Nghị quyết số 05 - NQ/HNTW Hội nghị lần thứ năm BCHTW Đảng (khoá VII) về tiếp tục đổi mới và phát triển kinh tế - xã hội nông thôn, ngày 10/6/1993

I- THỰC TRẠNG NÔNG NGHIỆP, NÔNG THÔN NƯỚC TA QUA NHỮNG NĂM ĐỔI MỚI

Trải qua các thời kỳ cách mạng từ khi thành lập đến nay, Đảng ta luôn khẳng định tầm quan trọng của vấn đề nông dân, nông nghiệp và nông thôn. Công cuộc đổi mới do Đảng ta khởi xướng và lãnh đạo trong những năm qua cũng lấy nông nghiệp làm mặt trận hàng đầu và là khâu đột phá. Chỉ thị 100 của Ban Bí thư (khoá IV), Nghị quyết 10 của Bộ Chính trị (khoá VI) được triển khai cùng các chỉ thị, nghị quyết khác của các Đại hội và Hội nghị Trung ương của các khoá V, VI, VII đã đưa đến những thành tựu to lớn trong nông nghiệp, nông thôn nước ta. 
Sức sản xuất ở nông thôn được giải phóng một bước quan trọng, tiềm năng của nông dân được phát huy, cơ sở vật chất kỹ thuật trong nông nghiệp và phục vụ nông nghiệp được tăng cường làm cho sản xuất đạt mức tăng trưởng khá và tương đối ổn định. Nổi bật nhất là sản lượng lương thực tăng mấy năm liền, đã giải quyết được về cơ bản nhu cầu lương thực cho nhân dân và hàng năm có khối lượng gạo xuất khẩu lớn. Sản phẩm cây công nghiệp, cây ăn quả, cây đặc sản, chăn nuôi, trồng rừng, nghề cá, tiểu thủ công nghiệp đều tăng, đáp ứng tốt hơn nhu cầu trong nước và xuất khẩu.

Chính sách kinh tế nhiều thành phần đã đi vào cuộc sống, khơi dậy nhiều nguồn lực, làm cho sản xuất kinh doanh ở nông thôn phát triển năng động hơn.

Đời sống nông dân và bộ mặt nông thôn có nhiều biến đổi tích cực.

Thắng lợi trên mặt trận nông nghiệp góp phần quyết định đưa nước ta thoát dần ra khỏi khủng hoảng kinh tế - xã hội, giữ vững ổn định chính trị.

Đạt được những thành tựu đó là do đường lối, chủ trương, chính sách đổi mới đúng đắn của Đảng hợp quy luật, hợp lòng dân, đúc kết được kinh nghiệm sáng tạo của quần chúng; nhờ có sự nỗ lực vượt bậc của toàn dân, nhất là của nông dân; tiến bộ về quản lý, điều hành của Nhà nước và hoạt động của Mặt trận và các đoàn thể nhân dân; sự cố gắng đầu tư và sử dụng có hiệu quả cơ sở vật chất kỹ thuật trong nông nghiệp và phục vụ nông nghiệp, ứng dụng tốt hơn một số tiến bộ khoa học - kỹ thuật, quan tâm hơn đến công tác khuyến nông. Sự giúp đỡ quốc tế cũng góp phần vào thành tựu đã đạt được.

Mặc dầu có bước phát triển, song nhìn chung nông nghiệp nước ta vẫn chưa thoát khỏi tình trạng sản xuất nhỏ, cơ sở vật chất kỹ thuật còn nhiều mặt yếu kém, công nghệ lạc hậu, năng suất lao động, năng suất cây trồng và vật nuôi còn thấp. Nông nghiệp chưa đáp ứng nhu cầu cải thiện đời sống của nhân dân, nguyên liệu cho công nghiệp, hàng hoá cho xuất khẩu, thị trường và nguồn tích luỹ để đẩy mạnh công nghiệp hoá.

Tiềm năng về nhân lực, đất đai, rừng, biển, hệ sinh thái, tiền vốn và cơ sở vật chất kỹ thuật chưa được sử dụng có hiệu quả. Một bộ phận lớn lao động nông thôn còn thiếu việc làm. Khoảng 10 triệu ha đồi núi trọc, bãi bồi ven biển còn bị hoang hoá, hàng chục vạn ha mặt nước ao, hồ chưa được sử dụng tốt; vùng biển khơi rộng lớn chưa được khai thác bao nhiêu. Các nguồn tài nguyên còn bị khai thác bừa bãi, nhiều nơi trở nên cạn kiệt, phá hoại cân bằng sinh thái, đe doạ môi trường sống.

Cơ cấu nông nghiệp và kinh tế nông thôn chưa thoát khỏi độc canh và thuần nông. Chăn nuôi chưa phát triển mạnh. Lâm nghiệp nặng về khai thác, bóc lột tài nguyên, để lại nhiều hậu quả nặng nề; trồng rừng và bảo vệ rừng chưa trở thành ngành kinh doanh làm giàu cho người lao động. Thuỷ sản chủ yếu tập trung đánh bắt ven bờ, chưa vươn được ra khơi để làm chủ lãnh hải và vùng đặc quyền kinh tế.

Công nghiệp, thương nghiệp, dịch vụ nông thôn chưa phát triển. Các ngành công nghiệp, xây dựng, giao thông vận tải, thương nghiệp, dịch vụ... chuyển hướng chậm, chưa phục vụ tốt kinh tế nông nghiệp, nông thôn và đời sống nông dân, nhất là các vùng xa, vùng sâu, vùng cao.

Kinh tế hợp tác xã thiếu sự chỉ đạo, lãnh đạo từ trung ương đến cơ sở, ở nhiều nơi bị buông lỏng hoặc lúng túng chưa có biện pháp tích cực để đổi mới tổ chức, phương hướng hoạt động và cơ chế quản lý; các loại hình hợp tác đa dạng đang xuất hiện ở nông thôn chưa được quan tâm tổng kết, hướng dẫn và thúc đẩy phát triển.

Kinh tế cá thể, tư nhân vừa chưa được khuyến khích phát triển đúng mức, vừa thiếu sự quản lý, hướng dẫn cần thiết để hạn chế, ngăn ngừa những mặt tiêu cực.

