GS. Đỗ Nguyên Phương, PTS. Nguyễn Khánh Bật, BS. Nguyễn Cao Thâm
Chủ tịch Hồ Chí Minh, vị lãnh tụ muôn vàn kính yêu, đồng thời là nhà tổ chức vĩ đại của Đảng, của dân tộc Việt Nam. Trên lĩnh vực y tế về công tác tổ chức và cán bộ, Người đã để lại cho chúng ta những tư tưởng, quan điểm sâu sắc, mang tính chỉ đạo chiến lược.
I. Về hệ thống tổ chức
1.Chủ tịch Hồ Chí Minh hết sức quan tâm đến việc chǎm lo và bảo vệ sức khoẻ của nhân dân. Bởi lẽ, Người xác định sức khoẻ là vốn quý nhất của con người, có ảnh hưởng rất lớn đến công cuộc bảo vệ và xây dựng Tổ quốc. Để ngành y tế có thể hoàn thành trọng trách chǎm sóc và bảo vệ sức khoẻ toàn xã hội, vấn đề hàng đầu cần quan tâm là hệ thống tổ chức của ngành.
Hệ thống tổ chức ngành y tế và nguyên tắc hoạt động của nó được Hồ Chí Minh đề cập một cách khái quát và rõ ràng. TrongThư gửi Hội nghị cán bộ y tế toàn quốc nǎm 1953, Người chỉ rõ: "Về tổ chức: cần chỉnh đốn và kiện toàn bộ máy từ trên xuống dưới, làm cho nó gọn gàng, hợp lý, ít tốn người tốn của mà làm được nhiều việc ích lợi cho nhân dân"1 . Đây là quan điểm chỉ đạo cơ bản, lâu dài trong công tác tổ chức và cán bộ của ngành y tế Việt Nam.
Ngay từ khi hoà bình mới lập lại, trong thư gửi Hội nghị cán bộ y tế, Hồ Chí Minh đã xác định tính cấp thiết phải xây dựng một nền y học dân tộc phục vụ nhân dân ta, "xây dựng một nền y học của ta".
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã giao cho ngành y tế một trọng trách lớn lao "giúp đồng bào, giúp Chính phủ xây dựng một nền y tế thích hợp với nhu cầu của nhân dân ta". Một nền y tế mang tính chất nhân dân được xây dựng phải phù hợp với điều kiện về con người - tự nhiên - kinh tế - chính trị - xã hội và truyền thống của nhân dân ta, không rập khuôn nước ngoài một cách máy móc, phải kế thừa được những kinh nghiệm quý báu của ông cha, kết hợp với y học hiện đại, kịp thời nắm được những thành tựu của nền y học tiên tiến để phục vụ cho việc chǎm sóc và bảo vệ sức khoẻ nhân dân. Có thể nói, chỉ khi nước ta được độc lập tự do, dưới sự lãnh đạo của Hồ Chí Minh và Đảng Cộng sản Việt Nam, nước nhà mới có điều kiện xây dựng một nền y tế nhân dân với hệ thống tổ chức từ trung ương đến cơ sở.
