1. Tinh thần và tư tưởng chỉ đạo của Nghị quyết Đại hội X đối với công tác khoa giáo.
Dưới sự lãnh đạo trực tiếp, thường xuyên của Bộ Chính trị, Ban Bí thư Trung ương Đảng, hệ thống khoa giáo nước ta là sự kết nối của các lĩnh vực công tác giữ vai trò nền tảng cho sự phát triển kinh tế - xã hội của đất nước, bao gồm: giáo dục và đào tạo, khoa học, công nghệ, môi trường, y tế, thể dục thể thao, dân số, gia đình và trẻ em, công tác trí thức khoa học và nhân tài. Đây chính là những lĩnh vực gắn liền với đời sống tinh thần, trí tuệ sức khoẻ, hạnh phúc và sự phát triển toàn diện của con người với tư cách là mục tiêu và động lực của cách mạng Việt Nam.
Trong những năm qua, Đảng và Nhà nước ta đã lãnh đạo, chỉ đạo sát sao các hoạt động trong lĩnh vực khoa giáo. Đảng ta xác định khoa học - công nghệ cùng với giáo dục - đào tạo là quốc sách hàng đầu; chăm sóc sức khoẻ nhân dân là chính sách ưu tiên số một của Đảng và Nhà nước công tác trí thức là công việc chăm lo cho nguồn nhân lực trí tuệ cao của đất nước công tác dân số - gia đình và trẻ em, công tác thể dục thể thao chính là để đảm bảo điều kiện sống, sức mạnh thể chất và tinh thần cho con người và cho xã hội; công tác bảo vệ môi trường sinh thái chính là một trong những trụ cột đảm bảo cho sự phát triển bền vững... Thực tiễn vận động của đời sống xã hội trong 5 năm qua, đặc biệt qua quá trình 20 năm đổi mỗi ngày càng thể hiện tính đúng đắn của những quan điểm đó. Văn kiện Đại hội X một lần nữa khẳng định và hơn nữa, làm sáng tỏ nhiều khía cạnh trong những quan điểm chỉ đạo về công tác khoa giáo trong tình hình mới.
Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X của Đảng đã xác định rõ mục tiêu của chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 5 năm 2006-2010 là: Đẩy nhanh tốc độ tăng trưởng kinh tế, đạt được bước chuyển biến quan trọng về nâng cao hiệu quả và tính bền vững của sự phát triển, sớm đưa nước ta ra khỏi tình trạng kém phát triển. Cải thiện rõ rệt đời sống vật chất văn hóa và tinh thần của nhân dân. Tạo được nền tảng để đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa và phát triển kinh tế tri thức đưa nước ta cơ bản trở thành một nước công nghiệp theo hướng hiện đại vào năm 2020. Giữ vững ổn định chính trị và trật an toàn xã hội. Bảo vệ vững chắc độc lập chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ và an ninh quốc gia. Nâng cao vị thế của Việt Nam trong khu vực và trên trường quốc tế.
Để đạt được những mục tiêu này, chúng ta cần tiến hành quá trình công nghiệp hóa rút ngắn, trên cơ sở kết hợp linh hoạt và hợp lý những bước đi tuần tự với những bước nhảy vọt, nhanh chóng đạt tới trình độ tiên tiến về khoa học và công nghệ, đặc biệt chú trọng những ngành mũi nhọn như công nghệ thông tin, công nghệ sinh học, công nghệ vật liệu mới, công nghệ năng lượng, công nghệ tự động hoá; cần ứng dụng ngày càng nhiều những tri thức mới để chủ động đi nhanh vào kinh tế tri thức ở những ngành, những lĩnh vực mà đất nước ta có điều kiện.
