Nghị quyết số 41-NQ/TW ngày 28/12/1981, Hội nghị lần thứ 11 Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa IV) về phương hướng, nhiệm vụ kinh tế - xã hội năm 1982

Từ ngày 7 đến ngày 16-12-1981, Ban Chấp hành Trung ương Đảng đã họp để kiểm điểm tình hình năm 1981 và quyết định phương hướng, nhiệm vụ kinh tế - xã hội năm 1982. 



Việc thực hiện các chủ trương, chính sách mới của Bộ Chính trị, Ban Bí thư và Hội đồng Bộ trưởng, theo tinh thần các nghị quyết Hội nghị lần thứ sáu và lần thứ chín của Ban Chấp hành Trung ương Đảng, cùng với quá trình chuẩn bị Đại hội lần thứ V của Đảng, đã làm chuyển biến một bước nhận thức, tư tưởng và hành động của các cấp, các ngành, nhất là của các đơn vị cơ sở, đưa lại những thành tựu tương đối tốt trên một số lĩnh vực kinh tế và xã hội trong năm 1981. 

Trong nông nghiệp, việc khoán sản phẩm cuối cùng đến nhóm và người lao động cùng với một số chính sách khuyến khích sản xuất đã kích thích nông dân hăng hái, phấn khởi tận dụng lao động, đất đai, khai thác các khả năng sẵn có, làm đúng thời vụ, ứng dụng tiến bộ kỹ thuật để phát triển sản xuất, nâng cao hiệu quả kinh tế. Một số địa phương đã vươn lên tự giải quyết được nhu cầu tại chỗ về ăn, tăng phần đóng góp cho Nhà nước và tăng hàng xuất khẩu. Trong điều kiện phân hoá học, thuốc trừ sâu, năng lượng được cung ứng ít hơn trước, nông nghiệp đã được mùa tương đối toàn diện, đời sống nông dân được cải thiện và quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa ở nông thôn được củng cố thêm một bước; ở một số vùng thuộc Nam Bộ, nông dân có bước chuyển mới theo hướng làm ăn tập thể. Do điều chỉnh giá mua và có phương thức thích hợp, Nhà nước đã thu mua được một khối lượng lương thực, thực phẩm và nông sản nhiều hơn trước. 

Trong công nghiệp, việc mở rộng quyền chủ động sản xuất, kinh doanh và việc áp dụng các hình thức lương sản phẩm, lương khoán, tiền thưởng đang thúc đẩy công nhân ở nhiều cơ sở phát huy tinh thần tự lực, tính chủ động, sáng tạo để khắc phục khó khăn, đẩy mạnh sản xuất. Trong điều kiện năng lượng, vật tư ít hơn trước, sản xuất công nghiệp, nhất là công nghiệp địa phương, đã đạt kế hoạch và tăng hơn so với năm 1980, một số xí nghiệp công nghiệp, hợp tác xã tiểu công nghiệp và thủ công nghiệp vượt kế hoạch. Một số công trình xây dựng trọng điểm bảo đảm đúng tiến độ thi công. 

Sự nghiệp giáo dục, văn hoá, nghệ thuật, y tế, thể dục thể thao tiếp tục phát triển; một số địa phương tích cực thực hiện chủ trương "Nhà nước và nhân dân cùng làm", đạt được kết quả tốt. 

Những cố gắng và thành tựu trong năm qua khẳng định phải tiếp tục đổi mới quản lý kinh tế theo phương hướng đúng đắn đã bước đầu thực hiện, đồng thời chỉ ra những cách làm mới về kế hoạch hoá, phù hợp với quá trình tiến từ sản xuất nhỏ lên sản xuất lớn xã hội chủ nghĩa, cho phép khai thác tốt hơn những khả năng hiện thực, đưa nền kinh tế tiến lên. 

Song, những tiến bộ kể trên chưa mạnh, chưa đều. Trong tổ chức thực hiện, chúng ta có nhiều khuyết điểm: 

- Công tác chỉ đạo và điều hành kinh tế thiếu chặt chẽ, kịp thời. Diện tích lúa ở Nam Bộ không đạt kế hoạch; sản xuất màu giảm sút ở một số vùng. Nạn phá rừng, cháy rừng còn nghiêm trọng. Kế hoạch sản xuất vải, giấy, săm lốp và phụ tùng xe đạp, thuốc chữa bệnh, đạt thấp. Kế hoạch sản xuất phân đạm, ximăng, công cụ cầm tay, phụ tùng máy kéo... cũng không đạt. Xuất nhập khẩu và giao thông vận tải vẫn chưa có chuyển biến. Tình trạng phân tán, dàn đều trong phân phối năng lượng, vật tư cho sản xuất và trong xây dựng cơ bản chậm được khắc phục. 

- Cơ chế quản lý còn mang nặng tính chất quan liêu bao cấp. Chủ trương ba cấp cơ bản làm kế hoạch gắn với hạch toán kinh tế và kinh doanh chưa được cụ thể hoá và thực hiện tích cực; quyền làm chủ tập thể của nhân dân lao động chậm được xây dựng. Thiếu kết hợp chặt chẽ ba loại biện pháp: kinh tế, hành chính và giáo dục. 

- Phương hướng cải tiến phân phối, lưu thông là đúng, nhưng chỉ đạo thực hiện có nhiều sai sót. Việc quản lý hàng, quản lý tiền và quản lý thị trường thiếu chặt chẽ. Việc điều chỉnh giá bán buôn tính toán có chỗ thiếu chính xác, chuẩn bị chưa chu đáo, chỉ đạo không toàn diện, và kỷ luật giá cả có nơi có lúc chấp hành không nghiêm, đã gây biến động đột ngột, không có lợi cho sản xuất và đời sống của những người ăn lương. 

