Tiếp tục xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa

1. Quá trình phát triển tư tưởng và quan điểm của Đảng ta về Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa. 

Quá trình xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa (XHCN) ở Việt Nam là một quá trình lịch sử được bắt đầu từ Tuyên ngôn độc lập ngày 2 tháng 9 năm 1945 và Hiến pháp năm 1946. 

Ngay từ những bước đi đầu tiên, chính quyền mới của nước ta đã gắn bó với tên tuổi của Chủ tịch Hồ Chí Minh - người sáng lập Nhà nước và trong suốt một phần tư thế kỷ là vị Chủ tịch, nguyên thủ đầu tiên, là kiến trúc sư và tổng công trình sư của toàn bộ sự nghiệp xây dựng chính quyền nhân dân, của sự nghiệp xây dựng Nhà nước dân chủ và pháp quyền Việt Nam. "Bản yêu sách của nhân dân An Nam", "Việt Nam yêu cầu ca" là những áng văn tuyệt vời của tác giả Nguyễn Ái Quốc từ rất sớm đã thể hiện một quan niệm hoàn chỉnh về nguyên tắc quản lý xã hội theo pháp luật trong một Nhà nước dân chủ theo tinh thần pháp quyền, thượng tôn pháp luật. 

Nói đến Nhà nước pháp quyền XHCN, vấn đề hàng đầu thuộc về bản chất là vấn đề dân chủ. Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, Nhà nước của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân là Nhà nước mà trong đó tất cả quyền lực Nhà nước đều thuộc về nhân dân. Người đã chỉ rõ: "Chúng ta hy sinh làm cách mệnh, thì nên làm cho đến nơi, nghĩa là làm sao cách mệnh rồi thì quyền giao cho dân chúng số nhiều, chớ để trong tay một bọn ít người. Thế mới khỏi hy sinh nhiều lần, thế dân chúng mới được hạnh phúc". 

Nhà nước do dân là Nhà nước mà nhân dân trực tiếp dựng lên. Cán bộ trong các cơ quan của chính quyền do nhân dân lựa chọn bầu ra. Tài chính của Nhà nước do nhân dân đóng góp. Chính sách, pháp luật, cơ cấu tổ chức Nhà nước, những việc liên quan đến vận mệnh quốc gia sẽ đưa ra nhân dân quyết định. Các hoạt động của Nhà nước đặt dưới sự giám sát của nhân dân. Tất cả các cơ quan Nhà nước phải dựa vào nhân dân, liên hệ chặt chẽ với nhân dân, lắng nghe ý kiến và chịu sự kiểm soát của nhân dân. Chủ tịch Hồ Chí Minh tỏ thái độ rất nghiêm khắc với những sai phạm của chính quyền: "Nếu Chính phủ làm hại dân thì dân có quyền đuổi Chính phủ". Nhà nước vì dân là Nhà nước phục vụ lợi ích và nguyện vọng của nhân dân. Ngoài mục đích phục vụ nhân dân, Nhà nước xã hội chủ nghĩa không có mục đích nào khác. 

Nhà nước pháp quyền tất yếu phải có một cơ cấu tổ chức và một cơ chế hoạt động thích hợp để bảo đảm hoạt động có hiệu lực và hiệu quả. Vào những năm đầu của Nhà nước Việt Nam Dân chủ cộng hòa, mặc dù không trực tiếp nói đến sự phân công rành mạch ba quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp, nhưng tư tưởng phân công quyền lực đó được quán triệt sâu sắc trong Hiến pháp 1946 do Chủ tịch 

Hồ Chí Minh chủ trì soạn thảo. Theo Hiến pháp năm 1946 thì "Nghị viện nhân dân là cơ quan có quyền lực cao nhất của nước Việt Nam Dân chủ cộng hòa". Cách xác định vị trí của Quốc hội như vậy được thể hiện nhất quán không những chỉ ở Hiến pháp năm 1946 mà còn ở các bản Hiến pháp 1959, 1980, 1992 (đã được sửa đổi, bổ sung). Còn Chính phủ, theo Hiến pháp năm 1946, là cơ quan hành chính cao nhất của toàn quốc, gồm có Chủ tịch nước, Phó Chủ tịch nước và nội các. Hiến pháp năm 1946 quy định mối quan hệ giữa Chính phủ và Quốc hội như là một cơ chế phối hợp và kiểm soát thông qua thể chế chất vấn, quyền tín nhiệm hay không tín nhiệm đối với nội các hoặc cá nhân Bộ trưởng, về trách nhiệm của Chủ tịch nước, của Thủ tướng Chính phủ. Cơ quan tư pháp được tổ chức và hoạt động trong sự hoạt động độc lập với cơ quan lập pháp và hành pháp. Không một cơ quan nào được can thiệp vào hoạt động xét xử của Tòa án. 