Phần lớn doanh nghiệp nhà nước trong nông lâm ngư nghiệp chưa đổi mới hoặc đổi mới chưa thành công, làm ăn kém hiệu quả. Một số cơ sở quốc doanh hoạt động tốt chưa được tổng kết và nhân ra diện rộng.

Quốc doanh thương nghiệp nhiều nơi bỏ trống thị trường nông thôn. Quốc doanh phục vụ nông nghiệp như điện lực, thuỷ nông, ngân hàng, giao thông vận tải, chế biến nông sản, xuất nhập khẩu... tuy có nhiều cố gắng, song cũng còn không ít tiêu cực như cửa quyền, ép cấp ép giá, làm phương hại đến quan hệ liên minh công - nông.

Chưa thực hiện tốt chủ trương giao đất, giao rừng ổn định, lâu dài cho hộ nông dân sử dụng, chậm ban hành những quy định pháp lý về các quyền và nghĩa vụ của nông dân đối với ruộng đất để nông dân yên tâm đầu tư phát triển và sử dụng đất đai có hiệu quả hơn. Tranh chấp đất đai ở nhiều nơi vẫn chưa được giải quyết dứt điểm. Việc cấp, mua bán, chuyển nhượng đất trái phép, sử dụng đất không đúng mục đích diễn ra khá phổ biến.

Thị trường tiêu thị nông sản đang là vấn đề gay gắt. Thị trường trong nước chưa được quan tâm khai thác, sức mua thấp. Thị trường ngoài nước thiếu những bạn hàng lớn, ổn định. Chưa có những chính sách, biện pháp đủ để khuyến khích xuất khẩu, bảo hộ đúng mức sản xuất nội địa, can thiệp và điều tiết thị trường, để cho giá cả một số loại nông sản và vật tư kỹ thuật phục vụ nông nghiệp biến động thất thường, gây khó khăn cả cho người sản xuất, nhà kinh doanh lẫn người tiêu dùng.

Đời sống nông dân ở một số vùng nhất là vùng đồng bào dân tộc thiểu số, vùng cao, vùng sâu, vùng trước đây là căn cứ cách mạng còn quá nghèo, gặp nhiều khó khăn, cả về ăn, mặc, ở, đi lại, chăm sóc sức khoẻ, học hành, văn hoá. Một bộ phận không nhỏ, trong đó có nhiều gia đình thuộc diện chính sách còn nghèo khổ, một số thiếu đói triền miên. Dân chủ và công bằng xã hội trong nông thôn còn bị vi phạm.

Những nguyên nhân chủ yếu dẫn đến tình trạng trên đây là:

1- Nền kinh tế nước ta vẫn kém phát triển, hậu quả chiến tranh còn lớn, tích luỹ trong nước chưa đáng kể, vốn bên ngoài thu hút được chưa nhiều, nguồn đầu tư để đẩy mạnh công nghiệp hoá, phát triển nông nghiệp, xây dựng nông thôn còn hạn chế.

2- Đường lối, chủ trương, chính sách đúng đắn của Đảng và Nhà nước về phát triển nông nghiệp và nông thôn chưa được quán triệt sâu sắc. Chủ trương, chính sách cũng có những điểm chưa nhất quán, cản trở việc giải phóng sức sản xuất. Một số vấn đề mới nảy sinh chưa được thảo luận kỹ để thống nhất ý chí và hành động trong toàn Đảng, toàn dân.

Những cách nhìn, cách nghĩ cũ còn tồn tại ở một bộ phận cán bộ, đảng viên trong việc xem xét các vấn đề ruộng đất, kinh tế hợp tác xã, kinh tế cá thể, kinh tế tư bản tư nhân, sự phân hoá giàu nghèo trong nông thôn... Mặt khác, có khuynh hướng đánh giá quá cao kinh tế hộ, đánh giá chưa đúng mức vị trí của kinh tế quốc doanh, kinh tế hợp tác xã, sự lãnh đạo của Đảng và vai trò của Nhà nước trong việc phát triển nông nghiệp và xây dựng nông thôn theo định hướng xã hội chủ nghĩa.

Tâm lý bao cấp, trông chờ, ỷ lại vào Nhà nước, vào cấp trên chưa được giũ bỏ. Đồng thời lại có xu hướng kinh doanh đơn thuần, chỉ chú trọng lời lỗ, coi nhẹ các lợi ích chính trị- văn hoá - xã hội.

3- Việc tổ chức thực hiện các chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước còn nhiều yếu kém. Quản lý vĩ mô còn nhiều lúng túng, nhất là trong việc giải quyết vấn đề thị trường tiêu thụ nông sản. Các ngành, các cấp chưa thật sự tập trung sức chỉ đạo, tổ chức và hỗ trợ phát triển nông nghiệp và nông thôn. Bệnh quan liêu, xa thực tế, cửa quyền, tham nhũng trong bộ máy Nhà nước còn nặng, hiệu lực quản lý và điều hành còn thấp. Chậm tổng kết thực tiễn, nhân điển hình tiên tiến, bổ sung, điều chỉnh những điểm không còn phù hợp của các luật lệ, chính sách, khắc phục những biến động xấu, những mặt trái của cơ chế thị trường.

4- Đảng, chính quyền, các đoàn thể nhân dân ở cơ sở chậm và lúng túng trong đổi mới tổ chức, nội dung và phương thức hoạt động. Chính sách đãi ngộ, công tác đào tạo, bồi dưỡng, lựa chọn và sử dụng cán bộ chưa đáp ứng với tình hình và nhiệm vụ mới.

II- MỤC TIÊU VÀ QUAN ĐIỂM TIẾP TỤC ĐỔI MỚI VÀ PHÁT TRIỂN NÔNG NGHIỆP, NÔNG THÔN

A- Mục tiêu đến năm 2000.

1- Trên cơ sở phát triển nhanh và vững chắc nông, lâm ngư nghiệp, công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp và dịch vụ nông thôn, nâng cao chất lượng sản phẩm và hiệu quả kinh doanh, mà thu hút được đại bộ phận lao động dôi thừa, tăng năng suất lao động xã hội, giải quyết vững chắc nhu cầu lương thực và thực phẩm cho nhân dân, đáp ứng nhu cầu nguyên liệu nông lâm thuỷ sản cho công nghiệp, tăng nhanh kim ngạch xuất khẩu, bảo vệ tài nguyên, bảo vệ và cải thiện môi trường sinh thái.