Đây vừa là bước đi hiện thực phù hợp với xu thế phát triển của thế giới, vừa là mục tiêu cho những thập niên đầu thế kỷ XXI trong sự phát triển chung của đất nước. Muốn hiện thực hóa tốt bước đi và cũng là mục tiêu này thì lực lượng đóng vai trò chủ chốt mang tính quyết định chính là nguồn nhân lực có trí tuệ và tay nghề cao tương xứng. Do vậy, để đảm bảo cho đất nước ta phát triển nhanh và bền vững theo định hướng xã hội chủ nghĩa, cần phải coi trọng công tác khoa giáo, nhất là đối với 2 lĩnh vực quốc sách hàng đầu là giáo dục - đào tạo và khoa học - công nghệ. Văn kiện Đại hội X của Đảng đã tiếp tục khẳng định và thể hiện rõ tư tưởng chiến lược nhất quán của Đảng ta mà các đại hội, các nghị quyết, chỉ thị trước đó đã nêu. Theo tinh thần đó, Văn kiện Đại hội X nhấn mạnh: phát triển mạnh, kết hợp chặt chẽ giữa hoạt động khoa học và công nghệ với giáo dục và đào tạo để thực sự phát huy vai trò quốc sách hàng đầu, tạo động lực đẩy nhanh công nghiệp hóa, hiện đại hóa và phát triển kinh tế tri thức. Thống nhất định hướng giữa phát triển khoa học và công nghệ với chấn hưng giáo dục và đào tạo, phát huy quan hệ tương tác thúc đẩy lẫn nhau giữa hai lĩnh vực quốc sách hàng đầu này.
Những tư tưởng chỉ đạo này là một bước phát triển, cụ thể hóa Cương lĩnh xây dựng đất nước đã được thông qua tại Đại hội VII, Nghị quyết Trung ương 4 (khóa VII), Nghị quyết Đại hội VIII, Nghị quyết Trung ương 2 (khóa VIII), Nghị quyết Đại hội IX và nhiều nghị quyết, chỉ thị quan trọng khác.
Như vậy, trách nhiệm của hệ thống khoa giáo từ trung ương đến địa phương là tập trung giúp các cấp uỷ đảng tổ chức nghiên cứu, quán triệt sâu sắc nội dung Nghị quyết Đại hội X về các lĩnh vực khoa giáo trong các cấp, các ngành và trong xã hội; tham mưu cho các cấp uỷ những giải pháp thiết thực cả ở tầm vĩ mô và vi mô; hướng dẫn, kiểm tra, đôn đốc việc thực hiện các nghị quyết, chỉ thị của Đảng trên cơ sở bám sát tình hình thực tế của đất nước và của từng địa phương; sơ kết, tổng kết kịp thời việc thực hiện các nghị quyết, chỉ thị đó. Mọi hoạt động của toàn bộ hệ thống khoa giáo đều phải hướng vào mục tiêu xây dựng con người và phát triển nguồn nhân lực, tạo điều kiện cho sự phát triển bền vững của đất nước.
2. Định hướng và yêu cầu đối với các lĩnh vực khoa giáo theo tinh thần Nghị quyết Đại hội X
2.1. Về giáo dục và đào tạo:
a. Định hướng chỉ đạo và mục tiêu:
Ngoài những điểm chung nhất đã nêu trên, Văn kiện Đại hội X nhấn mạnh: phải đổi mới tư duy giáo dục; đổi mới cơ cấu tổ chức, cơ chế quản lý, phương pháp giáo dục theo hướng “chuẩn hóa, hiện đại hóa, xã hội hóa” nâng cao chất lượng dạy và học; xây dựng chiến lược phát triển giáo dục, đào tạo; chú trọng phát hiện, bồi dưỡng, trọng dụng nhân tài.
b. Những yêu cầu trọng tâm trong quá trình thực hiện:
- Chuyển dần mô hình giáo dục hiện nay sang mô hình giáo dục mở- mô hình xã hội học tập với hệ thống học tập suốt đời, đào tạo liên tục, thực hiện sự liên thông giữa các bậc học, một số ngành học; xây dựng và phát triển hệ thống học tập cho mọi người và những hình thức học tập, thực hành linh hoạt mềm dẻo hơn, đáp ứng nhu cầu học tập thường xuyên; tạo ra nhiều khả năng, cơ hội khác nhau cho người học, bảo đảm sự công bằng xã hội trong giáo dục, gắn với phát triển nghề nghiệp của người dân.
- Phát triển giáo dục mầm non và giáo dục phổ thông. Khẩn trương điều chỉnh, khắc phục tình trạng quá tải và thực hiện nghiêm túc chương trình giáo dục và sách giáo khoa phổ thông có tính khoa học, đại chúng và phổ cập, phù hợp tâm lý lứa tuổi và điều kiện cụ thể của Việt Nam. Kết hợp việc tổ chức phân ban với tự chọn ở trung học phổ thông trên cơ sở làm tốt công tác hướng nghiệp và phân luồng từ trung học cơ sở. Bảo đảm đúng tiến độ và chất lượng phố cập giáo dục.
