Nghị quyết số 240-NQ/TW, ngày 25/12/1974 Hội nghị lần thứ 23 Ban Chấp hành Trung ương Đảng

Tăng cường sự lãnh đạo và nâng cao sức chiến đấu của Đảng

I

TÌNH HÌNH ĐẢNG TA VÀ NHIỆM VỤ XÂY DỰNG ĐẢNG TRONG GIAI ĐOẠN MỚI

1. Từ Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ III của Đảng đến nay, Đảng ta đã lãnh đạo cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc và cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân ở miền Nam, lãnh đạo toàn dân kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, đồng thời làm nghĩa vụ quốc tế đối với cách mạng Lào và cách mạng Campuchia, tích cực góp phần vào cuộc đấu tranh của nhân dân thế giới vì hoà bình, độc lập dân tộc, dân chủ và chủ nghĩa xã hội.

Do đường lối đúng đắn của Đảng, sự hy sinh, nỗ lực của đồng bào và chiến sĩ cả nước, của đông đảo cán bộ và đảng viên, sự ủng hộ và giúp đỡ tích cực của các nước xã hội chủ nghĩa, của phong trào cộng sản và công nhân quốc tế và các lực lượng tiến bộ trên thế giới, cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước đã giành thắng lợi vĩ đại có ý nghĩa lịch sử và có tính chất thời đại.

Hiện nay, cách mạng Việt Nam đã chuyển sang giai đoạn mới, giai đoạn phải đồng thời giải quyết vấn đề "ai thắng ai" giữa độc lập dân tộc và chủ nghĩa thực dân mới, giữa chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa tư bản, nhằm mục tiêu đưa miền Bắc tiến nhanh, tiến mạnh, tiến vững chắc lên chủ nghĩa xã hội, hoàn thành độc lập, dân chủ ở miền Nam, tiến tới hoà bình thống nhất nước nhà. Nhân dân cả nước ta phải nâng cao hơn nữa ý chí cách mạng, tiếp tục vượt qua mọi gian khổ, hy sinh để thực hiện bằng được mục tiêu của cách mạng.

Miền Bắc đã có hoà bình, nhưng cuộc đấu tranh quyết liệt ở miền Nam vẫn thường xuyên tác động đến miền Bắc trên nhiều mặt; toàn Đảng, toàn dân phải luôn luôn nâng cao cảnh giác, sẵn sàng đối phó với mọi tình thế. Nhân dân miền Bắc đã ra sức phấn đấu thực hiện thắng lợi một phần quan trọng nhiệm vụ khôi phục và phát triển kinh tế, phát triển văn hoá, đồng thời đã đáp ứng những yêu cầu cơ bản về nhiều mặt của cách mạng miền Nam. Đảng ta, nhân dân ta kiên quyết phấn đấu hơn nữa để giành những thắng lợi mới, để vượt qua những khó khăn rất lớn của miền Bắc vốn từ một nền nông nghiệp lạc hậu, bỏ qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa mà đi lên chủ nghĩa xã hội, lại trải qua chiến tranh lâu dài, ác liệt. Nhiệm vụ trung tâm của miền Bắc trong suốt thời kỳ quá độ là công nghiệp hoá xã hội chủ nghĩa, xây dựng cơ sở vật chất - kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội, từng bước xây dựng nền sản xuất lớn xã hội chủ nghĩa. Đó là nhiệm vụ rất khó khăn, lâu dài, đòi hỏi toàn Đảng, toàn dân ta phải tự lực tự cường, lao động quên mình với ý thức làm chủ tập thể xã hội chủ nghĩa, với tinh thần cách mạng và sáng tạo.

Trong cuộc chiến đấu để đánh bại chủ nghĩa thực dân mới của Mỹ ở miền Nam, thế và lực của ta đã khác hẳn trước. Hai năm qua, quân và dân ta ở miền Nam đã đấu tranh kiên cường chống địch lấn chiếm và bình định, đã tích cực bảo vệ và xây dựng vùng giải phóng, trừng phạt đích đáng những hành động của địch phá hoại nghiêm trọng, có hệ thống Hiệp định Pari về Việt Nam. Cách mạng miền Nam đang tiến lên vững chắc theo đường lối của Hội nghị lần thứ 21 của Trung ương Đảng. Đế quốc Mỹ tăng cường hoạt động chống lại cách mạng nhưng không thể đảo ngược được tình thế. Cuộc đấu tranh để hoàn thành cách mạng dân tộc dân chủ ở miền Nam còn quyết liệt, phức tạp và lâu dài nhưng nhất định thắng lợi.

Sau thất bại của đế quốc Mỹ ở Việt Nam, Lào, Campuchia và những nơi khác trên thế giới, cục diện cách mạng thế giới ngày càng tốt đẹp. Ba dòng thác cách mạng của thời đại tiếp tục dâng lên. Đế quốc Mỹ lâm vào một cuộc khủng hoảng toàn diện và sâu sắc, kéo toàn bộ hệ thống đế quốc chủ nghĩa đi vào một thời kỳ mới của cuộc tổng khủng hoảng. Phong trào cách mạng của nhân dân thế giới vì hoà bình, độc lập dân tộc, dân chủ và chủ nghĩa xã hội đang đứng trước một thời cơ rất thuận lợi. Chủ nghĩa đế quốc không ngừng phản kích, nhưng chúng không thể thay đổi được xu thế phát triển của thời đại.

Sự tiến triển mạnh mẽ của cách mạng nước ta, sự trưởng thành của chế độ và của nhân dân ta, yêu cầu ngày càng cao và tính chất phức tạp của sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc, của cuộc đấu tranh để hoàn thành cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân ở miền Nam, tiến tới thống nhất nước nhà, tác động hằng ngày của cuộc đấu tranh quyết liệt giữa các lực lượng cách mạng và lực lượng phản cách mạng trên thế giới vào nước ta, - đó là những nhân tố khách quan đòi hỏi phải tăng cường sự lãnh đạo của Đảng và nâng cao sức chiến đấu của Đảng.

2. Dưới sự lãnh đạo của Đảng, những thắng lợi của cách mạng Việt Nam trong 45 năm qua, nhất là thắng lợi có tính chất thời đại của Cách mạng Tháng Tám, của cuộc kháng chiến chống Pháp và cuộc kháng chiến chống Mỹ, đã nâng dân tộc ta lên hàng các dân tộc tiên phong trong cuộc đấu tranh vì độc lập, tự do, vì những lý tưởng cao cả nhất của loài người. Những thắng lợi ấy chứng tỏ Đảng ta là một Đảng Mác - Lênin vững mạnh, một Đảng trải qua nhiều thử thách, một đội ngũ kiên cường của phong trào cộng sản quốc tế.

Sức mạnh của Đảng thể hiện trước hết ở chỗ Đảng ta trung thành vô hạn với chủ nghĩa Mác - Lênin, vận dụng đúng đắn chủ nghĩa Mác - Lênin trong điều kiện cụ thể của nước ta, đề ra một cách độc lập và sáng tạo đường lối chính trị về cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân, về cách mạng xã hội chủ nghĩa, về kháng chiến chống Mỹ, cứu nước cũng như về công tác đối ngoại. Đảng ta có phương pháp cách mạng đúng, nhất là trong cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân và trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, nên đã động viên và tổ chức được những lực lượng tiềm tàng vô cùng to lớn của dân tộc, tranh thủ được sự viện trợ quốc tế, tạo thành sức mạnh tổng hợp, thực hiện thắng lợi những nhiệm vụ rất khó khăn. Đảng có mối liên hệ chặt chẽ với quần chúng, nắm được những nguyện vọng và yêu cầu cơ bản của nhân dân, được nhân dân tin tưởng và ủng hộ. Đảng đã xây dựng và củng cố được Nhà nước xã hội chủ nghĩa vững mạnh, công cụ quan trọng nhất để động viên và tổ chức nhân dân thực hiện thắng lợi đường lối của Đảng. Đảng ta có truyền thống đoàn kết và chiến đấu cách mạng kiên cường, có hệ thống tổ chức vững chắc, cơ sở của Đảng được xây dựng khắp nơi; số đông cán bộ, đảng viên tận tuỵ với sự nghiệp cách mạng, không sợ gian khổ, hy sinh, có nhiều kinh nghiệm về cách mạng dân tộc dân chủ và chiến tranh nhân dân, bước đầu có sự hiểu biết và kinh nghiệm về cách mạng xã hội chủ nghĩa. Do có đường lối chính trị độc lập và sáng tạo, có tinh thần quốc tế vô sản chân chính, có thái độ và phương pháp giải quyết đúng đắn các mối quan hệ quốc tế, cho nên Đảng ta, nhân dân ta đã tranh thủ được sự giúp đỡ tích cực của phong trào cộng sản quốc tế và các lực lượng dân chủ, tiến bộ trên thế giới. Đảng ta luôn luôn là người tổ chức mọi thắng lợi của cách mạng Việt Nam.

Càng có thành tích lớn thì Đảng ta càng phải nghiêm khắc với những nhược điểm và khuyết điểm.

Đường lối chung về cách mạng xã hội chủ nghĩa đã được xác định đúng đắn, nhưng có những mặt chưa được cụ thể hoá và chưa thể hiện thành những quy hoạch và kế hoạch chính xác. Công tác lãnh đạo trên các mặt xây dựng phương án kinh tế, kỹ thuật, chính sách kinh tế, tổ chức và quản lý kinh tế, quản lý xã hội, không theo kịp sự phát triển của nhiệm vụ chính trị.

Mối quan hệ giữa Đảng lãnh đạo, nhân dân làm chủ, Nhà nước quản lý chưa được xác định rõ ở từng cấp, từng đơn vị. Nhiều cấp uỷ và tổ chức Đảng còn bao biện và có khi lại buông lỏng lãnh đạo công việc của cơ quan nhà nước, chưa chú trọng tăng cường công tác giáo dục chính trị, tư tưởng, chưa đề ra được nhiệm vụ và mục tiêu phấn đấu chính xác, chưa làm tốt công tác cán bộ, công tác kiểm tra. Lối làm việc còn phân tán, thủ công, tổ chức thực hiện đường lối, chính sách, chỉ thị, nghị quyết chưa nghiêm túc. Tình trạng mỗi bộ phận trong hệ thống chuyên chính vô sản chưa làm tốt chức năng của mình, mối quan hệ giữa các bộ phận ấy chưa chặt chẽ, nhịp nhàng là chỗ yếu trong sự lãnh đạo của Đảng hiện nay.

Tổ chức của Đảng có những mặt chưa hợp lý và thiếu năng động; phương pháp lãnh đạo, phương pháp công tác ít được cải tiến. Số tổ chức cơ sở Đảng thuộc loại yếu kém và trung bình tương đối nhiều; số đảng viên kém chiếm tỷ lệ không nhỏ. Nhiều cán bộ lãnh đạo, cán bộ quản lý còn chưa đủ năng lực đáp ứng yêu cầu ngày càng cao của nhiệm vụ cách mạng.

Nguyên tắc tập trung dân chủ, chế độ lãnh đạo tập thể, tự phê bình và phê bình chưa được chấp hành nghiêm chỉnh. Tình trạng thiếu tinh thần trách nhiệm, kỷ luật lỏng lẻo, mất đoàn kết tương đối phổ biến. Tệ tham ô, quan liêu, độc đoán, chuyên quyền, thiếu trung thực nảy sinh trong hoàn cảnh Đảng lãnh đạo chính quyền đã và đang làm biến chất một số cán bộ, đảng viên.

