I- TÌNH HÌNH KINH TẾ MIỀN BẮC HIỆN NAY
Trong những năm chiến tranh ác liệt, miền Bắc, đất căn cứ cách mạng của cả nước, đã vừa sản xuất, vừa chiến đấu, phát huy vai trò trọng yếu, góp phần quyết định vào thắng lợi vĩ đại của cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước.
Trải qua thử thách chiến tranh, sự vững mạnh của miền Bắc trên nhiều mặt chứng minh sức sống mãnh liệt của chế độ xã hội chủ nghĩa. Bên cạnh những thắng lợi to lớn về quân sự, chính trị, ngoại giao, miền Bắc đã giữ vững tiềm lực kinh tế, tiếp tục xây dựng chủ nghĩa xã hội, làm tròn nhiệm vụ chi viện cách mạng miền Nam, giúp đỡ cách mạng Lào và Campuchia. Hàng triệu người đã được động viên ra chiến đấu và phục vụ chiến đấu, nhưng sản xuất được giữ vững. Giao thông vận tải bị địch đánh phá tập trung và ác liệt nhất, song vẫn thông suốt. Nông nghiệp và công nghiệp đều duy trì được sản xuất và có những mặt tiến bộ; sự nghiệp giáo dục, y tế, văn hoá, nghệ thuật vẫn phát triển. Xã hội ta bảo đảm được về cơ bản các mặt ăn, mặc, học tập, bảo vệ sức khoẻ cho nhân dân. Một số công việc chuẩn bị cho tương lai như đào tạo cán bộ, công nhân, thăm dò địa chất, được tiếp tục thực hiện. Chiến tranh kết thúc mới gần một năm nhưng việc khắc phục hậu quả của chiến tranh, khôi phục kinh tế đã đạt được những kết quả quan trọng, làm cho các hoạt động kinh tế, văn hoá dần dần trở lại bình thường.
Những thắng lợi đó là kết quả của sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng, sự cố gắng rất lớn của các ngành, các cấp, của đông đảo cán bộ, đảng viên ta, và sự hy sinh, nỗ lực phi thường của công nhân, nông dân tập thể, quân đội nhân dân, lao động trí óc và các tầng lớp khác trong nhân dân, có sự giúp đỡ tích cực của các nước xã hội chủ nghĩa anh em và các lực lượng tiến bộ trên thế giới.
Từ năm 1955 đến nay, thời gian hoà bình xây dựng của miền Bắc cộng lại chỉ độ tám năm. Qua hai lần chiến tranh phá hoại, đế quốc Mỹ đã gây ra cho nhân dân ta những thiệt hại rất to lớn về vật chất, làm chậm công cuộc xây dựng kinh tế của ta trong nhiều năm.
Khó khăn lớn nhất của nền kinh tế quốc dân hiện nay là: cơ sở vật chất và kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội còn quá yếu; so với năm 1965, dân số miền Bắc tăng trên 4,4 triệu người, trong khi đó, tổng sản phẩm xã hội tăng ít, thu nhập quốc dân không tăng và không có tích luỹ.
Nguyên nhân chính của tình trạng sản xuất thấp kém, kinh tế chậm phát triển và đời sống khó khăn là đất nước trải qua chiến tranh lâu dài, ác liệt với những hậu quả nghiêm trọng. Nhưng những thiếu sót trong công tác lãnh đạo, chỉ đạo và quản lý nhà nước chậm được khắc phục là nguyên nhân của tình trạng lỏng lẻo trong quản lý kinh tế, quản lý xã hội, làm nảy sinh những hiện tượng không lành mạnh trong đời sống xã hội hiện nay.
Đường lối, chủ trương của Đảng ta là đúng, nhưng trong việc chấp hành, chúng ta đã có những thiếu sót.
- Đường lối, chủ trương thường chưa được thể hiện thành bước đi, thành quy hoạch và kế hoạch cụ thể. Công nghiệp hoá xã hội chủ nghĩa, khâu trung tâm của quá trình xây dựng và cải tạo xã hội chủ nghĩa, không được nắm vững và cụ thể hoá theo đường lối, phương hướng của Đảng một cách đầy đủ và tích cực. Sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội đòi hỏi những chính sách để động viên mọi lực lượng lao động xã hội, khuyến khích sản xuất và tăng năng suất lao động, nhưng việc nghiên cứu và chỉ đạo về mặt chính sách không kịp thời, không toàn diện. Các ngành, các địa phương ít đóng góp về mặt cụ thể hoá đường lối, chủ trương và xây dựng chính sách.
- Bộ máy nhà nước và hệ thống tổ chức quản lý kinh tế, tổ chức sản xuất mang tính phân tán của nền sản xuất nhỏ, chưa thể hiện đúng nguyên tắc tập trung dân chủ, chưa thực hiện tốt phương thức kinh doanh xã hội chủ nghĩa và chế độ quản lý tập trung, thống nhất. Kế hoạch hoá là công cụ chủ yếu để quản lý kinh tế nhưng chưa nắm chắc yêu cầu và khả năng, thiếu cân đối các khả năng để thực hiện, vừa có tình trạng tập trung quan liêu, gò bó, vừa có tình trạng phân tán, tuỳ tiện. Quản lý lao động, thiết bị, vật tư, tài chính, tiền tệ, nói chung là lỏng lẻo, tính toán không chắc, gây ra lãng phí và mất mát. Pháp chế xã hội chủ nghĩa về quản lý ít phát huy hiệu lực, pháp chế kinh tế xây dựng chậm, kỷ luật nhà nước không nghiêm.
- Sau khi căn bản hoàn thành cải tạo chế độ sở hữu về tư liệu sản xuất, ta làm chưa tốt việc củng cố và hoàn thiện từng bước quan hệ sản xuất mới. Những cuộc vận động cải tiến quản lý hợp tác xã nông nghiệp chưa đáp ứng được yêu cầu; ở nhiều nơi, hợp tác xã nông nghiệp đang sa sút, sản xuất trì trệ, một số hợp tác xã tan rã. Hợp tác xã thủ công nghiệp và tiểu công nghiệp không được củng cố, có cái chỉ là hình thức. Sản xuất cá thể chiếm tỷ trọng rất nhỏ trong nền kinh tế, nhưng do không được quản lý, không được tiếp tục cải tạo xã hội chủ nghĩa, những hiện tượng làm ăn không chính đáng, vi phạm pháp luật đang tác động xấu đến thị trường và đời sống xã hội.
- Các cấp uỷ đảng chưa thật sự tăng cường lãnh đạo kinh tế, lãnh đạo quản lý nhà nước, thiếu kiểm tra việc thực hiện các nghị quyết của Đảng và kế hoạch kinh tế của Nhà nước. Công tác tổ chức và cán bộ chưa theo kịp yêu cầu của nhiệm vụ cách mạng. Công tác xây dựng đảng chưa gắn chặt với công tác kinh tế, vừa chưa phát huy mạnh những nhân tố tích cực trong phong trào quần chúng và trong nội bộ Đảng để nâng cao chất lượng của các tổ chức đảng, vừa chưa đấu tranh kịp thời và có hiệu quả chống những hiện tượng tiêu cực như bản vị, xa rời quần chúng, độc đoán chuyên quyền, ích kỷ tư lợi. Công tác tư tưởng thiếu sắc bén, chưa làm thấu suốt đường lối, chính sách của Đảng trong đảng viên và quần chúng, chưa làm tốt việc giáo dục lý luận cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lênin, chưa làm sáng tỏ những vấn đề thực tiễn về xây dựng chủ nghĩa xã hội của đất nước ta; chưa kiên quyết phê phán những quan điểm sai lầm và những biểu hiện tiêu cực. Văn hoá, nghệ thuật chưa đáp ứng được yêu cầu phục vụ sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội. Các tổ chức Công đoàn, Thanh niên, Phụ nữ chưa đi sát quần chúng trong sản xuất và đời sống; phong trào sản xuất của quần chúng còn thiếu hăng say, thiếu sôi nổi, có nhiều biểu hiện thiếu kỷ luật trong lao động sản xuất và công tác.
- Xây dựng nền kinh tế xã hội chủ nghĩa là công việc rất mới và phức tạp, nhưng chúng ta chưa tích cực học tập về kinh tế, về quản lý, chưa đi sâu vào thực tế, chưa coi trọng tổng kết kinh nghiệm, cho nên chậm khắc phục những khuyết điểm và nhược điểm.
Tình hình kinh tế miền Bắc đang có nhiều khó khăn, nhưng cũng có nhiều thuận lợi, trong đó có những thuận lợi rất cơ bản:
- Nhân dân ta cần cù, dũng cảm, thông minh, sáng tạo, một lòng một dạ đi theo Đảng; có khí thế cách mạng vươn lên sau chiến thắng của cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước.
- Chúng ta có lực lượng lao động dồi dào, có lực lượng cán bộ khoa học, kỹ thuật và công nhân kỹ thuật tương đối khá, được rèn luyện trong chiến đấu và sản xuất.
- Đất nước ta có nguồn tài nguyên phong phú dưới đất, trong rừng, ngoài biển, còn nhiều đất chưa được khai thác và sử dụng.
- Có sự giúp đỡ và ủng hộ quốc tế, có điều kiện tăng cường hợp tác kinh tế, hợp tác khoa học, kỹ thuật với các nước xã hội chủ nghĩa anh em và mở rộng quan hệ kinh tế, kỹ thuật với các nước khác.
- Đảng ta dày dạn trong đấu tranh cách mạng, đã trải qua nhiều khó khăn thử thách lớn, có đường lối cách mạng đúng đắn, đã lãnh đạo nhân dân ta chiến thắng đế quốc Mỹ, nhất định lãnh đạo nhân dân ta chiến thắng được nghèo nàn và lạc hậu, xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội.
II- NHIỆM VỤ, PHƯƠNG CHÂM VÀ MỤC TIÊU KHÔI PHỤC VÀ PHÁT TRIỂN KINH TẾ TRONG HAI NĂM 1974-1975
Miền Bắc đã có hoà bình, nhưng ở miền Nam, các cuộc xung đột quân sự vẫn tiếp diễn. Kẻ thù chính của cách mạng miền Nam trong giai đoạn mới là đế quốc Mỹ và tập đoàn thống trị tư sản mại bản, quan liêu, quân phiệt, phát xít, tay sai của đế quốc Mỹ, đại biểu quyền lợi cho giai cấp tư sản mại bản và bọn địa chủ phong kiến thân Mỹ phản động nhất.