Đất nước ta nằm trong vòng nhiệt đới gió mùa, nóng và ẩm. Con người Việt Nam đã sinh thành tồn tại và phát triển hàng nghìn nǎm trên mảnh đất này. Trải qua các thiên niên kỷ, nòi giống Việt Nam đã xác lập được cơ địa hoà hợp với thiên nhiên. Những bệnh tật thường có trong điều kiện thiên nhiên nóng ẩm, gió mùa được các thế hệ người Việt Nam phát hiện và đã biết sử dụng những yếu tố thiên nhiên - cây, con, để chữa trị bệnh tật. Trải qua thời gian dài để trụ vững và phát triển, con người Việt Nam đã tích luỹ được nhiều kinh nghiệm phong phú, trong đó có kho tàng kinh nghiệm về y học trên tất cả các bình diện về y lý, y đức và y thuật. Những kinh nghiệm đó đã được nhiều nhà danh y nổi tiếng như Tuệ Tĩnh, Hải Thượng Lãn Ông, Lê Hữu Trác tổng kết. Một đặc điểm trong quá trình tích luỹ và áp dụng kinh nghiệm về y học của dân tộc ta là không dừng lại ở các danh y mà nó được phổ biến khá rộng rãi trong toàn dân, trên hầu khắp các địa bàn cư dân sinh sống. Chủ tịch Hồ Chí Minh rất chú ý tới đặc điểm này của dân tộc. Người khẳng định: "Ông cha ta ngày trước có nhiều kinh nghiệm quý báu về cách chữa bệnh bằng thuốc Ta, thuốc Bắc". Đó cũng là chỉ dẫn chiến lược của lãnh tụ định hướng cho Đảng và Nhà nước khi xây dựng hệ thống tổ chức y tế phải tính đến, để khai thác được tối đa sức mạnh truyền thống của nền y học dân tộc, khai thác hết những tiềm nǎng y học phong phú trong nhân dân, kết hợp chặt chẽ Đông y với Tây y, y học cổ truyền dân tộc với y học hiện đại phục vụ việc chǎm sóc và bảo vệ sức khoẻ một cách tốt nhất. Quán triệt tư tưởng Hồ Chí Minh trong hệ thống tổ chức y tế nước nhà, bên cạnh các bệnh viện, nhà thuốc Tây cần có các bệnh viện, nhà thuốc Đông y. Hơn thế nữa, ngay trong bệnh viện Tây y cần có khoa Đông y và ngược lại. Việc này ngành y tế đã làm, đang làm và cần làm tốt hơn nữa theo sự chỉ dẫn của Hồ Chí Minh.
Trước khi giành được độc lập, nhân dân ta phải sống dưới ách thống trị của thực dân đế quốc, phong kiến và các cuộc chiến tranh kéo dài hàng trǎm nǎm. Do vậy, khi giành được chính quyền, nhân dân ta bắt tay vào xây dựng chế độ mới - chế độ do nhân dân làm chủ, trong điều kiện sức khoẻ của nhân dân ta bị suy giảm nghiêm trọng, dịch bệnh, đói rét thường xuyên đe doạ sự sống của con người. Một mâu thuẫn gay gắt của dân tộc ta sau khi thiết lập được chế độ nhân dân làm chủ là sức khoẻ nhân dân suy giảm cần được chǎm sóc và chữa trị ngay, trong khi nền kinh tế lại ở tình trạng nghèo nàn, lạc hậu, kém phát triển, vǎn hoá xã hội còn nhiều hạn chế. Trong điều kiện đó, càng thấy rõ vai trò, trọng trách lớn lao của ngành y tế với một hệ thống tổ chức thích hợp để chǎm sóc, bảo vệ sức khoẻ cho toàn dân. Nói cách khác, xây dựng hệ thống tổ chức y tế để đáp ứng đòi hỏi khách quan trong chǎm sóc sức khoẻ nhân dân phải tính đến những điều kiện kinh tế - chính trị - vǎn hoá - xã hội của Việt Nam. Một hệ thống tổ chức y tế từ trung ương đến cơ sở để chǎm sóc sức khoẻ tốt nhất cho nhân dân đã được Hồ Chí Minh đặt ra từ rất sớm. Đó là hệ thống y tế được tổ chức hợp lý, bảo đảm phục vụ nhân dân kịp thời, có hiệu quả cao, tiết kiệm, nhưng đáp ứng được nhu cầu của người dân khi cần là có sẵn thầy, sẵn thuốc. Cơ sở y tế phải gần dân, rộng khắp từ thành thị đến nông thôn, hải đảo, miền núi để mọi người dân đều được chǎm sóc sức khoẻ chu đáo, chữa trị bệnh kịp thời khi có bệnh. Hệ thống tổ chức y tế cần bố trí theo các tuyến và các điểm dân cư để thuận tiện cho nhân dân. Theo tư tưởng Hồ Chí Minh, hệ thống tổ chức y tế mà Nhà nước cách mạng lập ra ở Việt Nam cần đặc biệt quan tâm đến vùng nông thôn, người già, phụ nữ, trẻ em. Vấn đề này được Hồ Chí Minh đặt ra từ rất sớm. Hồ Chí Minh thấy rõ hệ thống tổ chức y tế dưới chế độ thực dân phong kiến chỉ tập trung ở thành phố, thị trấn để chǎm lo sức khoẻ cho sĩ quan, binh lính Pháp và bọn quan lại. Vì vậy, nǎm 1945, trước khi giành chính quyền, Hồ Chí Minh viết Chương trình Việt Minh, trong đó vấn đề tổ chức của ngành y tế đã được Người đề cập theo một hướng hoàn toàn mới. Phần chính sách xã hội của Chương trình Việt Minh có đoạn: "Lập ấu trĩ viên để trông nom trẻ em, lập thêm nhà thương, nhà đỡ đẻ, nhà dưỡng lão".