- Phát triển hệ thống hướng nghiệp và dạy nghề, nhất là các nghề cho nông dân trong lĩnh vực nông nghiệp; đa dạng hóa các loại hình dạy nghề, phát triển nhanh đào tạo nghề dài hạn theo hướng hiện đại.
- Đổi mới hệ thống giáo dục đại học và sau đại học, gắn đào tạo với sử dụng, trực tiếp phục vụ chuyển đổi cơ cấu lao động khẩn trương xây dựng cơ cấu nguồn nhân lực hợp lý về ngành nghề, trình độ đào tạo, dân tộc, vùng miền...; có cơ chế và chính sách gắn kết có hiệu quả trường đại học với cơ sở nghiên cứu khoa học và doanh nghiệp để chuyển giao kết quả nghiên cứu khoa học và công nghệ vào sản xuất kinh doanh. Xây dựng một số trường đại học trọng điểm đạt trình độ khu vực và quốc tế.
- Hoàn thiện hệ thống đánh giá và kiểm định chất lượng giáo dục. Cải tiến công tác thi cử cả về nội dung và phương pháp nhằm đánh giá đúng trình độ tiếp thu tri thức, khả năng học tập. Khắc phục những mặt yếu kém và những hiện tượng tiêu cực trong giáo dục, thực hiện những giải pháp cơ bản, lâu dài nhằm chấn hưng nền giáo dục Việt Nam.
- Thực hiện xã hội hóa giáo dục. Huy động nguồn lực vật chất và trí tuệ của xã hội tham gia chăm lo sự nghiệp giáo dục. Phối hợp chặt chẽ giữa ngành giáo dục với các ban, ngành, các tổ chức chính trị - xã hội, xã hội - nghề nghiệp... để mở mang giáo dục, tạo điều kiện học tập cho mọi thành viên trong xã hội. Tăng cường thanh tra, kiềm tra, giám sát các hoạt động giáo dục.
- Đổi mới cơ chế quản lý giáo dục. Phân cấp, tạo động lực và sự chủ động của các cơ sở, các chủ thể tiến hành giáo dục nhà nước tăng đầu tư tập trung cho các mục tiêu ưu tiên, các chương trình quốc gia phát triển giáo dục, hỗ trợ các vùng đồng bào dân tộc thiểu số, vùng sâu, vùng xa, biên giới, hải đảo; thực hiện cấp học bổng và miễn giảm đóng góp đối với học sinh nghèo, các đối tượng chính sách, học sinh giỏi.
- Tăng cường hợp tác quốc tế về giáo dục và đào tạo. Tiếp cận chuẩn mực giáo dục tiên tiến của thế giới phù hợp với yêu cầu phát triển của Việt Nam; tham gia đào tạo nhân lực lao động kỹ thuật cao cho khu vực và thế giới. Có cơ chế quản lý phù hợp đối với các trường do nước ngoài đầu tư hoặc liên kết đào tạo.
- Xây dựng chiến lược phát triển giáo dục và đào tạo đến năm 2020. Chú trọng phát hiện, bồi dưỡng, trọng dụng nhân tài.
2.2. Về khoa học, công nghệ, bảo vệ môi trường và công tác trí thức khoa học
2.2.1. Định hướng chỉ đạo và mục tiêu
a. Đối với khoa học xã hội và nhân văn
Tiếp tục những định hướng phát triển của khoa học xã hội và nhân văn đã được khẳng định trong các văn kiện của Đảng, Nghị quyết Đại hội X đã chỉ đạo sự hoạt động của khoa học xã hội và nhân văn đến năm 2010 là: Vận dụng sáng tạo và phát triển chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh; kế thừa những giá trị văn hóa truyền thống của dân tộc, tiếp thu tinh hoa trí tuệ của nhân loại; đi sâu điều tra, nghiên cứu thực tế, tổng kết sâu sắc quá trình đổi mới đất nước; xây dựng, không ngừng phát triển và hoàn thiện hệ thống lý luận về con đường đi lên chủ nghĩa xã hội của Việt Nam; cung cấp luận cứ khoa học cho việc tiếp tục bổ sung, hoàn thiện đường lối, chủ trương chính sách của Đảng và Nhà nước nhằm xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội và bảo vệ vững chắc Tổ quốc xã hội chủ nghĩa.