Cách mạng ở miền Nam vừa là cuộc đấu tranh hoàn thành độc lập dân tộc, vừa là cuộc đấu tranh giai cấp rất gay gắt. Cuộc đấu tranh quyết liệt ấy thường xuyên tác động đến miền Bắc trên nhiều mặt. Trong bối cảnh lịch sử ấy, toàn Đảng và toàn dân ta phải luôn luôn đề cao cảnh giác cách mạng, sẵn sàng đối phó với mọi tình thế. Phải tỉnh táo ngăn ngừa và đánh bại những hoạt động chiến tranh tâm lý, gián điệp và mọi thủ đoạn phá hoại khác của địch. Phải đứng vững trên lập trường giai cấp công nhân, tiếp tục cuộc đấu tranh giữa hai con đường xã hội chủ nghĩa và tư bản chủ nghĩa mà nội dung cơ bản là: Nắm vững chuyên chính vô sản, phát huy mạnh mẽ quyền làm chủ tập thể của nhân dân lao động, tiến hành đồng thời ba cuộc cách mạng: cách mạng về quan hệ sản xuất, cách mạng kỹ thuật, cách mạng tư tưởng và văn hoá, trong đó cách mạng kỹ thuật là then chốt. Phải đấu tranh chống tính tự phát của sản xuất nhỏ, tâm lý và thói quen của xã hội cũ, chống tàn tích tư tưởng của giai cấp bóc lột, không để cho nó chọi lại và đục khoét chế độ xã hội chủ nghĩa.
Đưa nền kinh tế miền Bắc từ sản xuất nhỏ lên sản xuất lớn xã hội chủ nghĩa, không qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa, phải nắm vững công nghiệp hoá xã hội chủ nghĩa là nhiệm vụ trung tâm trong thời kỳ quá độ. Thực hiện nhiệm vụ đó, phải thấu suốt và chấp hành đường lối "ưu tiên phát triển công nghiệp nặng một cách hợp lý trên cơ sở phát triển nông nghiệp và công nghiệp nhẹ, xây dựng kinh tế trung ương đồng thời phát triển kinh tế địa phương, kết hợp kinh tế với quốc phòng".
Phải có sự chuyển biến trên nhiều mặt hoạt động, trong tất cả các ngành, các địa phương để xây dựng kế hoạch tích cực, vững chắc, chấn chỉnh và cải tiến hệ thống tổ chức quản lý, nghiên cứu một loạt chính sách kinh tế, tài chính, xúc tiến việc đào tạo và sắp xếp lại lao động xã hội... Tất cả đều hướng vào sự nghiệp công nghiệp hoá xã hội chủ nghĩa, xây dựng nền sản xuất lớn, làm cho nước ta thành một nước có công nghiệp hiện đại, nông nghiệp hiện đại và khoa học kỹ thuật tiên tiến.
Trong giai đoạn mới, nhiệm vụ chung của miền Bắc là: Đoàn kết toàn dân, đấu tranh giữ vững hoà bình, ra sức tiến hành công nghiệp hoá xã hội chủ nghĩa, đẩy mạnh ba cuộc cách mạng, xây dựng miền Bắc tiến nhanh, tiến mạnh, tiến vững chắc lên chủ nghĩa xã hội; kết hợp chặt chẽ kinh tế với quốc phòng, nâng cao cảnh giác, sẵn sàng đánh bại mọi âm mưu của đế quốc Mỹ và bọn tay sai; ra sức làm tròn nghĩa vụ của mình trong cuộc đấu tranh cách mạng nhằm hoàn thành độc lập dân chủ ở miền Nam, tiến tới hoà bình thống nhất Tổ quốc; làm tròn nghĩa vụ quốc tế đối với cách mạng Lào và cách mạng Campuchia.
Trong hai năm 1974-1975, nhiệm vụ của miền Bắc là: nhanh chóng hoàn thành việc hàn gắn những vết thương chiến tranh, ra sức khôi phục và phát triển kinh tế, phát triển văn hoá, tiếp tục xây dựng cơ sở vật chất và kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội; củng cố quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa, củng cố chế độ xã hội chủ nghĩa về mọi mặt, ổn định tình hình kinh tế và đời sống nhân dân; củng cố quốc phòng, ra sức chi viện cuộc đấu tranh cách mạng và xây dựng vùng giải phóng của đồng bào miền Nam.
Nhiệm vụ hai năm nói trên nằm trong bước đi ban đầu của quá trình công nghiệp hoá xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc, nhằm tạo ra những điều kiện cần thiết để xây dựng miền Bắc với quy mô ngày càng lớn và tốc độ ngày càng nhanh, đồng thời nhằm tăng cường thế lực của cách mạng trong cả nước, tạo cơ sở vững chắc cho cuộc đấu tranh giữ vững hoà bình, hoàn thành độc lập, dân chủ ở miền Nam.
Hai năm khôi phục và phát triển kinh tế (1974-1975) là hai năm phấn đấu rất khẩn trương của toàn Đảng, toàn dân ta nhằm đạt ba yêu cầu chính:
1. Động viên và tổ chức lực lượng lao động xã hội đi vào sản xuất và xây dựng với khí thế sôi nổi, tận dụng những khả năng tiềm tàng của nền kinh tế, đẩy mạnh sản xuất và thực hành tiết kiệm. Đưa mức sản xuất của xã hội, của từng ngành kinh tế, từng đơn vị kinh tế lên bằng hoặc cao hơn mức sản xuất cao nhất đã đạt được năm 1965 hoặc năm 1971. Phấn đấu để tăng nhanh tổng sản phẩm xã hội và thu nhập quốc dân, đến năm 1975 thu nhập quốc dân đủ cho quỹ tiêu dùng xã hội, và năm 1976 bắt đầu có tích luỹ. Bảo đảm tốt các yêu cầu chi viện cách mạng miền Nam.
2. Củng cố và hoàn thiện một bước quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa trong cả hai khu vực: quốc doanh và tập thể; khắc phục những hiện tượng tiêu cực trong đời sống kinh tế và xã hội.
3. Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng trong công tác quản lý nhà nước, chấn chỉnh công tác quản lý kinh tế từ trung ương đến cơ sở. Giải quyết tốt các vấn đề trước mắt đồng thời chủ động chuẩn bị cho kế hoạch lâu dài phát triển kinh tế và văn hoá.
Cần nắm vững và vận dụng đúng các phương châm chỉ đạo dưới đây:
- Vừa khôi phục vừa phát triển kinh tế, kết hợp kinh tế với quốc phòng, kết hợp nhiệm vụ trước mắt với nhiệm vụ phát triển kinh tế lâu dài.
- Phát triển sức sản xuất, đồng thời củng cố và hoàn thiện quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa.
- Tiến nhanh, tiến mạnh, tiến vững chắc, nhằm mục tiêu công nghiệp hoá xã hội chủ nghĩa.
- Nêu cao tinh thần độc lập tự chủ, tự lực cánh sinh là chính, đồng thời tích cực tranh thủ sự giúp đỡ quốc tế, mở rộng quan hệ kinh tế với nước ngoài.
Các ngành, các địa phương, các đơn vị cơ sở ra sức thực hiện cho được và vượt mức các chỉ tiêu của kế hoạch nhà nước, với tinh thần phấn đấu vươn lên để từng bước khắc phục các mặt mất cân đối và để thúc đẩy sự nghiệp công nghiệp hoá xã hội chủ nghĩa.
1. Khôi phục và phát triển công nghiệp
Ngành cơ khí là ngành then chốt trong việc trang bị lại nền kinh tế quốc dân, đã được phát triển trong chiến tranh, còn nhiều khả năng chưa được tận dụng tốt. Phải nắm lại năng lực sản xuất, sắp xếp và phân công hợp lý, tận dụng năng lực của cơ khí trung ương, cơ khí địa phương, cơ khí quốc phòng để phục vụ tốt các nhu cầu sửa chữa và sản xuất phụ tùng, thiết bị, máy móc cho các ngành kinh tế, nhất là cho nông nghiệp, giao thông vận tải và xây dựng. Đẩy nhanh việc xây dựng một số nhà máy cơ khí quan trọng.
Ngành than cung cấp nguồn năng lượng chính hiện nay cho công nghiệp, có tác dụng lớn trong việc đẩy mạnh sản xuất của các ngành khác, tạo ra nguồn hàng xuất khẩu quan trọng. Nhà nước cần tập trung năng lực, phương tiện để đẩy mạnh tốc độ phát triển của ngành than. Phấn đấu thực hiện vượt mức chỉ tiêu đã ghi trong kế hoạch nhà nước năm 1974 (3,25 triệu tấn). Yêu cầu về than rất khẩn trương, cần xem xét lại khả năng và điều kiện sản xuất, tổ chức tốt việc giúp đỡ các cơ sở sản xuất để có thể tăng chỉ tiêu sản lượng than. Đẩy mạnh xây dựng cơ bản ở các mỏ, hoàn thành cải tạo ba mỏ lộ thiên, chuẩn bị tốt cho kế hoạch khai thác than năm 1975 và các năm sau.
Ngành điện phải khôi phục xong các nhà máy điện, đẩy mạnh thi công các Nhà máy điện Ninh Bình, Uông Bí (đợt ba) để sớm đưa vào sản xuất, chuẩn bị khởi công đợt bốn Nhà máy điện Uông Bí, chuẩn bị xây dựng những nhà máy điện mới. Cải tạo hệ thống đường dây và các trạm biến thế, xây dựng một số tuyến mới nhằm cân đối nguồn điện với lưới điện, bảo đảm cung cấp điện có chất lượng và an toàn.
Ngành luyện kim tập trung sức khôi phục và hoàn thành sớm Nhà máy cán thép Gia Sàng, Khu gang thép Thái Nguyên, để huy động nhanh vào sản xuất; nhanh chóng xây dựng và tận dụng công suất các lò điện luyện thép để có thêm thép cho ngành cơ khí.
Ngành vật liệu xây dựng phải khôi phục và tận dụng đến mức cao công suất của Nhà máy xi măng Hải Phòng, tích cực chuẩn bị để khởi công xây dựng những nhà máy mới. Cải tạo, bổ sung để nâng cao công suất của các cơ sở xi măng địa phương; cố gắng sản xuất và nhập thiết bị để xây dựng thêm một số cơ sở xi măng nhỏ ở những nơi có điều kiện. Xây dựng nhanh các cơ sở gạch, ngói quốc doanh (quy mô vừa và nhỏ); phát triển các loại vật liệu xây dựng không nung, tận dụng các vật liệu địa phương.
