Mối quan hệ giữa kinh tế thị trường và định hướng xã hội chủ nghĩa trong thời kỳ quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta PGS.TS Nguyễn Gia Thơ - Viện Triết học, Viện KHXH Việt Nam

Xây dựng chủ nghĩa xã hội (bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa) là một tất yếu lịch sử trong việc lựa chọn con đường phát triển ở Việt Nam: ''đi lên chủ nghĩa xã hội là khát vọng của nhân dân ta, là sự lựa chọn đúng đắn của Đảng Cộng sản và Chủ tịch Hồ Chí Minh, phù hợp với xu thế phát triển của lịch sử”1. Tuy nhiên, vì nước ta đi lên chủ nghĩa xã hội từ một nước nông nghiệp lạc hậu, lại bị tàn phá bởi mấy chục năm chiến tranh, tức là một xuất phát điểm rất thấp về kinh tế, nên thời kỳ quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta rất dài và đầy khó khăn.

Trước Đại hội VI của Đảng Cộng sản Việt Nam, do mắc sai lầm chủ quan duy ý chí, muốn có ngay chủ nghĩa xã hội, chúng ta đã vi phạm qui luật khách quan là qui luật quan hệ sản xuất phải phù hợp với tính chất và trình độ của lực lượng sản xuất. Công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta đã rập khuôn theo mô hình Liên Xô (một nước đi lên chủ nghĩa xã hội với một xuất phát điểm cao hơn nước ta rất nhiều), thủ tiêu kinh tế thị trường với nền kinh tế đóng kín – chỉ quan hệ trong phe xã hội chủ nghĩa. Kết quả là: kinh tế suy thoái nghiêm trọng, đời sống nhân dân vô cùng khó khăn. Đại hội VI của Đảng Cộng sản Việt Nam đã đánh một dấu mốc lớn trong nhận thức của Đảng về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội, đó thực sự là một Đại hội ĐỔI MỚI. Tại Đại hội này Đảng ta đã xác định kinh tế thị trường là thành tựu của văn minh nhân loại mà chúng ta cần sử dụng để xây dựng chủ nghĩa xã hội: ''Trong nhận thức cũng như trong hành động chúng ta chưa thừa nhận cơ cấu kinh tế nhiều thành phần ở nước ta đang tồn tại trong một thời gian tương đối dài, chưa nắm vững và sử dụng đúng qui luật về sự phù hợp của quan hệ sản xuất với tính chất và trình độ của lực lượng sản xuất''2. Tuy nhiên, từ Đại hội VI đến Đại hội VIII của Đảng Cộng sản Việt Nam, khái niệm ''kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa'' vẫn chưa được sử dụng. Chỉ đến Đại hội IX, Đảng ta mới lựa chọn mô hình kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa: ''Thực hiện nhất quán và lâu dài chính sách phát triển hàng hóa nhiều thành phần... nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Đó là mô hình kinh tế tổng quát của nước ta trong thời kỳ quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội''3. Và cũng chính tại Đại hội IX, Đảng cũng nhấn mạnh mục đích của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là: ''phát triển lực lượng sản xuất, phát triển kinh tế để xây dựng cơ sở vật chất-kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội, nâng cao đời sống nhân dân. Phát triển lực lượng sản xuất hiện đại gắn liền với xây dựng quan hệ sản xuất mới phù hợp trên cả ba mặt sở hữu, quản lý và phân phối''4. Tại sao chúng ta cần kinh tế thị trường? Công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta phải sử dụng kinh tế thị trường là vì nước ta đi lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa, nhưng nền sản xuất xã hội của chủ nghĩa tư bản mà trong đó kinh tế thị trường là nền tảng thì phải sử dụng để phát triển lực lượng sản xuất, làm tăng sự giàu có cho xã hội, mà chủ nghĩa xã hội đích thực phải là một xã hội giàu có và ở trình độ cao hơn chủ nghĩa tư bản.