2- Tăng thu nhập, cải thiện một bước cơ bản đời sống vật chất - văn hoá của nông dân; giảm mức tăng dân số, khắc phục nạn suy dinh dưỡng; tăng thêm diện giàu và đủ ăn, xoá đói giảm nghèo, nhất là ở các vùng cao, vùng đồng bằng các dân tộc thiểu số, vùng sâu, vùng trước đây là căn cứ cách mạng.

3- Xây dựng nông thôn mới có kinh tế phát triển, đời sống văn hoá phong phú, lành mạnh, có cơ sở hạ tầng vật chất và xã hội đáp ứng được những nhu cầu cơ bản của nông dân, có hệ thống chính trị vững mạnh; phát huy dân chủ, bảo đảm công bằng xã hội; tăng cường đoàn kết và ổn định chính trị trong nông thôn, giữ vững trật tự xã hội, củng cố vững chắc quốc phòng, an ninh.

B- Quan điểm

1- Đặt sự phát triển nông nghiệp và kinh tế nông thôn theo hướng sản xuất hàng hoá trong quá trình công nghiệp hoá và hiện đại hoá đất nước, coi đó là nhiệm vụ chiến lược có tầm quan trọng hàng đầu.

2- Thực hiện nhất quán và lâu dài chính sách kinh tế nhiều thành phần trong nông nghiệp và kinh tế nông thôn theo định hướng xã hội chủ nghĩa, trong đó kinh tế quốc doanh, kể cả kinh tế quốc doanh trong công nghiệp và dịch vụ phục vụ nông nghiệp cùng với kinh tế hợp tác xã được đổi mới và phát triển có hiệu quả, từng bước vươn lên làm nền tảng, tạo điều kiện để củng cố liên minh công nhân - nông dân - trí thức, huy động tối đa tiềm năng của kinh tế hộ xã viên, hộ cá thể, hộ tư nhân, kinh tế hợp tác liên doanh với nước ngoài.

3- Gắn sản xuất với thị trường, mở rộng sản xuất đi đôi với mở rộng thị trường tiêu thụ nông sản: đẩy mạnh ứng dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật và công nghệ mới, nhất là công nghệ sinh học, để nâng cao năng suất, tăng chất lượng sản phẩm, hạ giá thành, nâng cao hiệu quả kinh doanh, tăng sức cạnh tranh trên thị trường trong và ngoài nước, tăng sức mua của thị trường nội địa; đẩy mạnh xuất khẩu; thay thế nhập khẩu những mặt hàng trong nước sản xuất có hiệu quả, có chính sách khuyến khích và bảo hộ hợp lý sản xuất trong nước.

4- Gắn phát triển kinh tế với phát triển văn hoá, xã hội, nâng cao dân trí, đào tạo nhân tài; bảo vệ và phát triển tài nguyên, cải thiện môi trường sinh thái, xây dựng nông thôn mới. Đổi mới kinh tế đi đôi với đổi mới hệ thống chính trị trong nông thôn.

III- PHƯƠNG HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP CỤ THỂ

1- Đổi mới cơ cấu kinh tế nông nghiệp.

Sản xuất lương thực giữ vị trí rất quan trọng để bảo đảm nhu cầu cơ bản của nhân dân và ổn định xã hội. Cần tập trung phát triển sản xuất lương thực ở những vùng và tiểu vùng trọng điểm; phấn đấu tăng sản lượng lương thực bình quân đầu người, nâng cao chất lượng sản xuất và chế biến lương thực đáp ứng nhu cầu tiêu dùng, chăn nuôi, dự trữ và xuất khẩu.

Tăng nhanh tỷ trọng chăn nuôi trong giá trị tổng sản lượng nông nghiệp. Đa dạng hoá sản phẩm chăn nuôi. Coi trọng việc cải tạo giống. áp dụng công nghệ chăn nuôi mới, kết hợp chăn nuôi công nghiệp với chăn nuôi truyền thống theo quy mô thích hợp. Đặc biệt coi trọng công nghiệp chế biến thức ăn gia súc, công nghiệp chế biến sản phẩm chăn nuôi, bảo đảm các tiêu chuẩn về vệ sinh thực phẩm. Đáp ứng tốt hơn các nhu cầu về thịt, cá, trứng, sữa trong bữa ăn của nhân dân; tăng nhanh sản phẩm chăn nuôi xuất khẩu.

Tập trung thâm canh kết hợp mở rộng diện tích một số cây công nghiệp chủ lực, như cao su, chè, cà phê, dâu tằm, v.v. đi đôi với ứng dụng công nghệ chế biến tiên tiến. Mở rộng diện tích trồng bông, mía loại giống có chất lượng cao. Phát triển cây có dầu, các loại đậu đỗ để cung cấp nguồn dầu và đạm thực vật cho bữa ăn của người và bổ sung thêm nguồn thức ăn cho chăn nuôi.

Phát triển mạnh các loại cây ăn quả trên tất cả các vùng. Chú trọng việc sản xuất rau, hoa, sinh vật cảnh để đáp ứng nhu cầu trong nước và từng bước nâng lên thành mặt hàng xuất khẩu lớn. Đẩy mạnh cải tạo giống và ứng dụng công nghệ mới trong các khâu bảo quản, chế biến rau quả.

Xây dựng thuỷ sản thành ngành kinh tế mũi nhọn. Tận dụng các vùng nước ngọt, nước lợ, nước mặn, các tuyến ven bờ, tuyến đảo; vươn mạnh ra đánh bắt ngoài khơi; áp dụng các kỹ thuật tiến bộ mới về nuôi trồng, đánh bắt, bảo quản, chế biến để đáp ứng nhu cầu tiêu dùng trong nước và tăng nhanh kim ngạch xuất khẩu thuỷ sản.