Ngành khai thác và chế biến gỗ phải tìm mọi cách nâng sản lượng gỗ, chú trọng khai thác gỗ vùng Khu IV cũ, tích cực vận chuyển gỗ ra phía bắc. Đẩy mạnh việc ngâm tẩm và chế biến gỗ, tận dụng gỗ cành, gỗ ngọn, dùng phoi bào, mùn cưa làm gỗ ván ép.
Ngành hoá chất cùng với Bộ Xây dựng phấn đấu đưa Nhà máy phân đạm Hà Bắc vào sản xuất tốt từ đầu năm 1975; mở rộng và xây dựng thêm các cơ sở sản xuất phân lân; trang bị thêm để tăng mức sản xuất săm lốp (ôtô và xe đạp), đẩy mạnh sản xuất các loại phụ tùng bằng nhựa... Khôi phục và xây dựng các nhà máy xút, clo.
Các ngành công nghiệp nhẹ và công nghiệp thực phẩm phải ra sức khôi phục và phát triển sản xuất. Tận dụng công suất của các xí nghiệp công nghiệp nhẹ, đẩy mạnh xây dựng Nhà máy dệt Vĩnh Phú, Nhà máy giấy. Tổ chức chế biến hết số bột mì nhập khẩu, phát triển chế biến hoa màu; tăng nhanh sản lượng muối cho đủ bảo đảm nhu cầu. Cố gắng giải quyết cơ sở nguyên liệu để tận dụng công suất của những nhà máy chế biến các loại thực phẩm phục vụ đời sống và xuất khẩu. Coi trọng việc xây dựng kho và tạo mọi điều kiện để bảo quản, giữ phẩm chất của lương thực, thực phẩm. Có kế hoạch từng bước trang bị kỹ thuật thích hợp cho ngành công nghiệp thực phẩm.
Nhanh chóng khôi phục và phát triển ngành đánh cá biển, khai thác các nguồn hải sản khác. Củng cố các đoàn tàu quốc doanh và các hợp tác xã nghề cá, kết hợp chặt chẽ giữa ngành thủy sản và lực lượng hải quân trong việc tổ chức đánh cá. Tận dụng công suất của các phương tiện hiện có, đồng thời tăng đầu tư cho ngành đánh cá để nhanh chóng tăng sản lượng cá biển.
Tìm mọi cách tận dụng khả năng sản xuất hàng tiêu dùng hiện có còn rất lớn trong các cơ sở quốc doanh và hợp tác xã tiểu công nghiệp, thủ công nghiệp, đẩy mạnh sản xuất các mặt hàng tiêu dùng thông thường còn đang thiếu, khuyến khích làm các mặt hàng mới, các đặc sản địa phương và đặc sản dân tộc; giúp đỡ phát triển các nghề thủ công ở nông thôn.
Hợp tác xã tiểu công nghiệp và thủ công nghiệp, có sự quản lý đúng đắn của Nhà nước, là một thành phần kinh tế xã hội chủ nghĩa, có vai trò tích cực trong nền kinh tế quốc dân. Cần tăng cường lãnh đạo hợp tác xã tiểu công nghiệp, thủ công nghiệp, khắc phục những hiện tượng tiêu cực trong sản xuất và kinh doanh, hướng dẫn, giúp đỡ củng cố tổ chức, phát triển sản xuất, phát triển ngành nghề. Nhà nước tích cực giúp đỡ hợp tác xã tăng cường và cải tiến trang bị, tổ chức tốt việc cung ứng vật tư và tiêu thụ sản phẩm.
2. Phát triển sản xuất nông nghiệp
Căn cứ vào Nghị quyết Hội nghị lần thứ 19 và Hội nghị lần thứ 20 của Trung ương Đảng, xuất phát từ tình hình và yêu cầu mới về sản xuất nông nghiệp, phải nắm chắc lãnh đạo, đẩy mạnh sản xuất nông nghiệp trong hai năm 1974-1975 nhằm đáp ứng tốt hơn yêu cầu ngày càng lớn về lương thực và thực phẩm, về nguyên liệu cho công nghiệp và về nông phẩm xuất khẩu. Nghiên cứu kế hoạch và biện pháp để đưa nông nghiệp tiến từng bước vững chắc từ sản xuất nhỏ lên sản xuất lớn xã hội chủ nghĩa.
Phải giải quyết một cách cơ bản và toàn diện một loạt những vấn đề rất trọng yếu và cấp bách của sản xuất nông nghiệp như: củng cố các hợp tác xã nông nghiệp, và nông trường, tổ chức bộ máy quản lý nông nghiệp của Chính phủ, từ trung ương đến hợp tác xã; từng bước thống nhất tổ chức quản lý sản xuất nông nghiệp và chế biến nông sản; các chính sách khuyến khích sản xuất nông nghiệp và hàng nông sản xuất khẩu; vấn đề kỹ thuật và trang bị kỹ thuật phục vụ nông nghiệp, cơ giới hoá nông nghiệp, kế hoạch hoá trong nông nghiệp, nghiên cứu khoa học và kỹ thuật nông nghiệp; vấn đề đào tạo cán bộ cho nông nghiệp, v.v..
Nghiêm khắc phê phán thái độ coi nhẹ vị trí của hợp tác xã trong sản xuất nông nghiệp. Uỷ ban Nông nghiệp của Chính phủ và Ban Nông nghiệp Trung ương phải cùng nhau nắm lại tình hình hợp tác xã, nghiên cứu biện pháp chấn chỉnh và tăng cường hoạt động của hợp tác xã, làm cho hợp tác xã đẩy mạnh được sản xuất, tăng thu nhập của hợp tác xã, tăng phần đóng góp cho Nhà nước và cải thiện đời sống xã viên. Có kế hoạch chuẩn bị mở rộng quy mô hợp tác xã một cách hợp lý, có lãnh đạo chặt chẽ, theo những điều kiện sau đây: có cán bộ và cốt cán lãnh đạo vững, có cơ sở vật chất và kỹ thuật bước đầu phù hợp với hoạt động sản xuất, kinh doanh của một hợp tác xã có quy mô lớn hơn trước; các hợp tác xã nhỏ định hợp nhất lại đã được củng cố một bước; sản xuất và đời sống ổn định, ít nhất có một hợp tác xã tốt làm nòng cốt; quần chúng xã viên nhận rõ lợi ích của việc mở rộng quy mô, thật sự đồng tình và phải do đại hội đại biểu xã viên các hợp tác xã chuẩn bị hợp nhất quyết định. Có kế hoạch đào tạo cán bộ cho hợp tác xã, trước hết là cán bộ làm chủ nhiệm hợp tác xã. Chuyển ngay một số thích đáng cán bộ kỹ thuật nông nghiệp xuống công tác ở các hợp tác xã; lựa chọn, bồi dưỡng, đào tạo ngay hàng loạt cán bộ đưa xuống củng cố các hợp tác xã.
Ở trung du và miền núi, phải kết hợp chặt chẽ nông nghiệp với lâm nghiệp, kết hợp nông nghiệp, lâm nghiệp với phong trào định canh định cư, ra sức phát huy ba thế mạnh của kinh tế nông nghiệp miền núi (rừng, chăn nuôi, cây công nghiệp). Uỷ ban Kế hoạch Nhà nước, Uỷ ban Nông nghiệp Trung ương và các ngành kinh tế khác phải tích cực hướng dẫn, giúp đỡ các tỉnh trung du và miền núi xây dựng cơ sở vật chất và kỹ thuật cho nông nghiệp và lâm nghiệp, phát triển giao thông vận tải địa phương và công nghiệp địa phương (bao gồm cả tiểu công nghiệp và thủ công nghiệp), nghiên cứu phát triển thủy điện nhỏ; giúp cán bộ kỹ thuật, cán bộ quản lý, giúp nghiên cứu các vấn đề khoa học và kỹ thuật.
Trồng rừng, bảo vệ rừng và tu bổ rừng là nhiệm vụ kinh tế quan trọng hàng đầu của trung du và miền núi, một nhiệm vụ gắn liền với sản xuất nông nghiệp mà tất cả các nông trường và các hợp tác xã nông nghiệp ở vùng đó đều phải thực hiện. Nhà nước cần giao cho các hợp tác xã nông nghiệp ở miền núi kinh doanh việc trồng và tu bổ rừng theo chính sách, chế độ của Nhà nước. Xúc tiến việc củng cố các lâm trường quốc doanh của trung ương và địa phương. Tuyên truyền giáo dục sâu rộng về trách nhiệm của công dân trong việc thi hành Pháp lệnh bảo vệ rừng.
Do vị trí rất quan trọng của trung du và miền núi, Chính phủ sẽ mở hội nghị bàn về xây dựng và phát triển kinh tế, văn hoá ở những vùng này.
Việc đưa lao động ở đồng bằng lên xây dựng vùng kinh tế mới ở trung du và miền núi là một cuộc vận động có ý nghĩa quan trọng về nhiều mặt, cần được tiến hành một cách tích cực và vững chắc, nhằm phát huy khả năng tiềm tàng to lớn về nông nghiệp và lâm nghiệp của trung du và miền núi nước ta. Phải phân vùng và quy hoạch một cách có căn cứ, từ đó xác định đúng phương hướng sản xuất. Việc đưa lao động ở đồng bằng lên trung du và miền núi, việc đón tiếp và bố trí lao động đó ở trung du và miền núi, do các tỉnh đồng bằng cùng các tỉnh trung du và miền núi kết nghĩa với nhau, cùng nhau bàn bạc thật chu đáo. Chính phủ phải quản lý chặt chẽ cuộc vận động này đồng thời với cuộc vận động định canh định cư, giải quyết tốt các vấn đề chính sách nhằm đạt hiệu quả thiết thực, vững chắc. Uỷ ban Nông nghiệp, Tổng cục Lâm nghiệp, Ngân hàng Nhà nước, các Bộ Tài chính, Giao thông vận tải, Thuỷ lợi, Xây dựng, Giáo dục, Y tế, Văn hoá, v.v. phải làm tròn trách nhiệm của mình trong các công việc to lớn và phức tạp nói trên.