- Việc điều chỉnh ruộng đất ở nông thôn Nam Bộ làm chậm và không kiên quyết; việc cải tạo nông nghiệp có phần do dự vì chưa tìm ra cách làm và bước đi thích hợp; việc tiếp tục cải tạo xã hội chủ nghĩa đối với công thương nghiệp ở miền Nam bị buông lỏng. Trừng trị chưa nghiêm và chưa kịp thời bọn đầu cơ, buôn lậu, ăn cắp, hối lộ, bọn lưu manh, côn đồ. Thiếu cảnh giác đối với hoạt động phá hoại của địch. 

Các cấp, các ngành cần tự phê bình và phê bình nghiêm túc, rút ra những bài học kinh nghiệm thiết thực của năm qua, nhằm chuyển biến mạnh mẽ và toàn diện hơn trong lãnh đạo và quản lý kinh tế, quản lý xã hội. 

II 

Bước sang năm 1982, chúng ta đứng trước những khó khăn lớn: 

- Những mặt mất cân đối trong nền kinh tế quốc dân đã nêu trong Nghị quyết Hội nghị lần thứ chín của Ban Chấp hành Trung ương Đảng chưa được giải quyết về cơ bản, có mặt còn nghiêm trọng. Lương thực và thực phẩm tuy tăng khá song vẫn chưa đủ; hàng tiêu dùng thiết yếu còn thiếu nhiều; đời sống của công nhân, viên chức, bộ đội còn nhiều khó khăn. Năng lượng, nguyên liệu, vật liệu thiếu và giao thông vận tải yếu kém vẫn còn là trở ngại cho sản xuất và xây dựng. Tài chính và tiền tệ bị mất cân đối lớn. Số người lao động thiếu việc làm còn nhiều. 

Những căn bệnh của cơ chế quản lý quan liêu bao cấp chưa khắc phục hết còn cản trở sự phát triển kinh tế. Năng lực tổ chức và quản lý của nhiều cán bộ chưa được nâng lên kịp với yêu cầu nhiệm vụ mới. Phong trào cách mạng của quần chúng chưa được đều khắp trên các mặt trận cải tạo và xây dựng, sản xuất và quản lý. 

- Kẻ thù vẫn tiếp tục âm mưu làm suy yếu và thôn tính nước ta, trước mắt chúng đang tiến hành một kiểu chiến tranh phá hoại nhiều mặt, buộc ta phải nâng cao cảnh giác, củng cố hơn nữa quốc phòng và an ninh, bảo vệ vững chắc Tổ quốc xã hội chủ nghĩa. 

Để vượt những khó khăn đó, chúng ta có những thuận lợi cơ bản, những nhân tố mới rất quan trọng: 

- Đảng ta có đường lối đúng. Trong quá trình chuẩn bị và sau Đại hội toàn quốc lần thứ V của Đảng, sự nhất trí về chính trị và tinh thần trong toàn Đảng, toàn dân, nhất định được củng cố và nâng cao. 

- Sau 5 năm xây dựng chủ nghĩa xã hội trong cả nước, các cấp bộ đảng, chính quyền và cán bộ ta đã trưởng thành một bước về chỉ đạo kinh tế. Việc tiếp tục đổi mới quản lý, ứng dụng các tiến bộ khoa học - kỹ thuật, nhất định tác động tích cực hơn nữa đến quá trình sản xuất, nâng cao năng suất, chất lượng và hiệu quả kinh tế. 

- Tiềm năng về lao động, đất đai, ngành nghề và các năng lực sản xuất khác còn nhiều; các công trình mới đã và sắp đưa vào sử dụng, làm tăng đáng kể năng lực sản xuất của xã hội. 

- Quan hệ hợp tác toàn diện của Liên Xô, quan hệ đặc biệt của Lào và Campuchia, và hợp tác ngày càng mở rộng của các nước xã hội chủ nghĩa khác, là sự giúp đỡ rất to lớn để nhân dân ta khai thác tốt hơn những tiềm năng trong nước. 

Năm 1982 có vị trí đặc biệt quan trọng. Đại hội toàn quốc lần thứ V của Đảng sắp họp sẽ quyết định phương hướng, nhiệm vụ tiến lên của đất nước trong chặng đường đầu tiên của thời kỳ quá độ và trong 5 năm 1981-1985. Năm 1982 là năm đầu triển khai thực hiện những nghị quyết lịch sử của đại hội. 

Trong năm 1982, toàn Đảng, toàn dân ta cần phát huy mạnh mẽ những nhân tố tích cực mới đã được tạo ra và kiên quyết khắc phục những khuyết điểm, sai lầm, thực sự chuyển biến một bước tình hình kinh tế - xã hội, ra sức phát triển sản xuất đi đôi với làm tốt hơn công tác phân phối, lưu thông, để bảo đảm và cố gắng có cải thiện một phần đời sống nhân dân, tạo đà chuyển biến mạnh hơn trong những năm sau. 

Kế hoạch nhà nước năm 1982 phải thể hiện đầy đủ sự phấn đấu cao độ, nhằm thực hiện những mục tiêu kinh tế - xã hội của những năm 80: 

1. ổn định, cải thiện một bước, tiến lên bảo đảm một cách cơ bản đời sống vật chất và văn hoá của nhân dân, trước hết giải quyết vững chắc vấn đề lương thực, thực phẩm, đáp ứng những nhu cầu về mặc, học hành, chữa bệnh, về ở, đi lại, chăm sóc trẻ em và các hàng tiêu dùng khác. 

