Nghị quyết số 227-NQ/TW, ngày 13/10/1973 Hội nghị lần thứ 21 Ban Chấp hành Trung ương Đảng

Thắng lợi vĩ đại của cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước và nhiệm vụ của cách mạng miền Nam Việt Nam trong giai đoạn mới

Phần thứ nhất

THẮNG LỢI VÀ NGUYÊN NHÂN THẮNG LỢI CỦA CUỘC KHÁNG CHIẾN CHỐNG MỸ, CỨU NƯỚC

Trong 18 năm qua, đất nước ta là nơi diễn ra cuộc đọ sức vô cùng quyết liệt giữa hai lực lượng đối kháng: một bên là nhân dân Việt Nam ta anh dũng và bền bỉ chiến đấu để giành độc lập, tự do; một bên là đế quốc Mỹ, kẻ thù số một của loài người, kẻ cầm đầu các thế lực phản động, xâm lược và hiếu chiến nhất trên thế giới, và bè lũ tay sai của chúng.

Từ sau Chiến tranh thế giới thứ hai, thay thế bọn phát xít Hítle, đế quốc Mỹ đóng vai trò sen đầm quốc tế, thực hiện chiến lược toàn cầu phản cách mạng nhằm bao vây, uy hiếp hệ thống xã hội chủ nghĩa thế giới, phá hoại phong trào cộng sản và công nhân quốc tế, đàn áp và ngăn chặn phong trào giải phóng dân tộc, chuẩn bị chiến tranh thế giới mới, đe doạ hoà bình và an ninh của các dân tộc. Chiến lược toàn cầu của Mỹ, qua nhiều đời tổng thống, đã được điều chỉnh, bổ sung cho thích ứng với lực lượng so sánh trên thế giới, hòng cứu vãn chủ nghĩa đế quốc, chủ nghĩa thực dân đã và đang liên tiếp bị thất bại. Song bản chất xâm lược, hiếu chiến của đế quốc Mỹ và âm mưu của chúng chống các lực lượng cách mạng và làm bá chủ thế giới vẫn không thay đổi.

Đặc điểm nổi bật của chủ nghĩa đế quốc Mỹ sau Chiến tranh thế giới thứ hai là bành trướng chủ nghĩa thực dân mới. Đó là chính sách cơ bản trong chiến lược toàn cầu phản cách mạng của chúng, nhằm chống lại các trào lưu cách mạng, đàn áp và phá hoại phong trào độc lập dân tộc, kìm giữ các nước mới trỗi dậy trong quỹ đạo của chủ nghĩa tư bản, thực hiện chính sách lũng đoạn của bọn tư bản độc quyền Mỹ và ngăn chặn sự phát triển của chủ nghĩa xã hội, đồng thời tranh giành vị trí và ảnh hưởng với các đế quốc khác. Chiến lược quân sự "phản ứng linh hoạt" của Mỹ, trên thực tế, chĩa mũi nhọn vào phong trào giải phóng dân tộc và ngăn chặn xu thế phát triển của chủ nghĩa xã hội trên thế giới.

Dưới sự lãnh đạo của Đảng ta, cách mạng Việt Nam là một bộ phận khăng khít của cách mạng thế giới. Thắng lợi vĩ đại của Cách mạng Tháng Tám năm 1945, việc thành lập chính quyền nhân dân trong cả nước, lần đầu tiên đưa giai cấp công nhân và nhân dân lao động lên cầm quyền ở một nước thuộc địa, cuộc kháng chiến anh dũng của nhân dân ta chống thực dân Pháp trong điều kiện đất nước ta còn nằm trong vòng vây của các thế lực đế quốc và phản động, là những sự kiện lịch sử vô cùng quan trọng đánh dấu bước phát triển mới của cách mạng thế giới sau Chiến tranh thế giới thứ hai.

Sau thắng lợi vĩ đại của cuộc kháng chiến chống Pháp mà trận Điện Biên Phủ oanh liệt đã giáng đòn quyết định vào chủ nghĩa thực dân Pháp, cách mạng Việt Nam thực hiện đồng thời hai nhiệm vụ chiến lược: xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc đã hoàn toàn được giải phóng và đấu tranh để giải phóng miền Nam, hoàn thành cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân ở miền Nam, tiến tới thống nhất nước nhà. Sự nghiệp cách mạng đó của nhân dân Việt Nam góp phần vào cuộc đấu tranh chung cho những mục tiêu của thời đại là: hoà bình, độc lập dân tộc, dân chủ và chủ nghĩa xã hội.

Trước sức tiến công mạnh mẽ của cách mạng Việt Nam và ảnh hưởng sâu sắc của nó đối với phong trào giải phóng dân tộc trên thế giới, đế quốc Mỹ đã tích cực can thiệp vào chiến tranh Đông Dương ngay từ đầu những năm 50. Sau khi thực dân Pháp thua trận, Mỹ đã vội vã lập ra khối quân sự Đông Nam Á và hất cẳng Pháp, xâm chiếm miền Nam, gây ra cuộc chiến tranh xâm lược kéo dài và tàn khốc nhất trong lịch sử để thực hiện chiến lược toàn cầu của chúng. Âm mưu của đế quốc Mỹ là tiêu diệt cách mạng miền Nam, biến miền Nam thành thuộc địa kiểu mới và căn cứ quân sự của Mỹ, dùng làm bàn đạp đánh chiếm miền Bắc xã hội chủ nghĩa, bao vây và uy hiếp phe xã hội chủ nghĩa, ngăn chặn chủ nghĩa xã hội lan xuống Đông Nam Á, hình thành một phòng tuyến chống cộng của Mỹ ở Á Đông, ngăn chặn phong trào độc lập dân tộc và phong trào cách mạng xã hội chủ nghĩa; đồng thời lấy nước ta làm nơi thí nghiệm các thứ chiến lược, chiến thuật và vũ khí hiện đại của Mỹ để đàn áp phong trào cách mạng trên thế giới.

Chính vì vậy, nước Việt Nam ta trở thành nơi tập trung các mâu thuẫn cơ bản của thế giới và cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước của nhân dân ta trở thành cuộc đọ sức điển hình, thành tiêu điểm của cuộc đấu tranh vô cùng quyết liệt giữa cách mạng và phản cách mạng trên thế giới, là cuộc chiến tranh giải phóng dân tộc và bảo vệ Tổ quốc  mang tính chất thời đại rất sâu sắc.

Cuộc kháng chiến của nhân dân ta chống đế quốc Mỹ xâm lược diễn ra trong lúc trên thế giới các lực lượng cách mạng đã mạnh hơn các lực lượng phản cách mạng, các trào lưu cách mạng chống chủ nghĩa đế quốc đang dâng lên không sức gì ngăn cản nổi. Hệ thống xã hội chủ nghĩa thế giới và các lực lượng đấu tranh chống chủ nghĩa đế quốc nhằm cải tạo xã hội theo chủ nghĩa xã hội đang phát huy tác dụng quyết định đối với đặc điểm chủ yếu, nội dung chủ yếu, phương hướng chủ yếu của sự phát triển của xã hội loài người. Hệ thống thuộc địa của chủ nghĩa đế quốc đang tan rã từng mảng lớn dưới những ngọn đòn đả kích mãnh liệt của phong trào giải phóng dân tộc.

Trong những điều kiện đó, chúng ta đã tranh thủ được sự đồng tình, ủng hộ mạnh mẽ của các nước xã hội chủ nghĩa anh em, của phong trào cộng sản và công nhân quốc tế; phong trào độc lập dân tộc và phong trào hoà bình thế giới để tăng cường thế và lực  của mình. Mặt khác, sự bất đồng giữa các nước xã hội chủ nghĩa, giữa các Đảng anh em và khuynh hướng thoả hiệp với đế quốc Mỹ xuất hiện ngay trong phe xã hội chủ nghĩa cũng tạo nên những yếu tố tiêu cực mà đế quốc Mỹ đã ra sức lợi dụng để leo thang chiến tranh và đeo đuổi những ý đồ xâm lược.

Chiến đấu quyết liệt chống đế quốc Mỹ trong những điều kiện như vậy, Đảng ta phải hết sức kiên định, dũng cảm và khôn khéo, có đường lối độc lập, tự chủ và phương pháp cách mạng đúng đắn, chẳng những dám đánh, mà còn phải biết đánh và biết thắng.

Trải qua 18 năm đấu tranh kiên cường, đồng bào và chiến sĩ miền Nam, nhân dân cả nước ta đã liên tiếp đánh bại bốn chiến lược của bốn đời tổng thống Mỹ kế tiếp nhau xâm lược nước ta.

Phong trào Đồng khởi cuối năm 1959 đầu năm 1960 giáng một đòn bất ngờ vào chiến lược Aixenhao, làm thất bại một hình thức thống trị điển hình của chủ nghĩa thực dân mới của Mỹ. Đây là một cái mốc rất quan trọng chuyển cách mạng miền Nam sang thế tiến công, tạo cơ sở vững chắc để ta đánh thắng "chiến tranh đặc biệt" của Mỹ.

Cao trào đấu tranh vũ trang và đấu tranh chính trị của quần chúng từ sau khi Mặt trận Dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam ra đời, đã đập tan từng mảng ấp chiến lược ở nhiều vùng rộng lớn, làm thất bại chiến lược "chiến tranh đặc biệt" của Kennơđi, đẩy tới sự sụp đổ của chế độ Ngô Đình Diệm. Chiến thắng to lớn của nhân dân ta chống "chiến tranh đặc biệt" đã tạo điều kiện thuận lợi cho ta đánh thắng Mỹ - nguỵ trong "chiến tranh cục bộ" sau này.

Giônxơn đã ngoan cố leo thang chiến tranh, thực hiện chiến lược "chiến tranh cục bộ" ở miền Nam, đồng thời tiến hành "chiến tranh phá hoại" đối với miền Bắc, hậu phương lớn của cuộc kháng chiến. Đế quốc Mỹ đã huy động bộ máy chiến tranh to lớn, các binh đoàn  hải, lục, không quân được trang bị rất hiện đại để chống lại nhân dân cả nước ta với ý đồ chiến lược tiêu diệt lực lượng kháng chiến ở miền Nam, phá hoại và xâm lấn miền Bắc, đẩy lùi chủ nghĩa xã hội ở vùng này. Quân và dân ta đã chủ động tấn công địch, giành được thắng lợi ở mặt trận Trị - Thiên, đã kiên cường chiến đấu bẻ gãy các cuộc phản công chiến lược của địch ở miền Nam và anh dũng đánh bại cuộc chiến tranh phá hoại của Mỹ đối với miền Bắc, luôn luôn giữ vững thế chủ động tiến công trên các chiến trường. Đặc biệt cuộc Tổng tiến công và nổi dậy đồng loạt Xuân Mậu Thân (1968) đánh vào cơ quan đầu não của địch ở Sài Gòn và các thành thị, vây hãm địch nhiều ngày ở Khe Sanh, đồng thời đánh địch khắp các vùng nông thôn tạm bị chiếm, đã giáng một đòn bất ngờ rất lớn, làm cho quân Mỹ - nguỵ hoang mang, dao động mạnh. Cuộc tổng tiến công chiến lược ấy đã giành được những thắng lợi rất to lớn buộc đế quốc Mỹ phải thay đổi chiến lược quân sự của chúng.

- Ta đã tiêu diệt được nhiều sinh lực và phương tiện chiến tranh của địch, giải phóng thêm hàng triệu đồng bào, và trên cơ sở đó làm lung lay ý chí xâm lược của đế quốc Mỹ.

- Ta đã làm phá sản chiến lược "chiến tranh cục bộ" của Mỹ; buộc Chính phủ Mỹ phải nhận rằng không thể dùng lực lượng quân đội viễn chinh Mỹ để thắng trong chiến tranh ở Việt Nam.

- Ta đã kéo Mỹ xuống thang chiến tranh, buộc chúng phải chấm dứt không điều kiện chiến tranh phá hoại miền Bắc và nhận họp Hội nghị bốn bên ở Pari.

Tuy nhiên, chúng ta cũng đã mắc một số khuyết điểm: chủ quan trong việc đánh giá tình hình, cho nên ta đã đề ra yêu cầu chưa thật sát với tình hình thực tế lúc đó; nhất là sau đợt tiến công Tết Mậu Thân, ta đã không kịp thời kiểm điểm và rút kinh nghiệm ngay, nhằm đánh giá lại tình hình và có chủ trương chuyển hướng kịp thời: ta chậm thấy những cố gắng mới của địch, những khó khăn lúc đó của ta, không đánh giá hết âm mưu địch trong kế hoạch bình định nông thôn nhằm thực hiện chính sách "Việt Nam hoá chiến tranh" của Níchxơn; cho nên ta đã gặp khó khăn trong một thời gian. Mặc dầu có khuyết điểm, cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân (1968) vẫn giữ một vị trí rất to lớn và oanh liệt trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước của nhân dân Việt Nam anh hùng.

