Phát biểu khai mạc Hội nghị lần thứ sáu BCHTW Đảng (khoá VII), ngày 24/11/1993

Thưa các đồng chí Cố vấn,

Thưa các đồng chí Trung ương,

Kỳ họp Trung ương lần này có nhiệm vụ chuẩn bị những nội dung cần thiết cho Hội nghị đại biểu toàn quốc của Đảng ta, nhằm kiểm điểm nửa nhiệm kỳ thực hiện các Nghị quyết Đại hội VII, tổng kết một bước quá trình đổi mới từ Đại hội VI đến nay, làm sáng tỏ thêm một số vấn đề quan trọng về đường lối xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới, xác định những chủ trương và giải pháp lớn để thực hiện thắng lợi Nghị quyết Đại hội VII, tiếp tục đưa sự nghiệp cách mạng nước ta vững bước tiến lên.

Bộ Chính trị đã gửi đến các đồng chí dự thảo Báo cáo chính trị trình Hội nghị đại biểu. Tôi xin thay mặt Bộ Chính trị trình bày rõ thêm một số vấn đề lớn sau đây:

1. Về đánh giá tình hình

Xác định đúng thực trạng hiện nay là điều hết sức quan trọng để vạch ra mục tiêu, nhiệm vụ cho giai đoạn tới. Hai năm rưỡi thực hiện Nghị quyết Đại hội VII nói riêng, gần bảy năm đổi mới nói chung, mặc dù còn nhiều khó khăn, nhiều khuyết điểm và tồn tại, nhưng nhìn tổng quát, chúng ta đã khắc phục được một bước quan trọng tình trạng khủng hoảng kinh tế - xã hội, giữ vững và củng cố sự ổn định chính trị, mở rộng đáng kể quan hệ đối ngoại, tích luỹ được nhiều kinh nghiệm lãnh đạo và quản lý đất nước.

Những thành tựu to lớn đó đã tạo ra thế và lực mới của đất nước, cho phép chúng ta chú trọng nhiều hơn đến những chủ trương, chính sách, giải pháp có tầm chiến lược, để củng cố vững chắc thành quả đạt được và chuyển sang một thời kỳ phát triển mới, xúc tiến một bước công cuộc công nghiệp hoá, hiện đại hoá, ra sức phấn đấu đưa nước ta sớm thoát khỏi tình trạng nước nghèo và chậm phát triển.

Trong bối cảnh quốc tế diễn biến phức tạp, với sự đảo lộn và rối loạn ở nhiều nước xã hội chủ nghĩa trước đây, trong điều kiện bị mất đột ngột một nguồn viện trợ lớn từ bên ngoài, Mỹ vẫn tiếp tục chính sách bao vây cấm vận đối với nước ta, thành tựu mà chúng ta thu được chứng tỏ đường lối đổi mới của Đảng là đúng đắn, bước đi là thích hợp. Cách mạng nước ta đã và đang đi đúng hướng theo con đường củng cố độc lập dân tộc và xây dựng chủ nghĩa xã hội, bằng những tiến bộ từng bước, cụ thể trong việc giải phóng sức sản xuất, tăng trưởng kinh tế, cải thiện đời sống vật chất và văn hoá của nhân dân, dân chủ hoá và khơi dậy tính năng động trong toàn xã hội bảo đảm quốc phòng, an ninh, mở rộng giao lưu quốc tế.

2. Về thách thức và cơ hội

Thách thức lớn nhất là ở chỗ nước ta hiện vẫn thuộc diện nước nghèo nhất trong khu vực, tổng sản phẩm trong nước tính theo đầu người mới chỉ hơn 1/2 mức của Trung Quốc, 1/3 Inđônêxia, 1/8 Thái Lan, 1/14 Malaixia, v.v., trong khi đó tốc độ tăng trưởng bình quân hằng năm lại chậm hơn. Nợ nước ngoài và phần đến hạn phải trả quá lớn so với tổng sản phẩm trong nước và kim ngạch xuất khẩu. Nguy cơ tụt hậu xa hơn so với các nước xung quanh, kéo theo những hậu quả nặng nề về công ăn việc làm và đời sống, lòng tin và sự ủng hộ của nhân dân đối với chế độ, về khả năng quốc phòng, an ninh... là rất rõ rệt.

Trong khi đó, các thế lực thù địch trong và ngoài nước đang đẩy mạnh việc chống phá sự nghiệp cách mạng của nhân dân ta, gây mất ổn định chính trị - xã hội, phá hoại công cuộc xây dựng hoà bình của chúng ta, thực hiện âm mưu diễn biến hoà bình, bạo loạn lật đổ hòng xoá bỏ chế độ xã hội chủ nghĩa ở nước ta, làm cho ta bị lệ thuộc vào bên ngoài.

Mặt yếu kém của chúng ta là Đảng ta chưa thật ngang tầm với yêu cầu cách mạng trong tình hình mới, là năng lực quản lý điều hành còn thấp của bộ máy nhà nước từ trung ương đến địa phương và cơ sở, là nạn tham nhũng đang hết sức nghiêm trọng khiến cho việc đương đầu với thách thức càng thêm phức tạp, khó khăn.

Đồng thời, đất nước ta cũng đang có những thuận lợi rất cơ bản.

Những thành tựu đổi mới tạo điều kiện cả về vật chất lẫn tinh thần, cả về thế và lực để chúng ta chuyển sang một giai đoạn phát triển mới cao hơn. Môi trường hoà bình và ổn định trong khu vực, sự phát triển năng động của vùng châu á - Thái Bình Dương, xu thế hợp tác phát triển trên thế giới ngày càng tăng lên, sự quốc tế hoá đời sống kinh tế trong bối cảnh cách mạng khoa học - kỹ thuật diễn ra mạnh mẽ đang tạo ra cho chúng ta những lợi thế mới, những nguồn lực mới để đẩy nhanh nhịp độ phát triển. Sự đứng vững và đi lên của đất nước trong hoàn cảnh đầy thử thách cùng với chính sách đối ngoại đa phương hoá, đa dạng hoá đang tạo điều kiện để chúng ta tiếp tục mở rộng quan hệ quốc tế, kết hợp tốt hơn sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại.

Yếu tố quyết định nhất là nhân dân ta cần cù và thông minh, giàu lòng yêu nước, có ý chí tự lực tự cường, không  cam chịu nhục đói nghèo, với tinh thần năng động, sáng tạo được khơi dậy trong công cuộc đổi mới; Đảng ta vững vàng về chính trị, có đường lối đúng đắn, đoàn kết nhất trí, trải qua thử thách ngày càng có thêm kinh nghiệm lãnh đạo đất nước, được nhân dân tin tưởng và ủng hộ.

Với những nỗ lực vượt bậc nhằm nâng cao chất lượng lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng, hiệu lực quản lý của Nhà nước, động viên được sức mạnh của toàn dân tộc, chúng ta sẽ phát huy được thuận lợi, nắm bắt thời cơ, đẩy lùi nguy cơ, vượt qua thử thách, đưa sự nghiệp cách mạng nước ta tiến lên vững chắc.

3. Về tích luỹ và đầu tư phát triển, chuyển dịch cơ cấu theo hướng công nghiệp hoá và hiện đại hoá

Nhiệm vụ chiến lược có tầm quan trọng hàng đầu trong thời gian tới là đẩy mạnh một bước công cuộc công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, nhằm tạo thêm nhiều việc làm, đẩy nhanh tốc độ tăng trưởng kinh tế, cải thiện hơn nữa đời sống vật chất và văn hoá của nhân dân. Chỉ có tiến hành công nghiệp hoá và hiện đại hoá thì mới tránh được nguy cơ tụt hậu, giữ được ổn định chính trị, xã hội, bảo vệ độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc và định hướng phát triển xã hội chủ nghĩa.