Ngành lâm nghiệp phải chú trọng bảo vệ rừng hiện có, bảo vệ, cải tạo và chăm sóc tốt rừng tái sinh; đẩy mạnh trồng rừng, phủ xanh đồi núi trọc, phát triển lâm sinh để nâng cao tỷ lệ rừng che phủ, bảo tồn quỹ gien động, thực vật rừng, bảo đảm tác dụng phòng hộ của rừng và đáp ứng nhu cầu ngày càng tăng về lâm sản. Hình thành ổn định ba loại rừng (phòng hộ, sản xuất và đặc dụng), tạo ra hệ sinh thái bền vững bảo vệ đất, nguồn nước, quỹ gien và môi trường thiên nhiên. Đổi mới cơ chế quản lý ngành lâm nghiệp, thực hiện phổ biến việc giao, khoán rừng và đất rừng phù hợp với quy hoạch và phương hướng phát triển từng vùng, từng loại rừng.

2- Cải biến cơ cấu kinh tế nông thôn.

Trên cơ sở xúc tiến công cuộc công nghiệp hoá nói chung, công nghiệp hoá nông nghiệp và nông thôn nói riêng mà thực hiện sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông thôn theo hướng phát triển mạnh, vững chắc, có hiệu quả công nghiệp - dịch vụ ở nông thôn; tăng nhanh tỷ trọng những ngành này trong cơ cấu nông - công nghiệp - dịch vụ.

Phát triển đa dạng công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp nông thôn, trước hết là công nghiệp chế biến nông, lâm, thuỷ sản, với quy mô nhỏ và vừa là chủ yếu. Khôi phục và phát triển các làng nghề. Tranh thủ công nghệ hiện đại, tận dụng công nghệ truyền thống; chú trọng những công nghệ tạo nhiều việc làm. Các cơ sở phục vụ xuất khẩu cần nhanh chóng áp dụng công nghệ hiện đại, để tăng sức cạnh tranh của sản phẩm trên thị trường thế giới.

Đi đôi với việc tận dụng năng lực sản xuất công nghiệp hiện có, cần tập trung vốn của Nhà nước và huy động thêm các nguồn vốn khác để xúc tiến xây dựng những cơ sở công nghiệp thiết yếu, phục vụ quá trình công nghiệp hoá nông nghiệp, nông thôn.

Đẩy mạnh phát triển dịch vụ nông thôn với sự tham gia tích cực hơn của kinh tế quốc doanh và các tổ chức hợp tác của nông dân để cho vay vốn, cung ứng vật tư kỹ thuật, hàng tiêu dùng và tiêu thụ sản phẩm cho nông dân, khắc phục tình trạng cho vay nặng lãi, đầu cơ, lũng đoạn thị trường ở nông thôn. Kết hợp đầu tư của Nhà nước với huy động sức dân ở những khâu cần thiết và có điều kiện để xây dựng kết cấu hạ tầng kinh tế, văn hoá trong nông thôn.

3- Kiên trì và nhất quán thực hiện chính sách phát triển kinh tế nhiều thành phần vận động theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước.

Khẳng định sự tồn tại các thành phần kinh tế khác nhau là một tất yếu khách quan trên con đường đi lên của đất nước. Tất cả mọi người, mọi doanh nghiệp, mọi thành phần kinh tế đều bình đẳng trước pháp luật. Mọi hoạt động sản xuất kinh doanh hợp pháp, phục vụ quốc kế dân sinh đều được hoan nghênh, khuyến khích. Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, vai trò quản lý, điều hành của Nhà nước để định hướng quá trình phát triển kinh tế xã hội ở nông thôn theo con đường xã hội chủ nghĩa. Theo tinh thần đó cần thực hiện tốt các chủ trương sau đây:

a- Đổi mới kinh tế hợp tác xã, phát huy vai trò tự chủ của kinh tế hộ xã viên.

Tiếp tục đổi mới các hợp tác xã theo hướng phát huy hơn nữa tiềm năng to lớn và vị trí quan trọng lâu dài của kinh tế hộ xã viên, đồng thời làm tốt công tác quy hoạch, hướng dẫn sản xuất, phát triển kinh doanh công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp, dịch vụ mà từng hộ xã viên không làm được hoặc làm không có hiệu quả, cùng với chính quyền địa phương chăm lo sự nghiệp phúc lợi xã hội. Thực hiện đúng nguyên tắc "tự nguyện, dân chủ, cùng có lợi" trong tổ chức, quản lý và phát triển kinh tế hợp tác xã.

Tổng kết đầy đủ hơn về tình hình biến động của các hợp tác xã từ khi thực hiện Nghị quyết 10 của Bộ Chính trị để có giải pháp xử lý phù hợp đối với từng loại như sau:

Những hợp tác xã đã đổi mới có hiệu quả, được xã viên đồng tình, cần tiếp tục đổi mới theo hướng chung đã xác định trên đây để không ngừng nâng cao hiệu quả hoạt động.

Những hợp tác xã mới đổi mới từng khâu, từng mặt cần phát huy mặt mạnh, khắc phục mặt yếu, tiếp tục đổi mới tổ chức, nội dung hoạt động và cơ chế quản lý để vươn lên thực hiện tốt chức năng của mình.

Những hợp tác xã chỉ tồn tại trên hình thức, sau nhiều lần tiến hành đổi mới, nhưng vẫn không có khả năng chuyển đổi thì cấp uỷ, chính quyền ở đó xem xét kỹ, làm rõ nguyên nhân, tìm giải pháp xử lý, để nông dân tổ chức các hình thức hợp tác mới phù hợp với yêu cầu của họ.

ở những nơi mà hợp tác xã và tập đoàn sản xuất tan rã, nông dân đang làm ăn cá thể thì cần tạo điều kiện để các hộ cá thể phát triển sản xuất, làm ăn có hiệu quả, dần dần đi vào con đường hợp tác một cách tự nguyện.

Nghiên cứu, đúc kết kinh nghiệm về các loại hình kinh tế hợp tác mới xuất hiện để hướng dẫn, giúp đỡ hoạt động có hiệu quả, thực sự vì lợi ích của nông dân, phát triển đúng hướng.

b- Đổi mới hệ thống doanh nghiệp Nhà nước.

