò người công dân, người lao động, người mẹ, người thầy đầu tiên của con người. Bồi dưỡng, đào tạo để phụ nữ tham gia ngày càng nhiều vào các hoạt động xã hội, các cơ quan lãnh đạo và quản lý ở các cấp. Chăm sóc và bảo vệ sức khỏe bà mẹ, trẻ em...".

Đối với cựu chiến binh: Đây là lớp người đã được tôi luyện trong quá trình chiến tranh ác liệt, trung thành với Đảng và chế độ, giữ vững truyền thống và bản chất "Bộ đội Cụ Hồ". Trước những diễn biến phức tạp của tình hình thế giới, tình hình trong nước, đã xuất hiện những tâm trạng khác nhau trong một số cựu chiến binh. Đại hội X của Đảng yêu cầu: "Phát huy truyền thống "Bộ đội Cụ Hồ", tích cực tham gia xây dựng và bảo vệ Đảng, chính quyền và chế độ xã hội chủ nghĩa. Động viên cựu chiến binh giúp nhau cải thiện đời sống, xóa đói giảm nghèo, góp phần giáo dục lòng yêu nước và chủ nghĩa anh hùng cách mạng cho thế hệ trẻ...".

Đối với người cao tuổi: Hiện chiếm 10% dân số. Một bộ phận người cao tuổi là lão thành cách mạng, Bà mẹ Việt Nam Anh hùng, người có công với nước, trí thức đầu đàn, nghệ nhân có tay nghề cao, cán bộ về hưu. Đại hội đề ra nhiệm vụ: "Đối với người cao tuổi, chăm sóc sức khỏe, tạo điều kiện để hưởng thụ văn hóa, được thông tin, sống vui, sống khỏe, sống hạnh phúc. Phát huy trí tuệ, kinh nghiệm sống, lao động, chiến đấu của người cao tuổi trong xã hội và gia đình. Xây dựng gia đình "ông bà, cha mẹ mẫu mực, cháu con hiếu thảo. Giúp đỡ người cao tuổi cô đơn không nơi nương tựa vượt qua khó khăn trong cuộc sống".

Đối với về vấn đề dân tộc và đoàn kết các dân tộc: Nước ta là một quốc gia đa dân tộc. Các dân tộc ở nước ta có truyền thống đoàn kết được hình thành trong quá trình dựng nước và giữ nước. Các dân tộc thiểu số có quy mô dân số và trình độ phát triển kinh tế - xã hội không đồng đều, có bản sắc văn hóa riêng, cư trú trên một địa bàn rộng lớn, có vị trí chiến lược đặc biệt quan trọng về chính trị, kinh tế, an ninh, quốc phòng và bảo vệ môi trường sinh thái.

Là một vấn đề nhậy cảm và phức tạp, gần đây lại nảy sinh những nhận thức khác nhau, trước tác động tiêu cực của kinh tế thị trường và âm mưu của các thế lực thù địch bên ngoài lợi dụng vấn đề dân tộc để khuyến khích xu hướng ly khai, ly tâm, gây mất ổn định chính trị, xã hội, Đại hội X khẳng định: "Vấn đề dân tộc và đoàn kết các dân tộc có vị trí chiến lược lâu dài trong sự nghiệp cách mạng nước ta. Các dân tộc trong đại gia đình Việt Nam bình đẳng, đoàn kết, tôn trọng và giúp đỡ nhau cùng tiến bộ, cùng nhau thực hiện thắng lợi sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Phát triển kinh tế, chăm lo đời sống vật chất và tinh thần, xóa đói giảm nghèo, nâng cao trình độ dân trí, giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa, tiếng nói, chữ viết và truyền thống tốt đẹp của các dân tộc...".

Đối với vấn đề tôn giáo: Qua các giai đoạn cách mạng, tôn giáo ở nước ta luôn luôn là vấn đề chiến lược có tầm quan trọng đặc biệt. Từ ngày đất nước tiến hành công cuộc đổi mới, trong đó có đổi mới chính sách tôn giáo, đồng bào các tôn giáo được bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo và quyền sinh hoạt tôn giáo bình thường theo pháp luật; giáo dân và hoạt động tôn giáo gia tăng, góp phần mở rộng khối đại đoàn kết toàn dân tộc.

Bước vào giai đoạn phát triển mới của đất nước, đối với tôn giáo, Đại hội X của Đảng chủ trương: "Thực hiện nhất quán chính sách tôn trọng và bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng, theo hoặc không theo tôn giáo của công dân, quyền sinh hoạt tôn giáo bình thường theo pháp luật. Đoàn kết đồng bào theo các tôn giáo khác nhau, đồng bào theo tôn giáo và không theo tôn giáo. Phát huy những giá trị văn hóa, đạo đức tốt đẹp của các tôn giáo. Động viên, giúp đỡ đồng bào theo đạo và các chức sắc tôn giáo sống "tốt đời, đẹp đạo"... Đấu tranh ngăn chặn các hoạt động mê tín, dị đoan, các hành vi lợi dụng tín ngưỡng, tôn giáo làm phương hại đến lợi ích chung của đất nước, vi phạm quyền tự do tôn giáo của công dân".