3. Những chỗ mạnh và chỗ yếu nói trên của Đảng có quan hệ với những đặc điểm của hoàn cảnh ra đời và hoạt động của Đảng. Đảng ta ra đời và lớn lên trong một nước nông nghiệp lạc hậu, vốn là thuộc địa, nửa phong kiến, giai cấp công nhân còn nhỏ bé về số lượng nhưng sớm tiếp thu chủ nghĩa Mác - Lênin, kế thừa được truyền thống chống ngoại xâm rất kiên cường của dân tộc, có bạn đồng minh trung thành là giai cấp nông dân giàu lòng yêu nước. Đảng ta do Hồ Chủ tịch sáng lập và rèn luyện, được ảnh hưởng trực tiếp của Cách mạng Tháng Mười, được nhiều Đảng anh em giúp đỡ. Từ khi ra đời đến nay, Đảng phải dành phần lớn công sức vào việc lãnh đạo đấu tranh vũ trang, chiến tranh cách mạng, chống những đế quốc thực dân mạnh nhất. Từ sau Cách mạng Tháng Tám, Đảng ta đã trở thành một Đảng lãnh đạo chính quyền. Đảng phải lãnh đạo nhân dân ta xây dựng chủ nghĩa xã hội trong điều kiện kinh tế còn mang nặng tính chất và ảnh hưởng của sản xuất nhỏ, phải vượt qua nhiều khó khăn, gian khổ để thực hiện đồng thời hai nhiệm vụ chiến lược cách mạng trong hoàn cảnh quốc tế vừa có nhiều thuận lợi vừa có những diễn biến phức tạp.

Đại hội lần thứ III của Đảng đã quyết định những vấn đề cơ bản về đường lối, chủ trương xây dựng Đảng. Ban Chấp hành Trung ương và Bộ Chính trị đã có nhiều nghị quyết về công tác Đảng. Chấp hành các nghị quyết nói trên, công tác xây dựng Đảng đã đạt được những kết quả quan trọng, góp phần làm cho Đảng vững mạnh, làm tròn những nhiệm vụ cách mạng trong thời gian vừa qua. Nhưng bên cạnh những thành tích đã đạt được, khuyết điểm chính trong công tác xây dựng Đảng là: chưa gắn thật chặt công tác xây dựng Đảng với việc phấn đấu thực hiện nhiệm vụ chính trị, chưa kết hợp chặt chẽ công tác tư tưởng với công tác tổ chức, chưa kết hợp chặt chẽ việc nâng cao chất lượng đảng viên với việc nâng cao chất lượng tổ chức cơ sở của Đảng, chưa áp dụng rộng rãi những kinh nghiệm dựa vào quần chúng để xây dựng Đảng. Việc nâng cao trình độ hiểu biết về chủ nghĩa xã hội, nâng cao năng lực tổ chức và quản lý cho cán bộ, đảng viên tiến hành chậm; còn hẹp hòi, chưa mạnh dạn cất nhắc, sử dụng cán bộ trẻ. Có những biểu hiện lỏng lẻo, hữu khuynh về một số mặt trong công tác tư tưởng và tổ chức; thiếu sót lớn là đã đưa vào Đảng nhiều người không đủ tiêu chuẩn, trên thực tế đã hạ thấp tiêu chuẩn đảng viên; việc giáo dục chính trị, tư tưởng trong Đảng, trong nhân dân thiếu sắc bén, kém tính chiến đấu; công tác kiểm tra chưa được coi trọng đúng mức, không kịp thời tẩy trừ những hiện tượng cán bộ, đảng viên lợi dụng chức quyền làm điều sai trái, vi phạm dân chủ và kỷ luật, chậm phát hiện và thiếu kiên quyết đưa ra khỏi Đảng những phần tử biến chất, thoái hoá. Chính những khuyết điểm nói trên đã ảnh hưởng không tốt đến việc thi hành các nghị quyết của Đảng, đến lòng tin cậy của quần chúng đối với Đảng.

Trong điều kiện Đảng lãnh đạo chính quyền, nhiều cấp uỷ ít chăm lo công tác xây dựng Đảng. Ban Chấp hành Trung ương cũng chưa dành thời giờ thích đáng để bàn về công tác Đảng. Chậm đề ra những chủ trương về xây dựng Đảng thích hợp với tình hình mới; chưa chú trọng tổng kết kinh nghiệm, nghiên cứu lý luận về xây dựng Đảng; thấy chưa hết những đặc điểm của Đảng lãnh đạo chính quyền, lại từ một nền kinh tế nông nghiệp sản xuất nhỏ mà đi lên chủ nghĩa xã hội, chưa chú trọng đúng mức đến việc ngăn ngừa và đấu tranh chống những hiện tượng tiêu cực dễ nảy sinh trong điều kiện mới. Những khuyết điểm của Nhà nước trong công tác quản lý kinh tế, quản lý xã hội cũng có ảnh hưởng trực tiếp đến sai lầm của cán bộ, đảng viên. Nhận thức về Đảng và công tác Đảng của cán bộ, đảng viên, kể cả một số cán bộ làm công tác Đảng, còn nhiều điểm chưa rõ; chủ nghĩa kinh nghiệm trong công tác Đảng còn nặng. Trong thực tiễn xây dựng Đảng, chưa thật thấu suốt tinh thần cách mạng và tính khoa học để kiên quyết đấu tranh xây dựng cái mới tiến bộ, xoá bỏ cái cũ lỗi thời.

4. Trong giai đoạn mới của cách mạng nước ta, Đảng phải lãnh đạo nhân dân cả nước tiếp tục thực hiện hai nhiệm vụ chiến lược theo Nghị quyết Hội nghị lần thứ 21 và Hội nghị lần thứ 22 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng.

Nhiệm vụ chung của miền Bắc trong giai đoạn mới là:

"Đoàn kết toàn dân, đấu tranh giữ vững hoà bình, ra sức tiến hành công nghiệp hoá xã hội chủ nghĩa, đẩy mạnh ba cuộc cách mạng, xây dựng miền Bắc tiến nhanh, tiến mạnh, tiến vững chắc lên chủ nghĩa xã hội; kết hợp chặt chẽ kinh tế với quốc phòng, nâng cao cảnh giác, sẵn sàng đánh bại mọi âm mưu của đế quốc Mỹ và bọn tay sai; ra sức làm tròn nghĩa vụ của mình trong cuộc đấu tranh cách mạng nhằm hoàn thành độc lập, dân chủ ở miền Nam, tiến tới hoà bình thống nhất Tổ quốc; làm tròn nghĩa vụ quốc tế đối với cách mạng Lào và cách mạng Campuchia".

Để Đảng ta tiếp tục làm tròn trách nhiệm trước dân tộc ta và trước phong trào cộng sản quốc tế, phải tăng cường công tác xây dựng Đảng, bảo đảm cho Đảng ta luôn luôn nắm vững và vận dụng sáng tạo những nguyên lý của chủ nghĩa Mác - Lênin trong điều kiện mới của cách mạng nước ta, có đường lối, chính sách đúng, có tư tưởng cách mạng triệt để, có tổ chức vững mạnh, có năng lực lãnh đạo và chỉ đạo thực hiện đầy đủ, xứng đáng là người lãnh đạo, là người đầy tớ thật trung thành của nhân dân.

Đó là nhiệm vụ xây dựng Đảng trong giai đoạn mới để tăng cường và phát huy hơn nữa tính chất Đảng của giai cấp công nhân.

Đảng là đội tiên phong có tổ chức và là tổ chức cao nhất của giai cấp công nhân Việt Nam, giai cấp tiên tiến nhất, tiêu biểu cho sự phát triển của xã hội ta, cho truyền thống tốt đẹp của dân tộc ta. Đảng đại biểu trung thành lợi ích của giai cấp công nhân, đại biểu trung thành lợi ích của nhân dân lao động và của dân tộc Việt Nam, đồng thời là một bộ phận của phong trào cộng sản quốc tế, chịu trách nhiệm trước phong trào cộng sản quốc tế.

Đảng là hạt nhân lãnh đạo của chuyên chính vô sản, có nhiệm vụ thống nhất lãnh đạo mọi mặt hoạt động của Nhà nước và của xã hội, tập trung nỗ lực của toàn dân vào mục tiêu xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc, hoàn thành sự nghiệp cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân ở miền Nam, tiến tới thống nhất nước nhà. 

Đảng lấy chủ nghĩa Mác - Lênin làm nền tảng tư tưởng và kim chỉ nam cho hành động, tổng kết và vận dụng những kinh nghiệm của cách mạng nước ta, tiếp thu những tinh hoa trí tuệ của thời đại để đề ra đường lối, chính sách một cách độc lập và sáng tạo.

Đảng là một tổ chức chặt chẽ được xây dựng theo chế độ tập trung dân chủ, toàn Đảng là một khối thống nhất về tư tưởng và hành động, không dung thứ chia rẽ, bè phái. Đảng có kỷ luật sắt và tự giác, nghiêm chỉnh thực hiện tự phê bình và phê bình để phát huy ưu điểm và thành tích, khắc phục khuyết điểm, sai lầm. Đảng coi việc thường xuyên lựa chọn, kết nạp vào Đảng những người ưu tú nhất và kịp thời đưa ra khỏi Đảng những phần tử biến chất, những người không đủ tiêu chuẩn đảng viên là một quy luật tồn tại và phát triển của Đảng.

Mục đích của Đảng là phục vụ lợi ích của giai cấp công nhân và của nhân dân; cách mạng là sự nghiệp của quần chúng nhân dân do Đảng lãnh đạo. Đảng phải luôn luôn giữ vững mối liên hệ chặt chẽ với quần chúng, chịu sự kiểm tra của quần chúng, kiên quyết đấu tranh để ngăn ngừa và khắc phục bệnh quan liêu, chủ quan, xa rời thực tế, xa rời quần chúng, một trong những nguy cơ lớn nhất đối với Đảng lãnh đạo chính quyền.

Trong công tác xây dựng Đảng, phải nắm vững những phương châm:

- Xây dựng Đảng vững mạnh về chính trị, tư tưởng, tổ chức. Công tác tư tưởng và công tác tổ chức phải kết hợp chặt chẽ với nhau, bảo đảm cho đường lối, nhiệm vụ chính trị được xác định đúng đắn, được thông suốt và thực hiện thắng lợi.

- Xây dựng Đảng, tăng cường sức chiến đấu của Đảng trong phong trào cách mạng của quần chúng phấn đấu thực hiện nhiệm vụ chính trị của Đảng. Vận động quần chúng tham gia xây dựng Đảng, tổ chức để quần chúng góp phần kiểm tra sự hoạt động của Đảng, kiểm tra tư cách cán bộ và đảng viên.

- Việc xây dựng Đảng, tăng cường sức chiến đấu của Đảng phải gắn liền với việc nâng cao năng lực quản lý, kiện toàn tổ chức của Nhà nước và việc xây dựng, củng cố các đoàn thể quần chúng, hình thành sức mạnh tổng hợp của chuyên chính vô sản.

- Việc nâng cao chất lượng đảng viên phải kết hợp với việc nâng cao chất lượng của tổ chức cơ sở Đảng; việc nâng cao chất lượng cán bộ phải kết hợp với việc kiện toàn cơ quan lãnh đạo từng cấp, từng ngành.