Không chỉ dừng lại ở cơ cấu tổ chức bộ máy trong sự phân công quyền lực hợp lý, bảo đảm cho nhân dân thực hiện đầy đủ quyền lực của mình, trong tư tưởng 

Hồ Chí Minh về một Nhà nước có hiệu lực, hiệu quả còn có đòi hỏi phải có đội ngũ cán bộ, công chức vừa là người lãnh đạo, vừa là người đầy tớ trung thành của nhân dân. Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn coi cán bộ là "cái gốc của mọi công việc". Người luôn đề ra yêu cầu rất cao đối với đội ngũ cán bộ, công chức chính quyền Nhà nước, thông qua cán bộ, công chức mà thể hiện trách nhiệm trước nhân dân. Muốn thế, cán bộ vừa phải biết công việc quản lý Nhà nước, vừa phải "phụng công, thủ pháp, chí công, vô tư", vừa phải nêu cao phẩm chất đạo đức và tinh thần phục vụ nhân dân, phục vụ Tổ quốc. Và chính Người đã thấy trước một trong những nguy cơ làm giảm hiệu lực của chính quyền là nạn tham nhũng, quan liêu. Người nói: "Tham ô, lãng phí và bệnh quan liêu, dù cố ý hay không, cũng là bạn đồng minh của thực dân và phong kiến... Nó làm hỏng tinh thần trong sạch và ý chí khắc khổ của cán bộ ta". Một Nhà nước được xem là Nhà nước pháp quyền XHCN không bao giờ chấp nhận nạn tham nhũng và tệ quan liêu. 

Sau khi giải phóng hoàn toàn miền nam, đất nước thống nhất về mặt Nhà nước và về pháp luật (1976), Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IV (1976), lần thứ V (1982) và Đại hội VI (1986) đều đã khẳng định Nhà nước ta là Nhà nước chuyên chính vô sản của nhân dân lao động, thực hiện dân chủ XHCN. Về bản chất giai cấp, Nhà nước chuyên chính vô sản là một bộ máy để củng cố địa vị thống trị và bảo vệ lợi ích của giai cấp công nhân và nhân dân lao động, đàn áp những lực lượng thống trị của xã hội cũ đã bị đánh đổ nhưng còn phản kháng. Về bản chất xã hội, Nhà nước chuyên chính vô sản phải giải quyết được các vấn đề mà xã hội đặt ra, bảo đảm hài hòa lợi ích của các giai cấp và tầng lớp khác nhau, nhằm duy trì xã hội trong một trật tự nhất định. Tuy nhiên, tùy theo điều kiện, hoàn cảnh lịch sử cụ thể mà chức năng "giai cấp" và chức năng "xã hội" của Nhà nước được thể hiện ở các mức độ khác nhau. 

Có thể nói, những đặc điểm mang tính lịch sử trong quá trình xây dựng Nhà nước chuyên chính vô sản ở giai đoạn này là cơ sở vững chắc cho quá trình nghiên cứu xây dựng Nhà nước pháp quyền sau này. Tuy nhiên, do có một hạn chế trong nhận thức của một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên về chuyên chính vô sản trong điều kiện mới - điều kiện xây dựng chủ nghĩa xã hội trên phạm vi cả nước, có phần phiến diện nên trong quá trình vận hành của bộ máy Nhà nước, nội dung dân chủ xã hội chủ nghĩa đã không được chú ý đầy đủ, trên thực tế trở thành tập trung quan liêu. 

Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI đã nêu phương châm "lấy dân làm gốc" và cơ chế "dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra", thể hiện chế độ nhân dân lao động tự quản lý Nhà nước của mình, coi trọng công tác vận động quần chúng, phát huy quyền làm chủ của nhân dân trong đời sống của đất nước. 

Tại Đại hội VII, Đảng đã xác định: "Tiếp tục cải cách bộ máy Nhà nước theo phương hướng: Nhà nước thực sự là của dân, do dân và vì dân. Nhà nước quản lý xã hội bằng pháp luật, dưới sự lãnh đạo của Đảng; tổ chức và hoạt động theo nguyên tắc tập trung dân chủ, thực hiện thống nhất quyền lực nhưng phân công, phân cấp rành mạch; bộ máy tinh giản, gọn nhẹ và hoạt động có chất lượng cao trên cơ sở ứng dụng các thành tựu khoa học, kỹ thuật, quản lý". Nhà nước Việt Nam thống nhất có ba quyền: lập pháp, hành pháp và tư pháp, với sự phân công rành mạch ba quyền đó. 

