Văn hoá là phương thức sinh tồn đặc trưng của loài người, còn đổi mới là bản chất của văn hoá. Sự phát triển nhanh chóng và sự thay đổi lớn lao của thế giới đương đại đã làm cho ý nghĩa của việc đổi mới văn hoá trở nên đặc biệt nổi bật. Từ những năm 80 của thế kỷ XX đến nay, do sự phát triển vượt bậc của khoa học kỹ thuật, nhất là kỹ thuật cao mới lấy thông tin làm cốt lõi đã làm thay đổi phương thức sản xuất và phương thức sinh hoạt của con người, tác động sâu sắc đến quan hệ kinh tế, chính trị quốc tế, cạnh tranh sức mạnh tổng hợp quốc gia. Biến đổi, đổi mới, yêu cầu phát triển, tiến bộ... đã trở thành ý thức phổ biến và thực sự là trào lưu nổi bật nhất của thời đại ngày nay.
Nắm bắt được tinh thần của thời đại và dựa trên thực tiễn của đất nước, Đại hội lần thứ XI của Đảng yêu cầu ''Phát triển văn hóa, xã hội hài hòa với phát triển kinh tế, bảo đảm tiến bộ và công bằng xã hội trong từng bước và từng chính sách phát triển”(tr40); ''Tăng trưởng kinh tế phải kết hợp hài hòa với phát triển văn hóa, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội, không ngừng nâng cao chất lượng cuộc sống của nhân dân''(tr98); ''Phát triển toàn diện các lĩnh vực văn hóa xã hội hài hòa với phát triển kinh tế”(tr124). Tuy nhiên, Đảng ta cũng thẳng thắn nhận thấy: ''Văn hóa phát triển chưa tương xứng với tăng trưởng kinh tế'' (tr169). Như vậy, tại Đại hội lần này, Đảng ta đã khẳng định về mặt lý luận: đổi mới văn hoá chính là phát triển văn hóa hài hòa với phát triển kinh tế. Điều đó có nghĩa là việc đổi mới văn hoá không chỉ liên quan đến sự phát triển tự thân của văn hoá mà còn quan hệ sâu sắc đến kinh tế. Từ quan điểm phát triển mới của Đảng chúng ta cần phải xác định chính xác vai trò của văn hóa trong phát triển, sự thâm nhập của văn hóa vào mọi lĩnh vực của đời sống, làm sao để văn hóa ngày càng gắn bó chặt chẽ hơn với kinh tế, tạo nên sự hài hòa thực sự trong chiến lược phát triển đất nước.
I. Giá trị văn hóa truyền thống là kết tinh tinh thần đổi mới của cha ông trong lịch sử, đổi mới văn hóa ngày nay là nhân tố quyết định để các giá trị văn hóa truyền thống được phát triển trên một tầm cao mới hiện đại
Trải qua mấy nghìn năm lịch sử, dân tộc ta là một dân tộc giàu tinh thần học hỏi, tiếp thu sáng tạo và giàu năng lực đổi mới. Chính trong thực tiễn sản xuất, thực tiễn xã hội, thực tiễn tư duy, thực tiễn đấu tranh dựng nước và giữ nước cha ông ta đã sáng tạo ra văn hóa Việt Nam, hình thành truyền thống văn hoá Việt Nam tốt đẹp. Nền văn hóa ấy không những kết tinh vẻ đẹp và cốt cách tâm hồn, trí tuệ Việt Nam mà còn có ảnh hưởng nhất định đối với văn minh khu vực Đông Nam Á, và vì thế, đó là nền văn hóa có đóng góp đối với văn hóa và văn minh nhân loại. Vấn đề đặt ra là: trong khi nhiều dân tộc, vốn từng có một nền văn hóa phát triển nhưng sau đó bị đứt đoạn hoặc bị diệt vong thì tại sao văn hóa Việt Nam vẫn phát triển, tuy thăng giáng khác nhau, nhưng liên tục và chưa bao giờ dứt đoạn. Có thể lý giải thực tế này từ nhiều