Cách mạng Tháng Tám 1945 thành công, Tổ quốc được độc lập, nhân dân được tự do. Trước bộn bề công việc, nhưng Hồ Chí Minh và Đảng ta vẫn rất chú trọng tới việc chǎm sóc, bảo vệ sức khoẻ của đông đảo nhân dân, trước hết là nông đân. Nha y tế nông thôn được thành lập để chỉ đạo các hoạt động y tế vùng thôn quê rộng lớn. Việc tiến hành đào tạo cán bộ y tế, nữ hộ sinh, xây dựng tủ thuốc, thành lập bệnh xá xã được tiến hành khẩn trương, đáp ứng yêu cầu bức thiết về chǎm sóc, bảo vệ sức khoẻ vùng nông thôn giải phóng. Mạng lưới y tế huyện, xã được hình thành, phục vụ kịp thời cho khám, chữa bệnh và công cuộc kháng chiến chống xâm lược Pháp. Do có tổ chức y tế cơ sở nên phong trào vệ sinh phòng bệnh, tuyên truyền bảo vệ sức khoẻ trong nhân dân được đẩy mạnh. Các phong trào ba sạch: ǎn sạch, ở sạch, uống sạch phong trào bốn diệt: diệt ruồi, diệt muỗi, diệt chấy rận, diệt chuột; phong trào đào giếng, làm nhà tắm, hố xí hợp vệ sinh ở các gia đình được mọi người tích cực hưởng ứng. Hồ Chí Minh thường xuyên lưu ý vấn đề: "Chú trọng củng cố và phát triển thêm các trạm y tế và nơi đỡ đẻ ở xã". Có thể nói dưới sự lãnh đạo của Hồ Chí Minh và Đảng ta, quan điểm trên đây đã đi vào cuộc sống ngay từ những ngày đầu của Chính thể Việt Nam Dân chủ Cộng hoà.
Suốt quá trình hình thành và phát triển của mình, dân tộc Việt Nam luôn phải đương đầu với những thế lực xâm lược hùng mạnh, xảo quyệt đến từ các châu lục khác nhau. Dựng nước đi đôi với giữ nước, kháng chiến đi đôi với kiến quốc, xây dựng đất nước gắn bó chặt chẽ với bảo vệ Tổ quốc là quy luật tồn tại và phát triển của cách mạng Việt Nam.
Để đáp ứng được yêu cầu, nhiệm vụ trên đây, Hồ Chí Minh đòi hỏi cần phải kết hợp dân y với quân y. Sự kết hợp đó phải được thể hiện ở hệ thống tổ chức của ngành y tế. Hồ Chí Minh chỉ rõ chúng ta vừa kháng chiến, vừa kiến quốc, bộ đội ta lớn mạnh nên cần có những cơ quan quân y; quân y và dân y đều phải cố gắng làm việc, đoàn kết chặt chẽ với nhau thì kháng chiến mới thắng lợi, kiến quốc mới thành công. Theo tư tưởng chỉ đạo của Hồ Chí Minh, chỉ ba tháng sau khi giành được chính quyền, tháng 12-1945, Bộ Y tế đã thành lập Ban Y tế Vệ quốc đoàn. Để kịp thời đối phó với cuộc chiến tranh xâm lược của thực dân Pháp, tháng 3-1946, Đảng và Nhà nước đã thành lập Cục Quân y thuộc Bộ Quốc phòng. Từ đó trở đi, phù hợp với đòi hỏi của công cuộc kháng chiến, kiến quốc, cùng với sự phát triển của mạng lưới y tế dân sự, các bệnh viện, trạm xá, đội điều trị quân y cũng ra đời. Được dẫn dắt bởi tư tưởng, quan điểm Hồ Chí Minh, hơn nửa thế kỷ qua, hệ thống tổ chức y tế Việt Nam bao gồm cả dân y và quân y đã đáp ứng được nhu cầu chǎm sóc, bảo vệ sức khoẻ của toàn quân, toàn dân trong thời bình cũng như thời chiến,