Công cuộc công nghiệp hoá đã được triển khai trên miền Bắc vào đầu những năm 60, và trên cả nước sau năm 1975. Khó khăn về kinh tế - xã hội gay gắt trong những năm qua đã buộc chúng ta phải điều chỉnh quy mô, phương hướng, giảm bớt mức đầu tư xây dựng cơ bản và nhịp điệu công nghiệp hoá, tập trung vào những giải pháp nhằm ổn định tình hình, nhờ vậy mà đã thu được những thành tựu rất quan trọng.

Tuy nhiên, những giải pháp đó không đủ để giảm bớt sức ép ngày càng tăng về công ăn việc làm, không cho phép thay đổi căn bản cơ cấu kinh tế và công nghệ để có năng suất lao động cao hơn, hiệu quả lớn hơn, thu nhập nhiều hơn, không tạo được nền tảng cho nền kinh tế tăng trưởng nhanh và vững chắc, làm cơ sở cho việc giải quyết tốt hơn vấn đề công bằng xã hội. Khả năng đáp ứng các nhu cầu củng cố quốc phòng, an ninh cũng bị hạn chế.

Việc khắc phục được một bước rất quan trọng tình trạng khủng hoảng kinh tế - xã hội, đà chuyển biến tích cực trên nhiều ngành và lĩnh vực của nền kinh tế quốc dân mấy năm gần đây, sự mở rộng và tăng cường hợp tác phát triển với các nước và các tổ chức quốc tế cho phép chúng ta đẩy tới một bước công cuộc công nghiệp hoá và hiện đại hoá đất nước.

Đương nhiên, chúng ta không tiến hành công nghiệp hoá theo kiểu cũ, không lặp lại sai lầm nóng vội, chủ quan, duy ý chí mà Đại hội VI đã phê phán. Công nghiệp hoá không chỉ là sự tăng thêm một cách giản đơn tốc độ và tỷ trọng của sản xuất công nghiệp trong nền kinh tế, mà là cả một quá trình chuyển dịch cơ cấu gắn với đổi mới công nghệ, tạo nền tảng cho sự tăng trưởng nhanh và có hiệu quả cao của toàn bộ nền kinh tế quốc dân. Công nghiệp hoá phải đi đôi với hiện đại hoá, kết hợp những bước tiến tuần tự về công nghệ, với việc tranh thủ những cơ hội đi tắt, đón đầu, tạo nên những mũi nhọn phát triển theo trình độ tiên tiến của khoa học - công nghệ thế giới.

Phải cân nhắc kỹ phương hướng, quy mô, bước đi của tiến trình công nghiệp hoá và hiện đại hoá trên cơ sở thấu suốt các quan điểm lớn sau đây:

- Giữ vững độc lập tự chủ đi đôi với mở rộng hợp tác quốc tế, xây dựng một nền kinh tế mở với cả trong và ngoài nước, đa phương hoá và đa dạng hoá quan hệ với nước ngoài; kết hợp kinh tế với an ninh quốc phòng.

- Kiên trì chiến lược hướng mạnh về xuất khẩu, đồng thời thay thế nhập khẩu những sản phẩm trong nước sản xuất có hiệu quả, phát huy lợi thế so sánh của cả nước cũng như từng vùng, từng ngành, từng lĩnh vực, trong từng thời kỳ, không ngừng nâng cao sức cạnh tranh trên thị trường trong nước, thị trường khu vực và thị trường quốc tế.

- Lấy hiệu quả kinh tế - xã hội, chủ yếu được thẩm định bởi thị trường, làm tiêu chuẩn cơ bản để xác định phương hướng, lựa chọn các dự án đầu tư và công nghệ.

- Khai thác nhanh thế mạnh của cả nước, của mỗi vùng, mỗi ngành, tập trung thích đáng nguồn lực cho các lĩnh vực, các địa bàn trọng điểm sớm đưa lại hiệu quả cao, đồng thời có chính sách, cơ chế, giải pháp thiết thực đối với những nơi khó khăn, đẩy mạnh hợp tác phát triển, bảo đảm cho các vùng và các thành phần dân cư đều có lợi ích và được hưởng thành quả của sự tăng trưởng.

- Chú trọng quy mô nhỏ và vừa, vốn đầu tư ít mà thời gian thu hồi nhanh, theo phương châm lấy ngắn nuôi dài, nhưng không loại trừ một số công trình quy mô lớn nếu cần thiết và có hiệu quả.

- Đầu tư chiều sâu để khai thác tối đa năng lực sản xuất và công nghiệp hiện có, tập trung vào những khâu quyết định chất lượng và khả năng cạnh tranh của sản phẩm. Kết hợp công nghệ truyền thống với công nghệ hiện đại, bảo đảm tính tiên tiến của kỹ thuật và công nghệ nhập khẩu, ưu tiên cho loại công nghệ tốn ít vốn, tạo ra nhiều việc làm trực tiếp hoặc gián tiếp.

Trong những năm trước mắt, phải rất quan tâm đến công nghiệp hoá nông nghiệp và kinh tế nông thôn, phát triển toàn diện nông, lâm, ngư nghiệp gắn với công nghiệp chế biến nông, lâm, thuỷ sản, sự xuất hiện tư liệu sản xuất, hàng tiêu dùng, hàng thủ công mỹ nghệ... và dịch vụ cả ở thành thị và nông thôn; đẩy mạnh hoạt động kinh tế đối ngoại, nhất là những ngành cung ứng hàng hoá và dịch vụ xuất khẩu; cải tạo, mở rộng, nâng cấp và xây dựng mới có trọng điểm kết cấu hạ tầng vật chất ở những khâu ách tắc nhất, đang cản trở sự phát triển; xây dựng có chọn lọc một số cơ sở công nghiệp nặng trong những ngành trọng yếu mà nhu cầu đòi hỏi bức bách và có điều kiện về vốn, công nghệ, thị trường để phát huy tác dụng nhanh và có hiệu quả cao; phát triển sự nghiệp nghiên cứu và ứng dụng khoa học và công nghệ, giáo dục và đào tạo, y tế, bảo vệ môi trường, đáp ứng yêu cầu phát triển trước mắt cũng như lâu dài.

Công nghiệp hoá và hiện đại hoá cần rất nhiều vốn, huy động trong nước là chính, gắn với sử dụng vốn có hiệu quả. Các nước và vùng lãnh thổ như Nam Triều Tiên, Đài Loan, Xinhgapo, Hồng Kông đã phải đầu tư 25 đến 30% GDP mỗi năm trong mấy thập kỷ liền, mà vốn trong nước chiếm tới 80-90%, mới trở thành nước công nghiệp mới như ngày nay.

ở nước ta, để bảo đảm tăng trưởng bình quân hằng năm không dưới 8%, tổng vốn đầu tư phải nhanh chóng đạt tới mức 20-25% GDP hằng năm trở lên, so với mức khoảng 10% lâu nay. Điều đó đòi hỏi nỗ lực rất lớn, có chủ trương, chính sách thích đáng để động viên toàn xã hội ra sức cần kiệm trong sản xuất kinh doanh, tiết kiệm trong tiêu dùng, dồn vốn cho đầu tư phát triển, nhất là cho lĩnh vực sản xuất vật chất.