góc độ khác nhau, nhưng chắc chắn, để có sự bền vững ấy, từ trong bản chất văn hóa Việt Nam đã hình thành cơ chế đổi mới và cơ chế thích ứng với mọi hoàn cảnh. Có thể nói, văn hoá Việt Nam là một hệ thống mở, khéo tiếp thu cái hay, dám tự suy nghĩ lại để phát triển, biết học tập và biến cải một cách chủ động để tạo nên sự phong phú và sức sống mạnh mẽ của văn hóa dân tộc. Sức sống và tinh thần tự đổi mới của văn hóa Việt Nam, dù nhiều lúc bị sự cấm đoán của chế độ phong kiến hà khắc và thực dân cai trị nhưng về cơ bản đã thấm sâu vào máu huyết của toàn dân tộc, tạo nên chiều sâu bản sắc trong trường kỳ lịch sử. Đến đầu thế kỷ XX, sự kết hợp chủ nghĩa Mác và chủ nghĩa yêu nước ở Việt Nam đã tạo nên một bước ngoặt mới về đổi mới văn hóa dân tộc mà Chủ tịch Hồ Chí Minh chính là hiện thân đầy đủ và trọn vẹn nhất cho sự kết hợp và đổi mới ấy. Cũng từ đây, văn hóa của Đảng và văn hóa của dân tộc hòa kết, hướng tới một mục tiêu cao nhất là độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội. Không phải ngẫu nhiên mà khi cắt nghĩa về sức mạnh Việt Nam, Thủ tướng Phạm Văn Đồng đã lý giải chính xác: Việt Nam thắng đế quốc Mỹ không phải bằng sức mạnh vật chất mà bằng sức mạnh của văn hóa. Như vậy, tính tích cực, tính sáng tạo của văn hóa Việt Nam đã được cha ông ta trước đây và Đảng ta sau này phát huy một cách hiệu quả, đưa cách mạng nước ta giành được những kỳ tích lịch sử. Bước vào thời kỳ đổi mới, Đảng ta chủ trương xây dựng một đất nước: dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. Đổi mới tư duy, đổi mới thể chế, xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, xây dựng nhà nước pháp quyền... thực chất là đổi mới văn hóa, tạo sức sống mới cho văn hóa, biến văn hóa thành động lực phát triển đất nước. Chiến lược của Đảng về văn hóa là xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc. Từ tư tưởng chủ đạo này, trước thực tiễn biến đổi của thời đại, việc chủ trương gắn kết, phát triển hài hòa văn hóa và kinh tế thực sự là một bước tiến quan trọng về lý luận phát triển văn hóa của Đảng. Văn hóa Việt Nam đương đại là sự phản ánh đời sống xã hội Việt Nam đương đại, có ảnh hưởng to lớn đến sự phát triển tiến bộ xã hội. Cơ sở kinh tế và đời sống xã hội mà văn hoá Việt Nam dựa vào đó để sinh trưởng, phát triển, không chỉ còn là truyền thụ, kế thừa và tiếp nối mà cách đơn giản mà sâu hơn và cao hơn chính là sự chuyển hoá và xây dựng văn hoá theo hướng hiện đại hoá. Đó là quá trình không ngừng sáng tạo đổi mới văn hoá từ nội hàm tới ngoại diên. Nói khác đi, phát triển nền văn hoá tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc là phát triển văn hoá XHCN hướng tới hiện đại hoá, hướng tới thế giới, hướng tới tương lai. Nó vừa là mục tiêu của sự nghiệp xây dựng đất nước, vừa là nền tảng tinh thần, tạo nên động lực khát vọng phấn đấu cho toàn dân tộc. Vì thế, một khi văn hóa hòa nhập và kinh tế, chính trị, ý nghĩa và tầm quan trọng của văn hóa trong sức mạnh tổng hợp đất nước ngày càng nổi bật.