2. Tiếp tục xây dựng cơ sở vật chất - kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội. 

3. Hoàn thành công cuộc cải tạo xã hội chủ nghĩa ở các tỉnh miền Nam, củng cố và hoàn thiện một bước quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa trong cả nước. 

4. Đáp ứng nhu cầu phòng thủ đất nước, củng cố quốc phòng và an ninh. 

Kế hoạch nhà nước năm 1982 phải phản ánh được tinh thần và nội dung của những chủ trương, biện pháp lớn trong phương hướng chiến lược kinh tế những năm 80 và những nhiệm vụ chủ yếu về kinh tế - xã hội của năm 1981-1985. 

III 

Nhiệm vụ của kế hoạch nhà nước năm 1982 là: nêu cao tinh thần tự lực, tự cường, tập trung lực lượng phát triển mạnh nông nghiệp, mở mang mạnh các ngành nghề sản xuất hàng tiêu dùng; phát huy năng lực sẵn có và xây dựng mới có trọng điểm một số cơ sở công nghiệp nặng nhằm trước hết thúc đẩy nông nghiệp và công nghiệp hàng tiêu dùng; sắp xếp lại xây dựng cơ bản; tăng cường giao thông vận tải; làm tốt công tác phân phối, lưu thông; thực hành tiết kiệm về mọi mặt, tiêu dùng trong phạm vi kết quả lao động của mình. Tự trang trải nhu cầu về ăn của toàn xã hội, cố gắng bảo đảm nhu cầu thiết yếu về mặc, học tập, chữa bệnh, ở, đi lại của nhân dân, và tăng nguồn hàng xuất khẩu. Đổi mới quản lý kinh tế, tăng năng suất lao động, nâng cao chất lượng và hạ giá thành sản phẩm, nâng cao hiệu quả sản xuất, kinh doanh. Tiếp tục cải tạo xã hội chủ nghĩa ở miền Nam, củng cố và hoàn thiện một bước quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa trong cả nước. Củng cố quốc phòng, giữ vững an ninh chính trị, trật tự và an toàn xã hội, đồng thời làm tốt nghĩa vụ quốc tế. 

Để thực hiện được nhiệm vụ nói trên, cần làm tốt những công việc cụ thể và biện pháp lớn sau đây: 

1. Đẩy mạnh phát triển kinh tế đồng thời sắp xếp lại cho hợp lý các mặt sản xuất, xây dựng cơ bản, giao thông vận tải và lao động. 

a) Tập trung cao độ sức của cả nước, của các ngành, các cấp cho mặt trận hàng đầu là nông nghiệp,
 nhằm giải quyết cho được vấn đề ăn, giải quyết một bước vấn đề mặc, cung ứng nguyên liệu cho công nghiệp và tăng nhanh nguồn nông sản xuất khẩu. Tăng nhanh sản xuất lương thực, thực phẩm, trước hết tăng sản lượng lương thực, đồng thời làm tốt công tác thu mua, chế biến, bảo quản, vận chuyển, phân phối và hết sức tiết kiệm lương thực. Nhà nước tập trung đầu tư cho các huyện trọng điểm về lúa. Có chính sách khuyến khích tăng nhanh khối lượng và tỷ trọng màu; tổ chức tốt việc thu mua, chế biến, bảo quản màu và đưa màu vào khẩu phần lương thực của mọi tầng lớp nhân dân. Có chính sách và biện pháp đẩy mạnh trồng dâu nuôi tằm, trồng bông, đay cùng các loại cây có sợi khác ở các vùng chuyên canh, trong các hợp tác xã và gia đình có điều kiện, để giải quyết nguyên liệu sản xuất vải mặc. Các tỉnh, các huyện (trừ vùng chuyên canh cây công nghiệp và vùng có hoàn cảnh đặc biệt) phải cố gắng tự cân đối lương thực và tự giải quyết một phần vải mặc cho dân cư trong địa phương bằng mọi cách, kể cả thông qua trao đổi với các địa phương khác và xuất, nhập khẩu. Các tỉnh đồng bằng sông Cửu Long và đồng bằng sông Hồng phải tăng nhanh sản lượng lương thực và khối lượng cung ứng cho Nhà nước để bảo đảm lương thực cho quân đội, các thành phố lớn, các khu công nghiệp và tăng dự trữ lương thực của Nhà nước. 

Về biện pháp kỹ thuật, khai thác tốt công suất các công trình thủy lợi đã xây dựng; làm mới những công trình thủy lợi nhỏ và vừa là chủ yếu; chuẩn bị điều kiện để xây dựng những công trình thủy lợi lớn; đặc biệt phát triển thủy lợi hợp lý, có hiệu quả thiết thực ở đồng bằng sông Cửu Long và tích cực thu hẹp diện tích bị úng ở đồng bằng Bắc Bộ. Đẩy mạnh sản xuất và khai thác các nguồn phân bón trong nước, trong địa phương, sử dụng tốt nhất số phân hoá học hiện có. Kết hợp cơ giới với thủ công, sử dụng hợp lý và nâng cao công suất sử dụng các công cụ cơ giới, giải quyết tốt yêu cầu về công cụ thường; tăng thêm và chăm sóc tốt trâu, bò cày kéo. áp dụng rộng rãi và có hiệu quả những thành tựu của cách mạng sinh học, nhất là về giống cây trồng và giống gia súc một cách tập trung, đồng bộ và phù hợp với điều kiện từng nơi. 