Về trồng trọt, năm 1974 phải sản xuất 5,9 - 6 triệu tấn lương thực, Nhà nước huy động 1 triệu tấn. Năm 1975, phải sản xuất 6,2 - 6,3 triệu tấn lương thực, Nhà nước huy động khoảng 1,1 - 1,2 triệu tấn. Hướng chính là thâm canh, tăng năng suất lúa ở đồng bằng và trung du, xây dựng những vùng thâm canh ngô, đồng thời tuỳ theo điều kiện của từng địa phương mà đẩy mạnh sản xuất các loại hoa màu thích hợp.
Phải quy hoạch các vùng thực phẩm, vùng trồng rau tập trung ở chung quanh các thành phố, khu công nghiệp và công trường xây dựng lớn; quy hoạch các vùng trồng cây công nghiệp, trồng rau, quả, chăn nuôi để xuất khẩu.
Trong hai năm 1974-1975, phấn đấu mở rộng diện tích bằng cách phục hoá ruộng đất bị bom tàn phá (ở Khu IV cũ) và kiểm tra chặt chẽ việc sử dụng ruộng đất, phải đưa vào canh tác phần lớn ruộng đất bỏ hoá của các hợp tác xã và nông trường. Mặt khác, khai hoang một cách vững chắc; chuẩn bị tốt các điều kiện để đẩy mạnh công tác khai hoang trong những năm sau, Hội đồng Chính phủ căn cứ vào khả năng thực tế mà giao chỉ tiêu phục hoá và khai hoang cho sát.
Đẩy mạnh việc trồng rừng để trong hai năm (1974-1975), ít nhất trồng được 11-12 vạn hécta rừng.
Về chăn nuôi, phát triển mạnh chăn nuôi lợn, gà, vịt, cá nước ngọt và nước lợ. Đẩy mạnh chăn nuôi lợn ở khu vực hợp tác xã và các gia đình xã viên, phấn đấu trong năm 1974 đạt 6,2 đến 6,3 triệu con. Phát triển có trọng điểm các cơ sở nuôi gà theo phương pháp công nghiệp ở một số thành phố và khu công nghiệp. Phát triển chăn nuôi trâu, bò, nhất là ở trung du và miền núi.
Có chính sách, kế hoạch, biện pháp để khuyến khích và giúp đỡ các hợp tác xã, các nông trường mở rộng diện tích vụ đông, đồng thời hướng dẫn tận dụng tốt số diện tích 5% để lại cho gia đình xã viên để sản xuất thức ăn cho gia súc.
Chăn nuôi của khu vực kinh tế tập thể và của gia đình vẫn giữ vị trí trọng yếu. Nhà nước cần phát triển các cơ sở sinh sản giống, xây dựng các cơ sở chế biến thức ăn cho gia súc, tổ chức tốt hệ thống thú y.
Về cơ sở vật chất và kỹ thuật nông nghiệp. Đi đôi với việc chỉ đạo có hiệu quả phong trào quần chúng làm thuỷ lợi, làm giống, làm phân bón, sử dụng công cụ cải tiến, thực hiện giải phóng đôi vai, xây dựng đồng ruộng, bảo vệ cây trồng và gia súc, các ngành công nghiệp, các cơ quan kinh tế, kỹ thuật khác của Nhà nước phải tích cực đi sâu điều tra, nghiên cứu để phục vụ nông nghiệp được tốt hơn. Cải tiến tổ chức và chính sách thu mua nông sản, cung cấp thêm vôi bón ruộng, phân lân, apatít nghiền, giữ mức phân đạm như hiện nay. Điều chỉnh việc bố trí địa bàn cơ giới hoá, tăng cường quản lý, sử dụng máy kéo tập trung và có hiệu quả kinh tế cao hơn. Đẩy mạnh xây dựng các cơ sở giống, đến cuối năm 1975, phải có một hệ thống của Nhà nước từ trung ương đến cơ sở, về lúa, ngô, thuốc lá, đay, lợn, bò, gà, cá.
Công tác thủy lợi có vai trò ngày càng quan trọng trong công cuộc đưa nông nghiệp đi vào thâm canh, chuyên canh, sản xuất lớn xã hội chủ nghĩa, và trong nền kinh tế quốc dân, có trách nhiệm phục vụ cho nông nghiệp, công nghiệp và đời sống. Đẩy mạnh việc hoàn chỉnh thủy nông, xây dựng những công trình mới, làm tốt các công trình và các mặt công tác phòng và chống lũ lụt. Đến cuối năm 1976, trong điều kiện không có thiên tai lớn đột xuất, phải bảo đảm tưới, tiêu cho 90 vạn hécta canh tác ở đồng bằng và trung du.
3. Khôi phục và phát triển giao thông vận tải
Đẩy mạnh khôi phục và phát triển giao thông vận tải, kết hợp giữa vận tải đường sắt, đường thuỷ, đường bộ, bảo đảm giao lưu trong nước được thông suốt, phục vụ tốt kinh tế và quốc phòng. Khôi phục nhanh và điều chỉnh, mở rộng từng phần, quy hoạch lại từng bước hệ thống kho tàng, làm tốt khâu bốc dỡ hàng để tăng khả năng tiếp nhận hàng nhập. Cải tiến tổ chức quản lý ngành giao thông vận tải nhằm tăng năng suất của các loại phương tiện, phát huy tốt năng lực giao thông vận tải.
Trong hai năm 1974-1975, tập trung sức khôi phục, mở rộng cảng biển và đường sắt. Nạo vét xong các cảng Hải Phòng, Quảng Ninh và Khu IV cũ, tiếp tục khôi phục và mở rộng các cảng đã có, xây dựng các cảng tạm ở Khu IV. Giải quyết các khâu cần thiết để tăng khả năng vận chuyển trên các tuyến đường sắt. Đẩy mạnh nạo vét sông ngòi, mở rộng các cảng sông; tăng thêm phương tiện để cơ giới hoá vận tải đường sông, phát triển một bước ngành vận tải đường biển. Khôi phục các cầu đường bộ để phục vụ các khu công nghiệp, các vùng kinh tế mới và phục vụ vận chuyển cho miền Nam. Hoàn chỉnh các đường ống dẫn dầu đã có, khởi công xây dựng tuyến đường ống mới. Chuẩn bị các công trình dự phòng ở các cầu lớn, chú trọng tuyến đường thuộc Khu IV cũ.
Chuẩn bị điều kiện để xây dựng, phát triển từng bước ngành hàng không dân dụng.
Tăng cường năng lực sửa chữa và sản xuất phương tiện vận tải, tổ chức tốt việc hợp tác sản xuất để tận dụng năng lực sửa chữa và sản xuất của các ngành, các địa phương.
Tăng cường chỉ đạo việc phát triển giao thông vận tải địa phương, bố trí hợp lý sự phân công, phối hợp giữa vận tải trung ương và vận tải địa phương, giúp các địa phương phát triển mạng lưới và năng lực giao thông vận tải phù hợp với yêu cầu phát triển kinh tế của từng vùng. Trong điều kiện trang bị phương tiện cơ giới còn có hạn, phải rất coi trọng các phương tiện vận tải thô sơ và cải tiến.
4. Đẩy mạnh công tác xây dựng cơ bản
Vấn đề quan trọng hàng đầu là bảo đảm hoàn thành xây dựng các công trình với chất lượng tốt, giá thành hạ, đưa nhanh vào sản xuất hoặc sử dụng. Các ngành, các địa phương phải tập trung năng lực xây dựng nhằm đáp ứng những nhu cầu cấp bách, xây dựng có trọng điểm, có thứ tự ưu tiên, làm dứt điểm và làm xong đồng bộ. Chính phủ cần ban hành danh mục các công trình xây dựng trọng điểm, kiên quyết bảo đảm thời gian đưa các công trình đó vào sản xuất. Quy định chặt chẽ việc sử dụng vật liệu xây dựng, nhất là xi măng, sắt thép, gỗ, ưu tiên dành vật liệu cho những công trình then chốt. Quản lý nghiêm ngặt, hết sức hạn chế việc sử dụng đất canh tác vào xây dựng.
Khôi phục và xây dựng các thành phố, thị xã, khu công nghiệp, phải theo quy hoạch, tránh gây trở ngại cho việc xây dựng sau này. Thực hiện tốt kế hoạch xây dựng thêm nhà ở, tu sửa, cải tạo các công trình cung cấp điện, nước, thoát nước, các trường học, bệnh viện, cửa hàng. Giúp đỡ nhân dân các vùng nông thôn bị chiến tranh tàn phá nặng (nhất là ở các tỉnh Khu IV cũ) xây dựng lại nhà cửa, thôn xóm.
Bảo đảm kế hoạch xây dựng những công trình phòng và chống lũ lụt, nhất là củng cố đê, một số công trình phân lũ, làm chậm lũ, thoát lũ của hệ thống sông Hồng, bảo đảm chống được lũ lụt lớn như mức năm 1971.
Ngành xây dựng phải phát triển nhanh và vững chắc theo hướng tập trung và chuyên môn hóa, tăng cường công tác quản lý, nâng cao năng lực tổ chức, năng lực thiết kế và thi công, ban hành chính sách, chế độ quản lý về xây dựng.
5. Phấn đấu tăng xuất khẩu, bảo đảm kế hoạch nhập khẩu và mở rộng quan hệ kinh tế với nước ngoài
Tăng nhanh xuất khẩu để tăng khả năng nhập khẩu là một nguồn quan trọng để tăng tích luỹ. Nâng mức xuất khẩu năm 1975 lên bằng mức trước chiến tranh. Tăng xuất khẩu những mặt hàng có giá trị trao đổi cao, chú ý hơn nữa việc xuất khẩu sang thị trường tư bản chủ nghĩa để nhập một số nguyên liệu, vật tư, thiết bị cần thiết. Quản lý chặt chẽ kế hoạch nhập khẩu để tiết kiệm ngoại tệ, khuyến khích hàng sản xuất trong nước, dùng ngoại tệ với hiệu quả kinh tế cao.
Tăng cường hợp tác kinh tế, hợp tác khoa học, kỹ thuật với các nước xã hội chủ nghĩa anh em; xây dựng, phát triển quan hệ hợp tác kinh tế với vùng giải phóng Lào. Mở rộng quan hệ kinh tế, kỹ thuật với các nước khác nhằm tranh thủ thêm tiền vốn và kỹ thuật để khai thác có hiệu quả tài nguyên và tận dụng lực lượng lao động trong nước.