Cũng cần nhấn mạnh thêm rằng, khái niệm ''kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa” là một khái niệm kinh tế chính trị học mới mẻ, trước đây chưa từng có, nó sinh ra từ thực tiễn xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Nội hàm của khái niệm ''kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa” bao gồm hai dấu hiệu chính: 1) kinh tế thị trường, và 2) định hướng xã hội chủ nghĩa. Hai dấu hiệu chính đó lại bao chứa một loạt các dấu hiệu sau.

Kinh tế thị trường là nền kinh tế dựa trên sản xuất- trao đổi hàng hóa ở trình độ cao (chủ nghĩa tư bản). Cần lưu ý rằng sản xuất hàng hóa và kinh tế thị trường không phải là một. Có nền kinh tế hàng hóa chưa phải là nền kinh tế thị trường, ví dụ sản xuất hàng hóa giản đơn. Và cũng không phải cứ có quan hệ hàng hóa - tiền tệ là có kinh tế thị trường: trước chủ nghĩa tư bản đã có quan hệ tiền tệ. Hay như Liên Xô và các nước Đông Âu trước đây, Việt Nam trước đổi mới, Trung Quốc trước cải cách mở cửa tuy có quan hệ tiền- hàng, nhưng không phải kinh tế thị trường. Nhưng đã là kinh tế thị trường thì có quan hệ hàng hóa- tiền tệ. Kinh tế thị trường có mục đích là ''lợi nhuận" đôi khi bất chấp thủ đoạn để đạt mục đích. Kinh tế thị trường có mặt tốt là làm tăng năng suất lao động, làm cho lực lượng sản xuất phát triển mạnh.

Kinh tế thị trường là nền kinh tế vận hành theo các quy luật của thị trường (đó là các qui luật như: qui luật giá trị qui luật giá trị thặng dư, có tranh theo kiểu ''cá lớn nuốt cá bé''), thương trường là chiến trường nên có thua người thắng, có người phất lên nhanh chóng và cũng có người khánh kiệt, bần cùng.

Còn nội hàm của định hướng xã hội chủ nghĩa có những dấu hiệu như hợp tác, nhân đạo; lợi nhuận chỉ là phương tiện để đạt được mục đích vì loài người. Nền sản xuất theo định hướng xã hội chủ nghĩa cần phải:

- Khuyến khích làm giàu chính đáng đồng thời tích cực xóa đói, giảm nghèo (vì nghèo thì không phải chủ nghĩa xã hội);

- Phát triển kinh tế song song với thực hiện các chính sách, phúc lợi xã hội, bảo đảm công bằng và an sinh xã hội, chú trọng phát triển nông thôn, vùng sâu, vùng xa, làm cho khoảng cách giữa thành thị và nông thôn ngày càng gần lại;

- Nhà nước do Đảng Cộng sản lãnh đạo có một trong những chức năng là điều tiết định hướng nền kinh tế: chủ yếu tầm vĩ mô, ví dụ như ở các lĩnh vực tiền tệ, tài chính, ngân hàng, các nguồn lực...

Định hướng xã hội chủ nghĩa có nghĩa là quá trình phát triển phải nhắm tới một đích (dù xa và cho dù thời gian khá dài) là xã hội xã hội chủ nghĩa, giai đoạn đầu của hình thái kinh tế xã hội cộng sản chủ nghĩa. Chính theo nghĩa này của ''định hướng xã hội chủ nghĩa'', nhà hoạt động chính trị Khả Tri Chính, ủy viên Trung ương Đảng cộng sản Nhật Bản nói: ''con đường thông qua kinh tế thị trường đi tới chủ nghĩa xã hội là có tính phổ biến trong phạm vi toàn thế giới''5. Về vấn đề này, và theo nghĩa này của định hướng xã hội chủ nghĩa, Văn kiện đại hội XI của Đảng cộng sản Việt Nam có ghi rõ: ''Mục tiêu tổng quát khi kết thúc thời kỳ quá độ ở nước ta là xây dựng được về cơ bản nền tảng kinh tế của chủ nghĩa xã hội với kiến trúc thượng tầng về chính trị, tư tưởng, văn hóa phù hợp, tạo cơ sở để nước ta trở thành một nước xã hội chủ nghĩa ngày càng phồn vinh, hạnh phúc''6.