Các quốc doanh nông, lâm, ngư nghiệp phải nghiên cứu và áp dụng các hình thức giao và khoán thích hợp đến công nhân viên, hộ thành viên và hộ dân cư tại địa phương, phát huy tốt tiềm năng đơn vị kinh tế tự chủ của hộ. Đồng thời làm tốt quy hoạch, xác định phương hướng sản xuất, kinh doanh, phát huy có hiệu quả cơ sở vật chất kỹ thuật và tiền vốn, vươn lên làm tốt chức năng trung tâm công nghiệp - dịch vụ, nhất là công nghiệp chế biến, trung tâm khoa học - kỹ thuật, trung tâm văn hoá - xã hội cho các thành phần kinh tế và dân cư trên địa bàn.

Quốc doanh công nghiệp, giao thông vận tải phải thực sự đóng vai trò nòng cốt trong việc xây dựng kết cấu hạ tầng, mở mang ngành nghề, phục vụ đắc lực công cuộc công nghiệp hoá nông nghiệp và nông thôn.

Quốc doanh thương nghiệp, tín dụng phải vươn lên giữ vai trò chủ đạo, để cùng các thành phần kinh tế khác làm tốt việc cung ứng vốn, vật tư, hàng hoá và tiêu thụ sản phẩm; mở rộng các quan hệ trực tiếp với nông dân, thực hiện trao đổi ngang giá, nhất thiết không được độc quyền, cửa quyền, mặt khác phải tăng cường thực lực vật chất của mình để can thiệp vào thị trường khi cần thiết nhằm bảo vệ quyền lợi của nông dân và người tiêu dùng.

c- Khuyến khích phát triển kinh tế cá thể, kinh tế tư bản tư nhân.

Nhà nước khuyến khích phát triển kinh tế cá thể, tư nhân trong nông lâm ngư nghiệp, công nghiệp dịch vụ nông thôn. Đặc biệt khuyến khích các thành phần kinh tế đầu tư phát triển các loại giống mới có hiệu quả kinh tế cao; khai thác đồi núi trọc, bãi bồi ven biển, nuôi trồng thuỷ sản, đánh bắt ngoài khơi; xây dựng các nông lâm ngư trại với quy mô thích hợp; phát triển tiểu thủ công nghiệp và công nghiệp, dịch vụ nông thôn tham gia xây dựng kết cấu hạ tầng. Khuyến khích các nhà kinh doanh từ thành phố, thị xã về nông thôn lập nghiệp.

4- Thực hiện chính sách giao quyền sử dụng ruộng đất lâu dài cho hộ nông dân.

Khẳng định đất đai thuộc sở hữu toàn dân. Luật đất đai (sửa đổi) quy định rõ nội dung các quyền và nghĩa vụ của người sử dụng đất, bảo đảm cho người sống bằng nghề nông, nhất là những gia đình chính sách phải có ruộng đất, được quyền sử dụng lâu dài, được chuyển đổi, chuyển nhượng, thừa kế, cho thuê, thế chấp theo những điều kiện cụ thể do pháp luật quy định, nhằm khuyến khích sử dụng và phát triển quỹ đất có hiệu quả làm cho đất đai ngày càng màu mỡ, bảo đảm giữ ổn định chính trị - xã hội trong nông thôn, thực hiện công bằng xã hội, thúc đẩy quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng tiến bộ. Quy định thời gian sử dụng đất hợp lý đối với cây ngắn ngày và cây lâu năm. Khi hết thời hạn, người sử dụng đất có nhu cầu và đủ điều kiện sẽ được quyền tiếp tục sử dụng. Chính sách hạn điền phải phù hợp với đặc điểm của từng vùng. Đối với những người đang canh tác trên mức hạn điền, Chính phủ có quy định và hướng dẫn riêng để họ an tâm sản xuất. Nhà nước có chính sách bảo đảm kết hợp lợi ích trước mắt với lợi ích lâu dài trong việc khai thác và sử dụng đất đồi núi trọc, đất khai hoang, lấn biển. Đối với quỹ đất công ích, nơi nào có nhu cầu thì được để lại không quá 5% diện tích canh tác của xã, nhưng phải đảm bảo quản lý chặt chẽ và sử dụng có hiệu quả.

5- Đổi mới chính sách vĩ mô của Nhà nước.

a- Chính sách thị trường tiêu thụ nông sản hàng hoá.

Hình thành tổ chức dự báo thị trường. Mở rộng các hình thức thông tin kinh tế thích hợp để tăng thêm khả năng tiếp thị của các hộ kinh doanh, và các tổ chức kinh tế, điều chỉnh sản xuất cho phù hợp với nhu cầu thị trường.

Bằng nhiều biện pháp đẩy mạnh công cuộc xây dựng và phát triển đất nước, giải quyết việc làm, tăng thu nhập để tăng sức mua của thị trường trong nước. Mở rộng lưu thông hàng hoá giữa các vùng, các miền, trong nước và ngoài nước để đẩy mạnh tiêu thụ nông sản.

Mở rộng thị trường xuất khẩu nông sản. Duy trì, phát triển quan hệ với thị trường truyền thống, đồng thời mở rộng các thị trường mới; tìm thị trường tiêu thụ lớn, ổn định lâu dài cho những mặt hàng quan trọng như gạo, cao su, cà phê, chè, tơ tằm, thịt, rau quả, thuỷ hải sản... Xây dựng các hiệp hội sản xuất và xuất khẩu những mặt hàng chủ yếu; tham gia các hiệp hội thế giới; tổ chức hợp lý các đầu mối xuất, nhập khẩu. Khuyến khích các đơn vị sản xuất trực tiếp giao dịch với thị trường nước ngoài.

Mở rộng việc áp dụng giống mới và kỹ thuật canh tác tiến bộ, hiện đại hoá công nghệ chế biến, bao bì, nâng cao chất lượng và hạ giá thành để tăng sức cạnh tranh của sản phẩm trên thị trường trong nước và thế giới.

Điều hành tỷ giá hối đoái một cách linh hoạt, hợp lý. Miễn hoặc giảm thuế xuất khẩu để khuyến khích xuất khẩu nông sản, đặc biệt là nông sản chế biến. Khuyến khích việc thay thế nhập khẩu những mặt hàng sản xuất trong nước có hiệu quả. Chú trọng bảo hộ sản xuất trong nước. Nhà nước cùng các thành phần kinh tế có biện pháp thu mua, chế biến, dự trữ, điều hoà cung cầu để giữ ổn định giá cả một số nông sản thiết yếu, bảo vệ lợi ích chính đáng của người sản xuất và người tiêu dùng. Phát triển các hình thức bảo hiểm để khắc phục rủi ro trong sản xuất kinh doanh.

b- Chính sách đầu tư và tín dụng.