- Trong công tác phát triển Đảng phải coi trọng chất lượng, không chạy theo số lượng; phát triển phải đi đôi với củng cố. Một mặt kết nạp vào Đảng những người ưu tú, thật sự đủ tiêu chuẩn đảng viên, mặt khác kịp thời đưa ra khỏi Đảng những người thoái hoá, biến chất. Luôn luôn cảnh giác đề phòng những phần tử địch, những phần tử cơ hội chui vào Đảng.

II
NÂNG CAO NĂNG LỰC LÃNH ĐẠO CỦA ĐẢNG

Là người lãnh đạo chính trị của toàn xã hội, Đảng phải nắm vững quy luật phát triển của cách mạng Việt Nam, vừa cố gắng tìm tòi, nghiên cứu lý luận, không ngừng nâng cao năng lực lãnh đạo về đường lối, chính sách, vừa ra sức cải tiến và nâng cao công tác tư tưởng, công tác tổ chức, đưa năng lực tổ chức thực hiện của toàn Đảng theo kịp yêu cầu của nhiệm vụ chính trị. Đảng phải phát huy đầy đủ sức mạnh tổng hợp của hệ thống chuyên chính vô sản, động viên mạnh mẽ tinh thần làm chủ tập thể xã hội chủ nghĩa và khả năng sáng tạo của giai cấp công nhân, của nhân dân ta.

1. Nâng cao năng lực lãnh đạo về đường lối, chính sách

Tình hình mới và nhiệm vụ mới của cách mạng đòi hỏi Đảng ta phải làm rõ hơn nữa đường lối chung của toàn bộ quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội trên miền Bắc và đấu tranh thực hiện thống nhất nước nhà, đồng thời đề ra nhiệm vụ và bước đi cho từng thời kỳ cụ thể, giải quyết đúng các mối quan hệ giữa hai nhiệm vụ chiến lược, giữa nhiệm vụ lâu dài và những yêu cầu trước mắt, giữa kinh tế và quốc phòng, giữa các nhiệm vụ đối nội và đối ngoại, v.v.. Đường lối chính trị của Đảng phải được cụ thể hoá thành những chính sách về xây dựng và quản lý kinh tế, quản lý xã hội, thành những phương hướng, mục tiêu, kế hoạch của từng ngành, từng địa phương, thành những chủ trương, biện pháp cụ thể để chỉ đạo hoạt động thực tiễn hằng ngày của các tổ chức Đảng, Nhà nước và các đoàn thể quần chúng.

Nâng cao chất lượng của việc nghiên cứu và quyết định đường lối, chính sách, nhiệm vụ, chủ trương, bảo đảm cho đường lối, chủ trương của Đảng luôn luôn chính xác, thể hiện tinh thần cách mạng tiến và nâng cao công tác tư tưởng, công tác tổ chức, đưa năng lực tổ chức thực hiện của toàn Đảng theo kịp yêu cầu của nhiệm vụ chính trị. Đảng phải phát huy đầy đủ sức mạnh tổng hợp của hệ thống chuyên chính vô sản, động viên mạnh mẽ tinh thần làm chủ tập thể xã hội chủ nghĩa và khả năng sáng tạo của giai cấp công nhân, của nhân dân ta.

1. Nâng cao năng lực lãnh đạo về đường lối, chính sách

Tình hình mới và nhiệm vụ mới của cách mạng đòi hỏi Đảng ta phải làm rõ hơn nữa đường lối chung của toàn bộ quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội trên miền Bắc và đấu tranh thực hiện thống nhất nước nhà, đồng thời đề ra nhiệm vụ và bước đi cho từng thời kỳ cụ thể, giải quyết đúng các mối quan hệ giữa hai nhiệm vụ chiến lược, giữa nhiệm vụ lâu dài và những yêu cầu trước mắt, giữa kinh tế và quốc phòng, giữa các nhiệm vụ đối nội và đối ngoại, v.v.. Đường lối chính trị của Đảng phải được cụ thể hoá thành những chính sách về xây dựng và quản lý kinh tế, quản lý xã hội, thành những phương hướng, mục tiêu, kế hoạch của từng ngành, từng địa phương, thành những chủ trương, biện pháp cụ thể để chỉ đạo hoạt động thực tiễn hằng ngày của các tổ chức Đảng, Nhà nước và các đoàn thể quần chúng.

Nâng cao chất lượng của việc nghiên cứu và quyết định đường lối, chính sách, nhiệm vụ, chủ trương, bảo đảm cho đường lối, chủ trương của Đảng luôn luôn chính xác, thể hiện tinh thần cách mạng và tính khoa học, giải đáp đúng và kịp thời những đòi hỏi ngày càng cao của nhiệm vụ mới.

Chấn chỉnh hệ thống thông tin của Đảng từ trung ương đến cơ sở để nắm tình hình thực tế trong nước, tình hình quốc tế một cách nhạy bén, đầy đủ và chính xác và làm cho đường lối, chính sách, chủ trương của Đảng thông suốt nhanh chóng trong toàn Đảng. Quy định nghiêm ngặt chế độ trách nhiệm ở từng ngành, từng cấp về báo cáo, xin chỉ thị, điều tra nghiên cứu tình hình thực tế; kiện toàn tổ chức và nâng cao chất lượng công tác của các cơ quan làm nhiệm vụ thu thập, phân tích, tổng hợp tình hình, bảo đảm cho các cơ quan lãnh đạo của Đảng và Nhà nước phát hiện được đúng và kịp thời những vấn đề cần giải quyết.

Quy định những chế độ chặt chẽ để thực hiện đúng nguyên tắc tập trung dân chủ, bảo đảm sự lãnh đạo tập thể và phát huy dân chủ nội bộ trong việc nghiên cứu và quyết định chủ trương, chính sách, bảo đảm kỷ luật nghiêm minh, phát huy trách nhiệm tập thể và cá nhân ở từng cấp, từng ngành trong việc chấp hành chủ trương, chính sách. Trước khi quyết định một vấn đề quan trọng về đường lối, chính sách, chủ trương, cấp ủy Đảng phải sử dụng đầy đủ các cơ quan chuyên môn của Đảng và Nhà nước trong việc chuẩn bị các đề án, thu thập và nghiên cứu ý kiến của đông đảo cán bộ, đảng viên, kể cả những chuyên gia ngoài Đảng; khi cần thiết, phải tổ chức thu thập ý kiến của quần chúng rộng rãi. Nâng cao chất lượng các cuộc hội nghị của cơ quan lãnh đạo ở các cấp, các ngành, bảo đảm sự chuẩn bị chu đáo, thảo luận kỹ với tinh thần dân chủ và thái độ khoa học, có những kết luận rõ ràng, dứt khoát, có sự phân công rành mạch để tổ chức thực hiện những công tác quan trọng đã được quyết định.

Củng cố tổ chức, cải tiến việc sử dụng các ban chuyên môn của Đảng, các cơ quan nghiên cứu của Nhà nước, chỉ đạo chặt chẽ về nội dung và phương pháp nghiên cứu, tạo điều kiện cho các cơ quan đó nâng cao trình độ khoa học trong công tác nghiên cứu, làm tốt chức năng tham mưu cho Đảng và Chính phủ. Tổ chức tốt việc đào tạo, bồi dưỡng và sử dụng các cán bộ nghiên cứu về khoa học xã hội cũng như về khoa học tự nhiên. Đối với những vấn đề mới và quan trọng, cấp uỷ Đảng phải trực tiếp chỉ đạo việc làm thử để rút kinh nghiệm trước khi quyết định thành chủ trương chung.

Nhanh chóng nâng cao trình độ lý luận Mác - Lênin, kiến thức về kinh tế, về tổ chức, quản lý và về khoa học, kỹ thuật cho đội ngũ cán bộ, đảng viên, trước hết là cán bộ lãnh đạo cao cấp và trung cấp, để cán bộ có khả năng tham gia xây dựng đường lối, chính sách và có cơ sở khoa học để hiểu sâu và thực hiện tốt đường lối, chính sách của Đảng. Tăng cường công tác nghiên cứu lý luận và tổng kết kinh nghiệm thực hiện đường lối, chính sách, chủ trương, công tác của Đảng và Nhà nước trong tất cả các lĩnh vực. Nghiêm khắc phê phán bệnh chủ quan, chủ nghĩa kinh nghiệm, thái độ coi thường lý luận, lối làm việc sự vụ, xa rời thực tế.

2. Cải tiến và tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước

Nhiệm vụ của Đảng khi chưa giành được chính quyền là giác ngộ, tổ chức quần chúng đấu tranh lật đổ ách thống trị của các giai cấp bóc lột để giành lấy chính quyền. Khi đã có chính quyền thì nhiệm vụ của Đảng là xây dựng và giữ vững chính quyền, triệt để sử dụng và phát huy sức mạnh của chính quyền để trấn áp sự chống đối của các thế lực thù địch, bảo vệ đất nước chống ngoại xâm, ra sức cải tạo xã hội cũ, xây dựng xã hội mới xã hội chủ nghĩa.

Đảng là hạt nhân lãnh đạo của toàn bộ hệ thống chuyên chính vô sản. Nhà nước xã hội chủ nghĩa là công cụ sắc bén nhất để thực hiện đường lối, chính sách của Đảng; thể hiện sự lãnh đạo của Đảng và quyền làm chủ tập thể của nhân dân. Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước là nhân tố quyết định hiệu quả quản lý của Nhà nước. Mặt khác, Nhà nước vững mạnh, hoạt động có hiệu lực cũng là điều kiện quyết định để bảo đảm hoàn thành nhiệm vụ chính trị do Đảng đề ra, để tăng cường vai trò lãnh đạo của Đảng đối với toàn xã hội.

Đảng lãnh đạo Nhà nước một cách toàn diện: quyết định các kế hoạch, các chủ trương, chính sách và biện pháp chủ yếu; quyết định những vấn đề quan trọng về tổ chức bộ máy và bố trí cán bộ, đưa những cán bộ Đảng có phẩm chất và năng lực làm nòng cốt ở các cơ quan nhà nước; kiểm tra sự hoạt động về mọi mặt của bộ máy nhà nước; giáo dục quần chúng hăng hái tham gia xây dựng chính quyền, chấp hành pháp luật, thực hiện kế hoạch nhà nước. Đảng bắt buộc các tổ chức Đảng và cán bộ, đảng viên tôn trọng quyền hạn, trách nhiệm, nguyên tắc, chế độ làm việc của cơ quan nhà nước, nghiêm chỉnh và gương mẫu chấp hành pháp luật và các quyết định, chỉ thị của Nhà nước, coi đó là kỷ luật của Đảng.

Trong công tác cụ thể ở các ngành, các cấp, phải khắc phục tình trạng lẫn lộn chức năng của Đảng và chức năng của Nhà nước, tổ chức Đảng bao biện công tác của cơ quan nhà nước, làm giảm quyền lực và hiệu lực của bộ máy nhà nước, thực tế là hạ thấp vai trò lãnh đạo của Đảng. Đồng thời cũng chống khuynh hướng coi nhẹ trách nhiệm lãnh đạo của tổ chức Đảng đối với cơ quan nhà nước, chống quan niệm phân công máy móc, tách rời hoạt động của tổ chức Đảng với hoạt động của cơ quan nhà nước. 

Phải tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa. Từng bước hoàn chỉnh hệ thống pháp luật, coi trọng xây dựng pháp luật về kinh tế, bổ sung các quy định về tổ chức bộ máy nhà nước và chế độ hoạt động của cơ quan nhà nước ở các ngành, các cấp cho phù hợp với yêu cầu quản lý kinh tế, quản lý xã hội trong giai đoạn mới. Cải tiến công tác và phát huy quyền lực của Quốc hội, Hội đồng Chính phủ, Hội đồng nhân dân và Uỷ ban hành chính các cấp. Tăng cường tổ chức và hoạt động của các cơ quan làm nhiệm vụ thi hành pháp luật, giữ gìn trật tự an ninh.