II. Đổi mới lý luận là cốt lõi và tiền đề của đổi mới văn hoá, thực tiễn sáng tạo của nhân dân là nguồn sống không bao giờ khô kiệt và động lực của đổi mới văn hoá
Tư tưởng, lý luận, quan điểm giá trị là nội hàm và đặc trưng bản chất của văn hoá, có tính ổn định tương đối và tính thẩm thấu rộng rãi. Nó vừa cơ sở nền tảng để văn hóa xã hội phát triển trong tính liên tục, lại có thể trở thành nhân tố tạo tính đột biến trong phát triển. Vì vậy, đổi mới lý luận là cốt lõi và tiền đề của đổi mới văn hoá. Có thể nói hầu như bất cứ sự phục hưng văn hoá nào trong lịch sử cũng đều bắt đầu từ giải phóng tư tưởng và đổi mới lý luận.
Giữa những năm 80 thế kỷ XX văn hoá xã hội Việt Nam bước vào thời kỳ mới đổi mới. Hơn 25 năm qua, những thành tựu to lớn lao của sự nghiệp đổi mới ở nước ta đã minh chứng một cách hùng hồn, giải phóng tư tưởng, đổi mới lý luận là hết sức quan trọng đối với sự phát triển và tiền đồ của một chính đảng, một quốc gia, một dân tộc.
Đảng ta đã lựa chọn mục tiêu chính trị phát triển đất nước phù hợp với xu thế tiến bộ của thời đại, vận dụng một cách sáng tạo chủ nghĩa Mác vào thực tiễn Việt Nam trên cơ sở kết hợp với việc phát huy những giá trị văn hóa ưu tú của dân tộc và nhân loại. Trước những biến đổi của thực tiễn thế giới đương đại và thực tiễn đất nước, trước những yêu cầu mới của sự nghiệp công nghiệp hóa hiện đại hóa đất nước, dứt khoát chúng ta phải có những đổi mới trong quan niệm và lý luận phát triển. Bản thân việc đổi mới và đổi mới triệt để cũng là một công việc mang ý nghĩa văn hóa. Ở đây, cần phải hiểu đổi mới khác với phủ định sạch trơn quá khứ. Về phương diện nào đó, thực chất đó là sự kết hợp truyền thống và hiện đại, phát huy những yếu tố hiện đại trong chính văn hóa truyền thống.
Đổi mới văn hoá trước hết là đổi mới bản thể văn hoá. Tư tưởng và quan niệm, nội dung và hình thức văn hoá phải thích ứng với phát triển của thời đại, hợp với nhu cầu của nhân dân. Điều đó đòi hỏi phát triển văn hoá Việt Nam tiên tiến phải bắt rễ sâu vào thực tế xây dựng đất nước, chú trọng những xu hướng phát triển mới của văn hóa thế giới nhằm tạo nên một nền văn hóa hiện đại thấm nhuần bản sắc dân tộc, thích ứng với yêu cầu phát triển sức sản xuất tiên tiến, phù hợp với lợi ích căn bản của đông đảo quần chúng nhân dân. Thực tiễn sáng tạo cuộc sống mới của quần chúng nhân dân chính là cội nguồn của văn hoá nghệ thuật. Vì thế, đi sâu vào cuộc sống, cảm nhận mạch đập của thời đại, lắng nghe tiếng nói của nhân dân, giữ vững liên hệ máu thịt với nhân dân chính là gắn liền với nguồn sống không bao giờ khô kiệt, phù hợp với tư tưởng ''Lấy dân làm gốc'' của Đảng. Thực tiễn ấy không chỉ là động lực lâu dài mà còn chính là thước đo kiểm nghiệm sự đổi mới có đạt hiệu quả hay không. Rõ ràng, vấn đề quan hệ văn nghệ với nhân dân chính là một trong những vấn đề cốt lõi nhất của văn hoá XHCN.
