Chủ tịch Hồ Chí Minh trí tuệ lớn của nền ngoại giao Việt Nam hiện đại (tiếp)

Nguyễn Phúc Luân

IV- Chủ tịch Hồ Chí Minh - Người đặt nền móng ban đầu xây dựng nền ngoại giao Việt Nam hiện đại (8-1945 - 12-1946) 

Cách mạng Tháng Tám thành công tại một nước thuộc địa của chủ nghĩa đế quốc, thực dân ngay sau khi Chiến tranh thế giới thứ hai kết thúc và phát xít Nhật đã phải tuyên bố đầu hàng Đồng minh. 

Tình hình thế giới chuyển từ chiến tranh sang đấu tranh trong hoà bình. Các nước lớn chuyển hướng chiến lược, hướng tới việc duy trì, mở rộng lợi ích và khu vực ảnh hưởng của mình sau chiến tranh. Phong trào chống chiến tranh và sự chiếm đóng của phát xít ở các nước thuộc địa và phụ thuộc ở châu á, chuyển sang thời kỳ trực tiếp chống ách thống trị, nô dịch của nước ngoài, giành độc lập dân tộc. 

Thách thức lớn nhất đối với sự nghiệp cách mạng giải phóng dân tộc Việt Nam lúc bấy giờ là phải đối phó với nhiều thế lực quân sự thù địch kéo vào Đông Dương để thực thi quyết định của Hội nghị Pôtxđam và nguy cơ trực tiếp là thực dân Pháp quay trở lại đánh chiếm Đông Dương theo chủ trương của Đờ Gôn (De Gaulle) trong hoàn cảnh chính quyền cách mạng mới hình thành, nạn đói kém đang hoành hành và lực lượng vũ trang của ta còn non trẻ. 

Trong tình thế hiểm nghèo đó, Hồ Chí Minh xuất hiện như là nhà chiến lược thiên tài, đặc biệt có vai trò nổi bật trên mặt trận đấu tranh đối ngoại, đối phó có hiệu quả với mưu đồ gây chiến, lật đổ, "diệt cộng cầm Hồ" - những hiểm hoạ lớn nhất đối với sự tồn vong của dân tộc Việt Nam sau Cách mạng Tháng Tám. 

Ngay sau Tuyên ngôn độc lập, với cương vị Chủ tịch Chính phủ kiêm Bộ trưởng Ngoại giao do Đại hội quốc dân Tân Trào nhất trí cử ra, Chủ tịch Hồ Chí Minh cùng bộ tham mưu cách mạng đã sớm đề ra đường lối đối ngoại của chính quyền cách mạng. Vǎn kiện nhà nước "Chính sách ngoại giao của Cộng hoà dân chủ Việt Nam" được công bố vào ngày 3-10-1945 đã khẳng định mục tiêu, những nguyên tắc và hệ thống sách lược trong quan hệ quốc tế của Việt Nam, đặc biệt là với các nước lớn trong phe Đồng minh chống phát xít, với các nước láng giềng, với nước Pháp và thế lực thực dân xâm lược Pháp, và với cuộc đấu tranh của "dân tộc nhược tiểu" vì độc lập tự do trên thế giới. 

Dưới sự chỉ đạo trực tiếp của Chủ tịch Hồ Chí Minh, bộ máy của ngành ngoại giao hình thành, đi vào hoạt động sôi nổi. Chủ tịch Hồ Chí Minh đóng vai trò hàng đầu trong đấu tranh, tranh thủ những thế lực khác nhau trong hàng ngũ đối phương để kiềm chế, cô lập thế lực thực dân hiếu chiến Pháp. 