Mở mang và quản lý có hiệu quả nghề rừng theo hướng kết hợp chặt chẽ lâm nghiệp với nông nghiệp; phát triển vốn rừng, chống nạn phá rừng và cháy rừng, bảo đảm gỗ cho nhu cầu trong nước và xuất khẩu. Thực hiện đến nơi đến chốn việc giao rừng và đất rừng cho huyện và hợp tác xã kinh doanh, lấy huyện làm địa bàn chính để phát triển lâm nghiệp đi đôi với củng cố và phát triển đích đáng các lâm trường do trung ương quản lý. Làm tốt công tác định canh, định cư gắn liền với phát triển nông, lâm nghiệp. 

Đẩy mạnh ngư nghiệp. Chấn chỉnh các cơ sở quốc doanh, tổ chức lại nghề cá của ngư dân; tăng sản lượng cá biển cũng như cá nước ngọt; nâng cao mức cung ứng cá và nước mắm cho nhân dân và tăng xuất khẩu hải sản. Lấy huyện vùng biển làm địa bàn chính để tổ chức lại sản xuất, thiết lập mối quan hệ giữa Nhà nước với ngư dân. 

Soát xét lại các nông trường, lâm trường quốc doanh, các trạm, trại của Nhà nước, có kế hoạch thiết thực củng cố, bảo đảm làm ăn có năng suất, chất lượng và hiệu quả. Củng cố và tăng cường về mọi mặt các hợp tác xã, các tập đoàn sản xuất trong nông nghiệp và ngư nghiệp. Trong 5 năm 1981-1985 và từ năm 1982, phải có chuyển biến thật sự trong việc xây dựng huyện, qua đó giải quyết tốt vấn đề ăn, mặc, phân công lao động hợp lý, mở mang ngành nghề sản xuất hàng tiêu dùng, làm hàng xuất khẩu, đẩy mạnh ba cuộc cách mạng, tổ chức tốt đời sống vật chất và văn hoá của nhân dân. Tuỳ loại huyện khác nhau mà hình thành từng bước cơ cấu nông - công nghiệp, hoặc lâm - nông - công nghiệp, hoặc ngư-nông-công nghiệp. 

b) Có chính sách và biện pháp cụ thể phát triển mạnh sản xuất hàng tiêu dùng, trước hết là vải mặc, giấy viết, thuốc chữa bệnh, săm lốp, phụ tùng xe đạp, đồ dùng gia đình, các hàng thiết yếu khác. Tìm mọi cách chở đủ than và bảo đảm dầu cho các nhà máy điện để làm tốt việc cung ứng năng lượng cho các cơ sở sản xuất; tăng nhanh nguồn nguyên liệu trong nước, hết sức cố gắng nhập một số vật tư, phụ tùng cần thiết, mở rộng quyền chủ động cho các cơ sở và địa phương để sử dụng hết công suất các nhà máy quan trọng, khai thác đến mức cao nhất khả năng của tiểu công nghiệp, thủ công nghiệp, mở mang mạnh các ngành nghề ở thành thị và nông thôn. Hết sức quan tâm phát huy đầy đủ khả năng sản xuất hàng tiêu dùng củaThủ đô Hà Nội gắn với phát triển nông nghiệp ở vùng châu thổ sông Hồng và của thành phố Hồ Chí Minh gắn với phát triển nông nghiệp ở vùng đồng bằng sông Cửu Long. 

c) Tận dụng năng lực sản xuất hiện có của các ngành công nghiệp nặng; chú trọng đầu tư chiều sâu, cải tạo, đồng bộ hoá, trang bị thêm và mở rộng để nâng cao năng lực sản xuất, chú ý tăng sản lượng điện, than, cơ khí, hoá chất, vật liệu xây dựng. 

Trong công nghiệp, cần ưu tiên cung ứng năng lượng, vật tư cho những nhiệm vụ quan trọng nhất, cho các cơ sở trọng điểm, tích cực chuyển hướng sản xuất những cơ sở không có điều kiện hoạt động bình thường, tạm đình sản xuất để củng cố những cơ sở làm ăn kém hiệu quả, thua lỗ liên miên, v.v.. 

Hình thành một số liên hiệp xí nghiệp, phụ trách từ đầu đến cuối một số sản phẩm chiến lược; chấn chỉnh những liên hiệp xí nghiệp hiện có cho hợp lý để làm đúng chức năng là những tổ chức sản xuất, kinh doanh có hiệu quả. 

d) Tổ chức lại và cải tiến quản lý hệ thống giao thông vận tải nhằm phục vụ tốt kinh tế, quốc phòng và đời sống nhân dân, trước hết bảo đảm tiếp nhận kịp thời hàng nhập khẩu, đẩy mạnh xuất khẩu, vận tải than cho sản xuất, tăng cường vận tải Bắc - Nam, vận tải cho vùng biên giới. Hết sức phát triển và củng cố vận tải đường sông và đường biển, chấn chỉnh quản lý và nâng cao chất lượng vận tải đường sắt. Tận dụng mọi phương tiện thô sơ, cải tiến, nửa cơ giới, sử dụng hợp lý nhất phương tiện vận tải cơ giới sẵn có, phát triển các nguồn nhiên liệu trong nước để thay thế xăng dầu. Mở rộng giao thông và tăng cường vận tải địa phương. 