Đi đôi với các hoạt động tuyên truyền, giáo dục, Nhà nước phải kiểm tra nghiêm ngặt việc thi hành pháp luật, đề cao kỷ luật nhà nước, cưỡng bức những người không thi hành nghĩa vụ công dân, trừng phạt những kẻ phạm pháp. Trong các cơ quan nhà nước, phải kiên quyết tẩy trừ những hiện tượng cán bộ, nhân viên lạm dụng chức quyền, xâm phạm tài sản của Nhà nước và của tập thể, vi phạm quyền dân chủ xã hội chủ nghĩa của nhân dân, kiên quyết chống bệnh quan liêu, độc đoán, chuyên quyền, nghiêm khắc thi hành kỷ luật những trường hợp vi phạm kỷ luật lao động, không chấp hành quyết định của tổ chức. Đó cũng là một biện pháp cấp thiết để củng cố tổ chức Đảng, nâng cao chất lượng cán bộ và đảng viên.

Chấn chỉnh tổ chức và hoạt động của cơ quan nhà nước ở các ngành, các cấp, định rõ chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn, chế độ làm việc của mỗi tổ chức, mỗi cơ quan để trên cơ sở ấy tinh giản bộ máy, bố trí cán bộ cho hợp lý, giảm nhẹ biên chế, nâng cao chất lượng và hiệu suất công tác của cán bộ, nhân viên, khắc phục tình trạng bộ máy đông người mà hiệu quả công tác thấp. Xây dựng chế độ trách nhiệm rõ ràng cho các chức vụ ở từng cấp, gắn liền với các chế độ quản lý và kiểm tra chặt chẽ việc thi hành các chế độ đó.

3. Đẩy mạnh công tác vận động quần chúng, thắt chặt hơn nữa mối liên hệ giữa Đảng và quần chúng

Kiện toàn Nhà nước xã hội chủ nghĩa là một trong những biện pháp cơ bản để củng cố mối liên hệ giữa Đảng và quần chúng. Cơ quan nhà nước làm tốt chức năng quản lý kinh tế, quản lý xã hội, tôn trọng quyền dân chủ xã hội chủ nghĩa và các quyền lợi chính đáng của nhân dân, thu hút được đông đảo nhân dân tham gia công việc nhà nước, phục vụ đắc lực lợi ích của nhân dân, là điều kiện bảo đảm quyền làm chủ tập thể của nhân dân và nâng cao lòng tin của quần chúng đối với Đảng, đối với Nhà nước.

Các đoàn thể quần chúng giữ một vị trí quan trọng trong hệ thống chuyên chính vô sản, có nhiệm vụ giáo dục, động viên, tổ chức quần chúng thực hiện những nhiệm vụ chính trị do Đảng đề ra, làm chỗ dựa cho Nhà nước xã hội chủ nghĩa. Các cơ quan nhà nước không được xem nhẹ các đoàn thể quần chúng, phải quan hệ chặt chẽ và giúp cho các đoàn thể làm việc có hiệu quả vì lợi ích chung. Trong điều kiện Đảng lãnh đạo chính quyền, càng phải tăng cường công tác vận động quần chúng, chú trọng nâng cao vai trò và tác dụng của các đoàn thể, hết sức đề phòng và khắc phục mọi biểu hiện của bệnh quan liêu, mệnh lệnh, xa rời quần chúng.

Các cấp uỷ Đảng từ trung ương đến cơ sở phải có những biện pháp tích cực củng cố Công đoàn, Đoàn Thanh niên Lao động Hồ Chí Minh, Hội Liên hiệp Phụ nữ và các đoàn thể khác trong Mặt trận Tổ quốc Việt Nam. Định rõ nhiệm vụ cụ thể của từng đoàn thể trong giai đoạn mới, xác định mối quan hệ giữa các đoàn thể với nhau và với Nhà nước, tạo điều kiện cho các đoàn thể làm tốt việc động viên, thúc đẩy phong trào thi đua lao động sản xuất, thực hành tiết kiệm, thi đua quyết thắng, tham gia tích cực vào việc quản lý kinh tế, quản lý nhà nước.

Các đoàn thể cần tăng cường công tác nghiên cứu và tổng kết kinh nghiệm vận động quần chúng trong thời kỳ xây dựng chủ nghĩa xã hội; tăng cường tổ chức, đổi mới đội ngũ cán bộ, cải tiến các hình thức, phương pháp hoạt động để đáp ứng yêu cầu của nhiệm vụ chính trị trong giai đoạn mới và phù hợp với trình độ chính trị, văn hoá ngày càng cao của nhân dân; kiên quyết chống lối làm việc hình thức và bàn giấy.

Sự nghiệp công nghiệp hoá xã hội chủ nghĩa và đấu tranh thống nhất nước nhà đòi hỏi trách nhiệm cao và năng lực sáng tạo của giai cấp công nhân. Phải chăm lo xây dựng, rèn luyện lực lượng giai cấp công nhân kiên cường cách mạng, có trình độ văn hoá, kỹ thuật ngày càng cao, xứng đáng với vai trò giai cấp tiên phong. Công đoàn phải là tổ chức có hiệu lực của giai cấp công nhân, phát huy tác dụng mạnh mẽ trong việc tăng cường quản lý kinh tế, xây dựng xã hội mới, đấu tranh chống mọi biểu hiện tiêu cực trong công nhân, viên chức, thực sự là trường học của chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa cộng sản.

Liên minh công nhân và nông dân tập thể, cơ sở vững chắc của chuyên chính vô sản, phải không ngừng được củng cố thông qua các chính sách kinh tế, các hoạt động công nghiệp phục vụ nông nghiệp, thi hành nghiêm chỉnh Điều lệ hợp tác xã sản xuất nông nghiệp bậc cao, tăng cường công tác chính trị, tư tưởng, đưa nông dân tập thể từng bước tiến lên sản xuất lớn xã hội chủ nghĩa, xây dựng nông thôn xã hội chủ nghĩa.

Tầng lớp trí thức xã hội chủ nghĩa có vai trò và trách nhiệm lớn trong công cuộc xây dựng kinh tế, củng cố quốc phòng, phát triển khoa học và kỹ thuật. Phải tạo điều kiện giúp anh chị em trí thức cống hiến ngày càng nhiều cho Tổ quốc và không ngừng nâng cao trình độ chính trị, trình độ chuyên môn.

Coi trọng lãnh đạo và cải tiến công tác vận động thanh niên. Phát huy những truyền thống tốt đẹp của thanh niên nước ta, khắc phục những biểu hiện không lành mạnh trong một số thanh niên, thiếu niên về thái độ lao động và học tập, về thái độ đối với của công, về ý thức kỷ luật, về nếp sống. Xây dựng Đoàn Thanh niên Lao động Hồ Chí Minh vững mạnh, chặt chẽ, thật sự là cánh tay đắc lực và đội hậu bị của Đảng; đồng thời phải có những hình thức tổ chức rộng rãi để thu hút, giáo dục đông đảo thanh niên ngoài Đoàn. Phải chăm lo xây dựng thế hệ trẻ xứng đáng với dân tộc ta và Đảng ta, xứng đáng với trách nhiệm vẻ vang của lớp người đấu tranh kiên cường cho độc lập tự do, thống nhất Tổ quốc, cho chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa cộng sản.

Phải làm tốt công tác vận động phụ nữ, chú trọng giáo dục và xây dựng người phụ nữ mới trong xã hội mới, gắn chặt sự nghiệp giải phóng phụ nữ với sự nghiệp xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội và đấu tranh thống nhất nước nhà.

Phải tăng cường và phát huy đúng mức công tác mặt trận trong việc thực hiện nhiệm vụ đoàn kết các tầng lớp nhân dân, đoàn kết các dân tộc, các tôn giáo, trong công tác tăng cường quản lý xã hội ở thành thị và trong việc xây dựng nếp sống mới, bài trừ hủ tục, dị đoan.

Các ngành có trách nhiệm tích cực giúp đỡ và hướng dẫn miền núi phát triển kinh tế, văn hoá, củng cố mọi mặt theo Nghị quyết Hội nghị lần thứ 19 và Hội nghị lần thứ 22 của Trung ương. Các đảng bộ ở miền núi phải tích cực lãnh đạo phát triển sản xuất, xây dựng, củng cố hợp tác xã nông nghiệp, hợp tác xã nông lâm nghiệp, đào tạo cán bộ người dân tộc, xây dựng cơ sở Đảng, giáo dục, lãnh đạo nhân dân và cán bộ đoàn kết, hăng hái tiến lên trên con đường xã hội chủ nghĩa, xây dựng cuộc sống mới, làm tốt các nghĩa vụ đối với Tổ quốc.

Các cấp uỷ Đảng phải thường xuyên giáo dục và kiểm tra chặt chẽ hoạt động hằng ngày của mỗi cán bộ, đảng viên trong quần chúng ở cơ sở. Huấn luyện cho cán bộ, đảng viên biết cách làm công tác tuyên truyền, giáo dục, vận động quần chúng. Mỗi đảng viên có nhiệm vụ giải thích, thuyết phục cho quần chúng hiểu rõ và làm đúng đường lối, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước và lấy hành động gương mẫu của mình mà cảm hoá, động viên quần chúng. Kiên quyết chống mọi biểu hiện đặc quyền đặc lợi, quan liêu hách dịch, độc đoán chuyên quyền, coi thường ý kiến quần chúng, thái độ hẹp hòi đối với người ngoài Đảng, đồng thời chống thái độ theo đuôi quần chúng.

III 
TĂNG CƯỜNG CÔNG TÁC XÂY DỰNG ĐẢNG VỀ TƯ TƯỞNG VÀ TỔ CHỨC

1. Công tác tư tưởng

Nhiệm vụ chủ yếu của công tác tư tưởng là làm cho cán bộ, đảng viên hiểu sâu sắc đường lối, chính sách của Đảng, nắm vững các nghị quyết và quan điểm của Đảng, có nhận thức đúng về tình hình và nhiệm vụ, đánh giá đúng thành tích và khuyết điểm, thuận lợi và khó khăn, khắc phục những quan điểm trái với đường lối của Đảng, những biểu hiện dao động, thiếu trách nhiệm; đập tan những thủ đoạn xâm nhập về tư tưởng và những luận điệu chiến tranh tâm lý của địch, những luận điệu của những phần tử xấu.

Để đưa công tác giáo dục đường lối, chính sách đi vào nền nếp, cần cải tiến, nâng cao chất lượng sinh hoạt chính trị của các tổ chức đảng; định kỳ tổ chức thông báo các vấn đề về thời sự, chính sách; định kỳ tổ chức các đợt học ngắn ngày để bồi dưỡng một cách cơ bản các vấn đề về đường lối, chính sách cho cán bộ lãnh đạo các cấp. Xây dựng hệ thống báo cáo viên về đường lối, chính sách của Đảng.

Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với các ngành văn học nghệ thuật, giáo dục, báo chí, xuất bản, bảo đảm cho các cơ quan ấy luôn luôn là công cụ sắc bén của Đảng trên mặt trận tư tưởng; kiên quyết đấu tranh chống những khuynh hướng tư tưởng sai lầm.

