TS. Nguyễn Duy Cương
Tôi vừa tập kết ra miền Bắc vô cuối tháng giêng 1955, thì một tháng sau được đọc thư của Bác Hồ gửi cho cán bộ y tế, đǎng trên báo Nhân Dân. Lúc đó, vào ngành dược mới hơn 10 nǎm, trong kháng chiến chỉ biết lao và công tác, tôi chưa bao giờ được có một cái nhìn tổng quát về ngành mình đang phục vụ. Bức thư của Bác, với lời lẽ vô cùng giản dị, đã đánh động trong tâm khảm tôi, lần đầu tiên trong đời, một cách toàn diện, ý thức sâu sắc về nội dung của công tác y tế, cũng như về nghĩa vụ cao quá của một cán bộ chǎm lo sức khoẻ của nhân dân. Sự kiện này đã gây ra trong lòng tôi một ấn tượng không - bao giờ phai. Thư gửi cho mọi cán bộ trong ngành mà tôi cứ tưởng cho riêng tôi. Bác Hồ, ngôi sao bắc đẩu của cách mạng, là vầng thái dương mênh mông đối với một cán bộ mới chân ướt chân ráo tập tễnh bước lên đất bắc như tôi.
Và từ đó cho đến ngày Bác mất, suốt 15 nǎm, lúc nào lời nói, việc làm và phong cách của Bác luôn là ngọn đuốc soi đường cho tôi trong mọi công tác y tế, mà tôi được phân công đảm nhận.
Trước hết, trong các tài liệu viết về Bác, cũng như trong các tập hồi ký của những lão thành cách mạng mà tôi được đọc, có hai sự việc nổi bật, chắc chắn đã ảnh hưởng đến quan điểm của Bác về công tác y tế.
1- Bà Hoàng Thị Loan, mẹ của Bác, mất tháng 2 nǎm 10-1, sau khi sinh đưa con út Nguyễn Xinh Xin không bao lâu, lúc đó chỉ có Bác 11 tuổi ở với mẹ tại Huế. Bà Loan đau bệnh như thế nào, nay khó xác định được, nhưng người phụ nữ còn trẻ ở tuổi 33, mới sinh, không đủ sữa cho con, lại thiếu thốn mọi bề, chồng đi xa, bị ốm đau lớn, không có thuốc thang, không có người lớn chǎm sóc, rõ ràng là một cảnh ngộ bi đát mà tuổi thơ của không những đã chứng kiến, mà còn là nạn nhân trực tiếp. Sau khi mệ mất, ba còn phải lo cho em, hàng ngày phải đi xin sữa hay nước cháo, bón cho đứa hài nhi èo uột, trong khi chờ đợi cha ở quê trở vào. Đau đớn khổ sở này nào ai có thấu, trút trọn lên đầu của một thiếu nhi vô tội, chắc chắn là một kỷ niệm đau thương, mà đời Bác không bao giờ quên, lúc nào cũng nhắc Bác cảnh đối nghèo cùng cực của mọi gia đình, của mọi phụ nữ, mọi trẻ thơ trong một nước thuộc địa.
Tôi còn nhớ, vào những nǎm đầu của thập kỷ 60, Phạm Ngọc Thạch, Bộ trưởng y tế lúc bấy giờ, đã nhắc nhở tôi trong việc làm kết hoạch: Bác dặn phấn đấu mỗi xã có một hộ sinh giỏi, chǎm sóc tốt thai sản và trẻ em. Lúc đó, tôi khó mà nghĩ ra, bây giờ suy ngẫm lại, phải chǎng lời dặn của Bác bắt nguồn từ ký ức sâu xa của thời niên thiếu?
2- Theo hồi ký của Đại tướng Võ Nguyên Giáp, núi rừng Thái Nguyên âm u, trong khi cách mạng đang tiến lên, đầy triển vọng, mở đường cho cao trào giải phóng đất nước, thì Bác ngã bệnh. Không có thầy, đâu có thuốc. Tìm mãi mới có một cụ lang, người dân tộc, chỉ cho nắm lá rừng. Lúc đó, Bác đã "phó thác tính mạng mình cho thầy thuốc", anh Vǎn cũng phó thác tính mạng ba cho cụ lang. Thế mà, cùng với sự phấn đấu phi thường của ba trước định mạng, phương thuốc nam đã cứu Bác khỏi cơn nguy hiểm, khôi phục sức khoẻ để lãnh tụ chỉ huy cuộc cách mạng cho đến đích.
Một sự kiện như vây càng tǎng cường thêm sâu sắc lòng tin vốn sẵn có của Bác đối với khả nǎng và tiềm lực to lớn của đông y, của y học dân tộc. Nói lòng tin vốn sắc có, là vì, từ nho học xuất thân, lại là người con của đất Nghệ Tĩnh địa linh nhân kiệt, Bác không thể không biết đến Lê Hữu Trác, cũng như không thể không độc Hải Thượng Lãn Ông Tâm Lĩnh. Có thể vì không chuyên tâm học thuốc, Bác không nghiên cứu sau vào chuyên môn, nhưng các chương như Y huấn cách ngôn, hoặc Thượng kinh ký sự, chắc chắn được Bác để ý. Đã từng đi khắp thế giới, đông tây, Bác thấy rõ hơn ai hết sự phát triển của nền vǎn minh cận đại, sức mạnh của y học hiện đại, và sự cần thiết tạn dụng những tinh tuý của các nền vǎn minh. Chủ trương "phối hợp thuốc đông và thuốc tây" cũng có thể xuất phát từ đây.
Trên đây là những sự việc mà tôi vô cùng thấm thí, lưu mãi trong lòng tôi suốt gần ba mươi nǎm nay từ ngày Hồ Chủ tịch ra đi. Tôi đã học hỏi, suy nghĩ về những bài học toát lên từ mối quan tâm của Bác đối với ngành y tế, và đã cố gắng áp dụng trong những nhiệm vụ công tác mà tôi được giao. Lúc nào, và cho đến tận bây giờ, những quan điểm của Bác đều có tính chất thời sự: quần chúng nhân dân phòng bệnh, kết hợp đông tây y, đoàn kết, tự lực cánh sinh, mối tình quốc tế, và trên hết là lòng thương yêu người bệnh. Cũng không thể quên nước ta là một nước nghèo, cơ sở vật chất kỹ thuật chưa có bao nhiêu, cần phải vươn lên theo con đường độc đáo của mình với tư tưởng yêu nước, độc lập, dân chủ cao.
Bộ Y Tế; NXB. Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 1997