b. Đối với khoa học, công nghệ
Trong Văn kiện Đại hội X, nhiều quan điểm, chủ trương lớn về phát triển khoa học và công nghệ được khẳng định và nhấn mạnh hơn so với Đại hội IX. Đặc biệt lần này, Văn kiện Đại hội X đã chú trọng đến sự kết hợp chặt chẽ, sự thống nhất định hướng trong sự hoạt là phát triển giữa hai lĩnh vực quốc sách hàng đầu: khoa học - công nghệ và giáo dục - đào tạo, coi sự phát triển là thống nhất này chính là “động lực đẩy nhanh CNH- HĐH và phát triển kinh tế tri thức”. Văn kiện cũng đã nhấn mạnh đến sự cần thiết phải “tăng nhanh năng lực khoa học và công nghệ nội sinh”, “nâng cao chất lượng và tính thương mại của các sản phẩm khoa học và công nghệ”, “nâng cao ý thức chấp hành và hiệu lực thực thi pháp luật về sở hữu trí tuệ”, “xã hội hóa các hoạt động khoa học và công nghệ”. Đồng thời, Văn kiện Đại hội X đã xác định rõ mục tiêu cho khoa học và công nghệ là “phấn đấu đến năm 2020, năng lực khoa học và công nghệ nước ta đạt trình độ của các nước tiên tiến trong khu vực trên một số lĩnh vực quan trọng”.
c. Đối với công tác bảo vệ môi trường
Công tác bảo vệ môi trường được Văn kiện Đại hội tiếp tục khẳng định là một yếu tố đảm bảo phát triển bền vững và đưa thành một mục lớn trong phương hướng, nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội 5 năm 2006- 2010. Điều đáng lưu ý là, đã xác định rõ nhiều chỉ tiêu mà công tác bảo vệ môi trường cần đạt tới trong giai đoạn 2006-2010: đưa tỷ lệ che phủ rừng vào năm 2010 lên 42-43%, tăng diện tích cây xanh ở các khu đô thị; năm 2010, 95% dân cư thành thị và 75% dân cư ở nông thôn được sử dụng nước sạch; 100% các cơ sở sản xuất mới xây dựng phải áp dụng công nghệ sạch hoặc được trang bị các thiết bị giảm ô nhiễm, xử lý chất thải; trên 50% các cơ sở sản xuất, kinh doanh đạt tiêu chuẩn về môi trường; 100% số đô thị loại 3 trở lên, 50% số đô thị loại 4 và tất cả các khu công nghiệp, khu chế xuất có hệ thống xử lý nước thải; 90% chất thải rắn thông thường, 80% chất thải nguy hại, 100% chất thải y tế được thu gom và xử lý đạt tiêu chuẩn môi trường.
d. Đối với công tác trí thức khoa học
Tư tưởng xuyên suốt và được thể hiện sâu sắc trong Văn kiện Đại hội X về công tác trí thức là “phát huy trí tuệ và năng lực, mở rộng thông tin, phát huy dân chủ, trọng dụng nhân tài”.
2.2.2. Những yêu cầu chính trong quá trình tổ chức thực hiện
a. Đối với khoa học xã hội và nhân văn
Phát triển khoa học xã hội hướng vào việc tiếp tục làm sáng tỏ những nhận thức về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta; giải đáp những vấn đề mới của kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa; con đường, bước đi của quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa; những nguyên tắc, nội dung cơ bản của vấn đề phát huy dân chủ xã hội chủ nghĩa, đổi mới hệ thống chính trị, xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân, vì dân; xây dựng và phát triển nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc; nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng trong giai đoạn mới... Thường xuyên tổng kết thực tiễn để phát triển lý luận; dự báo tình hình và xu thế phát triển của thế giới, khu vực và trong nước; cung cấp luận cứ khoa học cho việc hoạch định đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước.