e) Phân loại các công trình xây dựng cơ bản, tập trung sức hoàn thành đúng thời hạn các công trình then chốt, trước hết là các công trình trực tiếp phục vụ sản xuất nông nghiệp, hàng tiêu dùng và hàng xuất khẩu, đặc biệt chú trọng các công trình điện, than, cơ khí, phân bón, sợi, giấy, vật liệu xây dựng. Đẩy mạnh thăm dò và chuẩn bị khai thác dầu khí. Kiên quyết đình hoãn những công trình chưa có khả năng xây dựng và dãn tiến độ thi công các công trình chưa cấp thiết. 

g) Thực hiện phân công lao động trên địa bàn huyện và ở các thành phố để phát triển ngành nghề và mở rộng dịch vụ. Mặt khác, từng bước phân bổ lại lao động trong từng tỉnh và trong cả nước, đưa dân đi xây dựng các huyện và mở mang các vùng kinh tế mới ở đồng bằng sông Cửu Long, miền Đông Nam Bộ, Tây Nguyên và miền núi phía Bắc. Sớm tổng kết kinh nghiệm khai hoang, xây dựng vùng kinh tế mới, để làm tốt hơn nữa công tác này và bảo đảm hiệu quả kinh tế. 

Có biện pháp thiết thực và kiên quyết giảm biên chế hành chính, biên chế gián tiếp sản xuất và chuyển số lao động dôi thừa trong các cơ sở quốc doanh sang sản xuất hoặc làm dịch vụ ở những lĩnh vực khác. 

Có chính sách, kế hoạch và biện pháp nhất quán để hạn chế mạnh tốc độ tăng dân số. 

2. Tổ chức lại và đẩy mạnh xuất - nhập khẩu, tăng cường kinh tế đối ngoại. 

Bổ sung và sửa đổi các chính sách, chế độ để khuyến khích các cơ sở, các địa phương, các ngành tăng nhanh sản xuất hàng xuất khẩu, đặc biệt chú trọng đẩy mạnh trồng cây công nghiệp, coi đó là những loại hàng xuất khẩu chủ lực trong chặng đường hiện nay. Cố gắng dành vốn ngoại tệ thích đáng để nhập thêm phân hoá học, thuốc trừ sâu cho nông nghiệp, phụ tùng, nguyên liệu cho sản xuất hàng tiêu dùng, các ngành công nghiệp nặng trọng điểm và giao thông vận tải. Trên cơ sở bảo đảm sự thống nhất quản lý của Nhà nước đối với công tác xuất - nhập khẩu, mở rộng quyền trực tiếp kinh doanh xuất - nhập khẩu của các ngành, các địa phương, các đơn vị kinh tế lớn. 

Có kế hoạch chu đáo triển khai thực hiện khẩn trương các chương trình hợp tác kinh tế với Liên Xô, Lào, Campuchia và các nước xã hội chủ nghĩa khác trong Hội đồng tương trợ kinh tế. Làm tốt những điều đã ký kết và tranh thủ mở rộng quan hệ kinh tế với các nước khác. 

3. Chấn chỉnh phân phối, lưu thông, từng bước ổn định giá cả và thị trường; thực hiện tiết kiệm nghiêm ngặt 

Tiếp tục thực hiện đúng đắn Nghị quyết 26 và Chỉ thị 109 của Bộ Chính trị. Tăng cường nắm nguồn hàng vào tay Nhà nước; củng cố và tăng cường hệ thống thương nghiệp xã hội chủ nghĩa; quản lý chặt chẽ thị trường; thực hiện các biện pháp đồng bộ để giảm hẳn bội chi ngân sách và phát hành tiền mặt. Tiếp tục điều chỉnh hệ thống giá, sửa chữa kịp thời những sai sót trong việc điều chỉnh giá và quản lý giá hiện nay. 

Cố gắng bằng mọi cách cung ứng những mặt hàng thiết yếu đủ theo định lượng, giữ vững tiền lương thực tế của công nhân, viên chức; bảo đảm tốt đời sống của bộ đội. Làm tốt việc trao đổi hàng hai chiều với nông dân để vừa thu mua được nhiều nông sản, vừa từng bước cải thiện đời sống nông dân. Điều tiết một cách hợp lý thu nhập giữa các tầng lớp dân cư; hạn chế mạnh những thu nhập cao không chính đáng. 

Cần có chính sách và biện pháp cụ thể để tiết kiệm triệt để cả trong sản xuất và tiêu dùng. Tiết kiệm phương tiện vật chất, thời gian, lao động trong sản xuất và tiết kiệm chi phí, bảo quản tốt, chống hư hao, mất mát trong lưu thông; giảm mạnh chi tiêu hành chính; tiết kiệm chi tiêu quốc phòng. Công tác quản lý phải bảo đảm thực hiện tốt chủ trương tiết kiệm. Thi hành ngay từ đầu năm chế độ tiết kiệm 5 đến 10% năng lượng, vật tư, nguyên liệu... và dành số vật tư, hàng hoá tiết kiệm đó bổ sung vào nguồn hàng đối lưu với nông dân. Mỗi cơ sở, mỗi cấp, mỗi ngành phải có chỉ tiêu phấn đấu cụ thể về tiết kiệm. 

4. Đổi mới quản lý kinh tế, xoá bỏ một bước cơ bản cơ chế quản lý quan liêu bao cấp 

Hoàn chỉnh đề án đổi mới quản lý kinh tế để sớm trình ra hội nghị Ban Chấp hành Trung ương khoá mới. Trong năm 1982, cần giải quyết cụ thể và đồng bộ một số vấn đề cấp bách về thực hiện tự chủ tài chính của các cơ sở kinh tế, phát huy quyền chủ động sản xuất, kinh doanh của các địa phương và các ngành, phân cấp quản lý thoả đáng giữa các cơ quan nhà nước trung ương và chính quyền địa phương. 