Trước thất bại nặng nề của đế quốc Mỹ, Níchxơn, kẻ đại diện cho những thế lực hiếu chiến và ngoan cố nhất trong giới tư bản lũng đoạn Mỹ, sau khi lên cầm quyền năm 1969, đã thay đổi chiến lược chiến tranh của Mỹ để tiếp tục âm mưu áp đặt chủ nghĩa thực dân mới ở miền Nam. Níchxơn không cưỡng lại được xu thế phải rút ra khỏi cuộc chiến tranh Việt Nam, song hắn lại tiếp tục kéo dài chiến tranh đồng thời mở rộng chiến tranh ra toàn Đông Dương, tiếp tục sử dụng đội quân viễn chinh của Mỹ làm chỗ dựa để ráo riết thực hiện "học thuyết Níchxơn", thực hiện chính sách "Việt Nam hoá chiến tranh", dùng người Việt giết người Việt, dùng người Đông Dương giết người Đông Dương với vũ khí của Mỹ, Níchxơn vừa từng bước rút quân Mỹ, vừa ra sức củng cố và tăng cường ngụy quân, ngụy quyền, vừa xuống thang chiến tranh vừa phản công và tiến công để chống lại ta, tập trung hầu hết lực lượng của Mỹ - ngụy để bình định nông thôn, sử dụng phương tiện chiến tranh hiện đại, kể cả chiến tranh hoá học, chiến tranh điện tử và không quân chiến lược để tiến hành chiến tranh huỷ diệt, và đánh phá các căn cứ địa và hậu phương của ta. Mục tiêu của Mỹ là khống chế và kìm kẹp phần lớn nhân dân miền Nam, làm cho chiến tranh cách mạng mất chỗ dựa, tiến tới bao vây, cô lập, bóp nghẹt hòng làm suy yếu sức chiến đấu của nhân dân miền Nam, tạo thế mạnh cho Mỹ - ngụy giành thắng lợi về quân sự và chính trị.

Mặc dầu Níchxơn tập trung mọi cố gắng chiến tranh, đế quốc Mỹ vẫn bị thất bại rất nặng nề trong những năm 1970, 1971 ở Cánh Đồng Chum, ở Campuchia, ở Đường số 9 - Nam Lào. Cách mạng Campuchia giành được thắng lợi lớn, phát triển vượt bậc trong một thời gian ngắn; vùng giải phóng của nhân dân Lào được bảo vệ và tiếp tục mở rộng; các địa bàn chiến lược quan trọng được giữ vững và củng cố. Chiến thắng Đường số 9 - Nam Lào là một đòn bất ngờ đánh vào chiến lược của Níchxơn, mở ra khả năng mới đánh bại chính sách "Việt Nam hoá chiến tranh" của Mỹ. Ý đồ của Níchxơn muốn chặt đứt tuyến hậu cần chiến lược của ta và cô lập cuộc kháng chiến miền Nam Việt Nam cũng như cuộc kháng chiến Campuchia và Lào đã bị thất bại hoàn toàn.

Những thắng lợi quan trọng nói trên tạo điều kiện cho ta mở cuộc tiến công chiến lược năm 1972 trên toàn chiến trường miền Nam. Trong cuộc tiến công này, ta đã giáng những đòn tiêu diệt rất nặng vào lực lượng chính quy của quân ngụy, phá vỡ các tuyến phòng thủ rất mạnh của địch từ Quảng Trị đến Tây Tây Nguyên và Đông Nam Bộ, đánh bại một phần quan trọng chương trình "bình định" của địch, mở ra những vùng giải phóng mới ở rừng núi, đồng bằng và ven biển, từng bước triển khai lực lượng của ta trên những địa bàn quan trọng của chiến trường miền Nam, tạo thế vững chắc cho cách mạng miền Nam Việt Nam.

Bị bất ngờ về chiến lược, Níchxơn đã liều lĩnh leo thang chiến tranh, huy động một lực lượng rất lớn không quân và hải quân ồ ạt tham chiến ở miền Nam để cứu nguy cho quân ngụy, đồng thời gây lại chiến tranh phá hoại, dùng cả máy bay chiến lược B.52 đánh sâu vào nội địa miền Bắc, thả mìn phong toả các cảng và sông ngòi của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà. Những biện pháp phiêu lưu quân sự cực kỳ hung bạo ấy đã được kết hợp với những thủ đoạn chính trị và ngoại giao rất xảo quyệt, thực hiện chủ trương chia rẽ và kiềm chế các nước xã hội chủ nghĩa, hòng cô lập và bao vây cuộc kháng chiến của nhân dân ta, ngăn chặn cuộc tiến công chiến lược của ta ở miền Nam và bóp nghẹt cuộc kháng chiến của nhân dân ba nước  Đông Dương. Song đế quốc Mỹ vẫn không làm suy xuyển được đường lối độc lập, tự chủ và đoàn kết quốc tế của Đảng ta, không làm giảm sút được tinh thần kháng chiến anh dũng và bền bỉ của nhân dân ta cũng như của nhân dân Lào và nhân dân Campuchia. Chúng đã thất bại rất thảm hại trên chiến trường miền Nam và trong cuộc chiến tranh phá hoại lần thứ hai đối với miền Bắc. Chúng không ngừng bị thất bại ở Campuchia và Lào. Chiến công xuất sắc của quân và dân ta ở miền Bắc xã hội chủ nghĩa đập tan cuộc tập kích chiến lược phiêu lưu và vô cùng tàn bạo bằng không quân của đế quốc Mỹ vào Hà Nội, Hải Phòng, v.v. đã có tác dụng đè bẹp ý chí "đàm phán trên thế mạnh" của Níchxơn.

Thắng lợi rất to lớn của quân và dân cả nước ta trong năm 1972, thất bại nặng nề của đế quốc Mỹ trong chính sách "Việt Nam hoá chiến tranh" ở miền Nam và trong chiến tranh phá hoại đối với miền Bắc, đồng thời với những thất bại to lớn của Mỹ trên chiến trường Campuchia và Lào cuối cùng đã buộc Chính phủ Mỹ phải ký "Hiệp định về chấm dứt chiến tranh, lập lại hoà bình ở Việt Nam" (27-1-1973).

Cuộc đấu tranh trên mặt trận ngoại giao ở Pari kéo dài 5 năm, phối hợp chặt chẽ với cuộc đấu tranh quân sự và chính trị trong nước, gây được ảnh hưởng chính trị rộng lớn trên thế giới, đã kết thúc thắng lợi. Hiệp định Pari về Việt Nam đã được ký kết trên cơ sở đế quốc Mỹ phải chấm dứt xâm lược Việt Nam, rút hết quân đội Mỹ và chư hầu ra khỏi miền Nam, cam kết tôn trọng các quyền dân tộc cơ bản của nhân dân Việt Nam là độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ, cam kết tôn trọng quyền tự quyết của nhân dân miền Nam Việt Nam, chấm dứt dính líu quân sự và can thiệp vào công việc nội bộ miền Nam Việt Nam, thừa nhận thực tế ở miền Nam Việt Nam có hai chính quyền, hai quân đội, hai vùng kiểm soát và ba lực lượng chính trị.

Hiệp định đó ghi lại những thắng lợi rất to lớn của cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, đánh dấu một bước ngoặt trong cuộc đấu tranh cách mạng của nhân dân ta. Nó phản ánh sự so sánh lực lượng giữa cách mạng và phản cách mạng trên chiến trường Việt Nam và trên thế giới. Dân tộc ta đã đuổi được đội quân viễn chinh Mỹ và chư hầu gồm trên nửa triệu tên ra khỏi nước ta, chấm dứt sự chiếm đóng của quân đội nước ngoài từ hơn một trăm năm nay; trong khi đó, lực lượng cách mạng miền Nam đã lớn mạnh rất nhiều và đang trên đà tiến lên mạnh mẽ, vững chắc, không một thế lực phản động nào có thể ngăn cản nổi. Thắng lợi của nhân dân ta buộc Mỹ phải chấp nhận một bước thụt lùi rất lớn về chiến lược ở Việt Nam và Đông Dương, làm cho khối quân sự Đông Nam Á bị lung lay đến tận nền tảng, phòng tuyến của Mỹ ở vùng này bị chọc thủng một mảng lớn.

Nhân dân Việt Nam ta đã đánh thắng rất oanh liệt cuộc chiến tranh xâm lược thực dân mới quy mô lớn nhất, dài ngày nhất, ác liệt và tàn bạo nhất của tên đế quốc đầu sỏ trên thế giới ngày nay, làm thất bại một bước quan trọng chiến lược quân sự "phản ứng linh hoạt" của đế quốc Mỹ. Cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước của nhân dân ta đã góp phần tích cực chống lại và làm đảo lộn chiến lược toàn cầu của đế quốc Mỹ, làm thất bại một bước quan trọng "học thuyết Níchxơn".

Thất bại của Mỹ ở Việt Nam là một đòn nặng giáng vào vai trò sen đầm quốc tế của đế quốc Mỹ, làm suy yếu một bước nghiêm trọng lực lượng quân sự, chính trị, kinh tế, tài chính của Mỹ cũng như uy tín và vị trí của chúng trên thế giới; do đó, làm cho lực lượng so sánh trên phạm vi thế giới tiếp tục thay đổi có lợi hơn nữa cho cách mạng.

Nhân dân ta làm nên sự nghiệp vĩ đại trên đây trước hết là nhờ có sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng ta đứng đầu là Hồ Chủ tịch, Người đã vận dụng một cách sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin vào điều kiện cụ thể của Việt Nam. Đảng ta, người tổ chức mọi thắng lợi của nhân dân ta, đã lãnh đạo Cách mạng Tháng Tám thành công, lãnh đạo hai cuộc kháng chiến vĩ đại của dân tộc chống hai tên đế quốc lớn, đem lại cho nhân dân ta vinh dự đánh bại chủ nghĩa thực dân cũ trước đây, nay lại đi đầu trong việc đánh bại cuộc chiến tranh xâm lược thực dân mới của đế quốc Mỹ. Không có một đảng mácxít - lêninnít, đoàn kết nhất trí, dày dạn trong đấu tranh cách mạng, biết bồi dưỡng mọi nhân tố thắng lợi và phát huy mọi lực lượng dân tộc, dân chủ và xã hội chủ nghĩa, nắm vững bạo lực cách mạng, có đường lối và phương pháp cách mạng tiến công đúng đắn, giữ vững đoàn kết quốc tế và đường lối độc lập, tự chủ, thì không thể có thắng lợi to lớn của nhân dân ta trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước. Thắng lợi của nhân dân ta là kết quả tổng hợp của truyền thống anh hùng và trí thông minh, sáng tạo của dân tộc ta được phát huy cao độ dưới sự lãnh đạo đúng đắn và sáng suốt của Đảng ta trên cả ba mặt trận quân sự, chính trị và ngoại giao, là kết quả của sự động viên được lực lượng của cả dân tộc và các lực lượng đấu tranh chống chủ nghĩa đế quốc trên thế giới.

Thắng lợi của cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước là thắng lợi của tinh thần yêu nước, ý chí chiến đấu kiên cường, bất khuất và truyền thống chiến đấu chống xâm lược hết sức oanh liệt và vẻ vang của dân tộc ta đã thấm nhuần sâu sắc chân lý: "Không có gì quý hơn độc lập, tự do". Đây cũng là thắng lợi của khối liên minh công nông mà Đảng ta đã dày công xây đắp qua các thời kỳ phát triển của cách mạng, thắng lợi của Mặt trận Dân tộc thống nhất rộng rãi được xây dựng và không ngừng củng cố trên cơ sở liên minh công nông và dưới sự lãnh đạo của Đảng. Thắng lợi của cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước là thắng lợi của các lực lượng vũ trang nhân dân gồm ba thứ quân, luôn luôn xứng đáng với lời dạy của Hồ Chủ tịch: "trung với nước, hiếu với dân, nhiệm vụ nào cũng hoàn thành, khó khăn nào cũng vượt qua, kẻ thù nào cũng đánh thắng". 

Thắng lợi vĩ đại của cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước bắt nguồn từ sức mạnh của chế độ xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc. Đó là thắng lợi của một chế độ mới đã xoá bỏ áp bức, bóc lột, đang vươn lên xây dựng cuộc sống ấm no, hạnh phúc, phát huy quyền làm chủ tập thể của nhân dân, vượt qua những thử thách nghiêm trọng của chiến tranh, đánh bại một cách oanh liệt hai cuộc chiến tranh phá hoại của đế quốc Mỹ, bảo vệ mọi thành quả cách mạng, không ngừng tăng cường tiềm lực kinh tế và quốc phòng, tạo điều kiện để miền Bắc làm tròn nghĩa vụ của hậu phương lớn và vai trò căn cứ địa cách mạng của cả nước.

Thắng lợi của cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước của nhân dân ta biểu hiện rực rỡ tình đoàn kết chiến đấu của nhân dân ba nước Đông Dương. Tình đoàn kết đó là chỗ dựa vững chắc cho nhân dân mỗi nước đấu tranh để giành và củng cố độc lập dân tộc của mình, góp phần bảo vệ hoà bình ở Đông Dương, Đông Nam Á và thế giới. Thực tế lịch sử đã gắn bó vận mệnh và cuộc đấu tranh của nhân dân ba nước với nhau. Nhân dân ba nước Đông Dương không thể chiến thắng được như ngày nay nếu không đoàn kết chiến đấu và giúp đỡ lẫn nhau chống kẻ thù chung là chủ nghĩa đế quốc.

Thắng lợi của cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước của nhân dân ta không tách rời sự đồng tình, ủng hộ và giúp đỡ của các nước xã hội chủ nghĩa anh em, của phong trào cộng sản và công nhân quốc tế và của nhân dân yêu chuộng hoà bình và công lý trên toàn thế giới. Nhờ thực hiện đoàn kết quốc tế đến mức cao nhất và giữ vững độc lập, tự chủ trong đường lối, chủ trương, chính sách của mình, khi tình hình thế giới thuận lợi cũng như lúc khó khăn, phức tạp, chúng ta đã được các nước xã hội chủ nghĩa anh em, phong trào cộng sản và công nhân quốc tế, phong trào độc lập dân tộc và nhân dân toàn thế giới, kể cả nhân dân tiến bộ Mỹ, ủng hộ và giúp đỡ, trong đó sự giúp đỡ của các nước xã hội chủ nghĩa anh em là cực kỳ quan trọng.