Trong nhiều giải pháp, phải đặc biệt chú ý đến những chính sách, cơ chế có tác dụng chặn đứng tình trạng thất thoát, lãng phí tài sản công, nhất là trong xây dựng cơ bản; tệ tiêu xài hoang phí, chè chén linh đình, quà cáp biếu xén... bằng công quỹ; việc mua sắm, xây cất, trang bị những thứ chưa thật thiết yếu trong hệ thống các cơ quan đảng, nhà nước, đoàn thể; xu hướng tiêu dùng không tương xứng với trình độ phát triển kinh tế, ít quan tâm tới ngày mai đang tăng lên trong xã hội. Cán bộ và đảng viên phải thực hiện lời dạy của Bác Hồ: "Cần, kiệm, liêm chính, chí công vô tư", làm gương cho toàn dân noi theo, vì cuộc sống của chúng ta và con em chúng ta, vì sự giàu có của mỗi nhà và của cả nước.

Chúng ta cũng cần tranh thủ nhiều hơn nữa vốn và công nghệ của bên ngoài, cả bằng cách đi vay, lẫn thu hút đầu tư trực tiếp. Song vay vốn phải trên cơ sở bảo đảm sử dụng có hiệu quả, trả được nợ. Huy động vốn bên ngoài phải đi liền với du nhập công nghệ hiện đại, làm đòn xeo để khơi dậy các nguồn lực trong nước là chính, luôn luôn chú trọng lợi ích và chủ quyền quốc gia cả về kinh tế lẫn chính trị. Nền kinh tế chỉ có thể phát triển vững chắc và lành mạnh trên cơ sở tích luỹ nội bộ là chính. Đó cũng là điều kiện tiên quyết để tiếp nhận và sử dụng có hiệu quả nguồn vốn bên ngoài.

Nguồn vốn lớn nhất, quý nhất, quyết định nhất và không thể thay thế được là con người Việt Nam. Đảng và Nhà nước phải có chính sách đoàn kết rộng rãi, bồi dưỡng, đào tạo, sử dụng cán bộ, trọng dụng nhân tài, phát huy truyền thống lao động cần cù, thông minh sáng tạo, ý chí quật cường của con người Việt Nam, của dân tộc Việt Nam, lấy đó làm kế sâu rễ bền gốc để dựng nước và giữ nước.

4. Về thành phần kinh tế

Để phát huy hơn nữa sức mạnh của nền kinh tế nhiều thành phần, đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội trong giai đoạn mới phải xây dựng khu vực doanh nghiệp nhà nước ở những lĩnh vực then chốt, có ưu thế về trình độ trang bị kỹ thuật, hoạt động có hiệu quả, đảm nhiệm được vai trò chủ đạo trong nền kinh tế, tương tự như vai trò của quân chủ lực trong các lực lượng vũ trang và nửa vũ trang trong chiến tranh nhân dân.

Khu vực doanh nghiệp nhà nước đã có những cố gắng thích ứng với cơ chế mới, đóng góp quan trọng vào sự ổn định và phát triển kinh tế trong mấy năm qua. Song so với công sức vốn liếng đầu tư cho khu vực này, thì những đóng góp đó chưa tương xứng, hiệu quả hoạt động sản xuất kinh doanh rất thấp.

Nguyên nhân cơ bản dẫn tới tình hình đó là ở chỗ: tài sản của Nhà nước về thực chất vẫn trong tình trạng không có người làm chủ cụ thể, trực tiếp, có quyền hạn và trách nhiệm, lợi ích và nghĩa vụ đầy đủ đối với việc sử dụng có hiệu quả, bảo toàn và phát triển các tài sản đó. Sở hữu nhà nước hay sở hữu toàn dân là hết sức cần thiết, song trên thực tế và trong nhiều trường hợp đã trở thành vô chủ. Công nhân viên chức trực tiếp làm việc tại doanh nghiệp không có động lực thường xuyên và bền vững để gắn bó thiết thân với sự phát triển của doanh nghiệp, không có quyền hạn vật chất và tổ chức đủ mạnh để tham gia định đoạt các quyết sách làm ăn, ngăn chặn từ gốc tệ tham ô, lãng phí, làm thất thoát, hư hỏng tài sản công.

Tình trạng tương tự đã diễn ra trong các hợp tác xã nông nghiệp nhiều năm trước đây. Song bằng cách khoán đến hộ gia đình, giao ruộng đất cho nông dân sử dụng lâu dài, chuyển nhiều loại tư liệu sản xuất khác thành sở hữu của xã viên, đã đưa đến những thành tựu to lớn của sản xuất nông nghiệp và cải thiện đời sống nông dân. Cơ chế khoán như trên cũng đã được áp dụng rộng rãi tại các doanh nghiệp nhà nước trong nông, lâm, ngư nghiệp, bước đầu đem lại kết quả tích cực.

Tính chất đặc thù của quá trình sản xuất và công nghệ trong công nghiệp, vận tải, xây dựng... nói chung không cho phép chia nhỏ tư liệu sản xuất để giao cho từng người lao động, nhưng có thể giải quyết bằng cách khác, chẳng hạn như bán (hay cấp) cổ phần ưu đãi của doanh nghiệp nhà nước cho công nhân viên chức trực tiếp làm việc tại từng doanh nghiệp; hoặc thực hiện chia lợi nhuận theo lương cơ bản cho công nhân, sau khi đã hoàn thành nghĩa vụ đối với Nhà nước và tích luỹ để tái đầu tư mở rộng sản xuất. Cách làm này tạo điều kiện cho công nhân viên chức thực sự trở thành người chủ, gắn quyền hạn và trách nhiệm, lợi ích và nghĩa vụ của mỗi người đối với kết quả hoạt động của doanh nghiệp, kết hợp tốt hơn lợi ích chung của cả nước, với lợi ích của từng tập thể lao động và của mỗi người. Một phần cổ phần của một số doanh nghiệp nhà nước cũng có thể bán cho các tổ chức và cá nhân ngoài doanh nghiệp, để huy động thêm nguồn vốn đáp ứng nhu cầu mở rộng sản xuất kinh doanh.

Việc cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước tạo cơ sở kinh tế để tổ chức Hội đồng quản trị, gồm những người hiểu biết và công tâm, đại diện cho chủ sở hữu, để trực tiếp quản lý hoạt động của doanh nghiệp. Một chức năng rất quan trọng của Hội đồng quản trị là lựa chọn được giám đốc điều hành giỏi, bãi miễn kịp thời những người không đủ phẩm chất và năng lực, kinh doanh không có hiệu quả, làm phương hại đến lợi ích của Nhà nước, người lao động và các chủ sở hữu khác. Giám đốc doanh nghiệp nhà nước không được tổ chức kinh doanh riêng, nhất là cùng một loại ngành nghề.

Chính phủ cần chỉ đạo các ngành, các cấp có liên quan xúc tiến triển khai sớm chủ trương nói trên, có bước đi tích cực nhưng vững chắc, cân nhắc mức độ, thời điểm phù hợp với từng lĩnh vực, từng loại hình xí nghiệp, từ làm thử, đúc rút kinh nghiệm để nhân ra diện rộng. Ngăn chặn những sơ hở và những lạm dụng trong việc thực hiện cổ phần hoá để đục khoét, biến của công làm của riêng.

Khuyến khích, hướng dẫn các thành phần kinh tế khác áp dụng phương thức nói trên, tăng thêm mặt thống nhất về lợi ích giữa người chủ và người lao động.