Hội nghị đại biểu toàn quốc giữa nhiệm kỳ (Khóa VII) đã chính thức đưa vấn đề xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam vào Văn kiện của Đảng. Trong Phần thứ hai của Văn kiện Hội nghị đã nêu nhiệm vụ: "Tiếp tục xây dựng và từng bước hoàn thiện Nhà nước pháp quyền Việt Nam. Đó là Nhà nước của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân, quản lý mọi mặt đời sống xã hội bằng pháp luật, đưa đất nước phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Nhà nước pháp quyền Việt Nam được xây dựng trên cơ sở tăng cường, mở rộng khối đại đoàn kết toàn dân, lấy liên minh giữa giai cấp công nhân với nông dân và tầng lớp trí thức làm nền tảng, do Đảng ta lãnh đạo. 

Đây là lần đầu tiên trong văn kiện của Đảng chính thức nêu cụ thể, toàn diện những quan điểm, nguyên tắc, nội dung xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam. Với các thể hiện trong văn kiện này, tư tưởng về Nhà nước pháp quyền Việt Nam đã có bước phát triển rõ nét và toàn diện. Việc xây dựng Nhà nước pháp quyền Việt Nam trở thành chủ trương có tầm chiến lược, bao trùm toàn bộ tổ chức, hoạt động của Nhà nước, trở thành định hướng cho toàn bộ quá trình và nội dung đổi mới tổ chức, hoạt động của Nhà nước trong những năm tiếp theo. 

Hội nghị lần thứ 8 Ban Chấp hành Trung ương Đảng (Khóa VII) đánh dấu một bước phát triển quan trọng về lý luận xây dựng Nhà nước pháp quyền Việt Nam. Hội nghị đã ra nghị quyết về việc "Tiếp tục xây dựng và hoàn thiện Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam - trọng tâm là cải cách một bước nền hành chính Nhà nước". 

Sau khi đánh giá những thành tựu và khuyết điểm, yếu kém trong tổ chức, hoạt động của Nhà nước ta, Hội nghị đã nêu năm quan điểm cơ bản cần nắm vững trong quá trình xây dựng, kiện toàn bộ máy Nhà nước. 

Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ VIII (6-1996) vẫn tiếp tục khẳng định lại năm quan điểm và các nhiệm vụ xây dựng kiện toàn bộ máy Nhà nước mà Đảng ta đã nêu ra trước đó, trong đó có đề cập quan điểm tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa, xây dựng Nhà nước pháp quyền Việt Nam, quản lý xã hội bằng pháp luật. 

Sau đó, Nghị quyết thứ nhất của Hội nghị lần thứ 3 Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa VIII) về "phát huy quyền làm chủ của nhân dân, tiếp tục xây dựng Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam trong sạch, vững mạnh" đã khẳng định rằng chúng ta đã từng bước phát triển hệ thống quan điểm, nguyên tắc cơ bản về xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân, vì dân. 

Đến Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IX, nhận thức về Nhà nước pháp quyền được phát triển lên một tầm cao mới có tính đột phá về tư duy lý luận, là sự vận dụng sáng tạo học thuyết Nhà nước pháp quyền vào điều kiện Việt Nam. Văn kiện Đại hội IX khẳng định: "Nhà nước ta là công cụ chủ yếu để thực hiện quyền làm chủ của nhân dân, là Nhà nước pháp quyền của dân, do dân, vì dân. Quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công và phối hợp giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp. Nhà nước quản lý xã hội bằng pháp luật. Mọi cơ quan, tổ chức, cán bộ, công chức, mọi công dân có nghĩa vụ chấp hành Hiến pháp và pháp luật. Quan điểm về xây dựng Nhà nước pháp quyền của Đảng ta đã chính thức được thể chế hóa tại Điều 2 Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (sửa đổi, bổ sung năm 2001): "Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân". 

Đại hội lần thứ X của Đảng, trên cơ sở tổng kết lý luận và thực tiễn của 20 năm đổi mới, đã khẳng định rõ những yếu tố hợp thành xã hội xã hội chủ nghĩa mà nhân dân ta xây dựng. Trong các yếu tố đó có Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản. Đây là một sự khái quát hết sức cô đọng và đầy đủ về nội hàm của khái niệm chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Từ thực tiễn 20 năm đổi mới, Đảng ta đã rút ra những bài học lớn, trong đó có bài học về xây dựng Nhà nước pháp quyền, coi đó là yêu cầu bức thiết của xã hội. 