Phương hướng công tác tư tưởng trong Đảng là: bồi dưỡng tư tưởng cách mạng của giai cấp công nhân, nâng cao giác ngộ lý tưởng cộng sản chủ nghĩa, quyết tâm chiến đấu cho sự toàn thắng của chủ nghĩa Mác - Lênin và đường lối, chính sách của Đảng, chống tư tưởng tiểu tư sản và ảnh hưởng của tư tưởng tư sản, xoá bỏ tàn tích của tư tưởng phong kiến, ngăn ngừa và tẩy trừ những ảnh hưởng của các loại chủ nghĩa cơ hội.

Trong tình hình hiện nay, phải ra sức bồi dưỡng phẩm chất, đạo đức cách mạng cho cán bộ, đảng viên theo hướng sau đây:

- Nâng cao ý chí cách mạng, tự lực tự cường, tinh thần trách nhiệm, ý thức tổ chức, kỷ luật; chống thái độ thụ động, ỷ lại, sợ khó, sợ trách nhiệm, chấp hành không nghiêm nghị quyết của Đảng và pháp luật của Nhà nước.

- Nâng cao tinh thần tập thể xã hội chủ nghĩa, quý trọng và bảo vệ của công; ngăn ngừa và tẩy trừ đầu óc đặc quyền đặc lợi, chống mọi hành động xâm phạm tài sản của Nhà nước và của tập thể.

- Nâng cao ý thức tôn trọng và phát huy quyền làm chủ tập thể của quần chúng, luôn luôn gần gũi quần chúng; chống quan liêu, độc đoán, chuyên quyền.

- Nâng cao lòng trung thực, ý thức bảo vệ chân lý, ủng hộ những thái độ và hành động tích cực; chống dối trá, báo cáo sai sự thật, thấy đúng không bảo vệ, thấy sai không đấu tranh, luồn cúi, nịnh hót, chống thái độ trả thù những người đấu tranh thẳng thắn.

- Nâng cao ý thức bảo vệ sự đoàn kết, thống nhất trong Đảng, tình thương yêu đồng chí, tinh thần tự phê bình và phê bình; chống chia rẽ bè phái, đầu óc cục bộ địa phương, kèn cựa địa vị, nể nang xuê xoa hoặc đấu tranh vô nguyên tắc.

- Nâng cao tinh thần ham học, ra sức trau dồi những kiến thức mới; chống thói lười học tập, lười suy nghĩ.

Tăng cường công tác giáo dục lý luận chủ nghĩa Mác - Lênin, nâng cao trình độ văn hoá, chuyên môn, kỹ thuật, năng lực tổ chức và quản lý của cán bộ, đảng viên.

Từ nay đến năm 1980:

Đại bộ phận cán bộ lãnh đạo, cán bộ quản lý cao cấp và 2. Tổ chức cơ sở Đảng

Sức chiến đấu của Đảng thể hiện ở hiệu quả hoạt động của tổ chức cơ sở. Chăm lo xây dựng, kiện toàn tổ chức cơ sở Đảng là một nhiệm vụ thường xuyên và quan trọng hàng đầu của các cấp uỷ Đảng.

Một yêu cầu rất quan trọng của việc cải tiến và nâng cao chất lượng lãnh đạo của tổ chức cơ sở Đảng là: nắm vững đường lối, chính sách của Đảng, điều tra nghiên cứu tình hình, tập trung trí tuệ của cán bộ, đảng viên, của các tổ chức chuyên môn, thu thập ý kiến và kinh nghiệm của quần chúng, để vạch ra những nhiệm vụ, phương hướng, mục tiêu phấn đấu chính xác, bảo đảm chấp hành nghiêm chỉnh đường lối, chính sách của Đảng.

Các tổ chức cơ sở Đảng phải cải tiến phương pháp lãnh đạo, xây dựng mối quan hệ đúng với cơ quan chính quyền và các đoàn thể quần chúng; làm tốt công tác tuyên truyền, giáo dục và nắm vững công tác kiểm tra của Đảng. Phải tăng cường công tác quần chúng, vừa đem đường lối, chính sách của Đảng tuyên truyền, thuyết phục, hướng dẫn hành động của quần chúng, vừa đi sâu tìm hiểu, phản ánh chính xác ý kiến, nguyện vọng, kinh nghiệm của quần chúng với cấp trên. Phải làm tốt việc lựa chọn đảng viên mới, chăm lo giáo dục, rèn luyện đảng viên, phân công cho từng đảng viên một cách hợp lý nhất và thường xuyên kiểm tra công tác của đảng viên. Mỗi đảng viên ngoài công tác chuyên môn, phải làm công tác quần chúng, công tác xã hội do chi bộ phân công (trừ một số ít già yếu, ốm đau).

Các cấp uỷ Đảng phải soát lại đội ngũ cốt cán lãnh đạo của cơ sở, kịp thời thay đổi những cán bộ kém, có kế hoạch lựa chọn, bồi dưỡng bí thư Đảng uỷ, bí thư chi bộ. Ở các cơ quan hành chính sự nghiệp, đơn vị sản xuất, kinh doanh, thủ trưởng không kiêm nhiệm bí thư Đảng uỷ.

Phải đặc biệt quan tâm kiện toàn chi bộ. Trung ương giao cho Ban Bí thư quyền giải tán những chi bộ liên tục làm ngược lại đường lối, chính sách, kéo bè cánh, đầu cơ trục lợi.

Quy định rõ hơn trách nhiệm của các ban, Đảng đoàn, thủ trưởng ngành dọc cấp trên trong việc phối hợp với cấp uỷ địa phương để giúp đỡ củng cố và cải tiến hoạt động của tổ chức Đảng ở các cơ sở kinh tế quốc doanh.

Các xí nghiệp quốc doanh chịu sự chỉ đạo của cơ quan quản lý cấp trên về nhiệm vụ sản xuất và kinh doanh; trong xí nghiệp thi hành chế độ thủ trưởng, giám đốc xí nghiệp do cơ quan đảng và nhà nước cấp trên cử ra, chịu trách nhiệm trước Đảng và Nhà nước về hoạt động của xí nghiệp. Sự lãnh đạo của tổ chức Đảng trong xí nghiệp phải nhằm bảo đảm thấu suốt đường lối, chính sách của Đảng trong mọi hoạt động của xí nghiệp, phát huy quyền lực và năng lực quản lý của giám đốc, thực hiện đúng đắn chế độ công nhân tham gia quản lý; giáo dục và động viên đảng viên, công nhân, viên chức chấp hành đúng các chỉ thị, nghị quyết của Đảng và Nhà nước, hoàn thành tốt kế hoạch nhà nước và các nhiệm vụ của xí nghiệp.

Đối với những vấn đề thuộc quyền quyết định của xí nghiệp, giám đốc sử dụng bộ máy chuyên môn nghiên cứu, chuẩn bị đề án để Đảng uỷ thảo luận và ra nghị quyết về những chủ trương và biện pháp chính. Nghị quyết của Đảng uỷ phải phù hợp với chỉ thị của cơ quan quản lý cấp trên. Nếu giám đốc thấy nghị quyết của Đảng uỷ không phù hợp với chỉ thị cấp trên hoặc tình hình xí nghiệp thì báo cáo lại với Đảng uỷ, đề nghị hoãn thi hành và cùng nhau xin ý kiến cấp trên.

Đối với các vấn đề cụ thể thuộc phạm vi chỉ huy sản xuất, kinh doanh và quản lý công việc hằng ngày, thì tổ chức Đảng không quyết định; đó là trách nhiệm và quyền hạn của thủ trưởng. Mọi cán bộ, đảng viên trong xí nghiệp phải chấp hành mệnh lệnh của giám đốc.

Đảng uỷ dựa vào cán bộ, đảng viên và các tổ chức quần chúng để kiểm tra hoạt động của giám đốc và bộ máy quản lý xí nghiệp, bảo đảm cho đường lối, chính sách của Đảng và kế hoạch nhà nước được chấp hành nghiêm chỉnh. Đảng uỷ lãnh đạo chặt chẽ công tác giáo dục chính trị, tư tưởng và làm nhiệm vụ quản lý cán bộ theo quy định của Trung ương về phân cấp quản lý cán bộ.

Trong các hợp tác xã, tổ chức Đảng là người đại diện lập trường của giai cấp công nhân, phải nắm vững đường lối, quan điểm của Đảng và phát huy quyền làm chủ tập thể của xã viên, lãnh đạo đại hội xã viên quyết định phương hướng, nhiệm vụ sản xuất và lãnh đạo tốt công tác quản lý hợp tác xã, kết hợp đúng đắn lợi ích chung của Nhà nước với lợi ích của tập thể và lợi ích của xã viên. Trước mắt, thông qua việc tổ chức lại sản xuất, cải tiến quản lý hợp tác xã nông nghiệp, thi hành Điều lệ hợp tác xã và họp đại hội xã viên các cấp mà củng cố các tổ chức Đảng ở nông thôn; thông qua việc thi hành Nghị quyết 228 của Bộ Chính trị mà tăng cường quản lý, củng cố hợp tác xã và củng cố cơ sở Đảng trong khu vực tiểu công nghiệp và thủ công nghiệp.

Các tổ chức cơ sở Đảng ở cơ quan không quyết định nhiệm vụ công tác của cơ quan, nhưng có trách nhiệm góp ý kiến về việc xây dựng kế hoạch công tác hằng năm và thực hiện các chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước trong cơ quan, tích cực đấu tranh chống chủ nghĩa quan liêu, làm tốt công tác chính trị, tư tưởng đối với đảng viên và quần chúng. Đảng uỷ cơ quan có trách nhiệm tham gia việc lựa chọn, đề bạt cán bộ trong cơ quan.

Ban Bí thư tiếp tục nghiên cứu để quy định rõ thêm chức năng, nhiệm vụ, phương pháp lãnh đạo của các tổ chức cơ sở Đảng trong các lực lượng vũ trang, trong trường học, bệnh viện, đường phố, v.v..

3. Công tác đảng viên

Người vào Đảng phải tự nguyện chấp hành 10 nhiệm vụ đảng viên, phải xứng đáng là chiến sĩ tiên phong cách mạng của giai cấp công nhân, tức là:

- Giác ngộ lý tưởng cộng sản chủ nghĩa, tuyệt đối trung thành với cách mạng, tự nguyện suốt đời phấn đấu vì độc lập, tự do của Tổ quốc, vì chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa cộng sản, quyết tâm thực hiện thắng lợi đường lối, chính sách và các nghị quyết của Đảng.

- Có trình độ hiểu biết nhất định về lý luận chủ nghĩa Mác - Lênin, nắm được đường lối, chính sách của Đảng. Có năng lực hoàn thành nhiệm vụ được giao và góp phần vào công tác lãnh đạo của tổ chức cơ sở Đảng.

- Gắn bó với quần chúng, tôn trọng và phát huy quyền làm chủ tập thể của quần chúng. Biết làm công tác tuyên truyền, vận động, tổ chức quần chúng.

- Có ý thức tổ chức và kỷ luật, ham học hỏi. Có tinh thần tự phê bình và phê bình, bảo vệ sự đoàn kết, thống nhất của Đảng. Chăm lo rèn luyện, giữ gìn phẩm chất cách mạng.

- Gương mẫu trong sản xuất, chiến đấu, công tác, gương mẫu chấp hành pháp luật và kỷ luật nhà nước.