Ngoài việc củng cố các doanh nghiệp nhà nước trong những khâu, những lĩnh vực trọng yếu, Nhà nước sẽ mở rộng việc đầu tư vào các doanh nghiệp thuộc những thành phần khác dưới hình thức góp cổ phần, mua cổ phiếu, v.v. để vừa sử dụng có hiệu quả hơn các tài sản thuộc sở hữu nhà nước, vừa hỗ trợ, thúc đẩy và hướng dẫn hữu hiệu hơn hoạt động của toàn bộ nền kinh tế.

Kinh tế cá thể, tiểu chủ, tư bản tư nhân, hợp tác liên doanh với nước ngoài có vai trò tích cực lâu dài, đang phát triển sôi động. Cần tiếp tục giải toả những ngăn chặn, cấm đoán phi pháp, những thủ tục hành chính phiền hà, tạo môi trường pháp lý và kinh tế thuận lợi cho khu vực này phát triển hơn nữa.

Đồng thời, tình trạng kinh doanh không theo pháp luật, không đăng ký, không có sổ sách chứng từ đầy đủ, lẩn tránh sự kiểm kê, kiểm soát của Nhà nước, đội lốt doanh nghiệp nhà nước, hoặc móc nối với doanh nghiệp và cán bộ, nhân viên nhà nước để làm ăn phi pháp, buôn lậu, trốn thuế, v.v. là rất phổ biến và rất nghiêm trọng.

Không phải bản thân sự phát triển của khu vực kinh tế tư nhân, mà là việc buông lỏng và kém hiệu lực của hoạt động kiểm kê, kiểm soát, hướng dẫn, điều tiết và can thiệp của Nhà nước đối với khu vực này, để cho những mặt tiêu cực nói trên ăn sâu và lan rộng mới chính là nguy cơ làm chệch định hướng phát triển kinh tế - xã hội. Cần ngăn chặn và đẩy lùi nguy cơ đó.

Việc đảng viên làm kinh tế tư bản tư nhân là trái với Cương lĩnh và Điều lệ Đảng. Các cấp bộ đảng cần xem xét từng trường hợp cụ thể, hướng dẫn và giúp đỡ chuyển đổi thành dạng xí nghiệp, công ty cổ phần, có sự tham gia của người lao động, của Nhà nước; hoặc kinh tế hợp tác, công tư hợp doanh, v.v. để vừa tận dụng được vốn liếng và năng lực kinh doanh của đảng viên, vừa bảo đảm bản chất giai cấp của Đảng.

5. Về tiếp tục đổi mới cơ chế kinh tế

Thực tiễn đổi mới đến nay cho phép khẳng định: cơ chế thị trường có tác dụng tích cực hơn hẳn cơ chế tập trung quan liêu bao cấp trong việc phát triển sức sản xuất và cải thiện đời sống của nhân dân. Bản chất xã hội của cơ chế thị trường tuỳ thuộc vào tổng thể các yếu tố kinh tế - chính trị của chế độ xã hội trong đó nó tồn tại và phát triển. Mặt khác, cơ chế thị trường cũng không phải là phương tiện vạn năng trong việc giải quyết các vấn đề  kinh tế - xã hội. Nó cũng chứa đựng những hạn chế, những mặt tiêu cực cần được ngăn ngừa, khắc phục. Chức năng cơ bản của thị trường là chức năng lưu thông phân phối. Nếu không được Nhà nước quản lý và điều tiết, thì tác động của thị trường sẽ làm nảy sinh xu hướng tự phát tư bản chủ nghĩa. Vì vậy, phải kiên trì thực hiện quá trình chuyển đổi sang cơ chế thị trường, đi đôi với tăng cường hiệu lực quản lý vĩ mô của Nhà nước, để sử dụng có hiệu quả hơn nữa cơ chế thị trường trong việc xây dựng và phát triển kinh tế - xã hội theo định hướng xã hội chủ nghĩa.

Quản lý vĩ mô của Nhà nước nhằm định hướng và dẫn dắt sự phát triển của toàn bộ nền kinh tế - xã hội, tạo môi trường kinh tế và khuôn khổ pháp lý cho hoạt động sản xuất kinh doanh, phát huy mặt tích cực, ngăn ngừa và khống chế những tác động tự phát, tiêu cực, khắc phục những mặt khiếm khuyết vốn có của cơ chế thị trường, làm cho thị trường thật sự trở thành công cụ quan trọng trong việc phân bổ và sử dụng có hiệu quả hơn các nguồn lực, phân phối và phân phối lại thu nhập quốc dân, bảo đảm quan hệ tích luỹ tiêu dùng, quan hệ lợi ích giữa các thành phần kinh tế, các tầng lớp dân cư; đáp ứng yêu cầu tăng trưởng nhanh hơn, ổn định vững chắc hơn, công bằng xã hội nhiều hơn.

Quản lý vĩ mô của Nhà nước phải bao quát toàn bộ nền kinh tế quốc dân, các thành phần kinh tế, chứ không chỉ riêng khu vực doanh nghiệp nhà nước. Tăng cường hơn nữa tính tập trung thống nhất của Chính phủ trong điều hành vĩ mô nền kinh tế, đi đôi với việc mở rộng trách nhiệm và quyền hạn của ngành và địa phương đối với những vấn đề mà các cấp này có khả năng xử lý có hiệu quả hơn; bảo đảm quyền tự chủ kinh doanh của doanh nghiệp.

Hoàn chỉnh hệ thống pháp luật, làm cho luật pháp được thực hiện nghiêm minh, bình đẳng đối với mọi công dân và thành phần kinh tế.

Củng cố và tăng cường vai trò bộ tham mưu của cơ quan kế hoạch, làm tốt các chức năng lập quy hoạch, kế hoạch, xác định phương hướng và tốc độ phát triển, tính toán và duy trì các cân đối vĩ mô, điều chỉnh cơ cấu đầu tư, chuyển dịch cơ cấu kinh tế, làm trung tâm điều phối các nguồn lực tập trung huy động được từ trong và ngoài nước để sử dụng có hiệu quả cho việc thực hiện các mục tiêu kinh tế - xã hội.

Tiếp tục cải cách sâu sắc và toàn diện hơn nữa hệ thống tài chính - ngân hàng, một trong những khâu yếu và khó nhất, đồng thời lại là khâu then chốt để tạo lập và vận hành có hiệu quả cơ chế thị trường có sự quản lý vĩ mô của Nhà nước, đáp ứng yêu cầu vốn cho phát triển đất nước.

Đổi mới cơ chế quản lý các doanh nghiệp nhà nước, tạo điều kiện cho doanh nghiệp thực sự tự chủ kinh doanh theo pháp luật. Xúc tiến hình thành những tập đoàn kinh doanh lớn có tầm cỡ khu vực hoặc quốc gia bao gồm cả mạng lưới vệ tinh là những doanh nghiệp nhỏ không phân biệt ranh giới bộ chủ quản hay cấp chủ quản.

Các bộ chuyên ngành tập trung làm tốt chức năng hoạch định chiến lược, quy hoạch, chính sách phát triển của toàn ngành; hướng dẫn, hỗ trợ kiểm tra, kiểm soát các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần trên mọi địa bàn theo đúng chức năng quản lý nhà nước về ngành kinh tế - kỹ thuật mà bộ phụ trách. Tăng cường vai trò quản lý xuyên suốt các ngành và lĩnh vực của các bộ tổng hợp, bảo đảm không một hoạt động kinh tế - xã hội nào lại không chịu sự quản lý vĩ mô có hiệu lực của Nhà nước.