Công tác ngoại thương phải phục vụ các ngành sản xuất trong nước. Phát triển thêm các cơ sở chuyên sản xuất hàng xuất khẩu. Nghiên cứu chính sách nhằm khuyến khích các ngành kinh tế, các xí nghiệp, các địa phương sản xuất các mặt hàng xuất khẩu. Cải tiến phương thức thu mua và chính sách giá thu mua một số mặt hàng xuất khẩu.
6. Đẩy mạnh công tác lưu thông phân phối và quản lý tài chính, tiền tệ, giá cả
Chấn chỉnh và tăng cường thương nghiệp quốc doanh và hợp tác xã mua bán, mở rộng kinh doanh, tập trung cao nguồn hàng nông sản và hàng công nghiệp vào Nhà nước, phục vụ tốt sản xuất, đời sống và xuất khẩu.
Có biện pháp kinh tế và biện pháp hành chính, chỉ đạo chặt chẽ để kiên quyết xoá bỏ thị trường tự do về lương thực ở thành thị và nông thôn. Tăng cường quản lý việc phân phối lương thực, gắn chặt quản lý lương thực với quản lý lao động. Có kế hoạch xoá bỏ từng bước chế độ cung cấp phân phối hàng hoá.
Phấn đấu tăng thu giảm chi, thăng bằng thu chi ngân sách, giảm bội chi tiền mặt tới mức thấp nhất; đẩy mạnh việc động viên gửi tiền tiết kiệm. Tăng cường chỉ đạo giá cả thị trường, điều chỉnh những giá không hợp lý, tiếp tục thi hành chính sách hai giá và bổ sung chính sách thuế để đấu tranh với thị trường tự do. Quản lý chặt chẽ việc gửi các đoàn đi ra nước ngoài để tiết kiệm ngoại tệ.
7. Khôi phục và phát triển các hoạt động giáo dục, văn hoá, y tế
Các ngành giáo dục phổ thông, đại học và chuyên nghiệp phải cải tiến công tác quản lý, khôi phục và xây dựng cơ sở vật chất - kỹ thuật của các trường, đào tạo, bồi dưỡng giáo viên và cán bộ quản lý giáo dục nhằm nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện. Cải tiến công tác bồi dưỡng cán bộ khoa học, kỹ thuật và cán bộ quản lý đang công tác ở các ngành, các cấp. Hoàn thành việc chuẩn bị để thực hiện cải cách giáo dục.
Khôi phục và tăng cường cơ sở vật chất - kỹ thuật và cải tiến quản lý về mọi mặt trong ngành y tế, từ trên xuống dưới, nâng cao chất lượng phục vụ sức khoẻ của nhân dân. Học tập và sử dụng thành tựu y học tiên tiến của thế giới đồng thời khai thác, phát huy và nâng cao nền y học, kinh nghiệm phòng bệnh, chữa bệnh và nguồn dược liệu của dân tộc ta.
Tăng cường công tác bảo vệ bà mẹ và trẻ em, đặc biệt chú trọng công tác vận động sinh đẻ có kế hoạch, đạt tỷ lệ hợp lý về phát triển dân số.
Tăng cường quản lý, phát triển và nâng cao chất lượng các hoạt động bưu điện, thông tin, tuyên truyền, văn hoá nghệ thuật, thể dục thể thao, nhằm phục vụ tốt sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội. Bài trừ mê tín dị đoan và tục lệ lạc hậu trong ma chay, cưới xin..., xây dựng những thể lệ về nếp sống mới.
8. Ổn định đời sống nhân dân, giải quyết các vấn đề xã hội sau chiến tranh
Về ăn: Bảo đảm cung cấp theo định lượng, phục vụ tốt hơn hai bữa ăn chính và bữa ăn sáng cho các thành phố, khu công nghiệp, các công trường, nông trường, lâm trường. Cung cấp đủ rau, đủ tiêu chuẩn thịt, cá, nước chấm, nước mắm... cho công nhân, viên chức.
Về nhà ở: Dành số diện tích tăng thêm cho số công nhân, viên chức chưa có chỗ ở (nhất là ở khu công nghiệp tập trung). Xây dựng nhanh, dứt điểm đồng bộ cả công trình phụ của từng khu nhà, làm xong đến đâu là dùng được ngay đến đó.
Về tiền lương: Cải tiến một bước chế độ lương đối với những bộ phận lao động nặng nhọc nhất và lao động kỹ thuật phức tạp nhất.
Giải quyết tốt công việc làm cho thương binh, bệnh binh; ban hành sớm chính sách, chế độ đối với thương binh và quân nhân xuất ngũ tham gia sản xuất.
Các địa phương phải chăm sóc đời sống của gia đình liệt sĩ, của những người bị thương tật do chiến tranh, của trẻ em mồ côi, của những người già không có nơi nương tựa. Chính phủ nghiên cứu bổ sung chính sách, song chủ yếu là dựa vào lực lượng của nhân dân địa phương, phát huy tinh thần thương yêu, đùm bọc lẫn nhau.
9. Xúc tiến các công việc chuẩn bị cho kế hoạch dài hạn phát triển kinh tế và văn hoá
Khẩn trương nghiên cứu các dự án kế hoạch 5 năm (1976-1980), nghiên cứu quy hoạch phát triển (10-15 năm) các ngành kinh tế quan trọng, quy hoạch phân bố các vùng kinh tế, các thành phố và khu công nghiệp. Đẩy mạnh công tác điều tra khảo sát tài nguyên và điều kiện thiên nhiên, tiến hành một số cuộc điều tra về tình hình kinh tế, xã hội. Có quy hoạch đào tạo công nhân, cán bộ cho phù hợp với yêu cầu phát triển kinh tế và văn hoá. Có kế hoạch phát triển khoa học, kỹ thuật gắn chặt với kế hoạch dài hạn phát triển kinh tế, văn hoá.
10. Củng cố quốc phòng và huy động hợp lý lực lượng quốc phòng vào việc xây dựng kinh tế
Xây dựng quân đội nhân dân tiến lên chính quy, hiện đại, tăng cường công tác quân sự địa phương. Phổ cập và nâng cao chất lượng huấn luyện quân sự cho thanh niên, rèn luyện ý chí chiến đấu trong toàn quân, toàn dân. Thực hiện chặt chẽ chế độ nghĩa vụ quân sự. Tổ chức riêng một lực lượng thích hợp chuyên làm các nhiệm vụ kinh tế, đồng thời tạo điều kiện cho quân đội thường trực tham gia sản xuất. Kết hợp khả năng của công nghiệp quốc phòng với công nghiệp dân dụng, sử dụng một phần khả năng của công nghiệp quốc phòng phục vụ kinh tế. Kết hợp mục đích kinh tế với mục đích quốc phòng trong quy hoạch phát triển giao thông, bưu điện, xây dựng kho tàng và xí nghiệp quan trọng trong chủ trương, kế hoạch mở các vùng kinh tế mới, v.v..
III - NHỮNG CÔNG TÁC LỚN NHẰM BẢO ĐẢM THỰC HIỆN THẮNG LỢI NHIỆM VỤ KHÔI PHỤC VÀ PHÁT TRIỂN KINH TẾ
1. Sử dụng tốt lao động xã hội, bồi dưỡng và đào tạo lực lượng lao động kỹ thuật, ra sức tăng năng suất lao động
Yêu cầu trước mắt và lâu dài là phải có kế hoạch từng bước để tổ chức lại lao động xã hội trên quy mô cả nước.
Cần ban hành chế độ nghĩa vụ lao động, ban hành chính sách cưỡng bức lao động đối với những người có sức khoẻ mà không chịu lao động, lại làm những việc có hại cho xã hội. Động viên và tổ chức tốt mọi người làm việc thật sự, đúng chế độ, có kỷ luật, có kỹ thuật, có năng suất cao.
Có kế hoạch điều chỉnh lao động xã hội, tăng cường lực lượng lao động sản xuất và xây dựng, kiên quyết tinh giản biên chế trong khu vực nhà nước. Có chính sách, chế độ đối với cán bộ, nhân viên thuộc khu vực hành chính sự nghiệp chuyển sang sản xuất hoặc đối với những người không đủ sức làm việc sẽ ra ngoài biên chế.
Tăng năng suất lao động là nhiệm vụ hàng đầu của quản lý lao động, quản lý sản xuất. Bằng nhiều biện pháp để đạt và vượt mức năng suất lao động trước chiến tranh. Xúc tiến việc tổ chức lao động một cách hợp lý và tiến bộ hơn nhằm không ngừng tăng năng suất lao động xã hội.
Trong các xí nghiệp, cơ quan, cần đề cao kỷ luật lao động. quản lý chặt chẽ lao động theo tiêu chuẩn biên chế, theo định mức công việc, nắm định mức mà quản lý tốt lao động. Kịp thời khen thưởng chính xác người có ngày công cao, giờ công cao, thi hành chế độ trách nhiệm vật chất đối với những người vô trách nhiệm, lười biếng. Coi trọng việc trang bị đủ công cụ cho người lao động để bảo đảm tăng năng suất lao động.
Ở nông thôn, phải tận dụng từng ngày công lao động để thâm canh, tăng năng suất, gieo trồng hết diện tích, tăng vụ, đẩy mạnh chăn nuôi, chế biến nông sản và phát triển các nghề phụ gia đình. Mặt khác, tích cực điều bớt lao động ở đồng bằng đi xây dựng vùng kinh tế mới và xây dựng công nghiệp.
Ở thành phố, cố gắng giải quyết việc làm cho những người chưa có việc làm; phát triển thêm các ngành, nghề thủ công, tổ chức các lực lượng xây dựng, sửa chữa, phục vụ sinh hoạt đi xây dựng vùng kinh tế mới.
Giải quyết tốt các yêu cầu về đầu tư, chấn chỉnh tổ chức và quản lý để nâng cao chất lượng đào tạo, bồi dưỡng lực lượng lao động kỹ thuật, bao gồm cả công nhân, cán bộ và nhân viên quản lý. Chỉ đạo chặt chẽ việc đi nghiên cứu, thực tập hoặc đi học đại học và công nhân kỹ thuật ở nước ngoài.
Chuẩn bị chính sách và điều kiện để từ đầu kế hoạch 1976 - 1980, cải tiến một cách cơ bản các chế độ tiền lương, bảo hiểm xã hội, phúc lợi tập thể.