Thực tiễn của quần chúng nhân dân cũng như lợi ích, nguyện vọng, nhu cầu của nhân dân cũng là quá trình biến đổi không ngừng. Do sự phát triển của thời đại, nhu cầu về văn hoá nhân dân có nhiều thay đổi: yêu cầu cao hơn về chất lượng, đa dạng và khắt khe hơn trong lựa chọn. Nếu như trước đây, người tiêu dùng bị áp đặt và ít có sự lựa chọn các giá trị và chủng loại văn hóa thì ngày nay họ chính là người đặt hàng sản phẩm, và trong điều kiện kinh tế thị trường, những nhu cầu văn hoá nhiều tầng bậc, đa dạng ấy của quần chúng nhân dân chủ yếu đã được đáp ứng thông qua thị trường văn hóa. Sức mạnh và tác dụng của văn hóa trong thời đại ngày nay được tăng cường bởi sự lớn mạnh của công nghiệp văn hóa áp dụng những thông tin mới nhất của khoa học kỹ thuật hiện đại. Văn hóa, trong thời đại thông tin toàn cầu và kỹ thuật mới đã thấm sâu vào tất cả mọi hoạt động của đời sống. Tại đó, có sự cạnh tranh và hợp tác, có sự gặp gỡ và đấu tranh giữa các luồng tư tưởng, có sự chấp nhận và chối bỏ và lối sống, có sự hòa hợp và bất đồng về quan điểm...
Trước một thực trạng văn hóa đa đạng và đa cực như thế, để văn hóa Việt Nam phát triển lành mạnh và đúng hướng, điều quan trọng nhất vẫn là phải xây dựng một nền văn hóa do dân, vì dân, vì chủ nghĩa xã hội và đậm đà bản sắc Việt Nam.
III. Cải cách thể chế và cơ chế là khâu trọng tâm của đổi mới văn hoá, bảo đảm chế độ thúc đẩy phát triển văn hoá lâu dài và bền vững
Việc cải cách thể chế văn hoá phải phù hợp với đặc điểm và quy luật xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc, thích ứng với yêu cầu phát triển kinh tế thị trường định hướng XHCN nước ta.
Thể chế văn hoá của nước ta về cơ bản được hình thành dưới thể chế kinh tế kế hoạch, đến nay tỏ ra không còn phù hợp với thực tiễn phát triển văn hóa và phát triển đất nước. Vì thế, cải cách thể chế văn hoá là yêu cầu tất yếu của phát triển văn hóa trong giai đoạn cách mạng mới hiện nay.
Mục đích của cải cách thể chế văn hoá thể hiện ở ba điểm chính sau đây: thứ nhất, huy động đầy đủ tính tích cực và tính sáng tạo của những người làm công tác văn hóa nghệ thuật, thúc đẩy đổi mới văn hoá, sáng tạo nhiều tác phẩm ưu tú, kích thích phát triển nhân tài; thứ hai, huy động đầy đủ tính tích cực của đông đảo quần chúng nhân dân, động viên toàn xã hội tham gia xây dựng văn hoá; thứ ba, phát huy đầy đủ tác dụng của cơ chế thị trường, phát triển công nghiệp văn hoá tạo ra con đường quan trọng phồn vinh văn hoá nghệ thuật, đáp ứng nhu cầu văn hóa nghệ thuật, đáp ứng nhu cầu văn hóa tinh thần nhân dân. Nói một cách gọn nhất, mục đích của cải cách thể chế văn hoá là thông qua đổi mới chế độ, giải phóng sức sản xuất văn hoá, kích thích sức sáng tạo văn hoá, tạo ra bảo đảm chế độ cho văn hóa XHCN phát triển mạnh mẽ và lâu dài.