Thắng lợi vĩ đại của sự nghiệp chống Mỹ, cứu nước của nhân dân ta chứng minh rằng trong hoàn cảnh quốc tế ngày nay, khi các lực lượng cách mạng thế giới đang ở thế tiến công, một dân tộc đất không rộng, người không đông, đoàn kết chiến đấu cho độc lập, tự do của Tổ quốc mình theo một đường lối và phương pháp cách mạng đúng đắn của Đảng tiên phong, được sự giúp đỡ tích cực của các nước xã hội chủ nghĩa và của nhân dân thế giới, thì hoàn toàn có thể đánh bại lực lượng xâm lược của chủ nghĩa đế quốc, dù là tên đế quốc đầu sỏ.

Nhân tố quyết định thắng lợi của chúng ta là luôn luôn giữ vững, củng cố và tăng cường sự lãnh đạo của Đảng. Đảng ta luôn luôn là một đảng vô sản kiểu mới, được vũ trang bằng khoa học cách mạng của chủ nghĩa Mác - Lênin, trung thành vô hạn với lợi ích sống còn và nguyện vọng chân chính của giai cấp công nhân, nhân dân lao động, của cả dân tộc và của phong trào cộng sản và công nhân quốc tế. Đảng ta là một đảng có tổ chức chặt chẽ, gắn bó mật thiết với quần chúng, dũng cảm, hy sinh trước mọi khó khăn, gian khổ của cách mạng, kiên định, sáng suốt, đoàn kết, nhất trí trong lúc cách mạng phát triển thuận lợi cũng như trong giờ phút nghiêm trọng nhất của đất nước.

Thắng lợi của chúng ta là thắng lợi của tư tưởng chiến lược tiến công. Cách mạng  là tiến công. Tuy trong quá trình cách mạng, có lúc phải phòng ngự, nhưng phòng ngự chỉ là tạm thời và nhằm tạo điều kiện để tiến công mạnh hơn. Trong bất kỳ tình thế nào, lúc thuận lợi cũng như lúc khó khăn, Đảng lãnh đạo phải hết sức tỉnh táo, nắm vững tình hình, luôn luôn tìm ra chỗ mạnh và chỗ yếu của địch cũng như của ta để vận dụng phương thức và biện pháp tiến công thích hợp, khoét sâu sai lầm và chỗ yếu của địch, phát huy chỗ mạnh và khắc phục chỗ yếu của ta, để làm thất bại mọi âm mưu và thủ đoạn mới của chúng.

Sự nghiệp giải phóng miền Nam khỏi ách thống trị của đế quốc Mỹ và bè lũ tay sai là một quá trình đấu tranh lâu dài, phức tạp và gian khổ, trải qua nhiều bước quá độ. Ta phải kiên quyết tiến công, đồng thời phải biết giành thắng lợi từng bước cho đúng, đẩy lùi và đánh bại địch từng bước, củng cố trận địa của cách mạng để tiến lên giành thắng lợi hoàn toàn.

Phương pháp cách mạng miền Nam là phương pháp cách mạng bạo lực. Trong điều kiện địch dùng chế độ phát xít hết sức tàn bạo để đánh phá hòng tiêu diệt các lực lượng cách mạng, thì ta phải đưa cách mạng tiến lên bằng con đường bạo lực, bằng hành động cách mạng của quần chúng vùng dậy chống lại bạo lực phản cách mạng của quân thù. Bạo lực cách mạng ở miền Nam dựa trên lực lượng chính trị và lực lượng quân sự, thực hiện bằng hình thức đấu tranh quân sự, đấu tranh chính trị kết hợp một cách hết sức chủ động, linh hoạt tuỳ theo từng lúc, từng nơi, mỗi hình thức đấu tranh có tác dụng quyết định của nó.

Kinh nghiệm chiến tranh cách mạng của nhân dân ta ở miền Nam là: kết hợp đấu tranh quân sự với đấu tranh chính trị; kết hợp khởi nghĩa của quần chúng với chiến tranh cách mạng; đánh địch bằng ba mũi tiến công: quân sự, chính trị và binh vận; đánh địch trên cả ba vùng chiến lược: rừng núi, nông thôn đồng bằng và thành thị; thực hiện quyền làm chủ để tiêu diệt địch, tiêu diệt địch để thực hiện quyền làm chủ; kết hợp chiến tranh du kích với chiến tranh chính quy, kết hợp đánh nhỏ, đánh vừa, đánh lớn; đánh lâu dài, càng đánh càng mạnh, vừa đánh vừa xây dựng và phát triển lực lượng của ta; tiến công địch từ nhỏ đến lớn, từ  thấp đến cao, giành thắng lợi từng bước tiến tới giành thắng lợi hoàn toàn. Tất cả những hình thức, những biện pháp nói trên là một thể thống nhất, có mối quan hệ hữu cơ chặt chẽ, tạo ra cho chiến tranh nhân dân sức mạnh tổng hợp để đánh thắng chiến tranh xâm lược của đế quốc Mỹ và tay sai.

Đảng ta luôn luôn giương cao ngọn cờ dân tộc, dân chủ và ngọn cờ xã hội chủ nghĩa, gắn chặt nhiệm vụ cách mạng ở hai miền, nhằm mục tiêu chung là hoàn thành độc lập dân tộc, thống nhất Tổ quốc và tiến lên chủ nghĩa xã hội. Đó là quy luật phát triển của cách mạng nước ta và của sự nghiệp đấu tranh giải phóng miền Nam trong 18 năm qua cũng như trong giai đoạn sắp tới. Sức mạnh tất thắng của nhân dân ta là sức mạnh của 40 triệu đồng bào cả nước, là sức mạnh của chủ nghĩa xã hội, của độc lập dân tộc và dân chủ. Đó chính là nguồn gốc tạo nên lực lượng cách mạng hết sức hùng hậu, bảo đảm một cách vững chắc thắng lợi của chúng ta từ nay về sau.

 Phần thứ hai

TÌNH HÌNH HIỆN NAY Ở MIỀN NAM VIỆT NAM VÀ NHIỆM VỤ CÁCH MẠNG MIỀN NAM TRONG GIAI ĐOẠN MỚI

Cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước đã giành được thắng lợi rất to lớn, có ý nghĩa quyết định xu thế phát triển tất thắng của cách mạng miền Nam Việt Nam, đánh dấu một giai đoạn cách mạng rất vẻ vang của dân tộc, mở ra cho cách mạng miền Nam một giai đoạn mới: hoàn thành cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân và thực hiện hoà bình thống nhất nước nhà.

1. Từ khi Hiệp định Pari về Việt Nam được ký đến nay, đế quốc Mỹ đã phải chấm dứt chiến tranh xâm lược, rút hết các đơn vị quân đội của chúng và chư hầu ra khỏi miền Nam nước ta, chấm dứt chiến tranh phá hoại và phong toả đối với miền Bắc; nhưng ở miền Nam vẫn chưa có ngừng bắn, hoà bình chưa thực sự được lập lại. Ngụy quyền Sài Gòn được Mỹ giúp đỡ vẫn tiếp tục gây chiến nhằm lấn chiếm vùng giải phóng và vùng tranh chấp đặc biệt là vùng đồng bằng đông dân, nhiều của để xoá thế xen kẽ; chiến sự có nơi có lúc diễn ra ác liệt tuy cường độ và quy mô chiến tranh nói chung không bằng trước; đồng thời, chúng vẫn liên tiếp mở các cuộc hành quân cảnh sát, kìm kẹp, đàn áp nhân dân trong vùng chúng kiểm soát. Hiệp định Pari về Việt Nam đã và đang bị địch vi phạm hết sức nghiêm trọng.

Âm mưu của đế quốc Mỹ là tiếp tục dùng ngụy quyền Sài Gòn làm công cụ để thực hiện chủ nghĩa thực dân mới ở miền Nam Việt Nam, biến miền Nam thành một nước riêng biệt với một chế độ "quốc gia" thân Mỹ, được Mỹ tiếp tục viện trợ về mọi mặt quân sự, kinh tế, tài chính... hòng xoá bỏ vùng giải phóng và lực lượng vũ trang giải phóng của nhân dân miền Nam, xoá bỏ chính quyền nhân dân đứng đầu là Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hoà miền Nam Việt Nam. Như vậy, Mỹ vẫn tiếp tục dính líu về quân sự, vẫn tạo điều kiện bám lấy miền Nam nước ta một cách lâu dài mà tránh được nguy cơ trực tiếp tham gia một cuộc chiến tranh lớn ở Việt Nam. Chính sách cơ bản của đế quốc Mỹ ở Việt Nam vẫn là thực hiện "học thuyết Níchxơn", áp đặt chủ nghĩa thực dân mới kiểu Mỹ ở miền Nam, chia cắt lâu dài đất nước ta.

Để thực hiện mục tiêu chiến lược ấy:

- Mỹ duy trì chính quyền tay sai Nguyễn Văn Thiệu, vi phạm nghiêm trọng Hiệp định Pari về Việt Nam, giúp ngụy quyền Sài Gòn tăng cường lực lượng về mọi mặt, dùng bạo lực phản cách mạng để củng cố ách thống trị của chúng, phối hợp nhiều mặt hoạt động quân sự, chiến tranh tâm lý, gián điệp, vơ vét, bóc lột và bao vây kinh tế, đầu độc về văn hoá, để chống lại nhân dân, chống lại cách mạng, hòng làm suy yếu chính quyền cách mạng và phong trào cách mạng.

- Mỹ sẽ duy trì sức mạnh ở một mức độ nhất định, thực hiện chiến lược "ngăn đe thực tế" ở Đông Nam Á, kiềm chế phong trào cách mạng  ở Việt Nam, Đông Dương, Đông Nam Á và Tây Thái Bình Dương, tạo điều kiện bao vây và bóp nghẹt cách mạng miền Nam.

- Lợi dụng xu thế hoà hoãn trên thế giới, lợi dụng những mâu thuẫn trong phe xã hội chủ nghĩa, Mỹ dùng những thủ đoạn ngoại giao, kinh tế và chính sách cân bằng lực lượng giữa các nước lớn, giữa các nước ở khu vực Thái Bình Dương để ngăn chặn sự phát triển của cách mạng miền Nam. 

Ngụy quyền Sài Gòn là một tập đoàn tư sản mại bản, quan liêu, quân phiệt, phát xít rất tàn bạo. Lực lượng vũ trang của chúng còn tương đối đông, hệ thống chính quyền và bộ máy đàn áp còn kìm kẹp được quần chúng trong vùng chúng kiểm soát. Chúng lại chiếm giữ những thành thị, sân bay, bến cảng lớn, những đường giao thông chiến lược, những vùng đông dân, nhiều của. Chúng vẫn được Mỹ giúp đỡ về tiền của, vũ khí, phương tiện vật chất và kỹ thuật. Một số đông cố vấn quân sự Mỹ trá hình là dân sự hiện vẫn có mặt ở miền Nam.

Nhưng ngụy quyền Sài Gòn có những mặt yếu rất cơ bản về chính trị mà chỗ mạnh tạm thời về quân sự của chúng không thể bù đắp được. Lực lượng ngụy quân, ngụy quyền là sản phẩm còn lại của chiến lược đã thất bại của đế quốc Mỹ; thế của chúng là thế thua, tinh thần của chúng ngày càng sa sút; chúng đã mất chỗ dựa quan trọng nhất là đội quân viễn chinh Mỹ. Chúng đang gặp khó khăn ngày càng chồng chất về kinh tế, tài chính. Chính sách cai trị độc tài, phát xít, bóc lột tàn tệ nhằm bần cùng hoá nhân dân đang gây ra sự bất bình và chống đối trong tất cả các tầng lớp, nhất định nhân dân miền Nam sẽ đứng lên đấu tranh chống lại chúng. Quá trình phát triển của tình hình địch ở miền Nam là quá trình đi xuống. Mỹ - ngụy không thể khắc phục được những mâu thuẫn sâu sắc và trầm trọng trong chế độ thực dân mới. Chúng càng duy trì sức mạnh quân sự và chính sách độc tài, phát xít, thì mâu thuẫn đối kháng giữa nhân dân với chúng càng quyết liệt, mâu thuẫn giữa các tầng lớp trung gian và cả tầng lớp trên với chúng sẽ phát triển, những mâu thuẫn trong nội bộ địch ngày càng sâu sắc. 

Thế và lực của cách mạng miền Nam hiện nay mạnh hơn bất cứ thời kỳ nào từ năm 1954 đến nay. Lực lượng  vũ trang nhân dân ở miền Nam là lực lượng chiến thắng đang đứng vững trên các địa bàn chiến lược; tạo ra thế hỗ trợ tốt giữa các vùng, đang chiến đấu kiên quyết và có hiệu quả ngăn chặn các cuộc hành quân lấn chiếm của địch, giữ vững vùng giải phóng của ta.

Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hoà miền Nam Việt Nam có uy tín cao ở trong nước và trên thế giới. Cuộc hội nghị cấp cao của các nước Không liên kết ở Angiê vừa qua công nhận Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hoà miền Nam Việt Nam là chính phủ hợp pháp duy nhất đã có ảnh hưởng lớn đối với dư luận quốc tế.

Nhân dân miền Nam Việt Nam đã có vùng căn cứ rộng lớn nối liền với miền Bắc xã hội chủ nghĩa, với hậu phương rộng lớn của cách mạng Lào và cách mạng Campuchia, làm cho vị trí chiến lược của cách mạng miền Nam thêm vững mạnh. Lực lượng chính trị của nhân dân ta ở miền Nam trải qua nhiều thử thách gay go nói chung vẫn được giữ vững và phát triển. Quần chúng nhân dân trong vùng tranh chấp và vùng địch kiểm soát, mặc dầu bị địch đánh phá, kìm kẹp, vẫn hướng về cách mạng, tự hào trước thắng lợi vĩ đại của dân tộc và bất bình trước những hành động của tập đoàn Nguyễn Văn Thiệu chống hoà bình và hoà hợp dân tộc, chà đạp các quyền tự do dân chủ, bóc lột nhân dân một cách thậm tệ, đã vùng lên đấu tranh ở một số nơi và nhất định sẽ vùng lên đấu tranh mạnh mẽ dưới nhiều hình thức để thực hiện nguyện vọng bức thiết của mình.