Xung quanh khái niệm ''kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa'' có không ít quan điểm hoài nghi. Những quan điểm còn hoài nghi đó cho rằng không thể gắn kinh tế thị trường vào với chủ nghĩa xã hội, vì kinh tế thị trường là của chủ nghĩa tư bản, chủ nghĩa xã hội không có kinh tế thị trường. Tuy nhiên quan điểm đó đã ngộ nhận là đã đồng nhất hai khái niệm khác nhau: ''định hướng xã hội chủ nghĩa'' và ''xã hội chủ nghĩa''. Theo quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin thì, chủ nghĩa xã hội-giai đoạn đầu của hình thái kinh tế cộng sản chủ nghĩa khi được xây dựng xong thì cơ sở kinh tế của nó chỉ còn hai hình thức sở hữu: toàn dân và tập thể, do vậy không còn kinh tế thị trường theo đúng nghĩa của nó, tuy vẫn còn hai hình thức sở hữu khác nhau: nhà nước và tập thể và do đó còn cần trao đổi trên cơ sở tính toán giá trị “định hướng xã hội chủ nghĩa” là quá trình hướng tới những tiêu chí của chủ nghĩa xã hội chứ bản thân nó chưa phải chủ nghĩa xã hội, mà đó là nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần.

Như vậy, trong nội hàm của hai khái niệm ''kinh tế thị trường'' và ''định hướng xã hội chủ nghĩa'' có nhiều đặc điểm, dấu hiệu khác biệt, thậm chí đối lập nhau. Ở nước ta, nền kinh tế thị trường mới đang được hình thành, còn nhiều đặc điểm sơ khai, chưa đạt đến tầng ''văn minh''. Vì vậy các mặt tiêu cực của cơ chế thị trường có điều kiện để phát triển. Do thể chế kinh tế thị trường chưa được hoàn thiện, nên cạnh tranh vẫn còn thiếu lành mạnh, làm phân hóa giàu-nghèo ngày càng sâu sắc thêm. Quan hệ giữa người với người hầu như bị đồng tiền chi phối: tiền có thể mua được tất cả (danh dự, lương tâm, chức tước, bằng cấp, thậm chí biến tốt thành xấu, xấu thành tốt...). Có những cái tưởng không mua được bằng tiền ''thì lại mua được bằng rất nhiều tiền''. Những mặt trái này của kinh tế thị trường nếu được phát triển tự do sẽ đi ngược lại bản chất tốt đẹp của chủ nghĩa xã hội, đi ngược lại tiến bộ xã hội và lý tưởng nhân đạo. Những mặt trái này Đảng đã nhận thay và đang có hướng khắc phục: ''Tình trạng chạy chức, chạy quyền, chạy tội, chạy bằng cấp, chạy huân chương chưa được khắc phục''7.

Về vấn đề ''mặt trái'' của kinh tế thị trường còn có nhưng quan điểm cho rằng đó không phải do cơ chế thị trường sinh ra, mà do vấn đề quản lý xã hội. Chúng tôi thì lại cho rằng quan điểm đó không thuyết phục, vì ở các xã hội phi thị trường, chúng ta không thấy nổi lên nhiều hiện tượng tiêu cực như vậy. Ví dụ, một thời gian dài ở Liên Xô và các nước Đông Âu xã hội chủ nghĩa (phi thị trường), quan hệ giữa người với người hết sức tốt đẹp, không có người nghèo, tội phạm rất ít, cuộc sống của người dân xô-viết tuy không giàu có lắm về vật chất nhưng rất nhân văn. Sau khi Liên Xô và các nước Đông Âu tan rã, phát triển kinh tế thị trường, tội phạm nổi lên nhiều, quan hệ giữa người với người thay đổi hẳn, cuộc sống của người dân nhiều khi rất bất an, phân hóa xã hội sâu sắc: một số giàu lên nhanh chóng và số khác thì bần cùng, điều mà trước đây không có.