2. Quản lý, sử dụng tốt mọi nguồn vật tư, thiết bị, tiền vốn và tài nguyên
Phải dùng mọi biện pháp để khai thác năng lực sản xuất hiện có, tận dụng công suất của máy móc thiết bị, tận dụng nguồn vật tư nguyên liệu sẵn có để bảo đảm và đẩy mạnh sản xuất. Từng ngành, từng cơ sở, từng địa phương phải có kế hoạch thực hành triệt để tiết kiệm vật tư. Tổ chức thu thập nguyên liệu, vật tư và các phế liệu, phế phẩm loại ra trong sản xuất và đời sống để xử lý và dùng lại vào sản xuất. Quy định chặt chẽ, có chính sách thưởng, phạt để thực hiện nghiêm ngặt các loại định mức tiêu hao vật tư. Tích cực khai thác, tận dụng, bảo vệ tài nguyên trong nước.
Trong mọi lĩnh vực, mọi hoạt động, phải đạt hiệu quả cao nhất và tiết kiệm nhất cho nền kinh tế. Trước hết là tiết kiệm chi phí sản xuất và xây dựng, nghiêm chỉnh hạch toán chi phí, nâng cao hiệu quả của đồng vốn. Thẩm tra, xét duyệt chặt chẽ từ nhiệm vụ thiết kế, đến thiết kế và giá dự toán, quản lý chặt chẽ giá thành xây lắp. Quy định lại mức hạn ngạch các công trình nhằm tăng cường quản lý vốn, bảo đảm đầu tư tập trung và đạt hiệu quả kinh tế cao, khắc phục tình trạng phân tán vốn đầu tư.
Triệt để thực hành tiết kiệm trong mọi khoản chi tiêu của tất cả các cơ quan nhà nước, đảng, đoàn thể và quân đội; quản lý chặt chẽ các khoản chi tiền lương và có tính chất lương; nghiêm chỉnh chấp hành các chế độ, tiêu chuẩn chi tiêu. Ban hành chế độ trách nhiệm của thủ trưởng các ngành, các cấp, các đơn vị trong việc quản lý sử dụng vốn. Các cơ quan tài chính, ngân hàng phải làm tốt chức năng giám sát việc sử dụng vốn và tích cực huy động vốn, tăng nguồn thu cho ngân sách.
Nghiên cứu cải tiến giá cả nhằm khuyến khích sản xuất, góp phần giải quyết tốt hơn mối quan hệ thu nhập của các tầng lớp nhân dân, giảm các khoản chi bù lỗ, bù giá và tăng thêm nguồn thu cho Nhà nước.
3. Phát triển khoa học, kỹ thuật
Đi đôi với việc chuẩn bị cho sự nghiệp phát triển lâu dài, công tác khoa học, kỹ thuật, trong hai năm trước mắt, tập trung giải quyết những khâu mấu chốt để thâm canh tăng năng suất trong trồng trọt và thúc đẩy phát triển chăn nuôi; đẩy mạnh điều tra cơ bản, nghiên cứu khả năng tận dụng các nguồn nguyên liệu, vật liệu trong nước; giải quyết các vấn đề kỹ thuật trong việc sản xuất và sửa chữa thiết bị, phụ tùng thay thế cho các ngành.
Hết sức coi trọng việc nâng cao chất lượng sản phẩm, nhất là sản phẩm cơ khí và sản phẩm xuất khẩu. Chú trọng thúc đẩy cơ giới hoá, đồng thời tích cực sử dụng và sản xuất phương tiện, công cụ cải tiến có chất lượng để tăng năng suất lao động. Đẩy mạnh hợp lý hoá sản xuất, cải tiến kỹ thuật.
Tăng cường chỉ đạo công tác khoa học, kỹ thuật, cung cấp thoả đáng phương tiện, động viên và tổ chức tốt lực lượng cán bộ khoa học, kỹ thuật đi sâu vào thực tế để phục vụ đắc lực sự nghiệp phát triển kinh tế và củng cố quốc phòng. Chú ý bồi dưỡng lớp cán bộ khoa học, kỹ thuật nòng cốt. Ra sức học tập kỹ thuật của nước ngoài với tinh thần chủ động và sáng tạo.
4. Đưa công tác quản lý kinh tế vào nền nếp và cải tiến một bước cho phù hợp với điều kiện thực tế của nước ta
Nắm vững phương hướng của Nghị quyết Hội nghị lần thứ 20 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng, xoá bỏ lối quản lý hành chính, cung cấp, thực hiện quản lý theo phương thức kinh doanh xã hội chủ nghĩa; khắc phục cách tổ chức quản lý thủ công, phân tán theo lối sản xuất nhỏ, xây dựng cách tổ chức quản lý của nền công nghiệp lớn, nhằm thúc đẩy quá trình đưa nền kinh tế quốc dân từ sản xuất nhỏ tiến lên sản xuất lớn xã hội chủ nghĩa.
Trong hai năm, các ngành, các cấp, các đơn vị cơ sở phải ra sức đưa mọi mặt quản lý vào nền nếp và tuỳ theo điều kiện cụ thể mà cải tiến một bước.
Tổ chức nghiên cứu việc vận dụng các quy luật kinh tế của chủ nghĩa xã hội vào công tác cải tiến quản lý; xúc tiến làm thí điểm và chuẩn bị các điều kiện để trong thời gian kế hoạch 5 năm sắp tới (1976 - 1980), xây dựng được hệ thống quản lý kinh tế phù hợp với điều kiện cụ thể của nước ta.
Thực hiện từng bước việc quản lý và kế hoạch hoá theo ngành kết hợp với quản lý và kế hoạch hoá theo lãnh thổ, vừa xây dựng tốt kinh tế trung ương vừa khuyến khích phát triển kinh tế địa phương theo kế hoạch chung của nền kinh tế quốc dân.
Kế hoạch là công cụ chủ yếu của công tác quản lý. Phải tăng cường lãnh đạo việc lập kế hoạch và cải tiến công tác kế hoạch hoá, làm cho kế hoạch thể hiện được cụ thể đường lối, chủ trương của Đảng trong bước đi thích hợp cho từng ngành, từng địa phương, qua từng thời kỳ phát triển kinh tế. Thực hiện đúng đắn nguyên tắc tập trung dân chủ trong công tác kế hoạch hoá, bảo đảm cho Nhà nước tập trung nắm các chỉ tiêu quan trọng của nền kinh tế quốc dân, đồng thời phát huy tinh thần tự chịu trách nhiệm của cấp dưới trong việc xây dựng và thực hiện kế hoạch. Phấn đấu tích cực để khắc phục từng bước những mặt mất cân đối lớn về kinh tế và tài chính; thống nhất kế hoạch hiện vật với kế hoạch giá trị, coi trọng các chỉ tiêu chất lượng. Đi đôi với kế hoạch sản xuất, phải có kế hoạch tiến bộ kỹ thuật. Tăng cường điều tra, nghiên cứu, nắm tình hình; kết hợp chặt chẽ việc làm kế hoạch với việc nghiên cứu và áp dụng các chính sách kinh tế.
Bộ máy quản lý nhà nước, quản lý kinh tế phải bảo đảm quyền tập trung thống nhất của Trung ương đồng thời bảo đảm phát huy dân chủ,tạo điều kiện cho các tỉnh, thành chủ động trong việc khai thác và sử dụng mọi khả tiềm tàng của mình, chủ động trong việc từng bước phân công lại lao động xã hội, nhằm phát triển sản xuất, vừa làm tròn nghĩa vụ đối với cả nước, vừa chăm sóc tốt đời sống nhân dân ở địa phương.
Chấn chỉnh bộ máy quản lý kinh tế của các ngành, các tỉnh, đặc biệt coi trọng việc kiện toàn cấp huyện, kiện toàn tổ chức quản lý, tổ chức sản xuất ở các đơn vị cơ sở. Tăng cường các khâu quản lý quan trọng như lao động, vật tư, tài chính, thực hiện chặt chẽ chế độ hạch toán kinh tế ở tất cả các đơn vị sản xuất và kinh doanh. Phát huy đúng mức tác dụng thiết thực của việc trả lương theo sản phẩm và của các đòn bẩy kinh tế khác.
Thi hành chế độ thủ trưởng trong hệ thống quản lý kinh tế quốc doanh, chế độ trách nhiệm cá nhân ở tất cả các khâu quản lý. Thủ trưởng phải làm đầy đủ nhiệm vụ, sử dụng đầy đủ quyền hạn của mình theo quy định của Nhà nước, chịu trách nhiệm hoàn toàn về các nhiệm vụ được cấp trên giao cho đơn vị mình, ngành mình.
(Sẽ có quy định cụ thể về chức năng, nhiệm vụ của tổ chức đảng, của thủ trưởng và vai trò của quần chúng).
5. Củng cố và hoàn thiện một bước quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa
Đi đôi với phát triển sức sản xuất, phải củng cố và hoàn thiện một bước quan hệ sản xuất mới trong cả khu vực kinh tế quốc doanh và khu vực kinh tế tập thể, đồng thời tiếp tục cải tạo xã hội chủ nghĩa đối với kinh tế cá thể.
Đối với khu vực kinh tế quốc doanh, phải quản lý chặt chẽ nội bộ các đơn vị kinh tế cơ sở, các cơ quan nhà nước, kiên quyết bài trừ mọi hành động xâm phạm tài sản xã hội chủ nghĩa, móc ngoặc, hối lộ, lấy cắp vật tư, hàng hoá của Nhà nước. Phát huy quyền làm chủ tập thể của công nhân, viên chức trong công tác tổ chức và quản lý kinh tế, giải quyết tốt các mối quan hệ xã hội chủ nghĩa trong lao động sản xuất và phân phối, làm cho kinh tế quốc doanh ngày càng phát huy vai trò chủ đạo và tính ưu việt trong nền kinh tế quốc dân.