Trước những chuyển biến tình hình bên trong và bên ngoài, nhất là sự thay đổi trong chính sách của các nước lớn và trong nền chính trị nước Pháp, thấy được tính chất nguy hiểm của Thoả hiệp Hoa-Pháp trong vấn đề Đông Dương, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã cùng Thường vụ Trung ương Đảng đề ra chủ trương "Hoà để tiến", tiến hành hoà hoãn tạm thời với Pháp để đẩy mấy chục vạn quân Tưởng về nước, củng cố thế và lực để đối phó với Pháp. Người đã trực tiếp chỉ đạo các bước đấu tranh buộc Tưởng và Pháp phải đi vào thương lượng với Việt Nam dân chủ cộng hoà, đồng thời tham gia trực tiếp vào các cuộc đàm phán tay đôi với các bên và ký kết những thoả thuận then chốt nhất (Hiệp nghị sơ bộ 6-3 và Tạm ước 14-9-1946) nhằm tạo ra một thời gian hoà hoãn trong cả nước để ta có thì giờ chuẩn bị cuộc kháng chiến. Điều đó đã góp phần làm thay đổi cục diện và tương quan lực lượng giữa cách mạng Việt Nam và thế lực thù địch, có lợi cho ta và tạo tiền đề buộc đối phương phải thừa nhận trên thực tế Nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hoà. 

Có thể nói trong bối cảnh hết sức phức tạp, chỉ trong vòng 14 tháng sau Tuyên ngôn độc lập, Chủ tịch Hồ Chí Minh bằng tài nǎng và trí tuệ của mình đã góp phần to lớn vào việc xây dựng bộ máy ngoại giao của một nhà nước mới về tư tưởng, cơ cấu tổ chức, chính sách, nghệ thuật và tổ chức triển khai hoạt động trong thực tiễn. Dưới sự dìu dắt của Người, nền ngoại giao mới theo định hướng độc lập, tự chủ đã tham gia nǎng động vào sự nghiệp bảo vệ thành quả của cách mạng, chống trả thành công trước sức ép và mưu đồ câu kết để thôn tính, lật đổ của thế lực nước lớn và phản động bên ngoài. 

Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 1998

Phản hồi

Thông tin người gửi phản hồi

Một số nội dung, nhiệm vụ tiếp tục sắp xếp, tinh gọn tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị năm 2025

(ĐCSVN) - Bộ Chính trị, Ban Bí thư vừa ban hành Kết luận số 126-KL/TW ngày 14/2/2025 về một số nội dung, nhiệm vụ tiếp tục sắp xếp, tinh gọn tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị năm 2025.

Bộ Chính trị yêu cầu không xử lý kỷ luật trường hợp sinh con thứ ba trở lên

(ĐCSVN) - Bộ Chính trị giao Ủy ban Kiểm tra Trung ương tham mưu, sửa đổi Quy định liên quan đến việc xử lý vi phạm chính sách dân số và chủ động sửa đổi Hướng dẫn số 05-HD/TW, ngày 22/11/2022 theo hướng không xử lý kỷ luật trường hợp sinh con thứ ba trở lên, đồng bộ với việc sửa đổi các quy định của pháp luật.

Quy định mới về thi hành Điều lệ Đảng

(ĐCSVN) - Ban Chấp hành Trung ương vừa ban hành Quy định số 232-QĐ/TW về thi hành Điều lệ Đảng, đồng thời giao Bộ Chính trị, Ban Bí thư chỉ đạo các cơ quan chuyên trách tham mưu, giúp việc nghiên cứu để hướng dẫn những vấn đề thuộc về phương pháp, quy trình, thủ tục và nghiệp vụ để cụ thể hoá những quy định của Điều lệ Đảng, phù hợp với tình hình và yêu cầu thực tiễn của công tác xây dựng Đảng hiện nay.

Bộ Chính trị điều chỉnh, bổ sung một số nội dung Chỉ thị 35-CT/TW

(ĐCSVN) – Bộ Chính trị thống nhất điều chỉnh, bổ sung một số nội dung Chỉ thị số 35-CT/TW, ngày 14/6/2024 của Bộ Chính trị khoá XIII về đại hội đảng bộ các cấp tiến tới Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIV của Đảng (Chỉ thị 35) để thực hiện chủ trương của Trung ương về sắp xếp, tinh gọn tổ chức bộ máy các cơ quan, đơn vị trong hệ thống chính trị.

Chính sách, chế độ đối với người lao động và lực lượng vũ trang trong thực hiện sắp xếp tổ chức bộ máy

(ĐCSVN) - Chính phủ vừa ban hành Nghị định số 178/2024/NĐ-CP ngày 31/12/2024 về chính sách, chế độ đối với cán bộ, công chức, viên chức, người lao động và lực lượng vũ trang trong thực hiện sắp xếp tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị.

Liên kết website