Cách mạng miền Nam có chỗ dựa vững chắc là khối liên minh công nông, có khả năng thực hiện công nông binh liên hiệp, có khả năng đoàn kết đông đảo các tầng lớp trí thức yêu nước, tiểu tư sản, tư sản dân tộc và tranh thủ rộng rãi các tổ chức, các phe nhóm chính trị, các dân tộc, các tôn giáo và các nhân sĩ tha thiết với hoà bình, độc lập tự do, chống lại chính quyền độc tài Nguyễn Văn Thiệu.

Trong tình hình mới, miền Bắc tuy đang phải khắc phục những hậu quả nặng nề của chiến tranh, nhưng có nhiều điều kiện thuận lợi để đẩy mạnh phục hồi kinh tế, tiếp tục xây dựng chủ nghĩa xã hội và làm chỗ dựa vững chắc cho cách mạng miền Nam. Uy tín và vai trò của Việt Nam Dân chủ Cộng hoà ngày càng được nâng cao trên trường quốc tế.

Thắng lợi mới của nhân dân ba nước Việt Nam, Lào và Campuchia đã dẫn đến sự thay đổi trong so sánh lực lượng trên bán đảo Đông Dương có lợi hơn bao giờ hết cho cách mạng miền Nam.

Khẳng định những chỗ mạnh của ta như trên, đồng thời ta cần thấy rõ những chỗ yếu của ta để ra sức phát huy ưu điểm, khắc phục nhược điểm, hoàn thành nhiệm vụ cách mạng trước mắt.

Ở miền Nam hiện nay, tuy đội quân xâm lược của Mỹ đã rút đi, nhưng sự phát triển của phong trào chính trị của nhân dân ta còn yếu, các mũi tấn công chính trị, quân sự, binh vận ở nhiều nơi chưa đủ mạnh. Vùng giải phóng (bao gồm các căn cứ địa) chưa được thật sự củng cố vững chắc; lực lượng vũ trang của ta phát triển chưa cân đối giữa ba thứ quân; bộ đội địa phương và dân quân du kích còn yếu. Trên bước chuyển lớn của tình hình, có nơi lừng chừng, hữu khuynh trong chủ trương đối phó với địch, cho nên chúng lấn chiếm được đất, kìm kẹp thêm được dân. Trải qua cuộc kháng chiến lâu dài, cơ sở ta ở các thành thị và vùng nông thôn do địch kiểm soát bị hao hụt, đến nay chưa được củng cố, phát triển đúng mức, cho nên phong trào và lực lượng cách mạng ở những nơi đó không theo kịp tình hình mới, không tranh thủ được thời cơ mới.

Tình hình hiện nay ở miền Nam có thể phát triển theo hai khả năng:

1- Do đấu tranh tích cực trên ba mặt trận chính trị, quân sự và ngoại giao, ta có thể từng bước buộc địch phải thi hành Hiệp định Pari về Việt Nam, hoà bình được lập lại thật sự, cuộc đấu tranh của nhân dân miền Nam nhằm hoàn thành độc lập, dân chủ tuy còn lâu dài, khó khăn, phức tạp, nhưng ngày càng phát triển và ở thế tiến lên mạnh mẽ.

2- Mặt khác, do âm mưu chiến lược của đế quốc Mỹ cố bám giữ khu vực Đông Dương, Đông Nam Á, do bản chất cực kỳ phản động, ngoan cố của Mỹ và tập đoàn thống trị tư sản mại bản, quan liêu, quân phiệt tay sai Mỹ, Hiệp định Pari về Việt Nam tiếp tục bị địch vi phạm và phá hoại, xung đột quân sự có thể ngày càng tăng, cường độ và quy mô chiến tranh ngày càng lớn, ta lại phải tiến hành chiến tranh cách mạng gay go, quyết liệt để đánh bại địch, giành thắng lợi hoàn toàn.

Ta phải hết sức tranh thủ thực hiện khả năng thứ nhất và chuẩn bị sẵn sàng cho khả năng thứ hai.

Cuộc đấu tranh giữa ta và địch đang diễn biến rất phức tạp, đó là quá trình phản công và tiến công gay gắt về quân sự, đấu tranh kiên trì và mạnh mẽ về chính trị, ngoại giao, kinh tế và văn hoá, một cuộc đấu tranh không ngừng giữa lực lượng cách mạng, yêu nước với lực lượng phản cách mạng, phản dân tộc, giữa nhân tố hoà bình với nhân tố chiến tranh.

Hai khả năng diễn biến nói trên của tình hình miền Nam đều đang tồn tại và đang trong quá trình phát triển, cho nên ta phải rất chủ động, kiên quyết, cảnh giác và linh hoạt trên cả ba mặt trận chính trị, quân sự và ngoại giao, trong lãnh đạo và chỉ đạo cách mạng miền Nam, phát triển cuộc đấu tranh cách mạng của nhân dân ta để buộc địch phải thi hành Hiệp định Pari về Việt Nam, để có hoà bình thật sự ở miền Nam, đồng thời phát triển và tăng cường thực lực về mọi mặt của cách mạng.

Căn cứ vào sự nhận định tình hình về so sánh lực lượng như trên, chúng ta có thể tranh thủ thực hiện khả năng thứ nhất, vì địch có nhiều mặt yếu rất cơ bản, ta cần lợi dụng triệt để làm cho địch phải thất bại trong những âm mưu của chúng; còn ta đang ở thế thuận lợi và có những mặt mạnh cơ bản mà ta cần phát huy cao độ, đồng thời ra sức khắc phục những chỗ yếu của ta. Tranh thủ thực hiện khả năng đó cũng là ngăn ngừa và đẩy lùi khả năng địch gây trở lại cuộc chiến tranh lớn. Mặt khác, ta phải chủ động, thực sự chuẩn bị về mọi mặt để giành thắng lợi trong trường hợp chiến tranh lớn tái diễn; ta càng sẵn sàng thì càng chủ động tạo sức mạnh buộc địch phải thi hành Hiệp định.

Con đường của cách mạng miền Nam là con đường bạo lực cách mạng. Bất kể trong tình hình nào, ta cũng phải nắm vững thời cơ, giữ vững đường lối chiến lược tiến công và chỉ đạo linh hoạt để đưa cách mạng miền Nam tiến lên. Hiện nay, phương hướng chủ động tích cực, có lợi nhất cho sự nghiệp cách mạng của cả nước là luôn luôn giương cao ngọn cờ hoà bình và chính nghĩa, đấu tranh chính trị, quân sự và ngoại giao, buộc địch phải thi hành Hiệp định để thắng địch.

Vấn đề giành dân, giành quyền làm chủ, phát triển thực lực của cách mạng là yêu cầu vừa bức thiết vừa cơ bản trong giai đoạn mới.

2. Nhiệm vụ cơ bản của cách mạng miền Nam trong giai đoạn mới là: tiếp tục thực hiện chiến lược cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân, đoàn kết toàn dân, đấu tranh chống đế quốc Mỹ, giai cấp tư sản mại bản và bọn địa chủ phong kiến, hoàn thành cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân, tập trung mũi nhọn vào đế quốc Mỹ và tập đoàn thống trị tư sản mại bản, quan liêu, quân phiệt, phát xít, tay sai đắc lực của đế quốc Mỹ, đang thống trị trong vùng địch kiểm soát; đẩy lùi và thắng địch từng bước; đi đến xoá bỏ chính quyền tay sai của Mỹ, xoá bỏ chế độ thực dân mới, thiết lập một chính quyền dân tộc dân chủ thật sự, thực hiện hoà hợp dân tộc, thoát ly hẳn sự lệ thuộc vào Mỹ, thực hiện một miền Nam Việt Nam hoà bình, độc lập, dân chủ, trung lập, phồn vinh, tiến tới hoà bình thống nhất nước nhà.

Hoàn thành nhiệm vụ đó cũng là thực hiện trọn vẹn Di chúc thiêng liêng của Hồ Chủ tịch: xây dựng một nước Việt Nam hoà bình, thống nhất, độc lập, dân chủ và giàu mạnh, góp phần vào cuộc đấu tranh cách mạng của nhân dân thế giới vì hoà bình, độc lập dân tộc, dân chủ và chủ nghĩa xã hội.

Kẻ thù chính của cách mạng miền Nam trong giai đoạn mới là đế quốc Mỹ và tập đoàn thống trị tư sản mại bản, quan liêu, quân phiệt, phát xít, tay sai đắc lực của đế quốc Mỹ, đại biểu quyền lợi cho giai cấp tư sản mại bản và bọn địa chủ phong kiến thân Mỹ phản động nhất. Đế quốc Mỹ là kẻ chủ mưu và là chỗ dựa của bọn tay sai đang thống trị trong vùng chưa giải phóng ở miền Nam. Tập đoàn thống trị tư sản mại bản, quan liêu, quân phiệt, phát xít là công cụ đắc lực của Mỹ để thực hiện chủ nghĩa thực dân mới. Chúng có đặc quyền đặc lợi, có ý thức giai cấp phản động sâu sắc, đang ra sức kìm kẹp, đàn áp, bóc lột quần chúng, điên cuồng chống lại nguyện vọng hoà bình, độc lập, dân chủ, cải thiện dân sinh, hoà hợp dân tộc của toàn dân. Do đó, tập đoàn thống trị tư sản mại bản, quan liêu, quân phiệt, phát xít, tay sai Mỹ là kẻ thù trực tiếp mà cách mạng miền Nam phải nhằm vào để đánh đổ.

Nội dung chủ yếu của chế độ dân tộc dân chủ ở miền Nam trong giai đoạn mới là xây dựng một chế độ chính trị dân tộc dân chủ, một nền kinh tế dân tộc dân chủ, một nền văn hóa dân tộc dân chủ, đồng thời xây dựng một quân đội thực sự bảo vệ độc lập dân tộc, bảo vệ quyền lợi chính trị và kinh tế của nhân dân.

Xây dựng chế độ chính trị dân tộc dân chủ là xóa bỏ ách thống trị của tập đoàn thống trị tư sản mại bản, quan liêu, quân phiệt, phát xít, tay sai đắc lực của Mỹ, thiết lập một chính quyền liên hiệp dân tộc, dân chủ, thực hiện chủ quyền của dân tộc.

Xây dựng nền kinh tế dân tộc dân chủ bao gồm các thành phần: kinh tế nhà nước, kinh tế cá thể của những người sản xuất nhỏ gồm nông dân, thợ thủ công và tiểu thương, kinh tế tư bản tư nhân, kinh tế tập thể của những người lao động, xoá bỏ sự lệ thuộc vào Mỹ, xoá bỏ hoàn toàn chế độ bóc lột của địa chủ phong kiến, giữ vững những quyền lợi về ruộng đất mà nông dân lao động đã giành được, bảo đảm cho nông dân có ruộng đất cày cấy; giành lại các quyền lợi kinh tế dân tộc, phục vụ công cuộc lao động hoà bình, đáp ứng yêu cầu phát triển sản xuất của xã hội và những nhu cầu về làm ăn sinh sống của các từng lớp nhân dân ở miền Nam. Đó là cơ sở kinh tế của một chế độ chính trị dân tộc, dân chủ thật sự, chống lại âm mưu thâm nhập về kinh tế của chủ nghĩa thực dân mới.

Xây dựng nền văn hoá dân tộc dân chủ là nhằm làm cho ai nấy đều có học, có nghề để xây dựng đời sống và phục vụ Tổ quốc; khôi phục và phát huy những truyền thống tốt đẹp của dân tộc, làm cho đời sống tinh thần và văn hoá của nhân dân miền Nam lành mạnh, vui tươi và tiến bộ, gột sạch những ảnh hưởng của văn hoá nô lệ, lai căng, đồi truỵ theo kiểu Mỹ.

Dưới chế độ chính trị dân tộc dân chủ, quân đội phải thật sự bảo vệ độc lập, dân chủ, thật sự bảo vệ  lợi ích của nhân dân: đó là một quân đội của dân, vì dân, do dân, không kẻ thù nào có thể đánh bại được.

Khẩu hiệu trung tâm của giai đoạn mới là hoà bình, độc lập, dân chủ, cải thiện dân sinh, hoà hợp dân tộc, tiến tới hoà bình thống nhất Tổ quốc.

Nội dung trên đây của cách mạng dân tộc dân chủ ở miền Nam phải được thể hiện đầy đủ, sinh động và sâu sắc trong Cương lĩnh của Mặt trận Dân tộc giải phóng và trong chương trình hành động của Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hoà miền Nam Việt Nam.

Đấu tranh giành hoà bình, độc lập, dân chủ, cải thiện dân sinh, hoà hợp dân tộc là khẩu hiệu cách mạng, khẩu hiệu tiến công, đưa quần chúng miền Nam đứng lên đấu tranh chống mọi âm mưu và hành động vi phạm Hiệp định Pari về Việt Nam, bảo đảm thi hành mọi điều khoản của Hiệp định, và xoá bỏ mọi hình thức của chủ nghĩa thực dân mới của Mỹ, mọi chính sách phản động, phát xít và hiếu chiến của Mỹ - nguỵ, đánh đổ bọn bán nước, xây dựng một miền Nam Việt Nam thật sự độc lập và dân chủ.

Tiến tới hoà bình thống nhất Tổ quốc là nguyện vọng sâu sắc của cả dân tộc ta. Nguyện vọng đó phải được thực hiện từng bước.