b. Đối với khoa học tự nhiên - công nghệ và bảo vệ môi trường
Phát triển khoa học tự nhiên theo hướng tập trung nghiên cứu cơ bản định hướng ứng dụng, đặc biệt là các lĩnh vực Việt Nam có thu cầu và thế mạnh. Phát triển công nghệ, đẩy mạnh có chọn lọc việc nhập công nghệ, mua sáng chế kết hợp công nghệ nội sinh để nhanh chóng đổi mới và nâng cao trình độ công nghệ của các ngành có lợi thế cạnh tranh, có tỷ trọng lớn trong GDP, các ngành công nghiệp phụ trợ và tạo nhiều việc làm cho xã hội; phát triển công nghệ cao, nhất là công nghệ thông tin và công nghệ sinh học. Phát triển hệ thống thông tin quốc gia về nhân lực và công nghệ.
Đổi mới cơ chế quản lý khoa học và công nghệ theo hướng Nhà nước đầu tư vào các chương trình nghiên cứu quốc gia đạt trình độ khu vực và thế giới, xây dựng tiềm lực khoa học và còng nghệ của một số lĩnh vực trọng điểm. Đa dạng hóa các nguồn đầu tư cho khoa học, công nghệ. Đẩy mạnh hội nhập quốc tế trong lĩnh vực khoa học và công nghệ. Nâng cao chất lượng và khả năng thương mại của các sản phẩm khoa học và công nghệ; đẩy mạnh việc đổi mới công nghệ trong các doanh nghiệp.
Phát triển thị trường công nghệ trên cơ sở đổi mới cơ chế, chính sách để phần lớn sản phẩm khoa học và công nghệ (trừ nghiên cứu cơ bản, nghiên cứu phục vụ đường lối, chiến lược, chính sách phát triển) trở thành hàng hóa. Thông tin rộng rãi và tạo môi trường cạnh tranh để các sản phẩm khoa học và công nghệ được mua bán thuận lợi trên thị trường.
Nhà nước khuyến khích thông qua các chính sách hỗ trợ phát triển, công nhận và bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ đối với các công trình khoa học và hoạt động sáng tạo, hoàn thiện và ứng dụng công nghệ mới. Có chính sách hấp dẫn các công ty xuyên quốc gia đầu tư và chuyển giao công nghệ mới cho các doanh nghiệp Việt Nam. Chú trọng nhập khẩu công nghệ hiện đại; từng bước phát triển mạnh công nghệ trong nước; chuyển các tổ chức nghiên cứu và phát triển thuộc nhiều loại hình sở hữu sang hoạt động theo cơ chế doanh nghiệp; hình thành lực lượng doanh nghiệp khoa học và công nghệ; xây dựng hệ thống quản lý nhà nước về thị trường công nghệ.
Coi trọng việc thực hiện mục tiêu và nhiệm vụ bảo vệ môi trường trong mọi hoạt động kinh tế, xã hội; thực hiện tốt “Chương trình Nghị sự XXI”; tăng cường đầu tư của Nhà nước, thu hút đầu tư của xã hội vào lĩnh vực môi trường; xử lý tốt mối quan hệ giữa tăng trưởng dân số, phát triển kinh tế và đô thị hóa với bảo vệ môi trường, bảo đảm phát triển bền vững...
c. Đối với công tác trí thức khoa học
Khuyến khích các trí thức, các nhà khoa học phát minh, sáng tạo gắn với hiệu quả sản xuất kinh doanh. Bảo vệ quyền tác giả, đãi ngộ xứng đáng những cống hiến của trí thức cho công cuộc phát triển đất nước. Coi trọng vai trò tư vấn, phản biện của các hội khoa học kỹ thuật, khoa học xã hội và văn học - nghệ thuật chuyên ngành đối với các dự án phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội.