Khuyến khích toàn dân tiết kiệm để đầu tư phát triển sản xuất kinh doanh.

Nhà nước dành phần đầu tư ngân sách thoả đáng, đồng thời có chính sách và hình thức huy động nguồn đầu tư của các thành phần kinh tế khác cho việc xây dựng kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội ở nông thôn, như thuỷ lợi, giao thông, điện, thông tin liên lạc, các cơ sở văn hoá, giáo dục, y tế. Tập trung đầu tư đẩy nhanh nhịp độ phát triển kinh tế hàng hoá ở một số vùng trọng điểm, đồng thời có giải pháp thiết thực giúp các vùng khó khăn vươn lên. Mở rộng việc thu hút đầu tư trực tiếp của nước ngoài vào việc phát triển nông nghiệp và kinh tế nông thôn.

Mở rộng tín dụng của Nhà nước và của nhân dân, tạo điều kiện thuận lợi để tăng tỷ lệ hộ nông dân nhất là nông dân nghèo được vay vốn, phát triển sản xuất kinh doanh. Có chế độ tín dụng ưu đãi đối với hộ nghèo, hộ chính sách, vùng nghèo, vùng dân tộc thiểu số, vùng cao, vùng căn cứ cách mạng. Đơn giản hoá các thủ tục cho vay. Mở rộng hình thức cho vay thông qua tín chấp đối với các hộ nghèo. Khuyến khích các hình thức tín dụng hợp tác tự nguyện của nông dân, tạo cơ sở pháp lý cho hệ thống tín dụng nông thôn hoạt động an toàn và có hiệu quả. Loại trừ nạn cho vay nặng lãi.

c- Chính sách thuế sử dụng đất và thuỷ lợi phí.

Thay thuế nông nghiệp bằng thuế sử dụng đất. Dành toàn bộ nguồn thu từ thuế sử dụng đất để đầu tư lại cho nông nghiệp và phát triển kết cấu hạ tầng nông thôn. Thực hiện việc miễn hoặc giảm thuế đối với một số vùng cao, vùng xa, vùng sâu, hải đảo, những gia đình thuộc diện chính sách và những hộ nông dân... gặp nhiều khó khăn.

Sắp xếp lại tổ chức, đổi mới quản lý các xí nghiệp thuỷ nông, các công ty, chi nhánh điện, loại bỏ các chi phí bất hợp lý để giảm giá dịch vụ thuỷ lợi và giá điện cho nông dân.

d- Đẩy mạnh công tác khuyến nông (bao gồm cả khuyến lâm, khuyến ngư...).

Tổ chức khuyến nông thành hệ thống mạnh và đa dạng từ trung ương đến cơ sở. Khuyến khích việc thành lập các tổ chức khuyến nông tự nguyện do các đoàn thể, các nhà khoa học, các doanh nghiệp và cá nhân đứng ra tổ chức và hoạt động. Có chính sách thu hút sự đóng góp của các ngành hàng, các cơ sở kinh doanh nông sản và nguồn tài trợ quốc tế vào công tác khuyến nông.

e- Chính sách khoa học và công nghệ.

Khoa học công nghệ phải tập trung nghiên cứu lai tạo, tuyển chọn các giống cây, con mới có năng suất cao, chất lượng tốt, thích nghi với các vùng sinh thái khác nhau. Đổi mới kỹ thuật canh tác. Phấn đấu đến năm 2000 đưa năng suất lúa và các cây lương thực chủ yếu tăng trên 30% so với hiện nay. Chú trọng nâng cao chất lượng gạo... phát triển cây ăn quả, cây công nghiệp. Có chương trình nghiên cứu, ứng dụng các giải pháp khoa học - công nghệ để phát triển có hiệu quả từng loại rừng phòng hộ, rừng đặc dụng, rừng sản xuất. Quy hoạch các khu bảo tồn thiên nhiên ở từng vùng, khai thác và phát triển quỹ gien động, thực vật, lựa chọn giống cây rừng thích hợp, có hiệu quả kinh tế cao, khoanh nuôi tái sinh kết hợp với cải tạo để tăng hiệu quả kinh tế trên mỗi hécta, nghiên cứu xử lý vấn đề rừng khộp. Thực hiện các biện pháp nông lâm kết hợp, nhanh chóng phủ xanh đất đồi núi trọc. Tăng độ che phủ của rừng lên 40%. Cải tạo các đàn gia súc gia cầm, giải quyết tốt vấn đề thức ăn, thú y, công nghệ chăn nuôi. Tiếp tục phát triển công nghệ và kỹ thuật nuôi trồng thuỷ hải sản, đánh bắt ngoài khơi; quản lý việc đánh bắt trong lộng đúng quy trình, quy phạm, bảo vệ tài nguyên, tăng nhanh giá trị xuất khẩu hải sản.

Tận dụng công nghệ truyền thống và đẩy mạnh ứng dụng công nghệ tiên tiến trong thu hoạch, chế biến, bảo quản, vận chuyển nông sản, tạo nhiều ngành nghề mới, nhiều việc làm ở nông thôn, thúc đẩy nhanh sự chuyển dịch cơ cấu nông thôn theo hướng công nghiệp hoá.

Nghiên cứu giải quyết các vấn đề về quy hoạch xây dựng nông thôn mới, bố trí các điểm dân cư, kết cấu hạ tầng, kiến trúc nông thôn, tổ chức cuộc sống, bảo vệ và cải thiện môi trường sống.

Tăng cường đầu tư có trọng điểm cho nghiên cứu khoa học; ứng dụng nhanh các thành tựu mới nhất của sinh học và công nghệ sinh học cũng như của các lĩnh vực khoa học công nghệ khác vào phát triển nông nghiệp nông thôn. Đưa công nghệ mới về nông thôn phải gắn với việc nâng cao dân trí, cải tiến tổ chức quản lý và các chính sách đầu tư vào nông thôn.