Khái quát lý luận và thực tiễn sinh động để xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN ở nước ta, có thể rút ra những kết luận sau đây: 

Thứ nhất, Đảng ta khẳng định bản chất của Nhà nước ta là Nhà nước của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân; tất cả quyền lực Nhà nước thuộc về nhân dân. 

Thứ hai, Đảng ta xác định quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công, phối hợp giữa các cơ quan Nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp. 

Thứ ba, Đảng ta khẳng định rõ vai trò của pháp luật trong quản lý Nhà nước, quản lý xã hội, vị trí tối cao của Hiến pháp và luật trong đời sống xã hội. Bên cạnh đó khẳng định vai trò của đạo đức và các quy tắc xã hội khác. 

Thứ tư, bảo đảm quyền con người, quyền công dân, khẳng định và thực hiện nguyên tắc trách nhiệm qua lại giữa Nhà nước và công dân, thực hiện dân chủ xã hội chủ nghĩa, tiếp tục thể chế hóa chủ trương dân chủ hóa mọi mặt của đời sống xã hội. 

Thứ năm, xác định trách nhiệm đầy đủ của Nhà nước trong việc thực hiện các cam kết quốc tế trong quá trình hội nhập kinh tế theo tinh thần Việt Nam sẵn sàng là bạn, là đối tác tin cậy của các nước trong cộng đồng quốc tế, phấn đấu vì hòa bình, độc lập và phát triển. 

Thứ sáu, bảo đảm sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam đối với Nhà nước trong quá trình xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân. Khẳng định sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản và nhiệm vụ xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa trong điều kiện nhất nguyên chính trị với vai trò kiểm tra, giám sát của nhân dân, sự phản biện xã hội - luận điểm này thể hiện quá trình phát triển liên tục không ngừng về tư tưởng, quan điểm của Đảng ta về dân chủ xã hội chủ nghĩa ở nước ta... 

Theo GS, TSKH Đào Trí Úc, báo Nhân dân ngày 8/8/2006

Phản hồi

Thông tin người gửi phản hồi

Ban hành Quy chế bầu cử trong Đảng

(ĐCSVN) - Ngày 10/10, thay mặt Ban Chấp hành Trung ương Đảng, Tổng Bí thư Tô Lâm đã ký Quyết định số 190-QĐ/TW về việc ban hành Quy chế bầu cử trong Đảng.

Kiểm soát quyền lực, phòng, chống tham nhũng, tiêu cực trong quản lý, sử dụng tài chính, tài sản công

(ĐCSVN) - Bộ Chính trị vừa ban hành Quy định số 189-QĐ/TW ngày 08/10/2024 về kiểm soát quyền lực, phòng, chống tham nhũng, tiêu cực trong quản lý, sử dụng tài chính, tài sản công.

Bộ Chính trị ban hành quy định phòng chống tham nhũng, tiêu cực trong điều tra, xét xử

(ĐCSVN) – Ngày 27/10/2023, Bộ Chính trị đã ban hành Quy định số 132-QĐ/TW về kiểm soát quyền lực, phòng, chống tham nhũng, tiêu cực trong hoạt động điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án.

Tập trung tuyên truyền những chủ đề lớn, trọng tâm từ nay đến Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIV của Đảng

(ĐCSVN) - Ban Tuyên giáo Trung ương yêu cầu thông tin chính xác, kịp thời với nhiều hình thức linh hoạt, sáng tạo, phong phú, sinh động gắn với tuyên truyền đại hội đảng bộ các cấp, tiến tới Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIV của Đảng và tuyên truyền kỷ niệm các ngày lễ lớn, sự kiện lịch sử quan trọng của đất nước trong năm 2024, 2025.

Quy trình kỷ luật đảng viên thuộc thẩm quyền của Trung ương Đảng, Bộ Chính trị, Ban Bí thư

(ĐCSVN) - Thay mặt Bộ Chính trị, Thường trực Ban Bí thư Lương Cường vừa ký Quyết định số 165-QĐ/TW ngày 6/6/2024 của Bộ Chính trị ban hành Quy trình xem xét, thi hành kỷ luật đối với tổ chức Đảng, đảng viên thuộc thẩm quyền của Ban Chấp hành Trung ương Đảng, Bộ Chính trị, Ban Bí thư.

Liên kết website