Phát triển và phồn vinh văn hóa là trung tâm của công tác văn hoá. Xây dựng văn hoá và cải cách thể chế văn hoá đều phải tiến hành xoay quanh trung tâm này. Trong điều kiện kinh tế thị trường, phải chú ý song song phát triển sự nghiệp công ích văn hoá và phát triển công nghiệp văn hóa, coi đó hai nhiệm vụ cơ bản của xây dựng văn hoá, đồng thời cũng là hai mặt quan trọng của cải cách thể chế văn hoá nhằm bảo đảm quyền được hưởng lợi ích văn hoá công cộng của quần chúng nhân dân, cung ứng đầy đủ nhu cầu văn hoá đa dạng của nhân dân. Hơn nữa, phát triển công nghiệp văn hóa và xây dựng thị trường văn hóa sẽ phát huy đầy đủ tác dụng của cơ chế thị trường đối với phát triển văn hoá, từng bước hoàn thiện hệ thống thị trường văn hoá, hoàn thiện chính sách công nghiệp văn hoá, tích cực xây dựng doanh nghiệp văn hoá, tăng cường thực lực chỉnh thể và sức cạnh tranh quốc tế của công nghiệp văn hoá nước ta.
Căn cứ vào thể chế kinh tế thị trường định hướng XHCN chúng ta phải coi đổi mới thể chế và cơ chế, hướng tới quần chúng, hướng ra thị trường là trọng điểm của cải cách thể chế văn hoá. Thị trường phải trở thành con đường quan trọng đáp ứng đời sống văn hoá tinh thần của quần chúng nhân dân. Công nghiệp văn hoá chỉ có thể phát triển mạnh, được tối ưu hoá một khi gắn với thị trường. Vì thế, thoát ly thị trường cũng có nghĩa là văn hoá thoát ly khỏi đối tượng phục vụ của mình, tự làm mất đi không gian rộng lớn và động lực lớn lao trong phát triển văn hóa.
Phải kết hợp cải cách đi vào chiều sâu với điều chỉnh kết cấu xúc tiến phát triển. Do điều kiện lịch sử, nước ta còn lạc hậu về nhiều mặt: thể chế văn hóa không hoàn thiện, hệ thống chính sách thiếu khoa học, công nghiệp văn hóa kém phát triển, điều kiện giao thông - kỹ thuật thông tin thiếu đồng bộ, quy hoạch manh mún, rời rạc... Để khắc phục điều này, chúng ta phải lấy doanh nghiệp văn hoá làm chủ thể, lấy tiến bộ khoa học kỹ thuật làm nâng đỡ, lấy thị trường làm đòn bẩy, lấy cải cách hành chính làm công cụ, tiến hành điều chỉnh một cách tổng thể kết cấu văn hóa.
Sản phẩm văn hoá là một thứ hàng hoá đặc thù, phải đặt hiệu quả xã hội và vị trí hàng đầu, cố gắng thống nhất hài hòa hiệu quả kinh tế và hiệu quả xã hội. Đây là một vấn đề quan trọng cần được xử lý tốt trong quá trình đổi mới. Phải coi chất lượng là tiền đề tất yếu, thị trường là con đường cơ bản. Nỗ lực sáng tạo nên nhiều tác phẩm văn hóa xuất sắc, vừa đáp ứng được hiệu quả xã hội, vừa đáp ứng lợi ích kinh tế là điều mà các nhà quản lý văn hóa phải đặc biệt quan tâm trong hoạch định chính sách và xây dựng cơ chế quản lý nhằm thúc đẩy mạnh mẽ phát triển văn hóa.