Cũng chính vì cơ chế thị trường đẻ ra nhiều mặt trái như vậy, cho nên cần đến ''định hướng xã hội chủ nghĩa để chế ngự chúng'' và hướng nền kinh tế thị trường phát triển lành mạnh. Tất nhiên, khi bị chế ngự, động lực của kinh tế thị trường sẽ phần nào bị giảm bớt, tuy nhiên sự phát triển như vậy mới bền vững. Khái niệm ''kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa'' đã được định nghĩa một cách rõ ràng, đầy đủ trong văn kiện Đại hội XI của Đảng cộng sản Việt Nam: ''Nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta là nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần, vận hành theo cơ chế thị trường, có sự quản lý của nhà nước, dưới sự lãnh đạo của Đảng cộng sản; vừa vận động theo những qui luật của thị trường, vừa được dẫn dắt, chi phối bởi các nguyên tắc và bản chất của chủ nghĩa xã hội; trong đó, cơ chế thị trường được vận dụng đầy đủ, linh hoạt để phát huy mạnh mẽ, có hiệu qủa mọi nguồn lực nhằm phát triển nhanh và bền vững nền kinh tế; khuyến khích làm giàu hợp pháp đi đôi với xóa đói, giảm nghèo, thực hiện mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh. Các thành phần kinh tế hoạt động theo pháp luật đều là bộ phận quan trọng của nền kinh tế, bình đẳng trước pháp luật, cùng phát triển lâu dài, hợp tác cạnh tranh lành mạnh; trong đó, kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo”8.

Rõ ràng, một đặc điểm rất quan trọng của ''định hướng xã hội chủ nghĩa” đối với kinh tế thị trường là ''kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo''. Nếu kinh tế nhà nước không giữ được vai trò chủ đạo, thì kinh tế thị trường có thể phát triển chệch hướng. Vậy, thế nào là ''kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo?''. Ở đây kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo theo nghĩa là, kinh tế nhà nước có vai trò quyết định trong việc giữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa, ổn định và phát triển kinh tế, chính trị, xã hội của đất nước. Trong kinh tế nhà nước thì các doanh nghiệp nhà nước giữ vị trí then chốt, làm công cụ vật chất quan trọng để nhà nước định hướng và điều tiết vĩ mô nền kinh tế. (Tuy nhiên, trong thời gian qua, phải thẳng thắn mà nói, các doanh nghiệp nhà nước còn nhiều yếu kém, chưa đảm nhiệm được chức năng quan trọng của mình). Thực chất vấn đề ''kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo'' không phải đến Đại hội XI mới đề cập tới, mà đã được đề cập tới từ trước đó mà gần đây, nhất là Đại hội X: “kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo, là lực lượng vật chất quan trọng để nhà nước định hướng và điều tiết nền kinh tế, tạo môi trường và điều kiện thúc đẩy các thành phần kinh tế cùng phát triển; Kinh tế nhà nước và kinh tế tập thể ngày càng trở thành nền tảng vững chắc của nền kinh tế quốc dân. Kinh tế tư nhân có vai trò quan trọng, là một trong những động lực của nền kinh tế''9. Tuy nhiên, việc thực hiện nghị quyết Đại hội X về vấn đề này chưa được như mong muốn. Chính vì vậy vấn đề này cần được chú ý giải quyết trong thời gian tới. Tuy nhiên, nếu nhà nước vẫn tiếp tục đổ nguồn lực vào các doanh nghiệp Nhà nước như trước đây thì những hiện tượng tương tự như ''sự cố Vinashin'' sẽ vẫn tiếp diễn, sẽ gây ảnh hưởng đến tầm vĩ mô của nền kinh tế. Nhà nước chỉ nên là công việc là sắp xếp, cơ cấu lại các doanh nghiệp nhà nước, tích cực thực hiện các giải pháp như: cổ phần hóa các doanh nghiệp nhà nước làm ăn kém hiệu quả, hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường chứ không nên dùng chính sách ưu đãi như trước đây.