Đối với đồng bào định cư ở nước ngoài: Hiện nay nước ta có khoảng gần ba triệu người đang sinh sống và làm ăn ở khoảng 80 nước trên thế giới. Đồng bào ra đi với những lý do khác nhau và trong nhiều hoàn cảnh không giống nhau. Đây là một bộ phận không thể tách rời và là một nguồn lực của cộng đồng dân tộc Việt Nam, là nhân tố quan trọng góp phần tăng cường quan hệ hợp tác, hữu nghị giữa nhân dân ta với nhân dân các nước.

Với những lý do trên, Đại hội X của Đảng xác định: "Nhà nước tạo điều kiện thuận lợi và hỗ trợ đồng bào ổn định cuộc sống, chấp hành tốt pháp luật các nước sở tại, bảo vệ quyền lợi chính đáng của đồng bào. Làm tốt công tác thông tin trong cộng đồng người Việt Nam ở nước ngoài về tình hình trong nước và các chủ trương, chính sách của Nhà nước. Có chính sách khuyến khích người Việt Nam, trí thức Việt Nam ở nước ngoài hướng về quê hương, góp phần xây dựng đất nước; khen thưởng những người có nhiều thành tích đóng góp cho Tổ quốc".

Phát huy vai trò của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các đoàn thể nhân dân

Đại đoàn kết toàn dân tộc trong Mặt trận dân tộc thống nhất là sợi chỉ đỏ xuyên suốt trong đường lối cách mạng của Đảng, là truyền thống quý báu và là bài học lớn của cách mạng nước ta.

Mặt trận Tổ quốc Việt Nam (bao gồm các đoàn thể nhân dân là thành viên) ngày nay là một bộ phận quan trọng của hệ thống chính trị nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam, là cơ sở chính trị của chính quyền nhân dân, nơi thể hiện ý chí, nguyện vọng, tập hợp khối đại đoàn kết toàn dân, nơi phát huy quyền làm chủ của nhân dân, vận động nhân dân thực hiện chủ trương, chính sách của Đảng, nghiêm chỉnh thi hành hiến pháp, pháp luật; giám sát hoạt động của cơ quan Nhà nước, đại biểu dân cử và cán bộ, công chức Nhà nước; tập hợp ý kiến, kiến nghị của nhân dân để phản ánh, kiến nghị với Đảng và Nhà nước; tham gia xây dựng và củng cố chính quyền nhân dân; cùng Nhà nước chăm lo, bảo vệ quyền và lợi ích chính đáng của nhân dân...

Để phát huy vai trò quan trọng của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam trong giai đoạn hiện nay, Đại hội X nêu rõ: "Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các đoàn thể nhân dân có vai trò rất quan trọng trong việc tập hợp, vận động, đoàn kết rộng rãi các tầng lớp nhân dân; đại diện cho quyền và lợi ích hợp pháp của nhân dân; đưa các chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước, các chương trình kinh tế, văn hóa, xã hội, quốc phòng, an ninh vào cuộc sống, góp phần xây dựng sự đồng thuận trong xã hội".

Đại hội yêu cầu: "Nhà nước ban hành cơ chế để Mặt trận và các đoàn thể nhân dân thực hiện tốt vai trò giám sát và phản biện xã hội. Các cấp ủy Đảng và các cấp chính quyền có chế độ tiếp xúc, đối thoại trực tiếp với nhân dân; thường xuyên lắng nghe ý kiến của Mặt trận và các đoàn thể nhân dân phản ánh với Đảng, Nhà nước những vấn đề mà nhân dân quan tâm... Thực hiện tốt Luật Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, Quy chế dân chủ ở mọi cấp để Mặt trận, các đoàn thể và các tầng lớp nhân dân tham gia xây dựng Đảng, chính quyền và hệ thống chính trị".

Đại hội đòi hỏi phải "Đổi mới, nâng cao chất lượng hoạt động của Mặt trận, các đoàn thể nhân dân và các hội quần chúng, khắc phục tình trạng hành chính hóa, phô trương,  hình thức, làm tốt công tác dân vận theo  phong cách trọng dân, gần dân và có trách nhiệm với dân".