Cải cách thể chế văn hoá cần phải có thiết kế tổng thể, mở rộng dần từng bước. Mặc dù cải cách thể chế văn hoá đã được chúng ta tiến hành từ nhiều năm qua nhưng hiệu quả chưa được như mong muốn. Thể chế văn hóa nước ta cùng lúc phải giải quyết nhiều mối quan hệ, trong đó có hai quan hệ cơ bản: Đảng lãnh đạo, nhà nước quản lý. Tuy nhiên, trong nhận thức mới, gần đây, chúng ta đặc biệt coi trọng vai trò tự chủ của các đơn vị sản xuất và kinh doanh văn hóa. Nghị định 115 của Chính phủ và nhiều chính sách về đổi mới thể chế văn hóa được ban hành trong thời gian qua chính là những bước tiến trong việc giao quyền tự chủ cho các đơn vị và cơ sở văn hóa trong điều kiện kinh tế thị trường, cho phép các đơn vị phát huy cao hơn tính chủ động và huy động nhiều nguồn lực khác nhau để phát triển văn hóa.
Cải cách thể chế văn hoá và phát triển văn hoá cũng đòi hỏi phải xây dựng hệ thống pháp luật, chính sách, quy phạm thị trường, chế độ bồi dưỡng và đãi ngộ nhân tài, các chế tài cụ thể để bảo vệ và thúc đẩy đổi mới văn hoá. Chỉ có xây dựng được hệ thống pháp quy đầy đủ và hệ thống chấp pháp kiện toàn tương ứng mới có thể thực sự thực hiện chuyển đổi quản lý từ vi mô sang vĩ mô, từ trực tiếp sang gián tiếp, từ quản lý hành chính truyền thống sang quản lý theo pháp luật. Hiện nay, quản lý văn hoá phải đứng vững trên nguyên tắc bảo đảm quyền lợi văn hoá cơ bản của công dân, chú trọng mục đích phát triển của văn hóa theo đúng quan điểm của Đảng.
IV. Quán triệt tư tưởng phát triển văn hóa của Đảng, tôn trọng quy luật tự thân của phát triển văn nghệ tạo dựng môi trường và không khí tốt đẹp cho sự nghiệp đổi mới và phát triển văn hóa
Những thành tựu to lớn về phát triển kinh tế - xã hội và phát triển văn hóa trong hơn 25 năm qua đã chứng minh sự đúng đắn của Đảng ta trong quá trình lãnh đạo đất nước trên con đường xây dựng CNXH. Quan điểm xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc văn hóa dân tộc và phát triển văn hóa hài hòa với phát triển kinh tế phải được coi là tư tưởng chủ đạo cần được quán triệt sâu sắc trong toàn xã hội.
Trước hết, chúng ta phải xử lý chính xác quan hệ kế thừa và đổi mới. Văn hoá là linh hồn và huyết mạch của một dân tộc, là ký ức tinh thần của dân tộc ấy trong trường kỳ lịch sử. Việc đổi mới văn hóa theo hướng hiện đại phải gắn liền với quá trình bảo tồn giá trị văn hóa của tổ tiên và tính chất riêng biệt thuộc về bản sắc dân tộc, vì xét đến cùng, xây dựng văn hoá quý ở sự ổn định, trọng ở tích luỹ, phát triển trong ổn định, đổi mới trong tích luỹ. Truyền thống văn hoá cao đẹp của dân tộc ta bao gồm truyền thống yêu nước, nhân ái, khoan dung, không ngừng sáng tạo và đổi mới, tinh thần tự lực tự cường. Trải qua quá trình đấu tranh cách mạng, truyền thống văn hóa ấy được bồi đắp và trở nên phong phú hơn, sâu sắc hơn để hình thành nền văn hóa XHCN dưới sự lãnh đạo của Đảng. Đây là tài sản tinh thần quý báu, là cơ sở vững chắc của phát triển, đổi mới văn hoá đương đại. Tuy nhiên, trong văn hóa truyền thống, bên cạnh những giá trị ưu tú cũng có những yếu tố tiêu cực cần loại bỏ, và các giá trị ưu tú trong văn hóa truyền thống phải được cải tạo, đổi mới, cấp thêm nội hàm mới và sức sống mới cho phù hợp với thời đại. Trong bối cảnh các loại văn hoá tư tưởng giao tranh gay gắt, cạnh tranh sức mạnh tổng hợp quốc gia ngày càng quyết liệt, vứt bỏ truyền thống cũng có nghĩa là tự đánh mất mình; nhưng nếu chỉ biết khư khư giữ nếp cũ, tất sẽ nên lạc hậu. Vì thế, phát triển phải gắn liền với kế thừa một cách sáng tạo. Đây là nguyên lý đúng đắn của phát triển văn hóa trong bất cứ thời đại nào.