Đổi mới công tác kế hoạch hoá, thực hiện bằng được biện pháp cụ thể bảo đảm ba cấp cơ bản làm kế hoạch, gắn liền kế hoạch với hạch toán kinh tế và kinh doanh xã hội chủ nghĩa. 

ở trung ương, kế hoạch nhà nước tổng hợp các chỉ tiêu chính của kế hoạch các ngành và các địa phương, bảo đảm các cân đối lớn, nắm chắc các công trình xây dựng then chốt và các sản phẩm quan trọng nhằm điều khiển nền kinh tế quốc dân phát triển theo kế hoạch. 

Các bộ quản lý ngành có nhiệm vụ kế hoạch hoá và quản lý thống nhất toàn ngành kinh tế - kỹ thuật trong cả nước theo mức độ cụ thể được xác định phù hợp với đặc điểm của từng ngành. 

ở địa phương, kế hoạch tỉnh, thành phố và kế hoạch huyện phải bảo đảm thực hiện ba nhiệm vụ: đáp ứng nhu cầu của địa phương; đóng góp cho cả nước và phục vụ trực tiếp các cơ sở kinh tế trung ương tại địa phương; đẩy mạnh xuất - nhập khẩu. Phải làm tốt việc xây dựng kế hoạch từ cơ sở và từ huyện. 

ở cơ sở, kế hoạch phải thể hiện nguyên tắc tự chủ tài chính và tôn trọng đầy đủ chính sách, chế độ quản lý thống nhất của Nhà nước. 

Từng cơ sở, từng địa phương, từng ngành phải kiểm kê, kiểm soát, nắm chắc lao động, đất đai, phương tiện vật chất, các tiềm năng sản xuất để xây dựng kế hoạch có căn cứ thực tế, và tổ chức thực hiện kế hoạch một cách chủ động, sáng tạo, hết sức coi trọng năng suất, chất lượng, hiệu quả kinh tế, khắc phục tư tưởng ỷ lại vào Nhà nước và tình trạng bị động trông chờ cấp trên. 

- Ban hành kịp thời một số chính sách đòn bẩy kinh tế, nhằm vận dụng đúng đắn sự thống nhất giữa ba lợi ích, bảo đảm lợi ích của Nhà nước, lợi ích của tập thể và khuyến khích đúng mức lợi ích của cá nhân, kích thích mạnh mẽ tính tích cực sản xuất của công nhân, nông dân, thợ thủ công và những người lao động khác. 

Tổng kết công tác khoán sản phẩm cuối cùng đến nhóm và người lao động, từng bước bổ sung và hoàn thiện các chế độ, các quy định để hoàn chỉnh chủ trương khoán đó thành một cơ chế tổ chức và quản lý sản xuất toàn diện đối với các đơn vị sản xuất tập thể trong nông nghiệp, tiểu công nghiệp và thủ công nghiệp. 

áp dụng rộng rãi và đúng đắn các hình thức lương sản phẩm, lương khoán và tiền thưởng, hoàn chỉnh những chủ trương và quyết định nhằm tăng cường trách nhiệm, mở rộng quyền hạn và bảo đảm lợi ích, phát huy tính chủ động sản xuất, kinh doanh của cơ sở, từng bước hình thành cơ chế quản lý kinh tế thích hợp cho các xí nghiệp quốc doanh. 

5. ứng dụng tiến bộ khoa học - kỹ thuật vào sản xuất trong mọi khâu và về từng sản phẩm. Phải nâng cao chất lượng kế hoạch khoa học - kỹ thuật và làm cho kế hoạch khoa học - kỹ thuật thực sự trở thành một bộ phận hữu cơ của kế hoạch kinh tế - xã hội. Vận dụng khoa học - kỹ thuật để nâng cao năng suất, chất lượng, hiệu quả và thực hành tiết kiệm. Đối với những tiến bộ kỹ thuật đã được kết luận, phải có cơ chế quản lý bắt buộc và khuyến khích ứng dụng vào sản xuất và đời sống. Bố trí và sử dụng đúng ngành nghề, động viên và tổ chức tốt đội ngũ cán bộ khoa học - kỹ thuật phục vụ sản xuất, phục vụ đời sống một cách thiết thực. Các cấp, các ngành cần đẩy mạnh thực hiện Nghị quyết của Bộ Chính trị về khoa học - kỹ thuật và các chính sách cụ thể của Nhà nước trong lĩnh vực này. 

6. Tiếp tục cải tạo xã hội chủ nghĩa ở miền Nam; tăng cường quan hệ sản xuất mới trong cả nước. ở Nam Bộ, phải kiên quyết hoàn thành sớm việc điều chỉnh ruộng đất; xúc tiến tổ chức nông dân đi vào con đường làm ăn tập thể theo hình thức tập đoàn sản xuất là chủ yếu, đi đôi với phát triển rộng khắp hợp tác xã mua bán, hợp tác xã tín dụng. Củng cố các tập đoàn sản xuất và hợp tác xã ở miền Nam, tiếp tục hoàn thiện một bước quan hệ sản xuất mới ở nông thôn miền Bắc, kết hợp chặt chẽ cải tạo với tổ chức lại và phát triển sản xuất, gắn liền củng cố hợp tác xã với xây dựng huyện, tổ chức tốt đời sống vật chất và văn hoá của nhân dân, từng bước xây dựng nông thôn mới. Tiếp tục cải tạo công, thương nghiệp ở miền Nam, tăng cường quản lý thị trường trong cả nước. 