Theo tư tưởng Hồ Chí Minh, nguyên tắc hàng đầu cần phải quán triệt của y học Việt Nam là nguyên tắc khoa học. Khoa học ở đây cần được hiểu là tiếp thu những thành tựu của nền y học phương Tây và thế giới. Những thành tựu này gắn liền với các cuộc cách mạng khoa học - kỹ thuật và công nghệ tạo ra những bước phát triển mới trong lĩnh vực y học cả về y lý và trang thiết bị kỹ thuật y học hiện đại. Việc tiếp thu có chọn lọc và sáng tạo những thành tựu của y học hiện đại không thể trên một hệ thống tổ chức y tế thấp kém, manh mún, mà phải "gọn gàng, hợp lý". Nói cách khác, quan niệm xây dựng nền y học, theo nguyên tắc khoa học đòi hỏi hệ thống tổ chức y tế phải có khả nǎng tiếp thu và phát triển những thành tựu y học mới nhất của nhân loại. Chỉ có như vậy, chúng ta mới vươn tới xây dựng một nền y tế hiện đại, đào tạo ngày càng nhiều các chuyên gia đầu đàn, nhanh chóng tiếp cận với trang thiết bị y tế hiện đại.
Sinh thời, trong những dịp đi thǎm đồng bào, chiến sĩ ở các địa phương, nhà máy, trường học, bệnh viện, đơn vị quân đội trong hoàn cảnh kháng chiến cũng như trong hoà bình, dường như lúc nào Hồ Chí Minh cũng đề cập đến vấn đề sức khoẻ với những chỉ dẫn cụ thể hiệu quả mà tiết kiệm. Giữ gìn vệ sinh, theo Hồ Chí Minh là một biện pháp đơn giản, phổ cập và quan trọng của hoạt động y tế, được Người khái quát thành phương châm phòng bệnh hơn chữa bệnh. Người cǎn dặn: "Cần đẩy mạnh hơn nữa phong trào vệ sinh phòng bệnh. Các nhà thương cần phải sạch sẽ, gọn ghẽ, phải là kiểu mẫu trong công tác vệ sinh. Cán bộ ngành y tế, từ bác sĩ đến nhân viên cần có thái độ nhã nhặn và có tinh thần phục vụ tốt nhân dân".
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nêu rất rõ ràng, quan điểm xây dựng nền y tế lấy dự phòng là chính đòi hỏi phải có một hệ thống tổ chức y tế rộng lớn phối kết hợp chặt chẽ để ngành y tế có thể làm nòng cốt trong việc tuyên truyền, vận động, hướng dẫn và tổ chức toàn dân thực hiện y học dự phòng. Xét trên nhiều phương diện, nhất là về hiệu quả xã hội, việc giữ gìn vệ sinh để ngǎn ngừa, hạn chế dịch bệnh là hết sức quan trọng. Với cách làm như vậy sẽ phát huy được vai trò của toàn dân, được nhân dân hưởng ứng tham gia tích cực, "ít tốn của mà làm được nhiều việc ích lợi cho nhân dân".