Trọng dụng nhân tài, các nhà khoa học đầu ngành, tổng công trình sư, kỹ sư trưởng, kỹ thuật viên lành nghề và công nhân kỹ thuật có tay nghề cao. Có chính sách thu hút các nhà khoa học, công nghệ giỏi ở trong nước và trong cộng đồng người Việt Nam ở nước ngoài:
2.3. Về lĩnh vực chăm sóc sức khoẻ nhân dân; dân số, gia đình và trẻ em; thể dục thể thao
2.3.1. Định hướng chỉ đạo và mục tiêu
Nghị quyết Đại hội X tiếp tục khẳng định quan điểm nhất quán của Đảng trên các lĩnh vực chăm sóc sức khỏe nhân dân; dân số, gia đình và trẻ em; thể dục thể thao như sau:
- Hướng vào mục tiêu phát triển con người Việt Nam về sức khoẻ, thể lực và các phẩm chất trí tuệ, đạo đức để có cuộc sống hạnh phúc và đáp ứng yêu cầu phát triển nguồn nhân lực để phục vụ sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hoá đất nước.
- Thực hiện công bằng xã hội trong chăm sóc sức khoẻ và xây dựng đời sống; quan tâm giúp đỡ người nghèo, vùng nghèo, vùng khó khăn, vùng sâu, vùng xa.
- Phát huy mọi tiềm năng của xã hội để phát triển y tế' bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em, thể dục thể thao tăng mức đầu tư của Nhà nước đi đôi với đẩy mạnh xã hội hóa các lĩnh vực này.
- Nâng cao chất lượng các hoạt động y tế, bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em, thể dục thể thao, đạt trình độ ngày càng cao ở khu vực và trên thế giới.
Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 2005-2010 đã ghi rõ các mục tiêu quan trọng liên quan đến việc phát triển các lĩnh vực y tế, dân số, bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em, thể dục thể thao như sau:
“Năm 2010 hoàn thành phổ cập giáo dục trung học cơ sở; giáo dục đại học và cao đẳng đạt 200 sinh viên/10.000 dân; lao động đã qua đào tạo chiếm 40% tổng lao động xã hội; Tỷ lệ bác sĩ đạt 7 người/10.000 dân; Tỷ lệ tử vong trẻ em dưới 1 tuổi là 16%o trẻ đẻ sống; Tỷ lệ trẻ em suy dinh dưỡng dưới 5 tuổi giảm xuống dưới 20%; Tỷ lệ tử vong bà mẹ liên quan đến thai sản dưới 60/100.000 trẻ đẻ sống. Tuổi thọ trung bình của người Việt Nam đạt 72 tuổi.
2.3.2. Những yêu cầu trọng tâm trong quá trình tổ chức thực hiện
a. Đối với công tác chăm sóc sức khoẻ nhân dân
Xây dựng hoàn chỉnh hệ thống chính sách bảo đảm dịch vụ công cộng thiết yếu bình đẳng cho mọi người dân về chăm sóc sức khoẻ.
l. Xây dựng hệ thống an sinh xã hội đa dạng; phát triển mạnh hệ thống bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, tiến tới bảo hiểm y tế toàn dân.
Đổi mới và hoàn thiện hệ thống y tế theo hướng công bằng, hiệu quả và phát triển, tạo cơ hội thuận lợi để mọi người dân được bảo vệ, chăm sóc và nâng cao sức khoẻ. Nhà nước tiếp tục tăng đầu tư để nâng cấp các cơ sở y tế, y tế dự phòng, nâng cao chất lượng chăm sóc sức khỏe cơ bản cho toàn dân, xây dựng và hoàn thiện các chính sách trợ cấp và bảo hiểm y tế cho các đối tượng chính sách và người nghèo trong khám, chữa bệnh. Chú trọng phát triển các dịch vụ y tế công nghệ cao, khuyến khích phát triển đa dạng các dịch vụ y tế ngoài công lập.
Tăng cường hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước trong lĩnh vực y tế. Có chiến lược, quy hoạch phát triển và cơ chế, chính sách hợp lý để phát triển hệ thống sản xuất, lưu thông, phân phối thuốc chữa bệnh; từng bước xây dựng ngành công nghiệp dược, ngành công nghiệp thiết bị y tế trở thành những ngành kinh tế - kỹ thuật đáp ứng nhu cầu trong nước và xuất khẩu. Kết hợp y học hiện đại với y học cổ truyền.
b. Đối với công tác thể dục thể thao
Xây dựng hoàn chỉnh hệ thống chính sách bảo đảm dịch vụ công cộng thiết yếu, bình đẳng cho mọi người dân về thể dục thể thao.