Củng cố và tăng cường các đơn vị kinh tế quốc doanh, nhất là quốc doanh trung ương, nêu cao vai trò chủ đạo và tính hơn hẳn của quốc doanh so với các đơn vị sản xuất tập thể về năng suất, chất lượng, hiệu quả kinh tế và chấp hành chính sách, chế độ quản lý của Nhà nước. Làm cho các tổ chức sản xuất tập thể hơn hẳn kinh tế cá thể, và đóng góp ngày càng nhiều cho công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội. Khuyến khích và hướng dẫn kinh tế gia đình, phát huy năng lực của các cơ sở công tư hợp doanh, sử dụng đúng đắn kinh tế cá thể và kinh tế tư nhân còn được tồn tại, để phát triển sản xuất, tăng thêm sản phẩm cho xã hội. Bằng những tổ chức liên kết và công tác quản lý thích hợp, hướng hoạt động của các thành phần kinh tế này đi đúng quỹ đạo xã hội chủ nghĩa. 

7. Tiếp tục phát triển hợp lý sự nghiệp giáo dục, văn hoá, y tế, thể dục, thể thao theo chủ trương "Nhà nước và nhân dân cùng làm" 

Thực hiện từng bước việc cải cách giáo dục và tích cực nâng cao chất lượng giáo dục phổ thông. Phát triển mạnh mẽ phong trào bổ túc văn hoá, nhất là ở miền Nam. Sắp xếp lại quy mô và hệ thống trường đào tạo cho phù hợp với yêu cầu và khả năng phát triển kinh tế, bảo đảm nâng cao chất lượng đào tạo. Tổ chức tốt các trường học tham gia sản xuất, làm ra của cải cho xã hội. 

Đẩy mạnh hoạt động văn hóa trong các cơ sở sản xuất và các khu dân cư, ở thành thị cũng như nông thôn. Hướng các hoạt động văn hóa, nghệ thuật vào việc phục vụ cách mạng, phục vụ sản xuất, xây dựng văn hoá mới, con người mới, xây dựng cuộc sống tươi vui, lành mạnh, tiến bộ. 

Mở rộng phong trào vệ sinh phòng bệnh; nâng cao chất lượng chữa bệnh; tăng cường sản xuất thuốc chữa bệnh bằng dược liệu trong nước và phân phối thuốc đến tay người bệnh. Phát triển và quản lý tốt các nhà trẻ, các lớp mẫu giáo. Đẩy mạnh phong trào thể dục, thể thao, nhất là trong thanh niên, thiếu niên. 

Chăm lo đời sống thương binh, gia đình liệt sĩ, người có công với cách mạng, người về hưu và những người già cả, tàn tật trong phạm vi khả năng kinh tế cho phép. 

8. Phải kết hợp tốt xây dựng kinh tế với củng cố quốc phòng, bảo đảm nhu cầu tăng cường công tác quốc phòng, an ninh, xây dựng lực lượng quốc phòng và an ninh về mọi mặt 

Trong quá trình xây dựng kinh tế, các ngành phải tính đến các yêu cầu của quốc phòng, phải tạo ra tiềm lực cho cả kinh tế và quốc phòng. Bảo đảm tốt hơn nhu cầu đời sống của các lực lượng vũ trang và các điều kiện vật chất cần thiết cho việc củng cố và hoàn thiện hệ thống bố phòng, cho việc xây dựng quân đội, công an, nhằm bảo đảm sẵn sàng chiến đấu và chiến đấu thắng lợi. Tổ chức tốt việc quân đội tăng gia sản xuất để cải thiện đời sống và tham gia xây dựng kinh tế có hiệu quả thiết thực. 

9. Phát huy mạnh mẽ vai trò của nhà nước chuyên chính vô sản, tiếp tục thực hiện Hiến pháp mới, xúc tiến việc cụ thể hoá nguyên tắc "Đảng lãnh đạo, nhân dân làm chủ, Nhà nước quản lý". Đề cao pháp luật và kỷ luật, tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra, giải quyết tốt các đơn khiếu nại và tố cáo. Xử lý nghiêm minh đối với những cán bộ, đảng viên, nhân viên nhà nước vô trách nhiệm, vô kỷ luật, thoái hoá, biến chất. 

Phát động và tổ chức sâu rộng phong trào quần chúng, kết hợp lực lượng của quần chúng với lực lượng quân đội và công an, để đấu tranh đập tan hoạt động phá hoại nhiều mặt của kẻ thù, thẳng tay trấn áp bọn phản động, vạch trần mọi thủ đoạn chiến tranh tâm lý, nghiêm trị kịp thời bọn đầu cơ, buôn lậu, làm ăn phi pháp, bọn lưu manh, côn đồ gây rối trật tự, an toàn xã hội, quét sạch ảnh hưởng xấu của văn hóa và lối sống đồi truỵ, chặn đứng và đẩy lùi những hiện tượng tiêu cực trong xã hội. 

10. Tăng cường công tác xây dựng Đảng, nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của các đảng bộ cơ sở và các tổ chức đảng 

Gắn liền công tác xây dựng Đảng với phong trào cách mạng của quần chúng xây dựng và cải tạo kinh tế, cải tạo và phát triển văn hóa, bảo đảm an ninh chính trị và trật tự, an toàn xã hội. Chỉ có gắn với một phong trào quần chúng mạnh thì mới xây dựng được Đảng mạnh. 