2.Những quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh về xây dựng một nền y học Việt Nam là cơ sở để hoạch định xây dựng hệ thống tổ chức y tế của ta từ trung ương tới địa phương, cơ sở. Và ngược lại, quá trình xây dựng hệ thống tổ chức y tế cũng là quá trình hiện thực hoá những quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh về xây dựng hệ thống tổ chức y tế phù hợp với nguyên tắc: khoa học, dân tộc và đại chúng; lấy y tế dự phòng làm chính; kết hợp "Tây y" và "Đông y"; kết hợp dân y và quân y. Hồ Chí Minh quan tâm, chỉ đạo xây dựng hệ thống tổ chức y tế nhằm thực hiện hoá việc chǎm sóc sức khoẻ toàn dân, toàn quân, tạo ra lực lượng to lớn, khoẻ mạnh cho kháng chiến, kiến quốc và xây dựng chế độ mới. Hồ Chí Minh còn chỉ ra phương hướng hoạt động của ngành y: phải biết vượt ra khỏi bốn bức tường của bệnh viện, chǎm lo sức khoẻ cho nhân dân nhất là giới cần lao, trước hết là việc giúp đồng bào biết cách phòng bệnh. Cần quan tâm tới vấn đề chǎm lo, bảo vệ sức khoẻ toàn dân ngay tại tuyến cơ sở, tại nhà, làm sao để tổ chức mạng lưới y tế cơ sở bảo đảm cả về số lượng và chất lượng. Chỉ như vậy, mới có khả nǎng phát hiện bệnh, phòng bệnh và chữa bệnh kịp thời đạt hiệu quả ngay tại địa phương. Công tác y tế chǎm sóc sức khoẻ phải hướng tới mọi người dân. Hồ Chí Minh yêu cầu phải xuất phát từ thực tiễn của đất nước và con người Việt Nam, biết tận dụng khai thác tiềm nǎng những cây, con thuốc có sẵn trong nước hay tại địa phương mình với tinh thần tiến bộ và khoa học của Tuệ Tĩnh về Nam dược trị Nam nhân, phải xuất phát từ cơ cấu bệnh tật của nhân dân ta, đặc biệt là những bệnh phổ biến, có ảnh hưởng to lớn đến sức khoẻ và sức lao động của con người Việt Nam.
Thực hiện lời dạy của Chủ tịch Hồ Chí Minh, một hệ thống tổ chức y tế từ trung ương tới các cơ sở thật gọn gàng, hợp lý, bảo đảm mọi người dân đều được chǎm sóc sức khoẻ và chữa trị khi bị bệnh, đã từng bước được hình thành, thường xuyên đuợc củng cố và phát triển.
Từ nǎm 1954 đến nay, tuyến tổ chức y tế trung ương đã hình thành hệ thống những bệnh viện lớn, những trung tâm nghiên cứu, đào tạo y dược và điều dưỡng lớn đã tạo khả nǎng đưa khoa học y dược hiện đại vào quá trình khám bệnh, chữa bệnh; sản xuất và cung cấp những thuốc quý hiếm, đặc trị đạt hiệu quả cao. Hệ thống này đã tạo ra khả nǎng tiếp nhận những bệnh nhân nặng nhất của cả nước và đào tạo đội ngũ cán bộ y dược ở bậc đại học, chuyên sâu và trên đại học ngày càng lớn với chất lượng cao. Mặt khác, hệ thống bệnh viện tỉnh, huyện cũng được đầu tư xây dựng để trực tiếp khám chữa bệnh, chǎm lo sức khoẻ cho nhân dân trên địa bàn tỉnh, huyện và chịu trách nhiệm chuyển về tuyến trung ương những ca bệnh quá khả nǎng cứu chữa của mình. Đặc biệt mạng lưới y tế xã, các bệnh xá xã, nhà hộ sinh được hình thành ở hầu hết các xã chǎm lo sức khoẻ ban đầu cho nhân dân. Các đơn vị y tế cơ sở này là nơi tiếp xúc, hướng dẫn vệ sinh, khám chữa bệnh thông thường, chǎm sóc thai nhi sản phụ cho khối cộng đồng dân cư lớn nhất của cả nước. Đây là tổ chức y tế rộng rãi nhất, hiệu quả nhất trong công tác y tế dự phòng. Tuy vậy, hiện nay y tế tuyến xã vẫn còn nhiều yếu kém, bất cập. Điều này, Đảng, Nhà nước, ngành y tế đều thấy rõ nên đã có những chủ trương và giải pháp khắc phục đạt hiệu quả bước đầu. Do sự bức xúc, yếu kém của y tế cơ sở mà cụ thể là y tế nông thôn, nên vấn đề đặt ra là cần có một cơ quan quản lý lĩnh vực này, có thể là Vụ y tế nông thôn, trực thuộc Bộ Y tế.