Các cấp chính quyền thực hiện chức năng quản lý nhà nước trên địa bàn, không phân biệt kinh tế trung ương hay địa phương, doanh nghiệp nhà nước hay thuộc các thành phần khác, bảo đảm mọi hoạt động sản xuất kinh doanh đều theo đúng pháp luật.

Hiệu lực thấp về tổ chức, quản lý và điều hành của bộ máy nhà nước đang là một trong những vấn đề bức xúc mà chúng ta phải tập trung giải quyết. Phải nhận thức rõ nguy cơ nhiều mặt, cả về ổn định chính trị - xã hội lẫn tăng trưởng kinh tế, do bộ máy cồng kềnh, quan liêu, trình độ và năng lực cán bộ thấp, nhiều hư hỏng, để có sự nhất trí và quyết tâm cao, phối hợp đồng bộ giữa các ngành, các cấp, nhằm xúc tiến mạnh việc cải cách hành chính, sắp xếp lại bộ máy, tinh giản biên chế, phân công phân nhiệm rõ ràng, bảo đảm tập trung thống nhất, đơn giản hoá thủ tục hành chính, có quy chế công chức, công vụ cụ thể đối với từng chức danh, có chế độ đãi ngộ tương xứng với cống hiến và hiệu quả làm việc, làm cho bộ máy nhà nước nói chung và nhất là về quản lý kinh tế thực sự có hiệu lực và hiệu quả.

Có chương trình đào tạo và đào tạo lại cán bộ phù hợp với cơ chế mới, tuyển chọn và sử dụng cán bộ đúng khả năng, trọng dụng nhân tài, chống tư tưởng cục bộ, địa phương, bè phái, phân biệt đảng viên và người ngoài Đảng.

6. Về các vấn đề xã hội

Đẩy mạnh tăng trưởng kinh tế, tạo cơ hội cho mọi tầng lớp nhân dân tự do làm ăn theo pháp luật, chủ động và năng động lo liệu cuộc sống của mình và gia đình mình, không thụ động, trông chờ ỷ lại vào Nhà nước, vào cấp trên, vào viện trợ bên ngoài... như chúng ta đang làm lâu nay, là một tiến bộ lớn về mặt xã hội, là thành tích không nhỏ trong việc dân chủ hoá đời sống xã hội ở một lĩnh vực quyết định nhất, thiết thân nhất và rộng lớn nhất - lĩnh vực kinh tế. Sắp tới, Nhà nước phải có cơ chế, chính sách thích đáng nhằm động viên toàn xã hội tiết kiệm để đầu tư phát triển, đẩy mạnh hơn nữa tốc độ tăng trưởng theo phương hướng, nhiệm vụ mà Chiến lược kinh tế - xã hội đã đề ra; khuyến khích mọi thành phần, mọi công dân, mọi nhà đầu tư trong và ngoài nước mở mang nhiều ngành nghề sản xuất kinh doanh, mở rộng kinh tế đối ngoại, nhờ đó mà giải quyết tốt hơn vấn đề công ăn việc làm, thu nhập và đời sống, tạo tiền đề vật chất cho việc xử lý các vấn đề xã hội khác.

Nói như vậy không có nghĩa là tăng trưởng kinh tế tự nó sẽ giải quyết được tất cả các vấn đề xã hội, càng không có nghĩa là phải hy sinh tất cả cho tăng trưởng, chờ đến lúc kinh tế phát triển cao mới quan tâm đến những vấn đề xã hội. Chúng ta không ảo tưởng sớm có ngay một xã hội tốt đẹp trong khi kinh tế còn kém phát triển, năng suất lao động thấp, khoa học kỹ thuật còn lạc hậu. Chúng ta phải chấp nhận bất công ở một mức nhất định không tránh khỏi, coi đó là giá phải trả để ổn định và phát triển nhanh nền kinh tế. Nhưng chúng ta chủ trương phải kết hợp ngay từ đầu tăng trưởng kinh tế với tiến bộ và công bằng xã hội, từng bước xây dựng trên thực tế một xã hội trong đó nhân dân làm chủ các công việc nhà nước và xã hội; mọi người sống nhân ái, có văn hoá, tôn trọng pháp luật, kỷ cương; xoá bỏ áp bức, bất công, ai cũng được tạo điều kiện để mưu cầu một cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc.

Nhiều vấn đề xã hội nhức nhối hiện nay không phải chỉ do kinh tế kém phát triển, mà còn do chúng ta buông lỏng lãnh đạo và quản lý, chưa quan tâm đúng mức đến việc giải quyết các vấn đề xã hội, chưa chú trọng kết hợp tăng trưởng kinh tế với tiến bộ và công bằng xã hội. Cần nghiêm khắc kiểm điểm và sớm khắc phục thiếu sót đó.

Tư tưởng chỉ đạo xuyên suốt của những chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước về các lĩnh vực xã hội, phát triển văn hoá, khoa học, công nghệ, giáo dục, y tế... là chăm sóc, bồi dưỡng để phát huy nhân tố con người với tư cách vừa là động lực, vừa là mục tiêu của công cuộc xây dựng xã hội mới.

Cần có quan niệm đúng và thực hiện tốt yêu cầu về công bằng xã hội. Công bằng xã hội thể hiện cả ở khâu phân phối các điều kiện sản xuất, lẫn ở khâu phân phối kết quả của sản xuất; ở điều kiện phát triển năng lực của mỗi thành viên trong cộng đồng. Nhà nước phải tạo điều kiện để người lao động được làm chủ một phần tư liệu sản xuất (như nông dân được giao ruộng đất, công nhân viên chức có cổ phần, cổ phiếu trong các doanh nghiệp nhà nước và tư nhân, v.v.), được giáo dục văn hoá, đào tạo nghề nghiệp, chăm sóc y tế, có cơ hội phát huy năng lực sở trường trong quá trình lập thân, lập nghiệp. Đồng thời Nhà nước cũng bảo vệ và khuyến khích mọi công dân làm giàu hợp pháp, được hưởng thụ xứng đáng với công sức, tiền của bỏ vào sản xuất kinh doanh. Thực hiện nguyên tắc ai làm việc có hiệu quả hơn, cống hiến nhiều hơn thì thu nhập lớn hơn và ngược lại. Chống tư tưởng bình quân, sống dựa dẫm, ỷ lại. Phân phối theo lao động là chính, đồng thời phân phối theo mức vốn đầu tư, đãi ngộ xứng đáng các tài năng. Mở rộng phúc lợi xã hội.

Trong khi ra sức tạo thêm điều kiện thuận lợi để khuyến khích làm giàu hợp pháp, coi việc một bộ phận dân cư giàu có nhanh hơn số đông là hợp quy luật và cần thiết cho tiến bộ chung, trong khi phải tập trung những nguồn lực có hạn để khai thác và phát triển nhanh hơn những vùng trọng điểm có nhiều lợi thế làm đầu tầu lôi kéo các vùng khác cùng phát triển, cần có chính sách đền ơn đáp nghĩa những người có công với nước, từng bước xoá đói giảm nghèo, hỗ trợ người nghèo, vùng nghèo bằng những chính sách và biện pháp cụ thể và thiết thực; điều tiết hợp lý những người có thu nhập cao và vùng có lợi thế phát triển, hỗ trợ các vùng và các tầng lớp dân cư còn nhiều khó khăn, đặc biệt quan tâm đến đồng bào các dân tộc ít người, khu căn cứ cách mạng cũ, vùng cao, vùng sâu và hải đảo.