Để hoàn thành thắng lợi nhiệm vụ mà Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ X đã đề ra, thời gian tới Mặt trận Tổ quốc Việt Nam cần thực hiện tốt những phương hướng, nhiệm vụ chung sau:

Có những hình thức và việc làm thiết thực để phát huy tinh thần yêu nước, lòng tự hào dân tộc, ý chí tự lực, tự cường, ý thức trách nhiệm và quyền làm chủ của nhân dân.

Đa dạng hóa các hình thức tập hợp nhân dân, tăng cường mối liên hệ mật thiết giữa nhân dân với Đảng và Nhà nước; chủ động đề xuất và góp phần cùng Đảng và Nhà nước xây dựng chủ trương, chính sách, pháp luật nhằm đáp ứng yêu cầu phát triển của đất nước và nguyện vọng của nhân dân. Đặc biệt, Mặt trận cần đặc biệt coi trọng vai trò giám sát và phản biện xã hội khi tham gia xây dựng và vận động thực hiện các chủ trương, chính sách, pháp luật.

Hướng mạnh hơn nữa các hoạt động về cơ sở, cộng đồng dân cư, tổ chức tốt các cuộc vận động, các phong trào thi đua yêu nước, làm kinh tế giỏi, phát triển kinh tế đi liền với phát triển văn hóa - xã hội; tăng cường sức mạnh quốc phòng, an ninh, động viên nhân dân hăng hái lao động, sản xuất, kinh doanh, nghiên cứu khoa học, làm giàu cho mình, cho cộng  đồng và đất nước; góp phần thực hiện thắng lợi chiến lược phát triển kinh tế - xã hội, tăng cường sức mạnh quốc phòng, an ninh, góp phần đưa nước ta sớm ra khỏi tình trạng kém phát triển.

Phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc là đường lối chiến lược nhất quán, cơ bản và lâu dài của Đảng và Nhà nước ta.

Với tình hình quốc tế và trong nước hiện nay đường lối chiến lược tăng cường phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc đang trở thành nhiệm vụ thường xuyên, quan trọng và cấp bách của Đảng, Nhà nước và nhân dân ta.

Theo Nguyễn Túc Uỷ viên đoàn chủ tịch Uỷ ban TW MTTQVN, báo Nhân dân ngày 29/8/2006

Phản hồi

Thông tin người gửi phản hồi

Hướng dẫn kiểm tra, giám sát phục vụ đại hội đảng bộ các cấp tiến tới Đại hội XIV của Đảng

(ĐCSVN) - Tại văn bản số 08-HD/UBKTTW ngày 18/11/2024, Ủy ban Kiểm tra Trung ương hướng dẫn công tác kiểm tra, giám sát phục vụ đại hội đảng bộ các cấp tiến tới Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIV của Đảng.

Phương án nghiên cứu sắp xếp, sáp nhập các bộ, cơ quan thuộc Chính phủ

(ĐCSVN) - Theo phương án nghiên cứu sắp xếp, sáp nhập được Trưởng Ban Tổ chức Trung ương Lê Minh Hưng nêu tại Hội nghị toàn quốc sáng 1/12, sẽ tối thiểu giảm được 5 bộ, 2 cơ quan trực thuộc Chính phủ.

Phương án sáp nhập các ủy ban của Quốc hội và cơ quan thuộc Ủy ban Thường vụ Quốc hội

(ĐCSVN) - Sáng 1/12, Trưởng Ban Tổ chức Trung ương Lê Minh Hưng thông báo chuyên đề về các nội dung chính, trọng tâm việc triển khai tổng kết Nghị quyết 18. Theo phương án định hướng được nêu sẽ giảm 4 ủy ban của Quốc hội và 1 cơ quan trực thuộc Ủy ban Thường vụ Quốc hội.

Phương án giảm 4 cơ quan Đảng, 25 ban cán sự đảng, 16 đảng đoàn trực thuộc Trung ương

(ĐCSVN) - Sáng 1/12, đồng chí Lê Minh Hưng, Uỷ viên Bộ Chính trị, Bí thư Trung ương Đảng, Trưởng ban Tổ chức Trung ương đã trình bày các nội dung chính, trọng tâm việc triển khai tổng kết Nghị quyết 18-NQ/TW của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XII.

Quy trình kỷ luật đảng viên thuộc thẩm quyền của Trung ương Đảng, Bộ Chính trị, Ban Bí thư

(ĐCSVN) - Thay mặt Bộ Chính trị, Thường trực Ban Bí thư Lương Cường vừa ký Quyết định số 165-QĐ/TW ngày 6/6/2024 của Bộ Chính trị ban hành Quy trình xem xét, thi hành kỷ luật đối với tổ chức Đảng, đảng viên thuộc thẩm quyền của Ban Chấp hành Trung ương Đảng, Bộ Chính trị, Ban Bí thư.

Liên kết website