Đến nay, hệ thống bệnh viện và trạm y tế nước ta đã phát triển mạnh mẽ có thể bảo đảm thực hiện việc chǎm sóc và bảo vệ sức khoẻ nhân dân. Hệ thống đó bao gồm các viện và bệnh viện trung ương, các bệnh viện đa khoa tuyến tỉnh, thành, các trạm chỉ đạo phòng chống dịch bệnh và nâng cao sức khoẻ, trung tâm y tế huyện, phòng khám đa khoa khu vực, trạm y tế xã, phường, thị trấn... Ngoài ra còn có bệnh viện ngành, bệnh viện liên doanh. Hệ thống y tế này được tổ chức dựa theo tổ chức hành chính, chia thành bốn tuyến: trung ương, tỉnh, huyện, xã. Hệ thống y tế nước ta hiện nay còn được tổ chức theo khu vực dân cư để công tác chǎm sóc và bảo vệ sức khoẻ nhân dân thuận tiện hơn. Trong các khu vực dân cư có các cơ sở y tế khám chữa bệnh cho nhân dân như bệnh viện, các phòng khám, nhà hộ sinh... Hệ thống y tế ở nước ta còn bao gồm nhiều bệnh viện, trạm xá, đội điều trị của các lực lượng vũ trang nhân dân.
Hệ thống y tế nước ta hiện nay, được chia làm hai khu vực: khu vực phổ cập và khu vực chuyên sâu.
Khu vực phổ cập gồm các cơ sở y tế từ tuyến tỉnh trở xuống đến tuyến xã. Khu vực này có nhiệm vụ khám chữa bệnh hàng ngày cho nhân dân bằng cách sử dụng các kỹ thuật thông thường phổ biến.
Khu vực chuyên sâu bao gồm các cơ sở y tế trung ương và một số tỉnh, thành trọng điểm như Hà Nội, Thái Nguyên, Thành phố Hồ Chí Minh, Huế, Cần Thơ... Nhiệm vụ của khu vực này là đi sâu vào khoa học - kỹ thuật, sử dụng công nghệ cao trong việc khám chữa bệnh, hỗ trợ giải quyết khó khǎn vượt khả nǎng của khu vực y tế phổ cập, đào tạo cán bộ y tế cho khu vực phổ cập.
Trong hệ thống tổ chức y tế ngoài các viện, phân viện nghiên cứu, các bệnh viện, còn có các khu điều dưỡng, khu điều trị, các xí nghiệp và các công ty dược, các trường đại học, cao học và trung học y, dược ở Hà Nội, Thành phố Hồ Chí Minh, ở một số tỉnh. Hệ thống đó còn bao gồm Tổng công ty thiết bị và các công trình y tế, Nhà xuất bản Y học, Trung tâm tuyên truyền giáo dục sức khoẻ, Viện thông tin y học, vǎn phòng các Vụ chuyên môn thuộc cơ quan Bộ, các tổ chức y tế quần chúng (Công đoàn y tế Việt Nam, Hội chữ thập đỏ Việt Nam, Hội y học dân tộc Việt Nam, Tổng hội y học Việt Nam ...).
Chủ tịch Hồ Chí Minh không bàn nhiều về hệ thống tổ chức của ngành y tế. Tuy vậy, quan điểm của Người về một hệ thống tổ chức y tế từ trên xuống dưới, gọn nhẹ, hợp lý, tiết kiệm, hiệu quả trong việc chǎm sóc và bảo vệ sức khoẻ mọi người, trong đó chú trọng diện chính sách, người có công, cụ già, trẻ em... là rõ ràng. Tổ chức và cán bộ liên quan chặt chẽ với nhau. Do đó, Hồ Chí Minh không chỉ bàn về tổ chức mà Người còn nêu lên những quan điểm cơ bản làm cơ sở cho việc xây dựng một đội ngũ cán bộ y tế thích hợp với hệ thống tổ chức đó.