Cương lĩnh xây dựng chế độ chính trị dân tộc dân chủ, kinh tế dân tộc dân chủ, văn hoá dân tộc dân chủ và khẩu hiệu trung tâm hòa bình, độc lập, dân chủ, cải thiện dân sinh, hoà hợp dân tộc, tiến tới hoà bình thống nhất Tổ quốc thể hiện đường lối, chính sách của Đảng trong giai đoạn mới của cách mạng miền Nam.

Hoàn thành nhiệm vụ cách mạng dân tộc dân chủ ở miền Nam là một quá trình đấu tranh lâu dài, gay go, phức tạp. Phải kéo địch xuống và thắng địch từng bước, tiến tới thắng lợi hoàn toàn. Cách mạng miền Nam phải nắm vững tư tưởng chiến lược tiến công, nhưng phải căn cứ vào từng thời kỳ, hoàn cảnh cụ thể từng vùng, thậm chí từng cuộc đấu tranh mà vận dụng hình thức đấu tranh và chiến thuật tiến công hoặc phòng ngự một cách linh hoạt, sắc bén, đồng thời giữ vững và phát triển lực lượng về mọi mặt của ta, làm suy yếu và tan rã lực lượng quân sự, chính trị của địch, làm cho lực lượng so sánh giữa ta và địch ngày càng thay đổi có lợi cho ta. Nhất định ta phải mạnh cả về chính trị và quân sự, trên cả ba vùng chiến lược. Phải có lực lượng vũ trang bao gồm ba thứ quân mạnh, chiến đấu giỏi và luôn luôn sẵn sàng chiến đấu. 

Trong quá trình tiến lên, để thực hiện một chính quyền duy nhất thật sự dân tộc dân chủ, cách mạng miền Nam có thể phải trải qua nhiều bước quá độ và chỉ có thể giành được thắng lợi bằng con đường bạo lực cách mạng: tiến hành khởi nghĩa dựa trên lực lượng chính trị và lực lượng quân sự, hoặc là trong trường hợp chiến tranh lớn trở lại thì tiến hành chiến tranh cách mạng để giành thắng lợi hoàn toàn.

3. Nhiệm vụ trước mắt của cách mạng miền Nam là:

Đoàn kết toàn dân, đấu tranh trên ba mặt trận chính trị, quân sự, ngoại giao một cách hết sức chủ động, linh hoạt, tùy theo từng lúc, từng nơi mà kết hợp giữa các mặt trận đó cho thích hợp, để buộc địch phải thi hành nghiêm chỉnh Hiệp định Pari về Việt Nam, không ngừng giữ vững và phát triển lực lượng của cách mạng về mọi mặt, thắng địch từng bước và chủ động trong mọi tình huống, đưa cách mạng miền Nam tiến lên.

Phải lấy khẩu hiệu hoà bình, độc lập, dân chủ, cải thiện dân sinh, hoà hợp dân tộc, để tập hợp rộng rãi mọi lực lượng dân tộc, dân chủ. Chú trọng củng cố liên minh công nông, mở rộng Mặt trận Dân tộc thống nhất, đồng thời tích cực tranh thủ lực lượng thứ ba. Lấy khẩu hiệu hoà bình và hoà hợp dân tộc để phân hoá hàng ngũ địch, cô lập tập đoàn thống trị tư sản mại bản, quan liêu, quân phiệt, phát xít của Nguyễn Văn Thiệu.

Địch đang dùng hành động quân sự vi phạm Hiệp định một cách có hệ thống, ta phải kiên quyết phản công và tiến công địch, giữ vững và phát huy thế chủ động về mọi mặt của ta, đánh bại các cuộc hành quân của địch lấn chiếm vùng giải phóng hoặc bình định các vùng đồng bằng, vùng giáp ranh; phải phối hợp giữa ba thứ quân, ba mũi giáp công, giữa ba vùng, giữa các chiến trường để thực hiện phản công và tiến công địch, đánh địch những đòn thật đau, không để cho địch  lấn chiếm vùng giải phóng của ta và bình định, mở rộng vùng kiểm soát của chúng; phải thu hồi những vùng đã bị địch lấn chiếm, thu hẹp vùng kiểm soát của địch; ở nơi có điều kiện thì mở rộng vùng giải phóng của ta.

Tăng cường chỉ đạo, đẩy mạnh phong trào đấu tranh chính trị, từng bước tiến lên thành cao trào cách mạng ở thành thị, kết hợp chặt chẽ với phong trào đấu tranh cách mạng mạnh mẽ ở các vùng nông thôn, đẩy mạnh giành dân và giành quyền làm chủ, đẩy lùi và làm thất bại mọi thủ đoạn quân sự, chính trị, kinh tế, văn hoá của địch. Vận động và lãnh đạo quần chúng nắm vững pháp lý của Hiệp định để đấu tranh đòi địch phải thi hành nghiêm chỉnh Hiệp định, phải ngừng bắn; phải công nhận thực tế ở miền Nam có hai chính quyền, hai quân đội; hai vùng kiểm soát, và ba lực lượng chính trị; phải thả hết tù chính trị, thi hành các quyền tự do dân chủ, chống chế độ kìm kẹp, khủng bố, thanh lọc và bóc lột, vơ vét.

Cuộc đấu tranh với địch trên mặt trận chính trị và mặt trận quân sự phải kết hợp chặt chẽ với cuộc đấu tranh trên mặt trận ngoại giao. Ta phải tận dụng hai diễn đàn đấu tranh ngoại giao hiện nay là diễn đàn Ban Liên hiệp quân sự hai bên và diễn đàn Hội nghị hiệp thương hai bên ở Pari, phát huy vai trò của Chính phủ Cách mạng lâm thời, đồng thời tận dụng vai trò của Việt Nam Dân chủ Cộng hoà, đấu tranh một cách sắc bén với địch, nhằm phối hợp với đấu tranh chính trị, đấu tranh quân sự ở chiến trường, từng bước buộc địch phải thi hành các điều khoản của Hiệp định và tranh thủ dư luận trong nước cũng như ngoài nước ủng hộ cuộc đấu tranh chính nghĩa của nhân dân ta.

Cuộc đấu tranh trên ba mặt trận chính trị, quân sự và ngoại giao để thi hành Hiệp định Pari về Việt Nam có tác dụng tích cực đối với chiều hướng phát triển của tình hình miền Nam trong giai đoạn mới. Giữa ta và địch sẽ diễn ra một trạng thái giằng co rất quyết liệt và phức tạp. Ta phải rất cảnh giác, kiên quyết, bền bỉ, khôn khéo, nắm vững phương hướng chung là ta phải mạnh trên cả ba mặt trận để thắng địch, buộc địch thi hành Hiệp định, đồng thời chủ động chuẩn bị sẵn sàng cho trường hợp phải tiến hành chiến tranh cách mạng trên khắp chiến trường miền Nam để giành thắng lợi hoàn toàn.

Ở miền Nam hiện nay, ta và địch ở trong thế xen kẽ rất phức tạp. Ta phải tuỳ theo tình hình từng vùng, từng lúc và lực lượng so sánh ở từng địa phương, từng xã ấp, mà đề ra mức độ, quy mô, hình thức vận dụng từng mũi đấu tranh và cách kết hợp các mũi đấu tranh đó cho thích hợp. Trong tình hình mới, vận dụng phương châm đấu tranh phải gắn liền với yêu cầu giành dân, giành quyền làm chủ là nhằm giành thế mạnh để thắng địch. Hướng phản công và tiến công của ta hiện nay phải nhằm đánh bại kế hoạch bình định và lấn chiếm của địch, đặc biệt là vùng đồng bằng và vùng giáp ranh. Phải tuỳ nơi, tuỳ lúc mà áp dụng phản công và tiến công một cách chủ động linh hoạt.

Đối với vùng giải phóng (bao gồm các căn cứ địa), phải đoàn kết toàn dân, đoàn kết quân và dân, vừa sản xuất vừa chiến đấu, phải xây dựng mạnh cả về quân sự, chính trị,kinh tế và phải giữ vững bằng mọi cách. Phải có kế hoạch quân sự toàn diện, phối hợp giữa các chiến trường, các vùng, sẵn sàng phản công và tiến công địch, nếu địch đánh vào vùng giải phóng.

Đối với vùng tranh chấp (bao gồm cả vùng làm chủ ở nhiều mức độ khác nhau), phải giữ vững cả thế và lực của ta, và từng bước chuyển lên; phải nắm được dân, xây dựng và phát triển được thực lực, đưa phong trào quần chúng tiến lên. Phương châm đấu tranh vẫn là kết hợp ba mũi, đấu tranh chính trị, đấu tranh quân sự và binh vận, kết hợp các hình thức đấu tranh hợp pháp và không hợp pháp; tuỳ lực lượng so sánh từng vùng mà vận dụng các hình thức và phương pháp đấu tranh cho phù hợp và chủ động, linh hoạt. Khi chuyển lên hoặc khi tạm thời phải chuyển xuống, ta phải biết giữ gìn, phát triển lực lượng, che giấu thực lực, không để bị tiêu hao. Phải biết phát huy tác dụng pháp lý của Hiệp định để phát động quần chúng đấu tranh và phân hoá, trung lập hoá hoặc tranh thủ những bộ phận của địch có thể trung lập hoá hoặc tranh thủ.

Trong vùng địch kiểm soát, cần lãnh đạo quần chúng đấu tranh hợp pháp chống các hình thức kìm kẹp, đòi chính quyền địch thực hiện các yêu cầu thiết thân của quần chúng, gắn liền với việc đòi thi hành Hiệp định. Phải nắm cho được quần chúng, xây dựng và phát triển lực lượng thông qua việc vận động đòi các quyền dân sinh, dân chủ. Biết giành thắng lợi trong từng việc, từng khẩu hiệu cụ thể, như đòi tự do đi lại làm ăn, chống sinh hoạt đắt đỏ, chống thuế, chống thất nghiệp,  đòi công ăn việc làm, v.v., từ đó mà nâng dần phong trào lên. Thông qua phong trào đấu tranh mà củng cố tổ chức đảng và các đoàn thể quần chúng. Tuỳ nơi, tuỳ lúc tổ chức những tổ du kích bí mật, đội vũ trang tuyên truyền, đội đặc công, biệt động để phối hợp ba mũi giáp công, đẩy mạnh phong trào đấu tranh của quần chúng. Phải biết tuyên truyền, vận động đối với binh lính và nhân viên nguỵ quyền, khôn khéo và cảnh giác, lợi dụng mọi khả năng để phát triển phong trào đấu tranh, đồng thời che giấu, bảo vệ lực lượng ta.

4. Nhiệm vụ của miền Bắc đối với cách mạng miền Nam

Hoàn thành giải phóng dân tộc là sự nghiệp cách mạng chung của cả nước. Giải phóng miền Nam, hoàn thành cách mạng dân tộc dân chủ ở miền Nam, bảo vệ và xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc gắn bó chặt chẽ với nhau. Đó là quy luật phát triển hiện nay của sự nghiệp cách mạng cả nước. Hơn lúc nào hết, chúng ta cần nắm vững quy luật đó để tiến hành sự nghiệp cách mạng nhằm mục tiêu chung đánh bại chủ nghĩa thực dân mới của Mỹ ở miền Nam, giải phóng miền Nam để củng cố miền Bắc, củng cố và xây dựng miền Bắc để giải phóng miền Nam, tiến tới hoà bình thống nhất Tổ quốc.

Phải tranh thủ những điều kiện thuận lợi hiện có, ra sức khôi phục và phát triển nền kinh tế quốc dân, phù hợp với nhiệm vụ chính trị trong giai đoạn mới, làm cho miền Bắc xã hội chủ nghĩa tiến bộ nhanh chóng về mọi mặt, luôn luôn làm chỗ dựa vững chắc cho cuộc đấu tranh cách mạng nhằm hoàn thành độc lập, dân chủ ở miền Nam, tiến tới hoà bình thống nhất Tổ quốc.

Trong khi đẩy mạnh xây dựng chủ nghĩa xã hội và củng cố quốc phòng, miền Bắc phải tiếp tục làm tròn nhiệm vụ hậu phương lớn đối với cách mạng miền Nam và tích cực đấu tranh để Hiệp định Pari về Việt Nam được thi hành nghiêm chỉnh.

Phải tăng cường chi viện cách mạng miền Nam trên các mặt đấu tranh chính trị, kinh tế, quân sự và ngoại giao. Góp phần xây dựng vùng giải phóng về mọi mặt kinh tế, văn hoá, giao thông vận tải, quốc phòng. Phải có kế hoạch toàn diện của miền Bắc để chi viện cách mạng miền Nam trong mọi tình huống.

5. Đoàn kết ba nước Việt Nam - Lào - Campuchia là vấn đề hết sức quan trọng, có ý nghĩa sống còn đối với ba dân tộc ở Đông Dương.

Lợi ích dân tộc chân chính của mỗi nước gắn bó chặt chẽ với nhau trong cuộc đấu tranh chung cho hoà bình và độc lập dân tộc không những trước mắt mà cả lâu dài về sau. Đoàn kết hữu nghị, bình đẳng, tôn trọng và giúp đỡ nhau trong cuộc đấu tranh chống chủ nghĩa thực dân mới của đế quốc Mỹ và xây dựng đất nước theo con đường của mỗi nước là nguyên tắc chỉ đạo mối quan hệ giữa nhân dân ta với nhân dân hai nước Lào và Campuchia theo tinh thần quốc tế vô sản chân chính. Đảng ta kiên quyết tuân theo nguyên tắc đó.

6. Đoàn kết trong phe xã hội chủ nghĩa, trong phong trào cộng sản và công nhân quốc tế và đoàn kết các phong trào đấu tranh của nhân dân thế giới chống chủ nghĩa đế quốc là một nhân tố rất quan trọng đối với thắng lợi cách mạng của nhân dân ta.