Xây dựng chiến lược quốc gia về nâng cao sức khỏe, tầm vóc con người Việt Nam, tăng tuổi thọ và cải thiện chất lượng giống nòi. Quan tâm tăng cường thể lực của thanh niên. Phát triển mạnh thể dục thể thao với phương châm kết hợp tốt thể thao phong trào và thể thao thành tích cao, dân tộc và hiện đại; chú trọng phát triển thể dục thể thao trường học, nâng cao chất lượng phong trào thể dục thể thao quần chúng. Có chính sách và cơ chế phù hợp để phát hiện, bồi dưỡng và phát triển tài năng thể thao, đưa nền thể thao nước ta đạt vị trí cao của khu vực, từng bước tiếp cận với châu lục và thế giới ở những bộ môn Việt Nam có ưu thế...
c. Đối với công tác dân số, gia đình và trẻ em
Thực hiện tốt các chính sách dân số và kế hoạch hóa gia đình. Giảm tốc độ tăng dân số. Tiếp tục duy trì kế hoạch giảm sinh, phấn đấu sớm đạt mục tiêu mức sinh thay thế, bảo đảm quy mô và cơ cấu dân số hợp lý, nâng cao chất lượng dân số. Phát huy những giá trị truyền thống tốt đẹp của gia đình Việt Nam, thích ứng với những đòi hỏi của quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Xây dựng gia đình ít con (1 - 2 con), no ấm, bình đẳng, tiến bộ, hạnh phúc, thật sự là tổ ấm của mỗi người, là tế bào lành mạnh của xã hội, là môi trường quan trọng hình thành, nuôi dưỡng và giáo dục nhân cách con người, bảo tồn và phát huy văn hóa truyền thống tốt đẹp, tạo nguồn nhân lực phục vụ sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Quan tâm đến sức khoẻ sinh sản. Đẩy mạnh phong trào toàn xã hội chăm sóc, giáo dục, bảo vệ trẻ em, tạo điều kiện cho trẻ em được sống trong môi trường an toàn, lành mạnh, phát triển hài hòa về thể chất, trí tuệ, tinh thần và đạo đức; giảm nhanh tỉ lệ trẻ em suy dinh dưỡng; thực hiện các biện pháp mạnh mẽ, kiên trì và có hiệu quả để phòng chống HIV/AIDS.
Tiếp tục thực hiện tốt các chính sách ưu đãi xã hội. Vận động toàn dân tham gia các hoạt động đền ơn đáp nghĩa, uống nước nhớ nguồn đối với các lão thành cách mạng, những người có công với nước, người được hưởng chính sách xã hội. Chăm sóc đời sống vật chất và tinh thần của người già, nhất là những người già cô đơn, không nơi nương tựa. Giúp đỡ nạn nhân chất độc da cam, người tàn tật, trẻ mồ côi, lang thang.
Như vậy, định hướng và những yêu cầu trọng tâm đối với công tác khoa giáo cho giai đoạn 2006-2010 đã được xác định. Vấn đề còn lại là ở chỗ đội ngũ cán bộ làm công tác khoa giáo từ Trung ương đến địa phương cần quán triệt sâu sắc và tích cực triển khai thực hiện Nghị quyết Đại hội X của Đảng về các lĩnh vực khoa giáo; chủ động hơn nữa trong việc nghiên cứu, tham mưu cho cấp ủy đảng để chỉ đạo việc thực hiện mục tiêu chung về công tác khoa giáo: Tạo sự chuyển biến mạnh về phát huy nhân tố con người, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực với cơ cấu hợp lý, tiếp tục đổi mới, tạo chuyển biến cơ bản, toàn diện về phát triển giáo dục đào tạo và khoa học, công nghệ làm nền tảng và động lực cho sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Thực hiện đúng tiến độ chương trình phổ cập giáo dục trung học cơ sở, ứng dụng nhanh các công nghệ tiên tiến, hiện đại, từng bước phát triển kinh tế tri thức, đẩy mạnh và phát triển công tác chăm sóc sức khoẻ nhân dân, công tác dân số, gia đình và trẻ em, công tác thể dục thể thao, công tác bảo vệ môi trường để góp phần vào sự phát triển bền vững của đất nước.
Theo GS.TS Đỗ Nguyên Phương, Tạp chí Khoa giáo tháng 7/2006