Đề cao trách nhiệm của mỗi công dân trước hết phải tự giải quyết lấy những vấn đề trong cuộc sống của bản thân và gia đình mình; đồng thời tăng cường cộng đồng trách nhiệm của cả xã hội. Phát huy truyền thống tương thân tương ái, đùm bọc cưu mang lẫn nhau của "người trong một nước". Động viên mọi người, mọi nhà làm việc nhân đạo, từ thiện.

Một bất công xã hội nghiêm trọng nhất, tệ hại nhất hiện nay, cần phải ngăn chặn và đẩy lùi bằng được, đó là nạn tham nhũng. Bằng cách lạm dụng quyền lực để đục khoét tài sản - mồ hôi nước mắt của nhân dân, bọn tham nhũng đang làm mọt ruỗng bộ máy nhà nước, bôi nhọ thanh danh của Đảng, tiếp tay cho các thế lực thù địch phá hoại chế độ ta.

Phải tiến hành chống tham nhũng một cách kiên quyết, triệt để trong toàn bộ bộ máy, ở tất cả các cấp, các ngành từ trung ương đến địa phương và cơ sở. Kết hợp việc thanh tra, kiểm tra chặt chẽ của các cơ quan chức năng phát động nhân dân phối hợp đấu tranh vạch mặt bọn tham nhũng. Xử lý nghiêm minh, kịp thời, đúng pháp luật các vụ việc, không phân biệt kẻ vi phạm ở cương vị gì, cấp bậc nào.

Mặt khác, phải giải quyết một cách cơ bản những mặt bất cập, những kẽ hở trong cơ chế, chính sách; tình trạng thiếu người làm chủ tập thể, trực tiếp đối với nhiều loại tài sản công; sự cồng kềnh, chồng chéo, trùng lắp trong bộ máy, nhiều tầng nấc trung gian, nhiều người dôi dư kém phẩm chất và năng lực, việc thiếu những quy định rõ ràng và đơn giản về thủ tục hành chính, về quy chế công chức công vụ; sự bất hợp lý trong chế độ tiền lương, v.v..

Phải sử dụng các dịch vụ tư vấn và thẩm định của trong nước và nước ngoài, như dịch vụ thẩm định chất lượng và giá cả hàng hoá, thiết bị nhập khẩu, thẩm định dự án; dịch vụ kế toán và kiểm toán, quản lý vay nợ, viện trợ; dịch vụ tư vấn về pháp lý, về tổ chức bộ máy hành chính, v.v.. Tập trung lực lượng để tạo chuyển biến thực sự ở một số ngành và lĩnh vực trọng điểm, như xây dựng cơ bản, hợp tác đầu tư với nước ngoài, xuất, nhập khẩu, thuế và hải quan, v.v., tạo điều kiện mở rộng sang các ngành và lĩnh vực khác.

7. Về quốc phòng - an ninh - đối ngoại

Sau chiến tranh lạnh, tình hình khu vực và thế giới có những diễn biến phức tạp, thời cơ mới được mở ra, đi đôi với thách thức mới rất nghiêm trọng. Chúng ta phải nắm thời cơ để xây dựng lại đất nước, đẩy lùi nguy cơ, vượt qua thách thức.

Nghị quyết Đại hội VII và các Nghị quyết Trung ương khoá VII luôn khẳng định hai nhiệm vụ chiến lược xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Phải tập trung sức xây dựng lại đất nước, coi là nhiệm vụ trung tâm, đồng thời không được lơi lỏng nhiệm vụ bảo vệ đất nước, giữ vững ổn định chính trị - xã hội, giữ vững định hướng phát triển theo con đường xã hội chủ nghĩa.

Cùng với xu thế hoà bình, đối thoại, hợp tác và phát triển đã tăng lên trong khu vực và trên thế giới, thành công của sự nghiệp đổi mới trên các lĩnh vực đời sống xã hội, chính sách đối ngoại đúng đắn và hoạt động tích cực, chủ động của ta đã làm thay đổi hình ảnh Việt Nam trên thế giới. Uy tín và địa vị quốc tế của ta được nâng cao rõ rệt, tạo thế mới trong xây dựng và bảo vệ đất nước. Chúng ta phải tiếp tục đẩy mạnh cải cách, tăng cường quản lý, mở rộng hợp tác nhiều mặt để tranh thủ vốn, công nghệ, kiến thức và kinh nghiệm của bên ngoài, khai thác các điểm đồng về lợi ích, thu hẹp các bất đồng, tăng thêm bầu bạn, tận dụng và góp phần tạo môi trường quốc tế ngày càng thuận lợi hơn để tập trung sức xây dựng đất nước.

Mặt khác, thế giới cũng đang có nhiều biến động bất trắc chứa đựng những điểm nóng tiềm tàng có thể làm bùng nổ thêm các xung đột khu vực, cục bộ. Trật tự thế giới cũ hình thành từ sau Chiến tranh thế giới thứ hai không còn tồn tại, tương quan lực lượng có nhiều thay đổi bất lợi cho ta, trật tự thế giới mới đang trong quá trình hình thành. Nguy cơ chiến tranh huỷ diệt toàn cầu bị đẩy lùi một bước quan trọng, song những cuộc xung đột vũ trang về dân tộc, sắc tộc, lãnh thổ kéo dài triền miên. Kinh tế nhiều nước, nhất là các nước công nghiệp phát triển, đang trải qua thời kỳ suy thoái. Mỹ vẫn chưa từ bỏ chính sách bao vây, cấm vận đối với Việt Nam. Các thế lực thù địch đang ráo riết thực hiện âm mưu hòng xoá bỏ Đảng và chế độ xã hội chủ nghĩa ở nước ta. Chúng tìm cách khoét sâu và thổi phồng những khuyết điểm, phủ nhận những chiến công oai hùng, phá hoại khối đại đoàn kết của toàn Đảng, toàn quân, toàn dân ta.

Chúng ra sức xuyên tạc, bôi nhọ chủ nghĩa Mác - Lênin, lung lạc cán bộ, đảng viên và nhân dân về tư tưởng; gieo rắc hoài nghi về mục tiêu xã hội chủ nghĩa; lôi kéo mua chuộc, làm sa ngã biến chất cán bộ, làm suy yếu đội ngũ ta. Chúng tổ chức, nhen nhóm lực lượng, cấu kết trong ngoài, lợi dụng chiêu bài dân chủ, nhân quyền để kích động chống phá, hòng làm mất ổn định chính trị - xã hội, gây bạo loạn lật đổ, thực hiện diễn biến hoà bình, kéo chúng ta đi chệch quỹ đạo xã hội chủ nghĩa.

Tại Hội nghị Trung ương lần này, cũng như sau hội nghị, các cấp uỷ đảng, chính quyền, đoàn thể, các cơ quan chức năng sẽ nghiên cứu kỹ và bàn định các giải pháp cụ thể về tư tưởng, tổ chức, phương án hành động về các mặt để đối phó thắng lợi với từng âm mưu, thủ đoạn của địch. Tôi chỉ nhấn mạnh rằng toàn Đảng, toàn quân, toàn dân phải đề cao cảnh giác trước nguy cơ đó. Song kẻ thù có thực hiện được ý đồ của chúng hay không, thì lại còn tuỳ thuộc vào chúng ta. Nếu Đảng và Nhà nước ta kiên định, trong sạch, vững mạnh, thực sự vì lợi ích của nhân dân, có quyết tâm cao, loại trừ tham nhũng; có chính sách và giải pháp đúng, đẩy nhanh hơn nữa tốc độ phát triển kinh tế, nâng cao đời sống của nhân dân, làm tốt công tác giáo dục chính trị, tư tưởng, tăng cường khối đại đoàn kết toàn dân dưới sự lãnh đạo của Đảng, chăm lo củng cố quốc phòng, an ninh, thì chúng ta nhất định sẽ làm thất bại mọi âm mưu của các thế lực thù địch.