Cách mạng Việt Nam nói riêng, cách mạng ba nước Đông Dương nói chung là những bộ phận khăng khít của phong trào hoà bình, độc lập dân tộc, dân chủ và chủ nghĩa xã hội trên thế giới. Cần tăng cường đoàn kết  trong phe xã hội chủ nghĩa và tăng cường đoàn kết quốc tế,nhằm tranh thủ sự đồng tình, ủng hộ và giúp đỡ tích cực của các nước xã hội chủ nghĩa anh em, của phong trào cộng sản và công nhân quốc tế, của các tổ chức dân chủ quốc tế và của nhân dân toàn thế giới đối với cuộc đấu tranh chống Mỹ - nguỵ, hoàn thành mọi nhiệm vụ cách mạng ở cả hai miền nước ta trong giai đoạn mới.

Phần thứ ba

NHỮNG CÔNG TÁC CHÍNH

Để thực hiện nhiệm vụ trước mắt, đồng thời tạo điều kiện tiến lên hoàn thành nhiệm vụ cơ bản của cách mạng miền Nam, ta cần nắm vững và làm thật tốt những công tác chính sau đây:

1. Trong bất cứ tình hình nào, phải nắm vững lực lượng vũ trang, củng cố, phát triển và tăng cường ba thứ quân thật mạnh, đi đôi với xây dựng lực lượng chính trị mạnh để bảo vệ và phát triển những thành quả cách mạng, đưa cách mạng tiếp tục tiến lên.

Nhiệm vụ của các lực lượng vũ trang là giữ vững vùng rừng núi từ vĩ tuyến 17 đến miền Đông Nam Bộ, xây dựng thành một hệ thống căn cứ địa hoàn chỉnh, phối hợp với việc giữ vững các vùng giải phóng ở đồng bằng (vùng lõm), để tạo thế uy hiếp các thành thị, giúp cho phong trào đấu tranh chính trị phát triển trong vùng tranh chấp và vùng địch kiểm soát. Bộ đội chủ lực, bộ đội địa phương và dân quân du kích phải luôn luôn chuẩn bị đầy đủ, sẵn sàng trong tư thế đánh địch, chủ động đập tan các cuộc hành quân lấn chiếm của chúng, kiên quyết thực hành phản công và tiến công, đánh những trận tiêu diệt thật đau, thật mạnh để bảo vệ và giữ vững vùng giải phóng và các căn cứ địa, bảo vệ quần chúng, tạo thế cho phong trào đấu tranh chính trị của quần chúng; và tuỳ nơi tuỳ lúc thu hồi những vùng bị địch lấn chiếm...

Trên cơ sở tổng kết công tác quân sự trong kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, kịp thời giải quyết tốt những vấn đề mới về chiến lược, chiến dịch, chiến thuật, chiến đấu, về xây dựng và củng cố lực lượng, về phương châm, phương thức tác chiến trên các chiến trường khác nhau. Phải có kế hoạch toàn diện về xây dựng, củng cố, nâng cao chất lượng và hiệu suất chiến đấu, làm cho bộ đội chủ lực thành lực lượng rất tinh nhuệ, chính quy, hiện đại, cơ động và linh hoạt, phù hợp với điều kiện chiến đấu trên từng chiến trường và cuộc chiến tranh cách mạng có tính chất toàn dân của ta.

Coi trọng việc xây dựng, phát triển và tăng cường bộ đội địa phương từ khu đến huyện; ra sức khắc phục tình trạng mất cân đối hiện nay giữa bộ đội chủ lực, bộ đội địa phương và dân quân du kích. Xây dựng bộ đội địa phương thành những đơn vị gọn, sắc, tinh nhuệ, vừa trang bị tương đối hiện đại, vừa tận dụng vũ khí  thô sơ, đủ sức phản công và tấn công bẻ gãy và đập tan các cuộc hành quân gom dân, lấn đất của nguỵ trong phạm vi địa phương. Huấn luyện cho cán bộ, chiến sĩ nắm vững hơn nữa phương châm kết hợp đấu tranh quân sự, chính trị và binh vận, thành thạo công tác quần chúng, công tác đấu tranh chính trị, luôn luôn gắn chặt  hoạt động của các lực lượng vũ trang địa phương với phong trào đấu tranh của quần chúng địa phương.

Trên cơ sở phát triển lực lượng chính trị và phong trào đấu tranh chính trị, ra sức phát triển dân quân du kích thành một lực lượng vũ trang mạnh của quần chúng, nằm trong quần chúng, đồng thời cũng là một lực lượng chính trị của quần chúng, bao gồm cả gái trai, già trẻ. Chú ý phát triển lực lượng du kích gái, xây dựng "đội quân tóc dài" không những là lực lượng chính trị mà còn là lực lượng quân sự trong chiến tranh nhân dân của ta.

Phải kịp thời đề ra phương hướng công tác quân sự cho toàn miền, cho từng khu, từng vùng, từng xã, thôn, nhằm bố trí lực lượng ba thứ quân đủ sức làm trọn nhiệm vụ trước mắt, tạo ra thế căng kéo địch, không để chúng tập trung được lực lượng lấn ta ở từng khu vực.

Có kế hoạch thực hiện hậu cần tại chỗ, động viên và tổ chức các lực lượng vũ trang của ta tích cực tham gia xây dựng những vùng kinh tế mới để bảo đảm tự cung cấp một phần lương thực, thực phẩm và từng bước xây dựng vùng căn cứ về mọi mặt. Tích cực xây dựng, phát triển và hoàn thiện các tuyến giao thông vận tải, bảo vệ hành lang và  kho tàng, ra sức dự trữ lương thực, vũ khí, trang bị kỹ thuật, bảo đảm vật chất cho các lực lượng vũ trang trên các chiến trường.

2. Nhiệm vụ chính trị hàng đầu của phong trào cách mạng miền Nam hiện nay là giành dân và giành quyền làm chủ của nhân dân ở khắp nông thôn và thành thị. Giành dân và giành quyền làm chủ của nhân dân không phải đơn thuần là công tác của các đoàn thể quần chúng mà là một cuộc đấu tranh toàn diện, kết hợp đấu tranh chính trị, quân sự, binh vận với đấu tranh pháp lý, đấu tranh về kinh tế và văn hoá, vừa bạo lực vừa hoà bình, vừa hợp pháp vừa không hợp pháp, vừa đấu tranh trong vùng địch kiểm soát và vùng tranh chấp, vừa phát huy sức mạnh của vùng ta để tác động vào vùng địch. Sử dụng và kết hợp tất cả các mặt, các hình thức, biện pháp nói trên để phát động quần chúng đứng lên đấu tranh dưới khẩu hiệu hoà bình, độc lập, dân chủ, cải thiện dân sinh, hoà hợp dân tộc, buộc địch phải thi hành Hiệp định, để bảo vệ đời sống quần chúng và từng bước giành quyền làm chủ của nhân dân.

Yêu cầu đối với vùng tranh chấp là đẩy lùi và đánh bại âm mưu lấn chiếm và kế hoạch bình định mới của địch, giữ vững và phát triển lực lượng và phong trào để nâng cao thế làm chủ của quần chúng. Phải nắm thật vững phương châm kết hợp ba mũi giáp công đi đôi với giữ thế hợp pháp của quần chúng, đồng thời giữ vững cơ sở của Đảng. Phải hiểu yêu cầu và nguyện vọng bức thiết của quần chúng để chỉ đạo sát với thực tế thì mới có phong trào quần chúng đấu tranh giành quyền làm chủ thực sự. Tuỳ theo tình hình và điều kiện mỗi nơi, ta phải đưa phong trào quần chúng từ mức độ vùng tranh chấp yếu lên vùng tranh chấp mạnh và tiến tới thành vùng giải phóng của ta.

Đối với vùng địch kiểm soát, lúc này là tập hợp và tổ chức quần chúng đòi tự do đi lại làm ăn, đòi trở lại cuộc sống bình thường, khôi phục và phát triển sản xuất, đòi giải quyết những nhu cầu về kinh tế, văn hoá, xã hội, v.v., chống bắt lính, chống áp bức, vơ vét; làm lỏng ách kìm kẹp của địch và từng bước tiến lên giành thế làm chủ với mức độ khác nhau, dần dần tạo ra thế hai chính quyền ở cơ sở, mà chính quyền địch chỉ là hình thức, biến vùng địch kiểm soát thành vùng tranh chấp, ở đó ta làm chủ với mức độ khác nhau. Chú trọng các hình thức tổ chức biến tướng, các hình thức và biện pháp vận động thích hợp với điều kiện sinh hoạt, tập quán của quần chúng ở từng vùng. Tìm mọi cách mở rộng phong trào công khai, hợp pháp, đồng thời có hệ thống tổ chức bí mật rất chặt chẽ. Tuỳ nơi, tuỳ lúc có thể sử dụng một cách thích hợp lực lượng nửa vũ trang hoặc vũ trang để phối hợp ba mũi giáp công, giúp sức phong trào đấu tranh của quần chúng.

Quần chúng trong vùng địch kiểm soát phần lớn là quần chúng bị kìm kẹp chặt, trong đó có nhiều gia đình binh sĩ nguỵ quân, cho nên việc tranh thủ gia đình binh sĩ nguỵ là hết sức quan trọng.

Phải chỉ đạo cụ thể đối với các vùng có tôn giáo, có dân di cư, các vùng dân tộc thiểu số, rút kinh nghiệm, đề ra chủ trương và phương pháp thích hợp với tình hình mới; nắm vững chính sách hoà hợp dân tộc và các chính sách đối với các tôn giáo và các dân tộc thiểu số.

Vấn đề cơ bản nhất hiện nay để giành dân và giành quyền làm chủ là tuyên truyền, tổ chức quần chúng; lãnh đạo quần chúng tiến lên mặt trận cách mạng. Các cấp ủy đảng phải thấu hiểu yêu cầu và nguyện vọng của mỗi tầng lớp nhân dân, đi sát quần chúng, sát cơ sở, sát thực tế, tạo điều kiện cho quần chúng hành động cách mạng. Trên cơ sở tổng kết công tác vận động quần chúng, các cấp uỷ đảng phải có kế hoạch công tác dân vận cho các vùng khác nhau. Cần coi trọng vai trò của Công đoàn, Nông hội, Hội Phụ nữ và các tổ chức quần chúng khác, tăng cường các cơ quan lãnh đạo của các đoàn thể ấy; chú ý rút kinh nghiệm về công tác ở từng vùng khác nhau, về tổ chức và phương thức hoạt động của từng giới.

3. Công tác binh vận là một mũi tiến công rất quan trọng để buộc địch từng bước đi vào hoà bình và hoà hợp dân tộc, để làm tê liệt và tan rã hàng ngũ địch, làm cho chính quyền của địch, nhất là ở cơ sở, ngày càng suy yếu, tiến tới thực hiện công nông binh liên hiệp và tạo điều kiện cho cao trào cách mạng của quần chúng. Phải gắn chặt công tác binh vận với phong trào đấu tranh chính trị.

Trước mắt, yêu cầu của công tác binh vận là phải tìm ra rất nhiều hình thức để bao vây đồn bốt địch, làm tê liệt, làm mất hiệu lực, trung lập hoá đồn bốt; làm tan rã phòng vệ dân sự, biến phần lớn lực lượng phòng vệ dân sự thành lực lượng của ta hoặc có thái độ trung lập có thiện cảm đối với ta; hạn chế các cuộc hành quân cảnh sát, càn quét, lấn chiếm của địch, bảo vệ tính mạng, tài sản của quần chúng. Công tác binh vận còn nhằm tạo ra quan hệ bình thường giữa các gia đình binh sĩ ngụy với quần chúng nhân dân, với gia đình cách mạng, để thực hiện hoà hợp dân tộc trong thôn xóm, trong bà con thân thuộc, từ đó mà phát triển hơn nữa công tác binh vận.

Làm cho công tác binh vận trở thành công tác của quần chúng. Tổ chức lực lượng binh vận và tổ chức việc chuyên trách mũi tiến công bằng binh vận ở xã ấp đối với từng đồn, từng đơn vị chủ lực ngụy. Nghiên cứu những hình thức tổ chức quần chúng gia đình binh sĩ để tập hợp, vận động, giáo dục quần chúng, hình thành lực lượng tổ chức binh vận rộng khắp.

Cần đi sâu nghiên cứu tình hình quân ngụy, nắm cho được yêu cầu, nguyện vọng của từng loại binh lính, từng hạng sĩ quan (thậm chí từng sĩ quan), thấy rõ và đánh giá đúng thực chất những chuyển biến về tư tưởng và thái độ chính trị của họ, tác động của sự kìm kẹp, khống chế của địch và mâu thuẫn trong nội bộ họ, v.v., để đề ra nội dung tuyên truyền và yêu cầu tiến công bằng binh vận từng nơi, từng lúc, đối với từng đơn vị cho sát.

4. Thành thị là nơi ta có khả năng tập hợp nhiều lực lượng để đấu tranh chính trị mạnh mẽ với địch. Trong tình hình đã có Hiệp định Pari về Việt Nam, nhưng địch vẫn kéo dài xung đột quân sự, thì những mâu thuẫn của xã hội miền Nam về các mặt chính trị, kinh tế, văn hoá, xã hội biểu hiện tập trung ở thành thị càng thêm gay gắt. Tình hình ấy thúc đẩy sự chống chọi mạnh mẽ của nhân dân đối với chính quyền địch đồng thời càng phân hoá hơn nữa hàng ngũ địch và thúc đẩy các xu hướng "đối lập" hoạt động chống Thiệu. Mặt khác, do có Hiệp định, các từng lớp nhân dân có vũ khí chính trị để đấu tranh chống địch. Ta có thể khoét sâu mâu thuẫn giữa các từng lớp nhân dân với địch, mâu thuẫn trong nội bộ địch, làm suy yếu và cô lập tập đoàn hiếu chiến, phản động và ngoan cố nhất đứng đầu là Thiệu. Khi có thời cơ và điều kiện nổ ra cao trào đấu tranh của quần chúng thì đòn tiến công chính trị ở thành thị là một trong những đòn có tính chất quyết định.