Sắp xếp lại các cơ quan nghiên cứu khoa học và triển khai công nghệ, tập trung xây dựng một số cơ sở mạnh đảm nhận các nhiệm vụ nghiên cứu trọng điểm. Gắn các viện nghiên cứu ứng dụng với các tổ chức sản xuất kinh doanh; xây dựng các trung tâm khoa học vùng (Tây Bắc, Việt Bắc, đồng bằng sông Hồng, miền Trung, Tây Nguyên, đồng bằng sông Cửu Long...).

Tổ chức đưa cán bộ khoa học về nông thôn giúp nông dân ứng dụng các tiến bộ khoa học kỹ thuật.

Tổ chức các trung tâm hoặc các điểm chuyển giao công nghệ, các công ty hỗ trợ phát triển nông thôn ở các tỉnh (có thể ở một số huyện) kết hợp với hệ thống khuyến nông.

Khuyến khích và tạo điều kiện cho cá nhân và tập thể hợp tác với các tổ chức khoa học nước ngoài.

Xây dựng chế độ đãi ngộ thoả đáng đối với các tập thể, cá nhân có những sáng tạo về khoa học công nghệ và các tiến bộ khoa học - công nghệ được ứng dụng có hiệu quả.

f- Chính sách xã hội nông thôn.

Thực hiện tốt các chủ trương, chính sách xã hội sau đây: Xoá nạn mù chữ, phấn đấu phổ cập cấp I, nâng cao dân trí. Phát triển hệ thống truyền thanh, truyền hình, thư viện, nhà văn hoá ở nông thôn. Đẩy mạnh phong trào vệ sinh phòng bệnh, thực hiện kế hoạch hoá gia đình, phát động rộng rãi phong trào thể dục thể thao; phát huy những truyền thống văn hoá tốt đẹp, thuần phong mỹ tục, bài trừ hủ tục, mê tín, dị đoan, tệ nạn xã hội, phát huy tình làng nghĩa xóm, bảo đảm đoàn kết nông thôn. Khuyến khích xây dựng và thực hiện các hương ước, các quy chế về nếp sống văn minh ở các thôn, xã.

Xây dựng quỹ "toàn dân đền ơn đáp nghĩa" để có thêm phương tiện thực hiện tốt các chính sách đối với gia đình có công với nước, gia đình liệt sĩ, thương binh.

Trợ giúp người nghèo chủ yếu bằng cách cho vay vốn, hướng dẫn cách làm ăn. Hình thành quỹ xoá đói giảm nghèo ở từng địa phương trên cơ sở dân giúp dân, nhà nước giúp dân và tranh thủ các nguồn tài trợ nhân đạo trong nước và quốc tế. Phấn đấu tăng số hộ giàu đi đôi với xoá đói giảm nghèo.

Phát triển các hình thức bảo hiểm sản xuất và đời sống trong nông thôn. Khuyến khích lập các loại quỹ bảo hiểm tuổi già, quỹ tương tế, quỹ từ thiện, do nông dân tự nguyện đóng góp.

g- Chính sách đối với miền núi và vùng đồng bào dân tộc thiểu số.

Các ngành, các cấp có chương trình kế hoạch cụ thể hoá Nghị quyết Hội nghị Trung ương 5 về phát triển kinh tế - xã hội nông thôn vào các địa phương miền núi và vùng đồng bào dân tộc, gắn với việc tiếp tục thực hiện Nghị quyết 22 của Bộ Chính trị khoá VI và Quyết định 72 của Hội đồng Bộ trưởng. Trước mắt cần làm tốt một số chủ trương sau:

Khẩn trương thực hiện giao hoặc khoán đất, rừng đến hộ nông dân, kết hợp giải quyết có lý có tình những tranh chấp về đất đai.

Giúp đỡ các địa phương miền núi và vùng đồng bào dân tộc thiểu số xây dựng và thực hiện tốt các dự án thuộc chương trình của Chính phủ ta và do quốc tế tài trợ về giải quyết công ăn việc làm, định canh định cư, chương trình phủ xanh đồi núi trọc, chương trình thay thế cây thuốc phiện, chương trình chống sốt rét, bướu cổ, xoá đói giảm nghèo, xoá mù chữ, chương trình nước sinh hoạt cho vùng cao, v.v.. Giảm bớt các thủ tục phiền hà, các tầng nấc trung gian, bảo đảm đưa vốn, vật tư đến với dân đủ và kịp thời.

Có chương trình xây dựng công nghiệp ở các vùng trung du, miền núi, vùng đồng bào dân tộc để làm đòn bẩy phát triển kinh tế, xã hội trên từng địa bàn.

Khôi phục và mở rộng hoạt động của hệ thống thương nghiệp và tín dụng nhà nước ở miền núi để cùng các thành phần khác giúp đồng bào phát triển sản xuất, cải thiện đời sống. Thực hiện miễn, giảm thuế đối với những ngành, nghề cần khuyến khích và những mặt hàng cần đẩy mạnh lưu thông phục vụ miền núi.

Khôi phục, củng cố và nâng cấp các trục đường giao thông nối liền miền núi với miền xuôi; phát triển giao thông nội tỉnh.

Tạo điều kiện cho các địa phương miền núi mở cửa làm ăn với các địa phương trong nước và nước ngoài.

Có chính sách và hình thức thích hợp để đào tạo, bồi dưỡng, sử dụng, đãi ngộ cán bộ dân tộc thiểu số và cán bộ công tác ở miền núi và vùng dân tộc thiểu số. Thống nhất tổ chức và đổi mới hoạt động của các cơ quan làm công tác dân tộc, bảo đảm tổ chức thực hiện có hiệu quả các chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước đối với đồng bào dân tộc.

Ban Chấp hành Trung ương giao cho Bộ Chính trị chỉ đạo Chính phủ cùng với các địa phương có liên quan giải quyết trực tiếp các vấn đề kinh tế - xã hội, an ninh quốc phòng cấp bách của từng vùng và từng dân tộc.

6- Đổi mới và nâng cao hiệu quả hoạt động của hệ thống chính trị.