Đảng viên phải vì lý tưởng cách mạng mà gương mẫu, đi đầu trong sản xuất, chiến đấu và công tác, đồng thời phải có hiểu biết, có năng lực nhất định, có tác dụng lãnh đạo quần chúng.

Đảng viên tuyệt đối không được có đặc quyền đặc lợi. Vào Đảng là để làm cách mạng, khi cần thì sẵn sàng hy sinh cho cách mạng. Nếu kết nạp vào Đảng những người có động cơ không đúng, không có đủ phẩm chất cách mạng, ngại gian khổ hy sinh, không chịu nổi kỷ luật hoặc không làm được nhiệm vụ Đảng giao thì chỉ làm yếu sức chiến đấu của Đảng.

Trong việc xây dựng tổ chức Đảng, cần đạt đến một số lượng đảng viên thích đáng phù hợp với nhiệm vụ lãnh đạo của Đảng, nhưng phải lấy chất lượng làm chính, phải tuân theo những quy định chặt chẽ về tiêu chuẩn đảng viên, chống thiên hướng chạy theo số lượng.

Để nâng cao chất lượng đảng viên, phải rèn luyện đảng viên qua thực tế đấu tranh thực hiện nhiệm vụ chính trị, gắn liền với việc kiện toàn tổ chức, cải tiến sinh hoạt chi bộ, nâng cao chất lượng tự phê bình và phê bình, xây dựng và thực hiện chế độ quần chúng kiểm tra, phê bình đảng viên, ra sức nâng cao trình độ kiến thức và năng lực hoạt động thực tiễn của đảng viên.

Cần có những biện pháp thiết thực để mau chóng đưa số đông đảng viên "trung bình" trở thành đảng viên tích cực.

Những đảng viên già yếu, ốm đau lâu ngày thì không phải nhận công tác như các đảng viên khác nhưng phải giữ gìn phẩm chất đảng viên.

Phải kiên quyết đưa ra khỏi Đảng những người không đủ tư cách đảng viên.

Trước hết, khai trừ ra khỏi Đảng những người cố tình không thi hành nghị quyết, những người hoạt động bè phái, những người thoái hoá, biến chất như ăn cắp, ăn hối lộ, ức hiếp quần chúng, đàn áp những người đấu tranh bảo vệ đường lối, chính sách của Đảng.

Đối với những đảng viên có vấn đề lịch sử chính trị phức tạp, cần thẩm tra đầy đủ, kết luận rõ ràng để có thái độ giải quyết dứt khoát.

Đối với những đảng viên trình độ giác ngộ chính trị quá thấp thì giáo dục, giúp đỡ, sau một thời gian nếu không tiến bộ thì đưa ra khỏi Đảng.

Các cấp uỷ Đảng, Uỷ ban Kiểm tra các cấp phải kiểm tra chặt chẽ, không để lọt lại trong Đảng những phần tử xấu, thoái hoá, biến chất và cũng không để đảng viên tốt bị xử trí oan.

Thi hành kỷ luật một cách kiên quyết và kịp thời đối với những cán bộ, đảng viên lợi dụng chức vụ, quyền hành, tham ô, ăn của đút hoặc quan liêu, độc đoán, đồi truỵ, gây ảnh hưởng xấu trong quần chúng.

Nâng cao chất lượng công tác kết nạp đảng viên mới, bảo đảm người vào Đảng có đủ tiêu chuẩn, ngăn ngừa các phần tử cơ hội chui vào Đảng. Phải xem xét đầy đủ từng người một và làm đúng các thủ tục đã quy định.

Ở miền Bắc, phải lựa chọn kết nạp đảng viên mới trước hết từ những người ưu tú trong giai cấp công nhân, nhất là công nhân công nghiệp, công nhân kỹ thuật, công nhân nhiều đời. Đồng thời, lựa chọn đảng viên mới từ những người ưu tú trong nông dân tập thể xuất thân nông dân lao động, từ những cán bộ, chiến sĩ ưu tú trong các lực lượng vũ trang nhân dân, những người ưu tú trong trí thức xã hội chủ nghĩa.

Ở những nơi cơ sở Đảng yếu kém, nội bộ mất đoàn kết, không có phong trào quần chúng thì phải chấn chỉnh tổ chức cơ sở Đảng rồi mới kết nạp đảng viên mới.

Đối với học sinh đại học và trung học chuyên nghiệp, nếu trước khi đi học đã là bộ đội, cán bộ, công nhân, viên chức nhà nước, thanh niên xung phong, xã viên hợp tác xã thì xem xét để kết nạp vào Đảng khi thật đủ tiêu chuẩn; nếu từ học sinh phổ thông vào đại học và trung học thì chỉ xét kết nạp một số rất ít lựa chọn trong số đoàn viên ưu tú của Đoàn Thanh niên Lao động Hồ Chí Minh.

4. Công tác cán bộ

Xuất phát từ tính chất cách mạng của Đảng và bản chất của Nhà nước chuyên chính vô sản, phải xây dựng một đội ngũ cán bộ của Đảng và Nhà nước, xét về tính giai cấp, là của giai cấp công nhân, tuyệt đối trung thành với Đảng, với Tổ quốc, với chủ nghĩa xã hội, có năng lực thực hiện các nhiệm vụ chính trị của Đảng, bảo đảm tăng cường vai trò lãnh đạo của Đảng và phát huy sức mạnh của Nhà nước chuyên chính vô sản.

Để xây dựng một đội ngũ cán bộ như vậy, phải làm tốt tất cả các khâu lựa chọn, đào tạo, bồi dưỡng, phân phối, đề bạt và sử dụng cán bộ, phải nắm vững tiêu chuẩn cán bộ và các chính sách cán bộ của Đảng như Nghị quyết 225 của Bộ Chính trị đã nêu rõ.

Trong việc lựa chọn cán bộ, phải xem xét một cách đúng đắn thành phần xã hội xuất thân, đồng thời chống khuynh hướng thành phần chủ nghĩa. Căn cứ vào nhiệm vụ chính trị của giai đoạn mới và những biến đổi về giai cấp ở miền Bắc, phải chú ý lựa chọn, đào tạo cán bộ từ những người ưu tú trong giai cấp công nhân, nhất là công nhân công nghiệp, công nhân kỹ thuật, công nhân nhiều đời. Chú trọng đào tạo, bồi dưỡng để có thể đưa được nhiều cán bộ ưu tú xuất thân công nhân vào các cơ quan lãnh đạo của Đảng và Nhà nước. Trong nông dân, việc lựa chọn, đào tạo cán bộ phải nhằm vào những xã viên ưu tú xuất thân từ nông dân lao động.

Tích cực đào tạo, bồi dưỡng và sử dụng tốt tầng lớp trí thức xã hội chủ nghĩa, một bộ phận quan trọng trong đội ngũ cán bộ của Đảng và Nhà nước.

Việc đánh giá, bố trí, đề bạt cán bộ phải căn cứ vào tiêu chuẩn là chính. Người cán bộ phải có phẩm chất cách mạng và phải có năng lực, thể hiện ở kết quả hoàn thành nhiệm vụ; cả hai mặt này đều quan trọng và gắn bó khăng khít với nhau, tạo thành chất lượng của người cán bộ. Trong điều kiện Đảng lãnh đạo chính quyền và đang làm hai nhiệm vụ chiến lược, phải vừa chăm lo giữ gìn phẩm chất cách mạng của cán bộ, phòng ngừa nguy cơ một số cán bộ thoái hoá, biến chất, tỉnh táo đề phòng những phần tử địch, vừa hết sức chăm lo và khẩn trương nâng cao kiến thức, năng lực của đội ngũ cán bộ.

Cơ cấu đội ngũ cán bộ bao gồm nhiều loại, hoạt động ở nhiều ngành, nhiều lĩnh vực khác nhau. Phải xây dựng tiêu chuẩn cụ thể cho từng loại cán bộ ở từng ngành, từng cấp; bố trí, sử dụng cán bộ phù hợp với chỗ mạnh, chỗ yếu của mỗi người đồng thời biết xây dựng tổ chức, khéo kết hợp các loại cán bộ để bổ sung cho nhau.

Trên cơ sở nắm vững tiêu chuẩn, cần kết hợp các cán bộ cũ có kinh nghiệm, đã được rèn luyện, vững vàng về chính trị với lớp cán bộ mới đông đảo đã qua thử thách, có tư tưởng chính trị tốt, nhạy cảm với cái mới, có kiến thức khoa học, kỹ thuật, có sức khoẻ. Trong việc sắp xếp cán bộ, phải vừa bảo đảm tính liên tục, vừa coi trọng đổi mới từng phần cán bộ lãnh đạo, cán bộ quản lý, làm cho tổ chức luôn luôn năng động và bảo đảm tính kế thừa của đội ngũ cán bộ.

Bổ sung các chính sách và chấp hành đúng chính sách đối với cán bộ; sử dụng đúng và tích cực bồi dưỡng để các cán bộ cũ tiếp tục cống hiến tốt nhất cho cách mạng. Số đồng chí đến tuổi về hưu thì để nghỉ, trừ những trường hợp rất cần thiết; số đồng chí đau ốm nhiều cần được điều trị, điều dưỡng, khi hồi phục sức khoẻ sẽ giao công tác. Đối với cán bộ không đáp ứng được nhiệm vụ đang làm thì sắp xếp lại cho thích hợp.

Tích cực bồi dưỡng, lựa chọn, cất nhắc cán bộ trẻ để đáp ứng nhiệm vụ trước mắt, đồng thời để chuẩn bị lớp cán bộ kế tục sự nghiệp cách mạng, trước hết là đội ngũ cán bộ lãnh đạo, cán bộ quản lý. Cần khắc phục thái độ hẹp hòi, bảo thủ đang là một trở ngại cho việc sử dụng, đề bạt cán bộ trẻ.

Xúc tiến lập quy hoạch cán bộ. Căn cứ vào nhiệm vụ chính trị và nhiệm vụ tổ chức sắp tới mà dự kiến nhu cầu các loại cán bộ đến năm 1980 và có thể đến năm 1985. Đánh giá số cán bộ hiện có, lập kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng và từng bước kiện toàn một cách cơ bản đội ngũ cán bộ. Mỗi cấp phải phát hiện, lựa chọn, lập danh sách cán bộ dự bị của mình, có kế hoạch bồi dưỡng và sử dụng. Quy hoạch cán bộ phải vừa đáp ứng tốt yêu cầu trước mắt, vừa từng bước chủ động chuẩn bị cho tương lai. Rút kinh nghiệm để làm tốt hơn nữa việc đào tạo, bồi dưỡng cán bộ dân tộc ít người và cán bộ nữ.

Chấn chỉnh hệ thống trường lớp đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, nhất là cán bộ lãnh đạo và quản lý. Tăng cường giáo dục chủ nghĩa Mác - Lênin, giáo dục đường lối, chính sách của Đảng trong các trường đại học và trung học chuyên nghiệp.

Soát lại các chế độ chăm sóc sức khoẻ đối với các loại cán bộ để điều chỉnh hoặc bổ sung cho thích hợp với tình hình hiện nay.

Ban hành chế độ quản lý cán bộ theo phương hướng bảo đảm sự lãnh đạo thống nhất của Đảng, đồng thời tăng cường trách nhiệm của cơ quan nhà nước, phân công và phân cấp hợp lý trong công tác quản lý cán bộ. Kiện toàn các ban, vụ, phòng tổ chức ở các cấp, các ngành để giúp cấp uỷ Đảng và cơ quan lãnh đạo Nhà nước làm tốt công tác cán bộ.