Nhiệm vụ trước mắt của công tác thành thị là dưới khẩu hiệu hoà bình, độc lập, dân chủ, cải thiện dân sinh, hoà hợp dân tộc, ra sức tập hợp đông đảo các từng lớp nhân dân thành thị, đẩy mạnh các phong trào đấu tranh đòi các quyền dân sinh, dân chủ, và các quyền lợi bức thiết khác, đòi thi hành Hiệp định. Từng bước đưa phong trào đấu tranh chính trị tiến lên, đồng thời chuẩn bị lực lượng cơ sở, tạo điều kiện và thời cơ để đẩy tới cao trào cách mạng.

Cần nắm vững yêu cầu tập hợp và tổ chức quần chúng cơ bản, đặc biệt coi trọng công tác vận động công nhân, xây dựng thành chỗ dựa vững chắc của phong trào, thành lực lượng nòng cốt trong mặt trận đấu tranh của nhân dân thành thị. Bằng nhiều hình thức, nhiều phương pháp, tập hợp và tổ chức quần chúng trong công nhân, lao động, trong thanh niên và học sinh, sinh viên, trong phụ nữ, trong các giới báo chí, văn hoá, giáo dục, trong quần chúng cơ bản thuộc các tôn giáo, nhất là Phật giáo. Phải tìm mọi cách đi vào cơ sở sản xuất và các nghiệp đoàn ở cơ sở để tập hợp công nhân, lực lượng cơ bản của cách mạng, tập hợp quần chúng lao động và lãnh đạo quần chúng đấu tranh. Tập hợp phụ nữ, nhất là phụ nữ lao động, thành một lực lượng xung kích quan trọng. Gắn liền phong trào học sinh, sinh viên với hoạt động của các từng lớp thanh niên khác, hình thành lực lượng và phong trào chung của thanh niên thành thị. Phải làm cho phong trào của từng ngành, từng giới trở thành lực lượng chính trị mạnh của phong trào đấu tranh của nhân dân các thành thị; đồng thời rất coi trọng tập hợp và tổ chức quần chúng theo địa phương (khu, xóm lao động, các quận, xã, ngoại ô), lấy địa phương làm nơi phối hợp đấu tranh của quần chúng lao động cho những yêu cầu chung, từng bước giành thế hợp pháp và quyền làm chủ ở cơ sở, biến các khu, xóm lao động, các quận, các xã ngoại ô thành những cứ điểm mạnh của mặt trận đấu tranh của nhân dân thành thị.

 

Một công tác hết sức quan trọng hiện nay ở thành thị là thông qua các lực lượng hoà bình, dân tộc, dân chủ trong các từng lớp trung gian và các từng lớp trên, tranh thủ các xu hướng, các lực lượng "đối lập" với Thiệu, kể cả các lực lượng chống Thiệu ở ngoài nước thúc đẩy nhanh chóng sự tập hợp lực lượng thứ ba. Sự ra đời của lực lượng này sẽ là một đòn đánh vào thế lực quan liêu, quân phiệt, phát xít tay sai của Mỹ. Cho nên, liên hiệp hành động với lực lượng thứ ba là một sách lược rất quan trọng, cần được vận dụng một cách sắc bén, linh hoạt. Cần phát huy tác dụng của Liên minh các lực lượng dân tộc, dân chủ và hoà bình, của các tổ chức và các nhân vật thích hợp để tranh thủ lực lượng thứ ba.

Trong điều kiện hiện nay, địch đang thi hành chính sách phát xít trắng trợn, cho nên trong công tác thành thị, nhất thiết phải xây dựng hệ thống tổ chức bí mật thật chặt, thật sâu, thật tinh gọn, để giữ gìn tổ chức của Đảng và của quần chúng nòng cốt trong phong trào. Song phải nhận rõ thành thị là nơi có điều kiện nhất để triển khai những hoạt động công khai, hợp pháp, nửa hợp pháp và thế lợi nhất của thành thị là thế công khai, hợp pháp. Phong trào công khai, hợp pháp càng rộng, càng mạnh thì càng có điều kiện để phát triển và che giấu tổ chức bí mật. Phải lợi dụng các nghiệp đoàn, các báo chí, các trường học, các hoạt động tôn giáo, nhất là Phật giáo, các phe phái đối lập với Thiệu, v.v., khéo sử dụng vai trò của lực lượng thứ ba để tổ chức phong trào công khai, hợp pháp.

Để thực hiện cho được nhiệm vụ của thành thị, phải có một sự chuyển biến thật sự về phương thức công tác, về các hình thức tập hợp và tổ chức quần chúng, về phương pháp lãnh đạo; đồng thời, hết sức chú ý đào tạo, bồi dưỡng cán bộ hoạt động ở thành thị, nhất là cán bộ hoạt động công khai, hợp pháp, và những cốt cán trong quần chúng.

5. Ra sức xây dựng và củng cố vùng giải phóng (bao gồm các căn cứ địa) là nhiệm vụ cực kỳ quan trọng trong tình hình mới. Vùng giải phóng phải được xây dựng vững mạnh về chính trị, quân sự, kinh tế, văn hoá để làm chỗ dựa vững chắc cho cuộc đấu tranh cách mạng trong giai đoạn mới, đồng thời là ngọn cờ cổ vũ, hiệu triệu quần chúng trong vùng địch kiểm soát.

Trước hết, cần tiếp tục xây dựng và thực hiện tốt các chính sách của ta: chính sách dân tộc, chính sách tôn giáo, chính sách hoà hợp dân tộc, đoàn kết nông thôn, đoàn tụ gia đình, phục hồi và phát triển kinh tế, phát triển văn hoá, giáo dục, y tế, ổn định đời sống; xây dựng và củng cố chính quyền nhân dân các cấp; xây dựng, củng cố và phát triển các lực lượng chính trị và vũ trang; từng bước xây dựng chế độ dân chủ nhân dân về mọi mặt.

Đặc biệt chú trọng công tác quân sự: chấn chỉnh đội ngũ, bổ sung quân số, tổng kết kinh nghiệm, huấn luyện chính trị và quân sự, tuyển quân và thay quân; phát triển lực lượng địa phương và dân quân du kích tăng cường công tác bố phòng, nâng cao cảnh giác, sẵn sàng chiến đấu và chiến đấu giỏi, đánh bại mọi cuộc tập kích bằng không quân và mọi cuộc hành quân lấn chiếm của địch. Làm tốt việc xây dựng làng chiến đấu, tăng cường công tác trật tự, an ninh, chống gián điệp, biệt kích, sẵn sàng đập tan mọi hành động thâm nhập và phá hoại của địch.

Có kế hoạch xây dựng kinh tế vùng giải phóng một cách toàn diện, dính liền với miền Bắc và các vùng giải phóng của nhân dân Campuchia và nhân dân Lào. Xây dựng kinh tế ở vùng giải phóng hiện nay trước hết là phục hồi và phát triển sản xuất nông nghiệp, củng cố và phát triển giao thông vận tải; bước đầu mở mang một số vùng kinh tế mới, trồng cây lương thực và chăn nuôi, cố gắng tự giải quyết một phần quan trọng lương thực, thực phẩm cho nhân dân và bộ đội; từng bước phục hồi và phát triển một số cây công nghiệp dài ngày và khai thác lâm sản; tích cực mở luồng giao lưu kinh tế giữa vùng ta và vùng địch. Đồng thời, khôi phục thủ công nghiệp, xây dựng công nghiệp nhỏphục vụ cho nông nghiệp, giao thông vận tải và quốc phòng. Cần có kế hoạch tăng thêm nhân lực ở vùng giải phóng, nhất là ở các căn cứ địa; chú ý vận động quần chúng vùng địch kiểm soát bung ra, trở về vùng giải phóng.

Vùng giải phóng hiện nay phần lớn là rừng núi và trung du ít dân và kinh tế còn nghèo, nhưng có vị trí chiến lược rất quan trọng, đồng thời về lâu dài có khả năng rất lớn để xây dựng kinh tế toàn diện, phong phú. Trước mắt, cần ra sức động viên tinh thần, tài năng và sức lực của nhân dân vùng giải phóng để giải quyết đời sống cho dân, thực hiện một phần quan trọng vấn đề hậu cần tại chỗ.

Hiện nay cũng như sau này, sự chi viện của miền Bắc là điều đặc biệt cần thiết. Các cơ quan kinh tế ở miền Bắc phải phối hợp chặt chẽ để giúp vùng giải phóng ở miền Nam xây dựng kinh tế, phát triển văn hoá; đồng thời, phải biết sử dụng thật tốt sự giúp đỡ của các nước xã hội chủ nghĩa anh em trong việc xây dựng vùng giải phóng, làm cho vùng giải phóng mau vững mạnh về kinh tế và quốc phòng.

 

Nhiệm vụ cấp bách của cơ quan chính quyền các cấp ở vùng giải phóng là tổ chức tốt việc phòng thủ, chống mọi cuộc hành quân lấn chiếm và mọi hành động thâm nhập, phá hoại và bao vây kinh tế của địch đối với vùng giải phóng, động viên nhân dân phục hồi và bảo vệ sản xuất, phát triển kinh tế, văn hoá, giáo dục, y tế, ổn định và từng bước cải thiện đời sống của nhân dân, thực hiện tốt chính sách đoàn kết và hoà hợp dân tộc. Do đó, nâng cao uy tín của Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hoà miền Nam Việt Nam và không ngừng phát huy tính ưu việt của chế độ dân chủ nhân dân ở vùng giải phóng.

6. Tăng cường công tác Mặt trận và công tác của Chính phủ Cách mạng lâm thời

Hoà bình, độc lập, dân chủ, cải thiện dân sinh, hoà hợp dân tộc là thế mạnh của ta để thắng địch. Phải nêu cao lập trường chính nghĩa của ta, chĩa mũi nhọn tiến công vào kẻ thù chính là đế quốc Mỹ và tập đoàn thống trị tư sản mại bản, quan liêu, quân phiệt, phát xít Nguyễn Văn Thiệu tay sai của Mỹ.

Tiến tới hình thành một mặt trận rộng hơn Mặt trận Dân tộc giải phóng, nhằm đoàn kết, tranh thủ các giai cấp, tôn giáo, dân tộc, các nhân sĩ, các lực lượng hoà bình, dân tộc, dân chủ ở miền Nam và Việt kiều ở nước ngoài để chống Mỹ và tay sai. Giữa mặt trận này với Mặt trận Dân tộc giải phóng có sự liên hiệp hành động trên cơ sở Cương lĩnh của Mặt trận Dân tộc giải phóng, nhưng mặt trận này có thể không bao gồm toàn bộ lực lượng thứ ba, vì còn có thể có nhiều phe, nhóm, nhiều xu hướng chính trị không muốn đi chung với Mặt trận của ta. Ta cũng cần chú ý tranh thủ khả năng trong tương lai còn có thể mở rộng mặt trận hoặc liên hiệp hành động với những đơn vị ly khai của chính quyền Sài Gòn và quân đội ngụy.

Cần sớm đề ra Cương lĩnh mới của Mặt trận Dân tộc giải phóng và Chương trình hành động mới của Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hoà miền Nam Việt Nam để động viên và tập hợp quần chúng nhân dân đấu tranh thực hiện hoà bình, độc lập, dân chủ, cải thiện dân sinh, hoà hợp dân tộc, tiến tới hoà bình thống nhất Tổ quốc, và xây dựng chế độ chính trị dân tộc dân chủ, kinh tế dân tộc dân chủ, văn hoá dân tộc dân chủ ở miền Nam trong giai đoạn mới. Nghiên cứu những chính sách để đáp ứng yêu cầu của nhiệm vụ mới về các mặt chính trị, kinh tế, văn hoá.

Các uỷ ban Mặt trận Dân tộc giải phóng các cấp cần được chấn chỉnh và hoạt động đều đặn, nhằm thật sự phát huy vai trò của tổ chức mặt trận trong tình hình mới.

Tăng cường thống nhất hành động giữa Mặt trận Dân tộc giải phóng miền Nam và Liên minh các lực lượng dân tộc, dân chủ và hoà bình, nhằm ra sức tranh thủ lực lượng thứ ba, mở rộng hơn nữa mặt trận đấu tranh chống Mỹ và tập đoàn tay sai Nguyễn Văn thiệu.

Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hoà miền Nam Việt Nam là người đại diện chân chính duy nhất của nhân dân miền Nam. Hiện nay, trong cuộc đấu tranh giữa ta và địch mà tiêu biểu là giữa hai chính quyền đang tồn tại ở miền Nam, Chính phủ Cách mạng lâm thời càng có vai trò đặc biệt quan trọng.

Chính phủ Cách mạng lâm thời phải tiêu biểu thật sự cho quyền làm chủ của nhân dân vùng giải phóng. Cần xây dựng pháp chế dân chủ, xây dựng quy chế tổ chức chính quyền từ trung ương đến cơ sở trong vùng ta kiểm soát, bảo đảm được quyền dân chủ thật sự của nhân dân, làm cho chính quyền thật sự là của dân, vì dân và từ dân mà ra. Nơi nào có điều kiện thì bảo đảm cho nhân dân thực hiện quyền bầu cử và ứng cử vào các cơ quan chính quyền. Nơi nào, cấp nào chưa đủ điều kiện thì tạm thời thông qua các cơ quan của Mặt trận Dân tộc giải phóng mà chỉ định.