II- Vấn đề xây dựng đội ngũ cán bộ ngành y tế theo tư tưởng Hồ Chí Minh
1.Cán bộ có vai trò quyết định đối với thành bại của sự nghiệp cách mạng. Từ rất sớm, Hồ Chí Minh đã chỉ rõ: cán bộ là cái gốc của mọi công việc, muôn việc thành công hay thất bại đều do cán bộ tốt hoặc kém. Điều đó cũng đúng với ngành y. Để"giúp đồng bào, giúp chính phủ xây dựng một nền y tế thích hợp với nhu cầu của nhân dân ta", Hồ Chí Minh hết sức chǎm lo xây dựng đội ngũ cán bộ y tế ngày càng lớn mạnh cả về số lượng lẫn chất lượng, cả đức và tài. Hồ Chí Minh đòi hỏi cán bộ y tế phải cố gắng đạt được những tiêu chuẩn sau đây:
"Về chuyên môn, cần luôn luôn học tập nghiên cứu để tiến bộ, nhưng phải chú trọng cái gì thiết thực và thích hợp với hoàn cảnh kháng chiến của ta hiện nay.
Về chính trị:cần trau dồi tư tưởng và đạo đức của người cán bộ trong chế độ dân chủ: yêu nước, yêu dân, yêu nghề, đoàn kết nội bộ, thi đua học tập, thi đua công tác"...
Ngay từ những nǎm đầu sau Cách mạng Tháng Tám nǎm 1945 thành công và trong suốt quá trình kháng chiến, xây dựng chủ nghĩa xã hội, Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn quan tâm đến việc xây dựng, củng cố và phát triển đội ngũ cán bộ y tế. Thực hiện chủ trương"xây dựng nền y học của ta" theo nguyên tắc khoa học, dân tộc, đại chúng mà Chủ tịch Hồ Chí Minh nêu ra, đội ngũ cán bộ y tế cách mạng từng bước được phát triển và trưởng thành, bao gồm cả cán bộ quản lý, cán bộ chuyên môn và cán bộ phong trào. Lớp cán bộ y - dược được đào tạo từ các nhà trường của chế độ cũ đã trở về với cách mạng và đã có những đóng góp quý báu. Nhiều lớp cán bộ mới được đào tạo từ trong kháng chiến và xây dựng chủ nghĩa xã hội đang ngày càng đông đảo, kế thừa được thành quả của lớp đàn anh, vươn lên hoàn thành tốt chức nghiệp, trưởng thành cả về y đức và y thuật, giành những đỉnh cao của y học. Bên cạnh đội ngũ cán bộ Tây y, đội ngũ cán bộ y học cổ truyền cũng được phát huy trong việc bảo vệ sức khoẻ của nhân dân. Đến nay, đội ngũ cán bộ y tế gồm cả hai ngành y và dược được phát triển rộng khắp, có hệ thống từ trung ương đến địa phương, có cơ cấu khá hoàn chỉnh. Đội ngũ cán bộ y tế hiện có đã đóng góp phần quyết định bảo đảm và nâng cao sức khoẻ của nhân dân, chiến sĩ cả nước, xây dựng nền y học Việt Nam từng bước lớn mạnh. Tình trạng sức khoẻ, tuổi thọ trung bình của nhân dân đã tǎng lên, nhiều bệnh dịch và bệnh xã hội đã được ngǎn chặn hoặc loại trừ, tỷ lệ tử vong giảm dần.
Tuy nhiên, ở vùng nhiệt đới gió mùa, môi trường, môi sinh đang bị huỷ hoại, đất nước đang trong quá trình phát triển, về mặt sức khoẻ, Việt Nam hiện đứng trước nhiều nguy cơ và thách thức lớn. Các bệnh nhiễm trùng và ký sinh trùng tǎng lên, vấn đề suy dinh dưỡng rất đáng lo ngại. Thể lực cộng đồng suy giảm do phân hoá giàu nghèo gia tǎng và lượng calo còn thấp dưới mức yêu cầu tối thiểu. Chiều cao, cân nặng của thanh niên không tǎng. Tỷ lệ trung bình về phát triển dân số còn cao, không tương xứng với tốc độ tǎng trưởng kinh tế, diện tích đất canh tác thu hẹp, các bệnh nghề nghiệp, bệnh xã hội, HIV/AIDS có xu hướng mở rộng cùng với sự mở rộng các quan hệ giao lưu toàn cầu.