Như trên đã phân tích, định hướng xã hội chủ nghĩa không những không mâu thuẫn với kinh tế thị trường mà trái lại, nó còn có tác động làm hạn chế mặt trái của kinh tế thị trường như xóa đói, giảm nghèo, hạn chế phân cực giàu - nghèo, thực hiện công bằng xã hội: “Giải quyết việc làm, xóa đói, giảm nghèo, thực hiện chính sách với người và gia đình có công, chính sách an sinh xã hội đạt kết quả tích cực. Trong 5 năm đã giải quyết được việc làm cho trên 8 triệu lao động, tỉ lệ thất nghiệp ở thành thị giảm còn dưới 4,5 %, tỉ lệ hộ nghèo giảm còn 9,5 %... chỉ số phát triển con người không ngừng tăng lên; Việt Nam đã hoàn thành phần lớn các mục tiêu thiên niên kỷ” 10.

Rõ ràng, vai trò định hướng xã hội chủ nghĩa đối với nền kinh tế nước ta không chỉ thuộc về kinh tế nhà nước (các kết cấu hạ tầng, dự trữ quốc gia, các doanh nghiệp nhà nước, các nguồn lực...), mà còn thuộc về nhà nước xã hội chủ nghĩa dưới sự lãnh đạo của Đảng cộng sản: ''Nhà nước quản lý nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa bằng luật pháp, cơ chế, chính sách, chiến lược, qui hoạch, kế hoạch và các nguồn lực kinh tế, giữ vững ổn định kinh tế vĩ mô, tạo lập, phát triển đầy đủ, đồng bộ các yếu tố thị trường và các loại thị trường, cải thiện môi trường kinh doanh, nâng cao sức cạnh tranh của nền kinh tế, khắc phục mặt trái, tiêu cực của cơ chế thị trường; Phát huy dân chủ, quyền làm chủ của nhân dân trong lĩnh vực kinh tế''11.

Như vậy, sự vận động của kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta phải trải qua một thời gian rất dài, vì chúng ta đi lên chủ nghĩa xã hội từ một xuất phát điểm rất thấp, thậm chí Đảng ta xác định, đến giữa thế kỷ XXI, nước ta vẫn đang ở trong thời là quá độ: ''Từ nay đến giữa thế kỷ XXI, toàn Đảng, toàn dân ta phải ra sức phấn đấu xây dựng nước ta trở thành một nước công nghiệp hiện đại, theo định hướng xã hội chủ nghĩa”12. Và ''mục tiêu tổng quát khi kết thúc thời kỳ quá độ ở nước ta là xây dựng được về cơ bản nền tảng kinh tế của chủ nghĩa xã hội với kiến thức thượng tầng về chính trị, tư tưởng, văn hóa phù hợp, tạo cơ sở để nước ta trở thành một nước xã hội chủ nghĩa ngày càng phồn vinh, hạnh phúc''13.

Như vậy, kết thúc thời kỳ quá độ phát triển theo kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, dù quá trình là rất dài, là đích đến chủ nghĩa xã hội. Vậy đó là một xã hội như thế nào? Khái niệm ''xã hội xã hội chủ nghĩa” mà nhân dân ta xây dựng được định nghĩa rất rõ trong văn kiện Đại hội XI của Đảng: ''Xã hội xã hội chủ nghĩa mà nhân dân ta xây dựng là một xã hội: Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh; do nhân dân làm chủ; có nền kinh tế phát triển cao dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và chế độ công hữu về các tư liệu sản xuất chủ yếu...''14. So với khái niệm ''xã hội xã hội chủ nghĩa” được định nghĩa trong văn kiện Đại hội X có khác ở đặc điểm là ở Đại hội XI có sự khác biệt bởi cụm từ ''chế độ công hữu về các tư liệu sản xã chủ yếu...''; ''xã hội xã hội chủ nghĩa mà nhân dân ta xây dựng là một xã hội dân giàu, nước mạnh, công bằng, dân chủ, văn minh; do nhân dân làm chủ; nền kinh tế phát triển cao, dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và quan hệ xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất...''15. Chúng ta thấy, trong nội hàm của khái niệm ''xã hội xã hội chủ nghĩa” được thể hiện trong văn kiện đại hội X chỉ nói đến “dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và quan hệ sản xuất phù họp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất” mà không nói đến vấn đề công hữu những tư liệu sản xuất chủ yếu như ở Đại hội XI. Như vậy, đến Đại hội XI, nhận thức của Đảng về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội đã trở nên rõ ràng hơn.