7. Công tác ngoại giao

Nắm vững pháp lý của Hiệp định Pari về Việt Nam, giương cao ngọn cờ hoà bình và lập trường chính nghĩa của ta, kiên quyết và kịp thời vạch trần trước dư luận trong nước và dư luận thế giới mọi âm mưu và hành động của địch vi phạm Hiệp định. Ra sức tranh thủ lực lượng Việt kiều ở nước ngoài tán thành và ủng hộ giải pháp của ta; tranh thủ dư luận quốc tế đồng tình, ủng hộ ta, lên án và gây sức ép đối với Mỹ và chính quyền Sài Gòn, ngăn chặn những âm mưu và hành động ngang ngược của chúng. Phải đấu tranh kiên trì trên mặt trận ngoại giao đòi Mỹ và chính quyền Sài Gòn thi hành Hiệp định Pari về Việt Nam và Thông cáo chung. Chỉ đạo đấu tranh sắc bén ở Hội nghị hiệp thương hai bên miền Nam Việt Nam ở Pari, ở các phiên họp của Ban Liên hợp quân sự hai bên và ở các cuộc họp khác có liên quan đến Hiệp định. Phối hợp chặt chẽ với cuộc đấu tranh của nhân dân Lào và nhân dân Campuchia trên mặt trận ngoại giao.

Đấu tranh thi hành Hiệp định Pari về Việt Nam là một cuộc đấu tranh lâu dài, khó khăn, phức tạp, cần có kế hoạch phối hợp chặt chẽ ở trong nước và ngoài nước, trên bàn đàm phán với phong trào đấu tranh của quần chúng trong từng thời gian, phát huy vai trò của Chính phủ Cách mạng lâm thời, đồng thời phát huy tác dụng rất quan trọng của miền Bắc thì mới đạt được kết quả tốt.

Đẩy mạnh hoạt động ngoại giao và mở rộng quan hệ ngoại giao, nêu cao vị trí và uy tín của Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hoà miền Nam Việt Nam, đánh lùi các vị trí của chính quyền Sài Gòn trên trường quốc tế, nhất là trong các nước Không liên kết, tranh thủ viện trợ vật chất trực tiếp cho Chính phủ Cách mạng lâm thời, tranh thủ sự ủng hộ rộng rãi của các nước và các tổ chức dân chủ quốc tế để thúc đẩy phong trào đấu tranh cách mạng của miền Nam tiến lên.

8. Công tác Đảng

Điều kiện chủ yếu để giành thắng lợi trong giai đoạn mới là Đảng bộ miền Nam phải thật mạnh về chính trị, tư tưởng và tổ chức; phải đoàn kết, nhất trí để lãnh đạo cách mạng miền Nam vượt qua mọi khó khăn, gian khổ, đạt đến thắng lợi hoàn toàn. Bộ Chính trị cần nghiên cứu vấn đề tổ chức lãnh đạo cách mạng miền Nam, và cải tiến công tác lãnh đạo đối với miền Nam để bảo đảm nhiệm vụ chính trị của giai đoạn mới và có kế hoạch chỉ đạo tổng kết cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước trên từng mặt công tác lớn, rút ra những bài học kinh nghiệm về lãnh đạo và chỉ đạo chiến tranh.

Công tác xây dựng đảng phải nhằm nắm vững tính chất giai cấp, tính chất tiền phong của Đảng, nắm vững nguyên tắc tổ chức của Đảng, bảo đảm sự lãnh đạo toàn diện của Đảng về các mặt chính trị, quân sự, kinh tế, văn hoá, lãnh đạo chính quyền, mặt trận, dân vận, v.v., bảo đảm cho Đảng bộ đi sâu giải quyết được những vấn đề khó khăn, phức tạp do cuộc đấu tranh cách mạng đang đặt ra cho toàn miền, cho từng vùng, trên từng lĩnh vực công tác.

Phải tăng cường lãnh đạo tư tưởng mà nội dung chủ yếu là làm cho cán bộ, quân và dân thấu suốt một cách sâu sắc tình hình và nhiệm vụ, phương hướng, chủ trương, chính sách của Đảng trong giai đoạn mới, bồi dưỡng tinh thần cách mạng tiến công, kiên trì cách mạng, nâng cao cảnh giác, chống mọi khuynh hướng hữu khuynh, hoà bình chủ nghĩa, có tư tưởng nghỉ ngơi, không sẵn sàng chiến đấu. Ra sức nâng cao công tác tổ chức của Đảng lên ngang tầm của nhiệm vụ chính trị trước mắt.

Tổ chức của Đảng phải bảo đảm sự lãnh đạo tập trung, toàn diện và thống nhất, đồng thời bảo đảm sự lãnh đạo thật sự dân chủ, linh hoạt, kịp thời, không những ở khu, tỉnh, thành, mà ở các cấp huyện và cơ sở nữa, làm cho các cấp đó giải quyết sát những vấn đề của mình và kịp thời đối phó với địch. Lãnh đạo phải tập trung, song cần phải phân công, phân nhiệm cho cấp uỷ địa phương, phân công và phối hợp giữa các cấp Đảng, Mặt trận và chính quyền, tránh tình trạng Đảng bao biện công tác của Mặt trận và chính quyền.

Cấp huyện và cấp  có tầm quan trọng đặc biệt. Xã là tế bào trong cơ cấu tổ chức của ta. Giữa ta và địch hiện nay đang giành nhau từng xã, từng ấp thuộc những vùng khác nhau, đòi hỏi sự chỉ đạo trực tiếp, kịp thời và rất sát của huyện. Do đó, phải tăng cường cấp huyện;tỉnh phải dồn sức giúp huyện; tỉnh với huyện phải dính chặt với nhau, hướng xuống cơ sở và lãnh đạo sát cơ sở. Trung ương Cục cũng như cấp khu phải qua thực tế công tác ở cấp dưới mà hiểu và nắm tình hình từng vùng để giúp cho cấp dưới.

Trong tình hình mới, để nâng cao chất lượng lãnh đạo của các tổ chức đảng, Trung ương Cục cũng như các cấp uỷ phải hết sức chú trọng sửa đổi lề lối làm việc và cải tiến tổ chức, làm cho bộ máy thật gọn nhẹ, nhưng có chất lượng; rút bớt cán bộ tăng cường cho cấp dưới, nhất là ở cơ sở; đồng thời, tăng cường công tác kiểm tra, bảo đảm cho cấp trên sát cấp dưới, nắm tình hình một cách đầy đủ và giải quyết kịp thời, đúng đắn những vấn đề mới đặt ra, tích cực chống bệnh quan liêu, mệnh lệnh, độc đoán, gia trưởng. Cần đẩy mạnh việc tự phê bình và phê bình trong Đảng, nhất là phê bình từ dưới lên, bảo đảm dân chủ, bảo đảm sự đoàn kết, nhất trí trong toàn Đảng bộ, đoàn kết quân dân, đoàn kết các lực lượng quân, dân, chính, đảng, chống mọi biểu hiện cục bộ, địa phương chủ nghĩa.

Đi đôi với việc cải tiến tổ chức và sửa đổi lề lối làm việc, cần ra sức đào tạo và bồi dưỡng cán bộ nhằm đáp ứng những nhu cầu của nhiệm vụ mới. Trung ương Cục cũng như các khu uỷ và tỉnh uỷ cần mở các lớp đào tạo và bồi dưỡng cán bộ ngắn hạn cho địa phương. Nội dung đào tạo và bồi dưỡng nhằm làm cho cán bộ nắm được đường lối, các nghị quyết và chính sách lớn của Đảng, nắm nội dung Hiệp định Pari, cũng như những kinh nghiệm lớn về các mặt đấu tranh chính trị, quân sự, binh vận, công tác quần chúng, công tác đô thị, công tác ngoại giao và công tác xây dựng đảng. Ngoài ra, Trung ương cần có kế hoạch đào tạo cán bộ trước mắt và lâu dài cho miền Nam một cách toàn diện.

Vấn đề củng cố và nâng cao chất lượng của các tổ chức cơ sở của Đảng, nhất là ở các vùng địch kiểm soát, có một tầm quan trọng đặc biệt, các cấp uỷ đảng phải trực tiếp phụ trách công tác này. Phải qua các phong trào đấu tranh chính trị và quân sự của quần chúng, phong trào đấu tranh ba mũi giáp công và xây dựng vùng giải phóng mà xây dựng và củng cố tổ chức cơ sở của Đảng cả về chất lượng và số lượng. Phải có kế hoạch xây dựng tổ chức cơ sở đảng riêng cho từng vùng: vùng giải phóng, vùng tranh chấp, vùng địch kiểm soát, nông thôn và thành thị, cũng như trong các lực lượng vũ trang. Hết sức coi trọng nâng cao chất lượng đảng viên, tổng kết và nâng cao kinh nghiệm đấu tranh chính trị, quân sự, binh vận và xây dựng đảng, thông qua công tác đó mà bồi dưỡng và nâng cao trình độ đảng viên. Từng bước bồi dưỡng về lý luận và những kiến thức cần thiết về văn hoá, kinh tế, kỹ thuật cho cán bộ, đảng viên.

Cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước của nhân dân ta đã giành được thắng lợi rất to lớn, rất vẻ vang, song sự nghiệp giải phóng dân tộc của nhân dân ta, sự nghiệp cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân ở miền Nam nước ta chưa hoàn thành. Đế quốc Mỹ và tay sai còn nhiều âm mưu thâm độc, cuộc đấu tranh cách mạng của nhân dân ta còn rất gay go, phức tạp. Toàn Đảng phải nhận rõ tình hình và nhiệm vụ mới, tăng cường đoàn kết, nhất trí, nâng cao cảnh giác, kiên trì cách mạng, tự hào và tin tưởng, phát huy mạnh mẽ tinh thần cách mạng tiến công, ra sức phấn đấu làm tròn mọi nhiệm vụ trong giai đoạn mới.

Với đường lối đúng đắn, độc lập, tự chủ, với kinh nghiệm cách mạng phong phú của Đảng ta, với sức mạnh đoàn kết chiến đấu và ý chí kiên cường, bất khuất của toàn dân và toàn quân ta, phát huy mạnh mẽ vai trò và tác dụng của miền Bắc xã hội chủ nghĩa, giương cao ngọn cờ hoà bình, độc lập, dân chủ, cải thiện dân sinh, hoà hợp dân tộc ở miền Nam, chúng ta nhất định sẽ giành được thắng lợi huy hoàng hơn nữa, hoàn thành sự nghiệp giải phóng dân tộc, thực hiện kỳ được Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh kính yêu, xây dựng một nước Việt Nam hoà bình, thống nhất, độc lập, dân chủ và giàu mạnh, góp phần xứng đáng vào sự nghiệp cách mạng của nhân dân thế giới.

Cách mạng miền Nam nhất định thắng!

Tổ quốc ta nhất định thống nhất!

Hồ Chủ tịch vĩ đại sống mãi trong sự nghiệp của chúng ta!

T/M BAN CHẤP HÀNH TRUNG ƯƠNG BÍ THƯ THỨ NHẤT

LÊ DUẨN

Lưu tại Kho Lưu trữ

Trung ương Đảng.

Phản hồi

Thông tin người gửi phản hồi

Hướng dẫn kiểm tra, giám sát phục vụ đại hội đảng bộ các cấp tiến tới Đại hội XIV của Đảng

(ĐCSVN) - Tại văn bản số 08-HD/UBKTTW ngày 18/11/2024, Ủy ban Kiểm tra Trung ương hướng dẫn công tác kiểm tra, giám sát phục vụ đại hội đảng bộ các cấp tiến tới Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIV của Đảng.

Phương án nghiên cứu sắp xếp, sáp nhập các bộ, cơ quan thuộc Chính phủ

(ĐCSVN) - Theo phương án nghiên cứu sắp xếp, sáp nhập được Trưởng Ban Tổ chức Trung ương Lê Minh Hưng nêu tại Hội nghị toàn quốc sáng 1/12, sẽ tối thiểu giảm được 5 bộ, 2 cơ quan trực thuộc Chính phủ.

Phương án sáp nhập các ủy ban của Quốc hội và cơ quan thuộc Ủy ban Thường vụ Quốc hội

(ĐCSVN) - Sáng 1/12, Trưởng Ban Tổ chức Trung ương Lê Minh Hưng thông báo chuyên đề về các nội dung chính, trọng tâm việc triển khai tổng kết Nghị quyết 18. Theo phương án định hướng được nêu sẽ giảm 4 ủy ban của Quốc hội và 1 cơ quan trực thuộc Ủy ban Thường vụ Quốc hội.

Phương án giảm 4 cơ quan Đảng, 25 ban cán sự đảng, 16 đảng đoàn trực thuộc Trung ương

(ĐCSVN) - Sáng 1/12, đồng chí Lê Minh Hưng, Uỷ viên Bộ Chính trị, Bí thư Trung ương Đảng, Trưởng ban Tổ chức Trung ương đã trình bày các nội dung chính, trọng tâm việc triển khai tổng kết Nghị quyết 18-NQ/TW của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XII.

Quy trình kỷ luật đảng viên thuộc thẩm quyền của Trung ương Đảng, Bộ Chính trị, Ban Bí thư

(ĐCSVN) - Thay mặt Bộ Chính trị, Thường trực Ban Bí thư Lương Cường vừa ký Quyết định số 165-QĐ/TW ngày 6/6/2024 của Bộ Chính trị ban hành Quy trình xem xét, thi hành kỷ luật đối với tổ chức Đảng, đảng viên thuộc thẩm quyền của Ban Chấp hành Trung ương Đảng, Bộ Chính trị, Ban Bí thư.

Liên kết website