- Các tổ chức cơ sở đảng ở nông thôn phải thực hiện tốt Nghị quyết Trung ương 3 (khoá VII) về đổi mới và chỉnh đốn Đảng và Quy định số 50-QĐ/TW ngày 19-11-1992 của Ban Bí thư về chức năng, nhiệm vụ của đảng bộ, chi bộ nông thôn.

Tổ chức đảng ở nông thôn phải thực sự đóng vai trò hạt nhân lãnh đạo mọi lĩnh vực đời sống xã hội trên địa bàn, phát triển lực lượng sản xuất và xây dựng quan hệ sản xuất mới trong nông thôn, đảm bảo an ninh, quốc phòng của địa phương; phát huy quyền làm chủ của nhân dân, thực hiện công bằng xã hội, kiểm tra việc chấp hành pháp luật và chính sách của Đảng và Nhà nước, chống tham nhũng, ức hiếp quần chúng, đoàn kết xây dựng nông thôn.

- Chính quyền cấp xã cần thực hiện chức năng quản lý nhà nước trên mọi lĩnh vực đời sống xã hội ở địa phương, hướng vào những nội dung chủ yếu là: Xây dựng quy hoạch, kế hoạch phát triển kinh tế, xã hội và an ninh, quốc phòng trên địa bàn xã, chăm lo giải quyết việc làm, thu nhập và đời sống của nhân dân ngày một tốt hơn. Chỉ đạo việc xây dựng cơ sở hạ tầng kinh tế - xã hội và kiến thiết nông thôn. Thực hiện quản lý nhà nước đối với tất cả các thành phần, tổ chức kinh tế trên địa bàn theo nhiệm vụ được giao. Thi hành luật pháp, giữ gìn trật tự, kỷ cương, ổn định nông thôn. Nhà nước cần sớm nghiên cứu đề ra quy chế thích hợp về chức năng, vai trò của cấp thôn, ấp, bản phù hợp tình hình của từng vùng.

- Đổi mới nội dung và phương thức hoạt động của mặt trận và các đoàn thể một cách thiết thực. Tổng Liên đoàn lao động, Hội Nông dân, Hội Liên hiệp Phụ nữ, Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh, Hội Cựu chiến binh, các hội nghề nghiệp hoạt động theo chức năng của tổ chức mình, hướng vào phục vụ mục tiêu, chương trình kinh tế, xã hội, an ninh quốc phòng ở nông thôn, góp phần xây dựng nông thôn mới giàu mạnh, văn minh, tiến bộ. Trong đó, Hội Nông dân phải đóng vai trò nòng cốt.

Có chính sách và kế hoạch tuyển lựa, bồi dưỡng và đào tạo cho nông thôn một đội ngũ cán bộ đồng bộ về ngành nghề, vững vàng về chính trị, có phẩm chất, đạo đức tốt, giỏi về chuyên môn, nghiệp vụ, tương xứng với yêu cầu phát triển nông thôn trong giai đoạn mới. Xây dựng chính sách đãi ngộ thoả đáng đối với đội ngũ cán bộ để họ yên tâm làm việc vì sự nghiệp phát triển nông thôn.

Ban Chấp hành Trung ương tin tưởng sâu sắc rằng nghị quyết Hội nghị Trung ương lần này sẽ dấy lên phong trào cách mạng sâu rộng, động viên toàn dân phát huy mọi tiềm năng, cần kiệm xây dựng đất nước, tạo ra bước chuyển biến mới trong sự nghiệp phát triển nông nghiệp và kinh tế - xã hội nông thôn, góp phần đưa công cuộc đổi mới vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội văn minh tiến tới những thắng lợi to lớn hơn nữa.

T/M BAN CHẤP HÀNH TRUNG ƯƠNG ĐẢNG 
Tổng Bí thư 
Đã ký: Đỗ Mười

Phản hồi

Thông tin người gửi phản hồi

Các tin khác

Hướng dẫn kiểm tra, giám sát phục vụ đại hội đảng bộ các cấp tiến tới Đại hội XIV của Đảng

(ĐCSVN) - Tại văn bản số 08-HD/UBKTTW ngày 18/11/2024, Ủy ban Kiểm tra Trung ương hướng dẫn công tác kiểm tra, giám sát phục vụ đại hội đảng bộ các cấp tiến tới Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIV của Đảng.

Phương án nghiên cứu sắp xếp, sáp nhập các bộ, cơ quan thuộc Chính phủ

(ĐCSVN) - Theo phương án nghiên cứu sắp xếp, sáp nhập được Trưởng Ban Tổ chức Trung ương Lê Minh Hưng nêu tại Hội nghị toàn quốc sáng 1/12, sẽ tối thiểu giảm được 5 bộ, 2 cơ quan trực thuộc Chính phủ.

Phương án sáp nhập các ủy ban của Quốc hội và cơ quan thuộc Ủy ban Thường vụ Quốc hội

(ĐCSVN) - Sáng 1/12, Trưởng Ban Tổ chức Trung ương Lê Minh Hưng thông báo chuyên đề về các nội dung chính, trọng tâm việc triển khai tổng kết Nghị quyết 18. Theo phương án định hướng được nêu sẽ giảm 4 ủy ban của Quốc hội và 1 cơ quan trực thuộc Ủy ban Thường vụ Quốc hội.

Phương án giảm 4 cơ quan Đảng, 25 ban cán sự đảng, 16 đảng đoàn trực thuộc Trung ương

(ĐCSVN) - Sáng 1/12, đồng chí Lê Minh Hưng, Uỷ viên Bộ Chính trị, Bí thư Trung ương Đảng, Trưởng ban Tổ chức Trung ương đã trình bày các nội dung chính, trọng tâm việc triển khai tổng kết Nghị quyết 18-NQ/TW của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XII.

Quy trình kỷ luật đảng viên thuộc thẩm quyền của Trung ương Đảng, Bộ Chính trị, Ban Bí thư

(ĐCSVN) - Thay mặt Bộ Chính trị, Thường trực Ban Bí thư Lương Cường vừa ký Quyết định số 165-QĐ/TW ngày 6/6/2024 của Bộ Chính trị ban hành Quy trình xem xét, thi hành kỷ luật đối với tổ chức Đảng, đảng viên thuộc thẩm quyền của Ban Chấp hành Trung ương Đảng, Bộ Chính trị, Ban Bí thư.

Liên kết website