Phải nhận thức một cách khoa học, toàn diện công năng của văn hoá. Văn hoá kết tinh sự sáng tạo của con người, nó có sức mạnh giáo hóa, là thay đổi nhận thức và tâm tính của con người, tố chất của một dân tộc. Chính vì thế khi bàn về xây dựng nền văn hoá tiên tiến, Đảng ta luôn nhấn mạnh đến việc không ngừng nâng cao tố chất đạo đức tư tưởng và tố chất văn hóa khoa học của toàn dân tộc, chú trọng làm phong phú đời sống tinh thần của nhân dân, tăng cường sức mạnh tinh thần của tất cả mọi người. Trong điều kiện kinh tế thị trường hiện nay, để phát triển văn hóa lành mạnh, phải chú ý ngăn chặn tư tưởng thực dụng chủ nghĩa chỉ biết đối xử một cách thô bạo và đơn giản đối với văn hoá nghệ thuật. Ảnh hưởng của văn hoá đối với kinh tế, chính trị là rất rộng rãi và sâu sắc, vì thế, phải tạo dựng không gian tinh thần rộng rãi cho sáng tạo văn hóa, tôn trọng tự do sáng tạo, đặc biệt là trong lĩnh vực văn học nghệ thuật. Vì văn hóa gắn liền với sự kết tinh nên sự tác động và hiệu quả của nó không phải lúc nào cũng tức thì, bởi thế, phát triển văn hóa xa lạ với thái độ nóng vội mà đòi hỏi phải có tầm chiến lược lâu dài. Điều đó yêu cầu chúng ta phải nghiên cứu kỹ lưỡng, phân loại chính xác các loại hình văn hóa để có chính sách và biện pháp quản lý phù hợp, chỉ đạo sát sao, phương pháp xây dựng và phát triển hợp lý, khoa học.
Trên tinh thần xây dựng một nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, nền văn hóa do dân, vì dân, cần phải xúc tiến sự đa dạng hóa trong sáng tạo nghệ thuật, tạo mọi điều kiện thuận lợi để cho chủ thể sáng tạo văn hóa có khả năng phát huy tối đa tiềm năng sáng tạo của mình. Quá trình đổi mới là một quá trình thử nghiệm, khó tránh khỏi vấp váp và sai lầm. Mọi thành quả đổi mới phải trông chờ vào sự kiểm nghiệm của thực tiễn và lịch sử. Luôn tôn trọng trí thức, văn nghệ sĩ, tôn trọng lao động, tôn trọng sáng tạo là tư tưởng nhất quán của Đảng về chủ thể sáng tạo văn hóa. Đây cũng là tư tưởng cần được quán triệt sâu rộng hơn nữa trong toàn xã hội về xây dựng văn hoá và đổi mới văn hoá. Gắn chặt với thực tiễn đổi mới của đất nước, hiểu sâu sắc tâm tư nguyện vọng của nhân dân, nghe được những chuyển động của thời đại, đó là những nhân tố cơ bản để nghệ sĩ có đủ điều kiện sáng tạo nên những tác phẩm nghệ thuật ưu tú. Mặt khác, cũng phải chú ý phát triển phê bình văn học nghệ thuật, coi đó là tiếng nói phản biện, tiếng nói đồng sáng tạo để nâng cao hơn nữa chất lượng của những sản phẩm nghệ thuật ưu tú trong thời đại ngày nay.