___________

1. Đảng Cộng sản Việt Nam. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI. Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011, tr.24.

2. Đảng Cộng sản Việt Nam. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI. Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2087, tr.23.

3. Đảng Cộng sản Việt Nam. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX. Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2001, tr.23.

4. Đảng Cộng sản Việt Nam. Sđd, tr.86-87.

5. Phát triển và sáng tạo: CNXH thế giới ở đầu thế kỷ XXI. T/c Thông tin công tác tư tưởng lý luận, số 4/2006, tr.53.

6. Đảng Cộng sản Việt Nam. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI. Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011, tr.71.

7. Đảng Cộng sản Việt Nam. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI. Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011, tr.174.

8. Đảng Cộng sản Việt Nam. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI. Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011, tr.34-35.

9. Đảng Cộng sản Việt Nam. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X. Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2006, tr.83.

10. Đảng Cộng sản Việt Nam. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI. Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011, tr.154.

11. Như trên, Sđd, tr.206.

12.  Đảng Cộng sản Việt Nam. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI. Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011, tr.25.

13.  Như trên, Sđd, tr.25.

14. Như trên, Sđd, tr.24.

15. Đảng Cộng sản Việt Nam. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X. Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2006, tr.68.

Phản hồi

Thông tin người gửi phản hồi

Các tin khác

Hướng dẫn kiểm tra, giám sát phục vụ đại hội đảng bộ các cấp tiến tới Đại hội XIV của Đảng

(ĐCSVN) - Tại văn bản số 08-HD/UBKTTW ngày 18/11/2024, Ủy ban Kiểm tra Trung ương hướng dẫn công tác kiểm tra, giám sát phục vụ đại hội đảng bộ các cấp tiến tới Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIV của Đảng.

Phương án nghiên cứu sắp xếp, sáp nhập các bộ, cơ quan thuộc Chính phủ

(ĐCSVN) - Theo phương án nghiên cứu sắp xếp, sáp nhập được Trưởng Ban Tổ chức Trung ương Lê Minh Hưng nêu tại Hội nghị toàn quốc sáng 1/12, sẽ tối thiểu giảm được 5 bộ, 2 cơ quan trực thuộc Chính phủ.

Phương án sáp nhập các ủy ban của Quốc hội và cơ quan thuộc Ủy ban Thường vụ Quốc hội

(ĐCSVN) - Sáng 1/12, Trưởng Ban Tổ chức Trung ương Lê Minh Hưng thông báo chuyên đề về các nội dung chính, trọng tâm việc triển khai tổng kết Nghị quyết 18. Theo phương án định hướng được nêu sẽ giảm 4 ủy ban của Quốc hội và 1 cơ quan trực thuộc Ủy ban Thường vụ Quốc hội.

Phương án giảm 4 cơ quan Đảng, 25 ban cán sự đảng, 16 đảng đoàn trực thuộc Trung ương

(ĐCSVN) - Sáng 1/12, đồng chí Lê Minh Hưng, Uỷ viên Bộ Chính trị, Bí thư Trung ương Đảng, Trưởng ban Tổ chức Trung ương đã trình bày các nội dung chính, trọng tâm việc triển khai tổng kết Nghị quyết 18-NQ/TW của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XII.

Quy trình kỷ luật đảng viên thuộc thẩm quyền của Trung ương Đảng, Bộ Chính trị, Ban Bí thư

(ĐCSVN) - Thay mặt Bộ Chính trị, Thường trực Ban Bí thư Lương Cường vừa ký Quyết định số 165-QĐ/TW ngày 6/6/2024 của Bộ Chính trị ban hành Quy trình xem xét, thi hành kỷ luật đối với tổ chức Đảng, đảng viên thuộc thẩm quyền của Ban Chấp hành Trung ương Đảng, Bộ Chính trị, Ban Bí thư.

Liên kết website