Các cấp, các ngành từ trung ương đến địa phương cần có chuyển biến mạnh mẽ, lãnh đạo thực hiện tốt nhiệm vụ xây dựng Đảng, xây dựng bộ máy nhà nước, phát triển kinh tế gắn với củng cố quốc phòng và an ninh, bảo vệ vững chắc và phát huy những thành quả cách mạng mà nhân dân ta đã giành được, đưa công cuộc đổi mới tiếp tục tiến lên theo định hướng xã hội chủ nghĩa.

8. Về xây dựng Đảng

Đảng là hạt nhân lãnh đạo toàn xã hội. Vì vậy, đổi mới và chỉnh đốn Đảng, nâng cao chất lượng lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng ngang tầm nhiệm vụ là vấn đề then chốt bảo đảm cho quá trình đổi mới đi đúng hướng và đạt thành tựu cao hơn.

Sức mạnh của Đảng bắt nguồn từ đường lối chính trị đúng đắn, sự thống nhất về tư tưởng và hành động của toàn Đảng. Trước những thời cơ và thách thức mới hiện nay, công tác chính trị tư tưởng càng có vị trí đặc biệt quan trọng.

Phải bồi dưỡng nâng cao bản lĩnh chính trị, trí tuệ và chất lượng lãnh đạo của Đảng. Xây dựng cho cán bộ, đảng viên niềm tin và ý chí kiên định lý tưởng cách mạng, kiên định mục tiêu đi lên chủ nghĩa xã hội trên cơ sở nhận thức được quy luật phát triển xã hội. Phải coi trọng tổng kết thực tiễn, đẩy mạnh công tác nghiên cứu lý luận để từng bước xác định rõ con đường và giải pháp xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Kiên quyết đấu tranh, phê phán những quan điểm cơ hội, xét lại, những khuynh hướng dao động, phủ nhận thành quả cách mạng của nhân dân ta, đồng thời khắc phục bệnh bảo thủ, giáo điều. Bồi dưỡng cho cán bộ, đảng viên về lý luận, quan điểm, đường lối, về những điển hình và nhân tố mới. Giải quyết có kết quả những vấn đề kinh tế, xã hội cấp bách. Đó là những việc làm có tác dụng thiết thực xây dựng và củng cố niềm tin.

Các cán bộ làm công tác lý luận, khoa học xã hội trong hệ thống trường đảng, các viện nghiên cứu khoa học, các cơ quan tư tưởng phải được bố trí đi thực tế, hoặc trực tiếp tham gia vào hoạt động của các cơ sở để nghiên cứu, tổng kết thực tiễn trên lĩnh vực công tác lý luận.

Cần mở rộng dân chủ trong quá trình ra nghị quyết, quyết định, tập trung được trí tuệ của cán bộ, đảng viên, của các chuyên gia, nhà khoa học, để có những nghị quyết, quyết định chính xác, làm cơ sở cho sự đoàn kết, thống nhất trong toàn Đảng. Cán bộ, đảng viên phải chấp hành nghiêm chỉnh chỉ thị, nghị quyết của Đảng, pháp luật của Nhà nước, không được tự ý truyền bá những quan điểm trái với đường lối của Đảng.

Sức mạnh của Đảng về chính trị và tư tưởng được bảo đảm bằng sức mạnh của tổ chức chặt chẽ, khoa học, có kỷ luật nghiêm minh. Vì vậy, phải thực hiện nghiêm ngặt các nguyên tắc tổ chức và sinh hoạt đảng, trước hết là nguyên tắc tập trung dân chủ. Ngăn chặn và khắc phục bằng được tệ vô tổ chức, vô kỷ luật, độc đoán, chuyên quyền, cục bộ địa phương, bè phái, mất đoàn kết diễn ra ở nhiều nơi. Thiết lập trật tự, kỷ cương trước hết từ trong Đảng. Đặc biệt coi trọng công tác bảo vệ Đảng, bảo vệ quan điểm, đường lối; giữ gìn sự trong sạch của Đảng, không để lọt vào hàng ngũ của Đảng những phần tử cơ hội hoặc phản động về chính trị. Giữ gìn bí mật nội bộ và bí mật quốc gia, chống  mọi âm mưu, thủ đoạn mua chuộc, khống chế cán bộ.

Chấn chỉnh hệ thống tổ chức của Đảng, bảo đảm bộ máy tinh gọn, có hiệu lực và hiệu quả, tăng cường vai trò lãnh đạo của tổ chức cơ sở đảng phù hợp với cơ chế quản lý mới.

Đặc biệt cần tiếp tục làm rõ và giải quyết tốt mối quan hệ và lề lối làm việc giữa các tổ chức đảng và cơ quan nhà nước. Đảng lãnh đạo toàn bộ công cuộc xây dựng và bảo vệ đất nước, thông qua đường lối và hệ thống tổ chức của Đảng. Đảng lãnh đạo Nhà nước không chỉ thông qua các cán bộ, đảng viên giữ các cương vị chủ chốt trong bộ máy nhà nước, mà còn thông qua các tổ chức của Đảng ở đây như đảng đoàn, ban cán sự, cấp uỷ đảng. Các tổ chức của Đảng, cùng với cán bộ, đảng viên công tác trong các cơ quan nhà nước có trách nhiệm thể chế hoá đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng và tổ chức thực hiện. Tổ chức đảng không được buông lỏng lãnh đạo, song nhất thiết không bao biện làm thay công việc của chính quyền. Lãnh đạo bằng cách theo dõi, cho ý kiến chỉ đạo, kiểm tra việc thực hiện, khuyến khích những mặt tốt, uốn nắn những lệch lạc, chứ không điều hành thay Nhà nước. Vấn đề cần làm hiện nay là xây dựng một quy trình, quy chế lãnh đạo, chỉ đạo chặt chẽ mà không trùng lắp với cơ quan nhà nước.

Trong điều kiện Đảng cầm quyền, phải hết sức phòng chống nguy cơ Đảng quan liêu hoá, xa rời quần chúng mà hậu quả không thể lường trước được như đã từng xảy ra ở một số nước. Vì vậy, Đảng phải rất chăm lo đến công tác mặt trận, công tác dân vận, quan tâm giải quyết đúng đắn, kịp thời những lợi ích thiết thực của nhân dân, tuyên truyền giáo dục về đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng trong các tầng lớp nhân dân; động viên và tổ chức, lãnh đạo nhân dân phát triển kinh tế, văn hoá, giải quyết việc làm, đời sống, đấu tranh khắc phục đói nghèo, lạc hậu, bài trừ các tệ nạn xã hội, giữ gìn trật tự an toàn xã hội, giữ vững quốc phòng - an ninh trên từng địa bàn trong cả nước.