Đối với khu vực tập thể, nhất là các hợp tác xã nông nghiệp, chú trọng củng cố chế độ sở hữu tập thể về các tư liệu sản xuất chủ yếu, tăng cường và cải tiến công tác quản lý, phát huy quyền làm chủ tập thể của xã viên, thực hiện đúng điều lệ hợp tác xã. Phân công lại lao động theo hướng đi vào chuyên môn hoá để có năng suất cao; quản lý chặt chẽ việc sử dụng lao động, tiền vốn, tư liệu sản xuất và ruộng đất (kể cả đất 5% dành cho chăn nuôi). Ban hành Luật ruộng đất nhằm bảo vệ đất đai canh tác, bảo vệ chế độ sở hữu xã hội chủ nghĩa đối với ruộng đất. Thực hiện đúng nguyên tắc phân phối theo lao động, đồng thời phát huy tinh thần tương trợ, giúp đỡ nhau trong hợp tác xã. Giải quyết tốt mối quan hệ giữa hợp tác xã với Nhà nước, giữa các hợp tác xã với nhau, bài trừ mọi hành động làm ăn không chính đáng, thực hiện tốt nghĩa vụ đóng góp sản phẩm cho Nhà nước, nghĩa vụ phục vụ sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội. Trong năm 1974, hướng dẫn việc áp dụng thí nghiệm Điều lệ (chi tiết) của hợp tác xã nông nghiệp bậc cao, sau đó triệu tập Đại hội đại biểu nông dân xã viên toàn miền Bắc để thảo luận, thông qua bản Điều lệ đó trước khi Nhà nước phê chuẩn.
Củng cố và phát triển các hợp tác xã mua bán và hợp tác xã tín dụng ở nông thôn.
Củng cố quan hệ sản xuất và đẩy mạnh sản xuất trong các hợp tác xã nghề cá, nghề muối, tăng cường lãnh đạo và quản lý các hợp tác xã tiểu công nghiệp và thủ công nghiệp.
Trong tất cả các loại hợp tác xã, Đảng phải coi trọng công tác giáo dục xã hội chủ nghĩa cho xã viên, tăng cường công tác thanh tra, hướng dẫn của Nhà nước. Chi bộ đảng, chi đoàn thanh niên lao động Hồ Chí Minh ở từng cơ sở kinh tế tập thể phải là hạt nhân vô sản, giương cao ngọn cờ chủ nghĩa xã hội, tiến hành thắng lợi cuộc đấu tranh giữa hai con đường xã hội chủ nghĩa và tư bản chủ nghĩa, bằng công tác tổ chức và quản lý, bằng giáo dục tư tưởng, xây dựng cho được tác phong và nền nếp lao động tập thể, chống những hành động xâm phạm lợi ích của Nhà nước và của tập thể, chống những việc làm phi pháp, tuỳ tiện, những thủ đoạn gian dối. Đồng thời với việc củng cố, phát triển và quản lý tốt lực lượng thương nghiệp quốc doanh và hợp tác xã mua bán, phải tăng cường quản lý thị trường, tiếp tục cải tạo xã hội chủ nghĩa đối với những người buôn bán nhỏ. Tăng cường quản lý vật tư, hàng hoá của Nhà nước, ngăn chặn nguồn hàng từ xí nghiệp, cơ quan nhà nước lọt ra thị trường tự do. Nghiêm trị bọn đầu cơ, tích trữ, buôn bán trái phép.
6. Tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa
Phát huy chức năng và tác dụng của pháp chế xã hội chủ nghĩa, để tăng cường vai trò quản lý của Nhà nước, phát huy quyền làm chủ tập thể của quần chúng.
Pháp chế xã hội chủ nghĩa phải thúc đẩy mọi người nâng cao trách nhiệm trong lao động sản xuất, trong quản lý kinh tế, trong việc bảo vệ tài sản xã hội chủ nghĩa. Ban hành các luật lệ để cụ thể hoá và bảo vệ quyền dân chủ xã hội chủ nghĩa, ngăn chặn những hành động lạm quyền, trù ép, ức hiếp nhân dân hoặc vu cáo, báo thù những người trung thực.
Phải làm rất tốt công tác trị an, kiên quyết trừng trị những hành động vi phạm pháp luật, phá rối trật tự trị an xã hội.
Tăng cường công tác giám sát, thanh tra, kiểm tra và giải quyết những việc nhân dân khiếu nại, tố giác.
Tuân theo pháp luật, ủng hộ việc thi hành pháp luật, là nghĩa vụ của mọi người công dân, đồng thời là một nội dung của đạo đức mới, nếp sống mới. Thường xuyên giáo dục cho cán bộ, đảng viên và nhân dân hiểu rõ và tuân theo pháp luật, động viên mạnh mẽ dư luận xã hội đấu tranh ngăn chặn và bài trừ mọi hành động phạm pháp.
*
* *
IV- TĂNG CƯỜNG SỰ LÃNH ĐẠO CỦA ĐẢNG VÀ QUYỀN LỰC CỦA NHÀ NƯỚC,
PHÁT HUY VAI TRÒ LÀM CHỦ TẬP THỂ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA CỦA QUẦN CHÚNG
Đảng, Nhà nước và quần chúng là ba bộ phận quan trọng trong hệ thống chuyên chính vô sản dưới sự lãnh đạo của Đảng, có quan hệ hữu cơ với nhau, mỗi bộ phận có chức năng riêng, nhưng tất cả mọi hoạt động phải gắn bó với nhau, cùng nhằm một hướng: làm chuyển biến tình hình thực hiện thắng lợi những nhiệm vụ kinh tế to lớn, cấp bách trong hai năm 1974 - 1975 cũng như các nhiệm vụ cơ bản và lâu dài. Đường lối của Đảng phải trở thành đường lối cụ thể và chính sách của Nhà nước, thâm nhập vào quần chúng, biến thành ý chí cách mạng và phong trào cách mạng của quần chúng.
1. Trước hết, tăng cường sự lãnh đạo của Trung ương Đảng đối với công tác kinh tế, nhất là về mặt cụ thể hoá đường lối, bổ sung chính sách và tổng kết công tác, vừa nhằm đẩy mạnh sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội vừa bồi dưỡng và nâng cao trình độ, năng lực cán bộ.
Đường lối, chủ trương, chính sách phải thông suốt trong toàn Đảng và thực hiện thắng lợi bằng tổ chức. Từ sản xuất nhỏ tiến lên sản xuất lớn xã hội chủ nghĩa, một nhược điểm lớn của Đảng và Nhà nước ta từ trên xuống dưới là về tổ chức còn mang nặng tính tản mạn, cục bộ của sản xuất nhỏ. Phải rất coi trọng nắm tổ chức, xây dựng lực lượng tổ chức, không ngừng nâng cao trình độ, năng lực tổ chức để đáp ứng yêu cầu công nghiệp hoá xã hội chủ nghĩa. Công tác tổ chức của Đảng cần được tăng cường và cải tiến cho phù hợp với tình hình và nhiệm vụ mới. Cần kiện toàn tổ chức lãnh đạo và bộ máy quản lý ở trung ương và các cấp, trước hết là những ngành, những địa phương và đơn vị trọng yếu.
Các cấp uỷ đảng, từ trên xuống dưới, cần cải tiến lãnh đạo. Phát huy chế độ lãnh đạo tập thể, đồng thời phát huy trách nhiệm cá nhân. Bảo đảm tốt việc truyền đạt và tổ chức thực hiện nghiêm chỉnh các nghị quyết, tăng cường công tác kiểm tra thường xuyên của Đảng. Trong công tác lãnh đạo thực hiện, phải tập trung sức vào những khâu then chốt, đi sát thực tế, lắng nghe ý kiến của quần chúng và cán bộ cấp dưới, coi trọng việc kiểm điểm công tác, phê bình, tự phê bình, rút kinh nghiệm, sơ kết, tổng kết. Trong việc phân công, tránh tình trạng một người kiêm nhiệm nhiều việc. Trong lề lối làm việc, coi trọng việc điều tra nghiên cứu, phân tích nhiều mặt, tính toán khách quan; chăm lo củng cố, bồi dưỡng và sử dụng đúng chức năng những tổ chức giúp việc.
Công tác xây dựng đảng phải gắn chặt với việc chấp hành đường lối, chính sách và các nhiệm vụ, đặc biệt là về kinh tế. Các cấp, các ngành phải chấp hành tốt Nghị quyết 195, Nghị quyết 225 của Bộ Chính trị và Chỉ thị 192 của Ban Bí thư, tích cực xây dựng đảng về tư tưởng và tổ chức. Toàn Đảng có trách nhiệm xây dựng đảng vững mạnh và trong sạch, có trách nhiệm bảo vệ và củng cố sự đoàn kết, nhất trí trong Đảng. Kiên định lập trường giai cấp công nhân, gương mẫu trong hành động và gương mẫu về đạo đức cách mạng, nêu cao tinh thần trách nhiệm, ý thức tổ chức và kỷ luật, xây dựng ý thức và tác phong phù hợp với nhiệm vụ công nghiệp hoá xã hội chủ nghĩa,rèn luyện cách làm việc sâu sát, thiết thực, hợp tác xã hội chủ nghĩa. Kiên quyết đấu tranh chống những biểu hiện của chủ nghĩa cá nhân, chủ nghĩa cơ hội, không đứng vững trên lập trường của Đảng, thấy đúng không dám bảo vệ, thấy sai không dám đấu tranh; khắc phục tư tưởng dao động tiểu tư sản; chống tệ nói dối, báo cáo sai sự thật, chống tác phong quan liêu, hách dịch, tự do chủ nghĩa, nói năng tuỳ tiện.
Coi trọng việc củng cố chi bộ, đảng bộ cơ sở, nhất là ở các cơ sở kinh tế quốc doanh, các hợp tác xã. Bồi dưỡng kiến thức và năng lực cho đảng viên làm tốt vai trò lãnh đạo quần chúng, giữ vững và tăng cường mối liên hệ mật thiết giữa Đảng với quần chúng. Nâng cao chất lượng sinh hoạt chi bộ, qua đó mà nâng cao tính tiền phong, gương mẫu của đảng viên trong sản xuất, công tác và đời sống. Đề cao tự phê bình và phê bình trong Đảng, phê bình từ dưới lên, từ trên xuống, kiên quyết phê phán và xử lý đối với những đảng viên, cán bộ không làm tròn nhiệm vụ, không gương mẫu, làm hại đến uy tín của Đảng và Nhà nước; kiên quyết đưa ra khỏi Đảng những người không đủ tiêu chuẩn đảng viên.
Đối với cán bộ, kể cả cán bộ cao cấp, Đảng cần quan tâm bồi dưỡng trình độ, năng lực công tác và giúp đỡ, phê bình, nói rõ chỗ mạnh, chỗ yếu, theo tiêu chuẩn cán bộ và nhiệm vụ được giao.