Kiên quyết và kịp thời kiện toàn tổ chức, sắp xếp lại đội ngũ cán bộ ở các hợp tác xã và các huyện, trước hết là ở huyện, ở các xí nghiệp, các liên hiệp xí nghiệp, các tỉnh, các thành phố, các ngành, nhất là các tỉnh, thành và ngành quan trọng. 

Nâng cao chất lượng và tính chiến đấu trong công tác tư tưởng, qua đó, tạo ra một chuyển biến mạnh mẽ về tư tưởng trong Đảng, trong các cơ quan nhà nước và trong các đoàn thể quần chúng, ngay từ đầu năm 1982 và sau Đại hội lần thứ V của Đảng. 

Thường vụ Hội đồng Bộ trưởng phải tăng cường công tác điều hành, thường xuyên nắm chắc những diễn biến của đời sống kinh tế, xã hội, luôn luôn hướng về cơ sở, tổ chức tốt sự hợp đồng của các ngành và giữa ngành với địa phương, giải quyết kịp thời những vấn đề cấp bách của việc thực hiện kế hoạch nhà nước. Ban Bí thư phải làm tốt công tác xây dựng Đảng, công tác quần chúng và đặc biệt phải tăng cường công tác kiểm tra, nhằm bảo đảm việc quán triệt, cụ thể hoá và chấp hành nghiêm chỉnh đường lối, chủ trương trong các nghị quyết của Đảng. Ban Bí thư và Thường vụ Hội đồng bộ trưởng phải phối hợp chặt chẽ chương trình công tác, và thực sự cải tiến chế độ làm việc, phát huy đầy đủ vai trò tổ chức thực hiện cụ thể của các bộ và vai trò tham mưu của các ban của Đảng. 



* * 

Các cấp, các ngành phải quán triệt nội dung nghị quyết này, nêu cao tinh thần làm chủ tập thể và ý chí tự lực, tự cường, phát huy những kinh nghiệm tốt và những nhân tố mới của năm 1981, kiên quyết đổi mới quản lý kinh tế, đổi mới kế hoạch hoá, gắn chặt kế hoạch với hạch toán kinh tế và kinh doanh xã hội chủ nghĩa. "Vì Tổ quốc xã hội chủ nghĩa, vì hạnh phúc của nhân dân", toàn Đảng, toàn dân, toàn quân hãy dấy lên phong trào thi đua sôi nổi ở khắp nơi, hoàn thành và hoàn thành vượt mức kế hoạch nhà nước năm 1982, tạo ra một bước chuyển biến thật sự, làm đà tiến lên mạnh mẽ hơn trong những năm sau. 

T/M Ban Chấp hành Trung ương
Tổng Bí thư
Lê Duẩn



Lưu tại Kho Lưu trữ
Trung ương Đảng.

 

Phản hồi

Thông tin người gửi phản hồi

Các tin khác

Hướng dẫn kiểm tra, giám sát phục vụ đại hội đảng bộ các cấp tiến tới Đại hội XIV của Đảng

(ĐCSVN) - Tại văn bản số 08-HD/UBKTTW ngày 18/11/2024, Ủy ban Kiểm tra Trung ương hướng dẫn công tác kiểm tra, giám sát phục vụ đại hội đảng bộ các cấp tiến tới Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIV của Đảng.

Phương án nghiên cứu sắp xếp, sáp nhập các bộ, cơ quan thuộc Chính phủ

(ĐCSVN) - Theo phương án nghiên cứu sắp xếp, sáp nhập được Trưởng Ban Tổ chức Trung ương Lê Minh Hưng nêu tại Hội nghị toàn quốc sáng 1/12, sẽ tối thiểu giảm được 5 bộ, 2 cơ quan trực thuộc Chính phủ.

Phương án sáp nhập các ủy ban của Quốc hội và cơ quan thuộc Ủy ban Thường vụ Quốc hội

(ĐCSVN) - Sáng 1/12, Trưởng Ban Tổ chức Trung ương Lê Minh Hưng thông báo chuyên đề về các nội dung chính, trọng tâm việc triển khai tổng kết Nghị quyết 18. Theo phương án định hướng được nêu sẽ giảm 4 ủy ban của Quốc hội và 1 cơ quan trực thuộc Ủy ban Thường vụ Quốc hội.

Phương án giảm 4 cơ quan Đảng, 25 ban cán sự đảng, 16 đảng đoàn trực thuộc Trung ương

(ĐCSVN) - Sáng 1/12, đồng chí Lê Minh Hưng, Uỷ viên Bộ Chính trị, Bí thư Trung ương Đảng, Trưởng ban Tổ chức Trung ương đã trình bày các nội dung chính, trọng tâm việc triển khai tổng kết Nghị quyết 18-NQ/TW của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XII.

Quy trình kỷ luật đảng viên thuộc thẩm quyền của Trung ương Đảng, Bộ Chính trị, Ban Bí thư

(ĐCSVN) - Thay mặt Bộ Chính trị, Thường trực Ban Bí thư Lương Cường vừa ký Quyết định số 165-QĐ/TW ngày 6/6/2024 của Bộ Chính trị ban hành Quy trình xem xét, thi hành kỷ luật đối với tổ chức Đảng, đảng viên thuộc thẩm quyền của Ban Chấp hành Trung ương Đảng, Bộ Chính trị, Ban Bí thư.

Liên kết website