Phải xây dựng và củng cố khối đại đoàn kết toàn dân. Trong điều kiện kinh tế - xã hội đã có nhiều biến đổi, cần có những hình thức và nội dung phù hợp với từng tầng lớp xã hội, dân tộc, giới tính, thành phần kinh tế, lĩnh vực hoạt động, tín ngưỡng, tôn giáo ở trong nước và ở nước ngoài, vừa củng cố các giai cấp, tầng lớp nòng cốt, vừa mở rộng khối đại đoàn kết, nhằm phát huy truyền thống yêu nước, lòng tự hào dân tộc, ý chí tự lực tự cường, đoàn kết mọi người Việt Nam có chung nguyện vọng và lợi ích trong sự nghiệp xây dựng một nước Việt Nam hoà bình, thống nhất, độc lập, dân chủ và giàu mạnh, góp phần tích cực vào sự nghiệp hoà bình, độc lập, dân chủ và tiến bộ trên thế giới.

Bộ Chính trị đã có Nghị quyết "về đại đoàn kết dân tộc và tăng cường Mặt trận Dân tộc thống nhất". Bộ Chính trị và Ban Bí thư cũng đã và đang chỉ đạo tiến hành đại hội một số tổ chức chính trị - xã hội của quần chúng. Các cấp uỷ đảng, các đảng đoàn và ban cán sự phải tổ chức học tập và triển khai thực hiện các nghị quyết của Trung ương và của Bộ Chính trị về công tác mặt trận và các đoàn thể quần chúng, đẩy mạnh đổi mới nội dung, phương thức và phong cách hoạt động, làm cho công tác mặt trận và công tác dân vận có chuyển biến rõ rệt, thực hiện đại đoàn kết toàn dân ở tầm cao mới và chiều sâu mới, tạo ra động lực mạnh mẽ để thực hiện thắng lợi mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, văn minh.

Để thực hiện những nhiệm vụ của cách mạng trong thời điểm hiện nay, vấn đề cán bộ nổi lên như một mắt xích quan trọng nhất trong toàn bộ sự nghiệp đổi mới. Việc bố trí một đội ngũ cán bộ, trước hết là cán bộ lãnh đạo, có cơ cấu đồng bộ, có bản lĩnh chính trị vững vàng, có phẩm chất đạo đức trong sáng, có kiến thức và năng lực tổ chức điều hành để đưa đường lối vào cuộc sống là vấn đề có ý nghĩa quyết định. Để tạo bước chuyển biến căn bản về công tác cán bộ, phải đổi mới quan điểm về đánh giá, tuyển chọn, bố trí, đề bạt và đãi ngộ cán bộ. Phải trên cơ sở xác định rõ tiêu chuẩn, đặc biệt là bản lĩnh chính trị và năng lực tổ chức thực tiễn, và căn cứ vào hiệu quả công tác thực tế để đánh giá cán bộ một cách toàn diện, cụ thể và công tâm. Phải có cơ chế, chính sách bảo đảm những người có đức, có tài, có tâm huyết với đất nước, đều được trọng dụng, khắc phục tư tưởng thành kiến, hẹp hòi, phân biệt đối xử.

Để chuẩn bị nhân sự cho Đại hội VIII và những năm tiếp theo, có nhiều việc phải làm trong đó phải có chế độ quy định và khuyến khích cán bộ học tập để nâng cao trình độ mọi mặt, thích ứng được với yêu cầu mới, cơ chế mới. Thực hiện việc trẻ hoá và kế thừa trong đội ngũ cán bộ, bảo đảm chặt chẽ về tiêu chuẩn, hình thành một tập thể mạnh. Thực hiện gắn việc chuyên môn hoá với luân chuyển cán bộ, giữa cán bộ tại chỗ với cán bộ tăng cường từ nơi khác đến. Hình thành đồng bộ bốn loại cán bộ: cán bộ lãnh đạo chính trị, cán bộ quản lý nhà nước, cán bộ quản lý sản xuất kinh doanh, các chuyên gia giỏi trên từng lĩnh vực. Đổi mới công tác quy


hoạch và đào tạo cán bộ. Xây dựng quy hoạch, kế hoạch đào tạo chung, cũng như đối với từng ngành, từng địa phương, gắn với mục tiêu, yêu cầu và đối tượng, địa chỉ sử dụng.

Từ nay đến Đại hội VIII chỉ còn hơn hai năm, vì vậy các cấp uỷ đảng, các ngành phải tập trung thực hiện tốt các mục tiêu, yêu cầu về công tác cán bộ mà Hội nghị Trung ương ba đã đề ra, đặc biệt các đồng chí lãnh đạo chủ chốt của Trung ương và cấp uỷ địa phương phải đích thân chỉ đạo công việc quan trọng này.

*
*      *

Đó là những vấn đề quan trọng được nêu trong dự thảo Báo cáo chính trị. Đề nghị Trung ương khi thảo luận Báo cáo chính trị dành nhiều thời gian vào những vấn đề trên, để quyết định đúng những phương hướng, chủ trương và giải pháp tiếp tục hoàn thành thắng lợi Nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ VII, đưa công cuộc đổi mới của nước ta tiến tới những thành tựu cao hơn.

Chúc các đồng chí khoẻ.

Chúc Hội nghị Trung ương thành công tốt đẹp.

Lưu tại Kho Lưu trữ
Trung ương Đảng. 

Phản hồi

Thông tin người gửi phản hồi

Các tin khác

Hướng dẫn kiểm tra, giám sát phục vụ đại hội đảng bộ các cấp tiến tới Đại hội XIV của Đảng

(ĐCSVN) - Tại văn bản số 08-HD/UBKTTW ngày 18/11/2024, Ủy ban Kiểm tra Trung ương hướng dẫn công tác kiểm tra, giám sát phục vụ đại hội đảng bộ các cấp tiến tới Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIV của Đảng.

Phương án nghiên cứu sắp xếp, sáp nhập các bộ, cơ quan thuộc Chính phủ

(ĐCSVN) - Theo phương án nghiên cứu sắp xếp, sáp nhập được Trưởng Ban Tổ chức Trung ương Lê Minh Hưng nêu tại Hội nghị toàn quốc sáng 1/12, sẽ tối thiểu giảm được 5 bộ, 2 cơ quan trực thuộc Chính phủ.

Phương án sáp nhập các ủy ban của Quốc hội và cơ quan thuộc Ủy ban Thường vụ Quốc hội

(ĐCSVN) - Sáng 1/12, Trưởng Ban Tổ chức Trung ương Lê Minh Hưng thông báo chuyên đề về các nội dung chính, trọng tâm việc triển khai tổng kết Nghị quyết 18. Theo phương án định hướng được nêu sẽ giảm 4 ủy ban của Quốc hội và 1 cơ quan trực thuộc Ủy ban Thường vụ Quốc hội.

Phương án giảm 4 cơ quan Đảng, 25 ban cán sự đảng, 16 đảng đoàn trực thuộc Trung ương

(ĐCSVN) - Sáng 1/12, đồng chí Lê Minh Hưng, Uỷ viên Bộ Chính trị, Bí thư Trung ương Đảng, Trưởng ban Tổ chức Trung ương đã trình bày các nội dung chính, trọng tâm việc triển khai tổng kết Nghị quyết 18-NQ/TW của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XII.

Quy trình kỷ luật đảng viên thuộc thẩm quyền của Trung ương Đảng, Bộ Chính trị, Ban Bí thư

(ĐCSVN) - Thay mặt Bộ Chính trị, Thường trực Ban Bí thư Lương Cường vừa ký Quyết định số 165-QĐ/TW ngày 6/6/2024 của Bộ Chính trị ban hành Quy trình xem xét, thi hành kỷ luật đối với tổ chức Đảng, đảng viên thuộc thẩm quyền của Ban Chấp hành Trung ương Đảng, Bộ Chính trị, Ban Bí thư.

Liên kết website