Đảng phải tăng cường công tác tư tưởng nhằm đẩy mạnh phong trào cách mạng của quần chúng trong sản xuất và công tác. Làm cho mọi người thấu suốt nội dung Nghị quyết lần này, là yêu cầu quan trọng nhất của công tác tư tưởng. Làm cho mọi người thấy rõ thắng lợi, thấy rõ những cố gắng của Nhà nước và nhân dân ta, đánh giá đúng khả năng tiềm tàng to lớn và thuận lợi của ta, nhận rõ các khó khăn trong nền kinh tế, để nâng cao tinh thần trách nhiệm đối với sự nghiệp chung của đất nước. Chú trọng công tác nghiên cứu lý luận nhằm soi sáng những vấn đề thực tiễn của cách mạng Việt Nam, tiếp tục giáo dục những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lênin. Tăng cường đoàn kết nhất trí, phát huy hơn nữa tinh thần cách mạng tiến công, dám nghĩ dám làm, ý thức tự lực tự cường, tự lực cánh sinh, cố gắng tự giải quyết các vấn đề của ngành, của địa phương và đơn vị mình. Biểu dương người tốt, việc tốt, phê phán tư tưởng bảo thủ, tiêu cực, tự tư tự lợi, tính lười biếng, những hành động vô tổ chức, vô trách nhiệm, xâm phạm tài sản của Nhà nước và của tập thể.
2. Nâng cao trách nhiệm và hiệu lực quản lý của hệ thống chính quyền các cấp, lựa chọn cán bộ có phẩm chất, có năng lực, có quan hệ tốt với quần chúng để phụ trách các công tác quan trọng của Nhà nước. Nắm lại lực lượng cán bộ quản lý, cán bộ khoa học, kỹ thuật, đặc biệt chú ý lớp công nhân kỹ thuật và cán bộ trẻ, xuất sắc, được rèn luyện, trưởng thành từ cơ sở. Nghiên cứu toàn diện chính sách và chủ trương cụ thể để sử dụng tốt lực lượng cán bộ khoa học, kỹ thuật.
Hội đồng Chính phủ cần được kiện toàn để bảo đảm sự chỉ đạo và tổ chức thực hiện các công tác trọng yếu. Xúc tiến việc chấn chỉnh, kiện toàn cơ quan lãnh đạo của các ngành kinh tế quan trọng.
Ở cấp tỉnh và thành phố, cần phân biệt rành mạch công việc đảng và công việc chính quyền; nói chung các đồng chí làm công tác chính quyền không nên kiêm phụ trách các ban của Đảng.
Phát huy hơn nữa chức năng của Quốc hội, của Hội đồng nhân dân các cấp trong việc xây dựng và quản lý kinh tế, quản lý xã hội, trong việc giám sát cơ quan hành chính các cấp. Uỷ ban hành chính các cấp cần tạo điều kiện thuận lợi cho các đại biểu Quốc hội và Hội đồng nhân dân các cấp tiếp xúc với các cử tri để nghe ý kiến của nhân dân đồng thời giải thích chính sách và pháp luật cho cử tri.
3. Phát động phong trào thi đua yêu nước, phát huy mạnh mẽ vai trò làm chủ tập thể của quần chúng
Công cuộc khôi phục và phát triển kinh tế, xây dựng chủ nghĩa xã hội là sự nghiệp của nhân dân.
Phải phát động phong trào cách mạng sâu rộng của quần chúng theo ba hướng lớn: hăng hái thi đua lao động sản xuất và thực hành tiết kiệm; tích cực tham gia xây dựng nền nếp quản lý kinh tế, củng cố và hoàn thiện một bước quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa; đấu tranh xoá bỏ những tệ nạn xã hội và những hiện tượng tiêu cực trong sản xuất và đời sống.
Phong trào thi đua lao động sản xuất và thực hành tiết kiệm nhằm vào mục tiêu: không ngừng tăng năng suất lao động, nâng cao chất lượng, hạ giá thành sản phẩm, hoàn thành toàn diện kế hoạch nhà nước.
Động viên, tổ chức quần chúng nhất là công nhân, nông dân tập thể, trí thức xã hội chủ nghĩa, hăng hái tiến quân vào mặt trận kinh tế, mặt trận khoa học kỹ thuật; tích cực giải quyết những điều kiện vật chất và tinh thần, chính sách và tổ chức để bảo đảm cho phong trào thi đua được sôi nổi và liên tục.
Giáo dục sâu sắc cho quần chúng về nghĩa vụ và quyền lợi của người công dân trong chế độ ta, về ý thức làm chủ tập thể xã hội chủ nghĩa. Cần tổ chức một cách thiết thực các hình thức quần chúng làm chủ tập thể trong quản lý kinh tế và các hình thức để quần chúng trực tiếp giám sát hoạt động của các cơ quan nhà nước.
Lãnh đạo tốt hoạt động của Công đoàn, Đoàn Thanh niên Lao động Hồ Chí Minh, Hội Phụ nữ và các đoàn thể khác trong Mặt trận Tổ quốc Việt Nam.
Trong quá trình nghiên cứu và quyết định các chủ trương, chính sách lớn có liên quan đến nghĩa vụ, quyền lợi và đời sống của nhân dân, cấp uỷ đảng và chính quyền cần hết sức lắng nghe ý kiến của Mặt trận, của các đoàn thể. Mặt khác, các đoàn thể cần cải tiến tổ chức và phương thức hoạt động, khắc phục tác phong quan liêu, sự vụ, hô hào chung chung; ra sức phát huy vai trò và tác dụng của mình một cách thiết thực, có hiệu quả.
Để thực hiện Nghị quyết Hội nghị lần này của Ban Chấp hành Trung ương Đảng:
1- Tổ chức truyền đạt ngay cho cán bộ, đảng viên về tinh thần và nội dung Nghị quyết. Tiếp sau đó, tổ chức sinh hoạt chính trị trong Đảng và ngoài quần chúng, để thảo luận, hiểu rõ Nghị quyết, kiểm điểm khuyết điểm của ngành, của địa phương và đơn vị cơ sở, bàn biện pháp cụ thể để thi hành Nghị quyết. Phải làm những việc này một cách thiết thực, tránh hình thức, phải nhấn mạnh những điều có liên quan nhất với đơn vị mình, và phải giữ gìn bí mật quốc gia.
Phát động ngay phong trào quần chúng rộng khắp để đẩy mạnh việc thực hiện kế hoạch nhà nước năm 1974 với khí thế cách mạng sôi nổi. Tăng cường ngay công tác quản lý lao động, quản lý vật tư, quản lý thị trường, kiên quyết đấu tranh chống tệ lấy cắp của công và làm ăn phi pháp.
2- Kiện toàn sớm một số cơ quan chủ chốt của Trung ương Đảng và Chính phủ. Các ngành, các cấp, trong phạm vi trách nhiệm và quyền hạn của mình, chấn chỉnh ngay những bộ máy quản lý chủ yếu, đồng thời có kế hoạch chuẩn bị chu đáo việc tinh giản biên chế, chấn chỉnh tổ chức.
3- Thường vụ Hội đồng Chính phủ, các ngành ở trung ương, các cấp uỷ đảng có kế hoạch thực hiện Nghị quyết trong phạm vi trách nhiệm và quyền hạn của mình, có kế hoạch kiểm tra việc thực hiện. Các đồng chí lãnh đạo các cấp, các ngành, từ trung ương đến đơn vị cơ sở, phải đề cao tinh thần trách nhiệm bảo đảm thực hiện đầy đủ các nghị quyết của Đảng và Nhà nước.
*
* *
Nhân dân cả nước ta bước vào giai đoạn phát triển mới rất vẻ vang của cách mạng nước ta. Cuộc đấu tranh cách mạng ở miền Nam đã giành được thắng lợi to lớn, song nhân dân ta còn phải tiếp tục đấu tranh lâu dài, gay go, phức tạp nhằm hoàn thành độc lập dân chủ ở miền Nam, thực hiện hoà bình thống nhất nước nhà. Sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc đặt ra nhiều nhiệm vụ trọng đại, phải vượt qua nhiều khó khăn. Tình hình đó đòi hỏi toàn Đảng, toàn dân ta kiên trì và quyết tâm phấn đấu, hoàn thành nhiệm vụ vẻ vang của mình.
Các ngành, các cấp cần thấu suốt và thực hiện nghiêm chỉnh lời căn dặn của Hồ Chủ tịch là phải có kế hoạch thật tốt để phát triển kinh tế và văn hoá, chăm lo đời sống của nhân dân.
Hội nghị lần thứ 22 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng tin tưởng rằng: nhân dân ta đã đánh thắng giặc Mỹ xâm lược, giành được những thành quả cách mạng vĩ đại trên cả hai miền của Tổ quốc, thì nhất định sẽ thực hiện tốt nhất và trọn vẹn Di chúc thiêng liêng của Hồ Chủ tịch kính yêu. Đảng ta đã lãnh đạo thắng lợi cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước trong những điều kiện rất ác liệt, và phức tạp, thì nhất định sẽ lãnh đạo tốt công cuộc khôi phục và phát triển kinh tế, đưa sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc tiến lên những bước phát triển mới. Toàn thể cán bộ, đảng viên và toàn dân, toàn quân, hãy tăng cường đoàn kết chung quanh Trung ương Đảng, nêu cao tinh thần chiến thắng và chủ nghĩa anh hùng cách mạng, tiến lên hoàn thành mọi nhiệm vụ trong giai đoạn mới.
Ra sức lao động sản xuất và thực hành tiết kiệm, đẩy mạnh khôi phục và phát triển kinh tế, kết hợp chặt chẽ kinh tế với quốc phòng, xây dựng miền Bắc vững mạnh về mọi mặt, tích cực chi viện cách mạng miền Nam!
Ra sức làm theo lời dạy của Bác Hồ: Thi đua mỗi người làm việc bằng hai, cần kiệm xây dựng chủ nghĩa xã hội!
Nhất định nhân dân ta sẽ giành được thắng lợi mới to lớn hơn nữa trong sự nghiệp cách mạng dân tộc dân chủ ở miền Nam và xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc!
Tổ quốc ta nhất định sẽ thống nhất!
T/M BAN CHẤP HÀNH TRUNG ƯƠNG BÍ THƯ THỨ NHẤT
LÊ DUẨN
Lưu tại Kho Lưu trữ
Trung ương Đảng.