Lập quy hoạch bồi dưỡng, đào tạo các loại cán bộ cho miền Nam. Tổ chức tốt hơn việc điều trị, điều dưỡng và việc học tập chính trị, nghiệp vụ, chuyên môn, văn hoá của cán bộ miền Nam ra miền Bắc nghỉ ngơi và học tập.

Việc thực hiện Nghị quyết của Bộ Chính trị về công tác cán bộ, nhanh chóng tạo ra sự chuyển biến mới trong đội ngũ cán bộ là một nhiệm vụ quan trọng vào bậc nhất của mỗi cấp uỷ Đảng, mỗi cơ quan nhà nước và mỗi cán bộ lãnh đạo. Mọi hiện tượng lơ là, chậm chạp phải được phê phán nghiêm khắc.

5. Bộ máy các cấp của Đảng

Các tỉnh uỷ, thành uỷ phải được kiện toàn tương xứng với nhiệm vụ lãnh đạo toàn diện trên địa bàn chiến lược của một tỉnh, thành phố, có đủ năng lực vận dụng đường lối, chính sách của Đảng, phát hiện được những vấn đề về đường lối, chính sách để đề nghị với Trung ương.

Kiện toàn các huyện uỷ để đủ sức lãnh đạo toàn diện, nhất là làm tốt nhiệm vụ lãnh đạo nông nghiệp, tiểu công nghiệp và thủ công nghiệp, trực tiếp chỉ đạo các tổ chức cơ sở Đảng trong huyện thực hiện đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước.

Cấp uỷ là nơi tập trung trí tuệ của đảng bộ. Người tham gia cấp uỷ phải là những đảng viên ưu tú của đảng bộ, được rèn luyện trong thực tiễn, vững vàng về chính trị, có năng lực đóng góp vào sự lãnh đạo tập thể của cấp uỷ, có kiến thức về lĩnh vực công tác mà mình phụ trách, có năng lực tổ chức thực hiện, có đạo đức cách mạng, đoàn kết được đảng viên và quần chúng. Căn cứ vào vị trí, chức năng của từng cấp mà định số lượng, cơ cấu của cấp uỷ, định tiêu chuẩn cụ thể lựa chọn cấp uỷ viên, xây dựng một tập thể lãnh đạo có chất lượng, tương xứng với nhiệm vụ. Thường xuyên đổi mới một bộ phận trong cấp uỷ, thu hút những lực lượng mới, kết hợp cán bộ lâu năm và cán bộ trẻ. Cấp uỷ viên làm việc ở các ngành nghiệp vụ của chính quyền không nhất thiết giữ chức trưởng, nếu không có đủ năng lực chuyên môn để phụ trách. Chấm dứt tình trạng mỗi lần bầu cấp uỷ lại thay đổi hàng loạt cán bộ phụ trách các cơ quan chuyên môn, nghiệp vụ.

Sự lãnh đạo của cấp uỷ chỉ có thể đạt kết quả tốt nếu biết xây dựng và sử dụng bộ máy giúp việc. Cần xác định rõ chức trách, nhiệm vụ, quyền hạn của các ban, các đảng đoàn, tăng cường cán bộ có chất lượng để các ban có đủ khả năng làm tham mưu cho cấp uỷ trong việc nghiên cứu chủ trương, chính sách, kiểm tra hoạt động của các cơ quan nhà nước và các cấp uỷ dưới. Các ban của Đảng phải phối hợp công tác chặt chẽ với các cơ quan của Nhà nước.

Kiện toàn các Ban Tổ chức, Tuyên huấn, Kiểm tra và phối hợp chặt chẽ ba ban ấy để giúp cấp uỷ làm tốt công tác xây dựng Đảng, thực hiện tốt Nghị quyết Hội nghị lần thứ 23 của Trung ương. Kiện toàn các Ban Kinh tế; thành lập Ban Nội chính của Trung ương. Các Ban Kinh tế, Nội chính, Khoa giáo có trách nhiệm giúp cấp uỷ về một số mặt công tác xây dựng Đảng.

6. Công tác kiểm tra của Đảng

Công tác kiểm tra phải nhằm vào việc chấp hành đường lối, chính sách, nhiệm vụ chính trị của Đảng, việc tuân thủ Điều lệ của Đảng, bảo đảm dân chủ và kỷ luật trong Đảng. Thường xuyên kiểm tra việc phát triển Đảng để ngăn ngừa những phần tử cơ hội chui vào Đảng, kiểm tra tư cách đảng viên để kịp thời loại trừ các phần tử thoái hoá, biến chất ra khỏi Đảng, giữ cho Đảng được trong sạch.

Công tác kiểm tra của Đảng phải tiến hành với tinh thần chủ động để biểu dương, cổ vũ mặt tốt, phòng ngừa, ngăn chặn mặt xấu; khi phát hiện nơi nào phạm sai lầm, phải kịp thời đề nghị chủ trương, biện pháp sửa chữa, thi hành kỷ luật người phạm sai lầm và rút ra bài học để giáo dục cán bộ, đảng viên.

Công tác kiểm tra của Đảng phải do bản thân cấp uỷ làm bằng cách sử dụng các ban của Đảng.

Theo Điều lệ Đảng, nhiệm vụ của uỷ ban kiểm tra các cấp là: kiểm tra những vụ đảng viên làm trái Điều lệ, kỷ luật của Đảng, trái với đạo đức cách mạng và pháp luật của Nhà nước, xử lý thư tố cáo và khiếu nại của đảng viên; căn cứ vào quyền hạn quy định ở Chương X mà quyết định kỷ luật, chuẩn y hoặc xoá bỏ kỷ luật đối với đảng viên; kiểm tra tài chính của Đảng.

Các ban khác của Đảng, căn cứ vào phạm vi công tác mà mình phụ trách, giúp cấp uỷ kiểm tra việc thi hành các nghị quyết, chỉ thị của Đảng nhằm đẩy mạnh việc hoàn thành nhiệm vụ chính trị, nâng cao chất lượng lãnh đạo của các tổ chức Đảng.

Công tác kiểm tra của các cấp uỷ Đảng phải có chương trình, kế hoạch và kết hợp chặt chẽ với công tác thanh tra của Nhà nước.

7. Tăng cường đoàn kết, thống nhất trong Đảng

Cơ sở quan trọng nhất của sự đoàn kết, thống nhất của Đảng là đường lối, chính sách của Đảng về cách mạng hai miền, đường lối quốc tế và những nguyên tắc, chế độ tổ chức và sinh hoạt của Đảng. Chẳng những cần tăng cường sự thống nhất về đường lối chung mà còn phải tăng cường sự thống nhất trên những vấn đề về đường lối, chính sách, chủ trương, quan điểm thuộc các ngành, các lĩnh vực công tác khác nhau. Sự thống nhất tư tưởng phải gắn liền với thống nhất hành động. Phải tăng cường công tác giáo dục chính trị, tư tưởng, nâng cao kiến thức, đẩy mạnh tự phê bình và phê bình, xây dựng, bổ sung và thực hiện nghiêm chỉnh các chế độ sinh hoạt công tác; chế độ hội nghị của cấp uỷ, chế độ tự phê bình và phê bình, chế độ đi xuống cơ sở, phân định rõ chức năng, trách nhiệm của Ban Chấp hành, Ban Thường vụ và bí thư, của Đảng đoàn, Đảng uỷ và thủ trưởng.

Sự đoàn kết, thống nhất trong Đảng là sự thống nhất về tư tưởng và hành động trên cơ sở chủ nghĩa Mác - Lênin, đường lối, chính sách và những nguyên tắc tổ chức của Đảng. Trong công tác hằng ngày, có thể nảy sinh những ý kiến khác nhau về chủ trương, biện pháp cụ thể, đó là hiện tượng bình thường; thảo luận trong nội bộ Đảng về những ý kiến khác nhau để tìm ra chân lý không phải là mất đoàn kết. Nhưng cần phải biết lắng nghe ý kiến của nhau, tôn trọng nhau, nếu là vấn đề chưa cấp thiết thì tiếp tục nghiên cứu, thảo luận, nếu là việc gấp thì phải quyết định kịp thời rồi mọi người chấp hành theo Nghị quyết của đa số, đồng thời báo cáo và xin chỉ thị cấp trên.

Cần xây dựng tình đồng chí giữa những người cộng sản, gột rửa những biểu hiện của chủ nghĩa cá nhân, kèn cựa, tỵ nạnh, đầu óc địa phương, cục bộ, bè phái, dẫn đến đấu tranh vô nguyên tắc.

IV

NHỮNG CÔNG TÁC CẤP BÁCH TỪ NAY ĐẾN ĐẠI HỘI ĐẠI BIỂU TOÀN QUỐC LẦN THỨ IV CỦA ĐẢNG

Hiện nay, Đảng ta đang thực hiện các Nghị quyết Hội nghị lần thứ 21 và Hội nghị lần thứ 22 của Trung ương Đảng, đồng thời chuẩn bị Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IV của Đảng.

Họp Đại hội Đảng là một sự kiện vô cùng quan trọng trong đời sống chính trị của Đảng và của toàn dân ta. Đại hội sẽ kiểm điểm sự lãnh đạo của Đảng trong 15 năm đấu tranh cách mạng vừa qua, vạch ra đường lối, nhiệm vụ chính trị trong thời gian tới và bầu Ban Chấp hành Trung ương mới. Quá trình chuẩn bị Đại hội là một quá trình nâng cao sức chiến đấu của Đảng, động viên, cổ vũ toàn Đảng, đưa phong trào cách mạng của quần chúng tiến lên những bước mới.

Thi hành Nghị quyết Hội nghị lần thứ 23 của Trung ương về xây dựng Đảng phải nhằm đẩy mạnh việc thực hiện các nhiệm vụ cách mạng của miền Bắc, của miền Nam, giành những thành tích và tiến bộ mới. Đó cũng là chuẩn bị Đại hội Đảng một cách tích cực nhất. Vì vậy, phải tập trung sức làm tốt những công tác dưới đây:

1. Tổ chức trong toàn Đảng một đợt sinh hoạt chính trị từ nay đến cuối tháng 3-1975. Mỗi cấp uỷ Đảng, mỗi chi bộ thảo luận kỹ để nắm vững nội dung Nghị quyết Hội nghị lần thứ 23 của Trung ương; trên cơ sở ấy, kiểm điểm lại công tác xây dựng Đảng của đảng bộ, kiểm điểm sự chỉ đạo thực hiện các Nghị quyết Hội nghị lần thứ 21, lần thứ 22 của Trung ương và Nghị quyết 228 của Bộ Chính trị, quy định những điều cần thiết và giải quyết một số vấn đề thiết thực nhằm thực hiện nghiêm chỉnh và có hiệu quả hơn các Nghị quyết 225, 195 của Bộ Chính trị, Chỉ thị 192 của Ban Bí thư. Trong từng thời gian, mỗi đảng bộ, mỗi cấp uỷ Đảng phải chỉ đạo tập trung vào những việc mấu chốt, những đơn vị quan trọng nhất trong đảng bộ mình.

Ở các cơ quan, phải căn cứ vào nhiệm vụ được giao mà kiểm điểm việc thực hiện trách nhiệm và lề lối làm việc, định rõ chương trình, kế hoạch công tác để tiếp tục thực hiện các nghị quyết của Trung ương, của Bộ Chính trị; bàn những việc thiết thực nhằm nâng cao hiệu suất công tác, nâng cao tinh thần trách nhiệm và ý thức kỷ luật của mỗi cán bộ, đảng viên, công nhân, nhân viên đối với việc chấp hành đường lối, chính sách, nghị quyết của Đảng và Nhà nước.

2. Sắp xếp một bước đội ngũ cán bộ lãnh đạo của Đảng và Nhà nước, đồng thời chuẩn bị những điều kiện cần thiết để sau Đại hội có thể làm một cách cơ bản hơn. Ban Bí thư và Thường vụ Hội đồng Chính phủ tập trung chỉ đạo trong một thời gian để làm cho xong việc kiện toàn cán bộ lãnh đạo của một số cơ quan Trung ương và một số tỉnh, thành đồng thời thúc đẩy việc này trong các ngành, các cấp. Các cấp uỷ khu, thành, tỉnh, các cơ quan lãnh đạo ngành ở Trung ương phải có kế hoạch sắp xếp và từng bước đổi mới đội ngũ cán bộ cấp dưới theo đường lối, chính sách cán bộ của Trung ương. Xúc tiến việc lựa chọn, bồi dưỡng, đào tạo cán bộ dự bị. Việc này phải làm một cách tích cực, có tổ chức, có chỉ đạo chặt chẽ và thật sự dân chủ.

Tổ chức việc kiểm điểm công tác lãnh đạo, chỉ đạo của từng ngành, từng cơ quan, từng cấp uỷ, trên cơ sở đó tiến hành phê bình, tự phê bình cá nhân trong các ban, Đảng đoàn, Đảng uỷ trực thuộc Trung ương và trong các khu uỷ, thành uỷ, tỉnh uỷ. Mỗi cán bộ lãnh đạo làm bản tự phê bình về ưu điểm, khuyết điểm, đối chiếu với trách nhiệm được giao. Bản kiểm điểm đó, sau khi báo cáo ở Ban, Đảng đoàn, cấp uỷ, sẽ được hội nghị Đảng uỷ cơ quan và các cán bộ trực tiếp dưới quyền góp ý kiến. Ban Bí thư và Thường vụ Hội đồng Chính phủ cần chỉ đạo chặt chẽ để việc tự phê bình và phê bình đạt được kết quả thiết thực, không kéo dài thời gian và không chiếu lệ, hình thức.

3. Cải tiến một bước chế độ làm việc. Bộ Chính trị sẽ quy định một số vấn đề về cải tiến chế độ làm việc của Bộ Chính trị, Ban Bí thư và Thường vụ Hội đồng Chính phủ, phù hợp với điều kiện thực tế về tổ chức và nhu cầu công tác hiện nay, nhằm quy định rõ hơn trách nhiệm, quyền hạn cụ thể, quan hệ công tác, lề lối làm việc, bảo đảm cho công việc của Trung ương Đảng và Chính phủ được giải quyết nhanh chóng, có hiệu lực và có chất lượng.

Ban Bí thư sẽ quy định một số vấn đề về cải tiến chế độ làm việc của các tỉnh uỷ, thành uỷ, của các ban và Đảng đoàn; về mối quan hệ giữa tổ chức Đảng và chính quyền, về chức năng lãnh đạo cụ thể của cấp uỷ Đảng đối với Uỷ ban hành chính.

Từng cơ quan của Đảng, của Nhà nước và các đoàn thể, từ Trung ương trở xuống, cần chủ động tìm ra và sửa chữa những điều không hợp lý gây ra sự chậm trễ trong công việc và sự xa cách giữa cấp trên và cấp dưới, giữa lãnh đạo và quần chúng.

4. Các cấp uỷ Đảng phải chỉ đạo chặt chẽ về tư tưởng và tổ chức, đẩy mạnh tự phê bình và phê bình, tích cực giáo dục và kiểm tra cán bộ, đảng viên, khắc phục tình trạng lỏng lẻo về kỷ luật và pháp luật. Thực hiện có kết quả tốt việc này ở các cơ quan Trung ương, khu, thành, tỉnh ở các cơ quan lãnh đạo, chỉ đạo cấp trên để làm gương, thúc đẩy việc thực hiện ở cấp dưới và cơ sở. Đối với những cơ sở yếu thì cấp trên phải cử cán bộ về giúp đỡ. Các tỉnh uỷ, thành uỷ phải kiểm tra chi bộ và chăm lo củng cố cho được những chi bộ đang kém, nát.

Từ nay đến Đại hội, phải kiên quyết đưa ra khỏi Đảng những người không đủ tư cách đảng viên, trước hết là những đảng viên đã thoái hoá, biến chất. 

Đối với những cán bộ, đảng viên xâm phạm tài sản của Nhà nước và của tập thể, phải căn cứ vào Nghị quyết 228 của Bộ Chính trị mà động viên đảng viên và quần chúng kiểm tra, phát hiện, sử dụng các cơ quan nhà nước xác minh, kết luận để xử trí nghiêm minh theo kỷ luật của Đảng và pháp luật của Nhà nước. Ở những cơ quan để xảy ra thiệt hại tài sản xã hội chủ nghĩa nhiều lần hoặc tệ tham ô, đút lót có tính phổ biến thì người lãnh đạo cơ quan ấy, dù không dính líu tham ô, đút lót, cũng phải chịu xử lý về trách nhiệm quản lý. Để giáo dục chung và ngăn ngừa những hành động sai trái, cần thông báo rộng rãi những trường hợp điển hình đã xử lý dứt khoát về kỷ luật Đảng, hoặc về kỷ luật chính quyền và pháp luật Nhà nước.

Việc trừng phạt nghiêm khắc những hành động phạm pháp và đấu tranh kiên quyết chống các hiện tượng tiêu cực phải gắn liền với việc sửa chữa khuyết điểm trong các mặt quản lý kinh tế, quản lý xã hội, đưa công tác quản lý của cơ quan nhà nước vào nền nếp.

5. Phát động phong trào thi đua mạnh mẽ trong toàn dân, toàn quân để kỷ niệm những ngày lịch sử quan trọng trong năm 1975 và thiết thực chuẩn bị Đại hội Đảng.

Phong trào thi đua này nhằm động viên mọi cán bộ, đảng viên, đoàn viên, mọi tầng lớp nhân dân nỗ lực lao động, sản xuất, thực hành tiết kiệm, sẵn sàng chiến đấu, phấn đấu hoàn thành tốt kế hoạch nhà nước năm 1975, đáp ứng kịp thời và đầy đủ các yêu cầu của cách mạng miền Nam. Trước hết, phải đẩy mạnh phong trào lao động, sản xuất trong các ngành sản xuất công nghiệp, nông nghiệp, xây dựng cơ bản, giao thông vận tải. Ở các cơ sở kinh tế quốc doanh, một mặt động viên tinh thần hăng hái thi đua của toàn thể công nhân, viên chức, mặt khác phải đáp ứng kịp thời các yêu cầu cụ thể về lao động, thiết bị, vật tư, giải quyết tốt hơn một số vấn đề cấp bách về đời sống. Trong nông nghiệp, thực hiện tốt chủ trương tổ chức lại sản xuất và cải tiến quản lý từ cơ sở, thi hành điều lệ hợp tác xã và họp Đại hội xã viên các cấp, nhằm đẩy mạnh sản xuất, củng cố các hợp tác xã, kiện toàn cấp huyện. Tăng cường chỉ đạo công tác nghĩa vụ quân sự và thực hiện tốt các nhiệm vụ quân sự địa phương. Đẩy mạnh phong trào quần chúng ở các thành phố, thị xã tham gia giữ gìn trật tự an ninh, tổ chức đời sống, quản lý thị trường.

Thông qua phong trào cách mạng sôi nổi của quần chúng, các cấp, các ngành phải tìm ra và phát huy những nhân tố tích cực, những lực lượng mới, đấu tranh khắc phục cho được các nhân tố tiêu cực; kịp thời chấn chỉnh tổ chức và quản lý, nhất là tổ chức và quản lý kinh tế.

*
*     *

Hội nghị lần thứ 23 của Trung ương thảo luận và quyết định những vấn đề quan trọng và cấp bách về xây dựng Đảng trong tình hình cách mạng cả nước ta đang phát triển mạnh mẽ. Nghị quyết về tăng cường sự lãnh đạo và nâng cao sức chiến đấu của Đảng có ý nghĩa to lớn đối với sự nghiệp cách mạng trước mắt cũng như lâu dài và đối với việc chuẩn bị Đại hội lần thứ IV của Đảng.

Các cấp uỷ Đảng nhận rõ và làm tròn trách nhiệm của mình, toàn Đảng phấn đấu vươn lên tăng cường sức chiến đấu của Đảng, nâng cao năng lực lãnh đạo của Đảng, tăng cường mối liên hệ thiêng liêng giữa Đảng với quần chúng, nhất định sự nghiệp cách mạng của Đảng ta, của nhân dân ta sẽ giành được thắng lợi ngày càng to lớn.

Hãy một lòng một dạ làm theo lời dạy của Chủ tịch Hồ Chí Minh kính yêu: xứng đáng là người lãnh đạo, là người đày tớ thật trung thành của nhân dân.

T/M BAN CHẤP HÀNH TRUNG ƯƠNG

BÍ THƯ THỨ NHẤT

LÊ DUẨN

Lưu tại Kho Lưu trữ

Trung ương Đảng.

Phản hồi

Thông tin người gửi phản hồi

Ban hành Quy chế bầu cử trong Đảng

(ĐCSVN) - Ngày 10/10, thay mặt Ban Chấp hành Trung ương Đảng, Tổng Bí thư Tô Lâm đã ký Quyết định số 190-QĐ/TW về việc ban hành Quy chế bầu cử trong Đảng.

Kiểm soát quyền lực, phòng, chống tham nhũng, tiêu cực trong quản lý, sử dụng tài chính, tài sản công

(ĐCSVN) - Bộ Chính trị vừa ban hành Quy định số 189-QĐ/TW ngày 08/10/2024 về kiểm soát quyền lực, phòng, chống tham nhũng, tiêu cực trong quản lý, sử dụng tài chính, tài sản công.

Bộ Chính trị ban hành quy định phòng chống tham nhũng, tiêu cực trong điều tra, xét xử

(ĐCSVN) – Ngày 27/10/2023, Bộ Chính trị đã ban hành Quy định số 132-QĐ/TW về kiểm soát quyền lực, phòng, chống tham nhũng, tiêu cực trong hoạt động điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án.

Tập trung tuyên truyền những chủ đề lớn, trọng tâm từ nay đến Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIV của Đảng

(ĐCSVN) - Ban Tuyên giáo Trung ương yêu cầu thông tin chính xác, kịp thời với nhiều hình thức linh hoạt, sáng tạo, phong phú, sinh động gắn với tuyên truyền đại hội đảng bộ các cấp, tiến tới Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIV của Đảng và tuyên truyền kỷ niệm các ngày lễ lớn, sự kiện lịch sử quan trọng của đất nước trong năm 2024, 2025.

Quy trình kỷ luật đảng viên thuộc thẩm quyền của Trung ương Đảng, Bộ Chính trị, Ban Bí thư

(ĐCSVN) - Thay mặt Bộ Chính trị, Thường trực Ban Bí thư Lương Cường vừa ký Quyết định số 165-QĐ/TW ngày 6/6/2024 của Bộ Chính trị ban hành Quy trình xem xét, thi hành kỷ luật đối với tổ chức Đảng, đảng viên thuộc thẩm quyền của Ban Chấp hành Trung ương Đảng, Bộ Chính trị, Ban Bí thư.

Liên kết website