Những nguy cơ mới càng tương phản với những yếu kém của ngành y tế. Cơ sở vật chất - kỹ thuật của ngành y tế được xây dựng từ khá lâu đã lạc hậu, nhiều nơi xuống cấp. Chuyển sang nền kinh tế thị trường, đối mặt với những hiện tượng, vấn đề mới nảy sinh, đứng trước những yêu cầu ngày càng cao và đa dạng của cộng đồng, trên một số mặt ngành y có bộc lộ những lúng túng, bất cập. Một số bệnh viện, cả y đức và y thuật của thầy thuốc giảm sút. ở địa phương, các cơ sở y tế cũng suy yếu, tinh thần, thái độ phục vụ giảm sút. Do sự cởi mở của chính sách, y tế tư nhân phát triển và có đóng góp tích cực trong chữa trị, chǎm lo sức khoẻ cho nhân dân, nhưng không được quản lý chặt chẽ nên dễ nảy sinh nhiều tiêu cực. Về tình hình đội ngũ cán bộ y tế trong những nǎm gần đây, chúng ta có bảng sau:
Ngành y
Đơn vị: Nghìn người
Nǎm
|
1991
|
1992
|
1993
|
1994
|
1995
|
Bác sĩ
|
15,9
|
27,4
|
29,5
|
29,7
|
30,6
|
Y sĩ
|
48,7
|
46,3
|
45,1
|
44,8
|
45,0
|
Y tá
|
68,3
|
55,2
|
53,7
|
50,8
|
47,6
|
Nữ hộ sinh
|
13,6
|
11,7
|
12,0
|
11,1
|
11,7
|
(Niên giám thống kê - 1995, tr. 329)
Ngành dược
Đơn vị: Nghìn người
Nǎm
|
1991
|
1992
|
1993
|
1994
|
1995
|
Dược sĩ cao cấp
|
6,5
|
6,4
|
6,5
|
5,9
|
5,7
|
Dược sĩ trung cấp
|
5,9
|
5,3
|
5,7
|
6,1
|
6,4
|
Dược tá
|
11,9
|
10,0
|
10,0
|
9,5
|
9,3
|
So sánh với áp lực gia tǎng dân số hàng nǎm
Nǎm
|
1991
|
1992
|
1993
|
1994
|
1995
|
Tổng dân số
|
67.774.000
|
69.405.200
|
71.025.600
|
72.509.500
|
73.959.000
|
Qua các bảng trên, chúng ta có thể rút ra một số nhận xét:
1. Số lượng bác sĩ hàng nǎm có tǎng lên, nhưng số lượng y sĩ, y tá và nữ hộ sinh không tǎng hoặc có chiều hướng giảm.
2. Số lượng dược sĩ cao cấp và dược tá ngày càng giảm, số lượng dược sĩ trung cấp tǎng lên.
3. So sánh với sự gia tǎng dân số, tỷ lệ cán bộ cả ngành y và dược vẫn ở trong trạng thái thiếu về số lượng tuyệt đối và tương đối, lượng tǎng không theo kịp với tốc độ tǎng dân số.
Dù Đảng và Nhà nước đã có nhiều cố gắng tập trung đào tạo, xây dựng đội ngũ cán bộ y tế, nhưng đội ngũ này vẫn yếu và thiếu, phân bổ không đồng đều. Phần lớn cán bộ y tế ra trường đều hướng về đô thị và tập trung ở các thành phố, thị xã. Hiện nay có khoảng 3.000 hoặc hơn 3.000 bác sĩ không muốn về nông thôn . Đối với các vùng cao, vùng xa, vùng sâu rất thiếu cán bộ y tế. Vấn đề kế thừa trong đội ngũ cán bộ y tế cũng đang đặt ra. Do áp lực của kinh tế thị trường, số học sinh phổ thông thi vào các trường y - dược ngày càng giảm sút, nếu không sớm khắc phục có thể dẫn đến sự hẫng hụt nhân lực và nhân tài y - dược trong thời gian tới.
Những yếu kém trên đây do nhiều nguyên nhân. Đó là sự quan tâm chưa đầy đủ của các cấp uỷ đảng, các cấp chính quyền, các ngành, từ những hạn chế trong sự quản lý, hoạt động của ngành y tế, sự hạn hẹp trong đầu tư và từ cả những nguyên nhân khách quan do đất nước chịu hậu quả chiến tranh ác liệt, lâu dài, nền kinh tế đang chuyển đổi, còn nhiều yếu kém, chưa đảm bảo đủ tiềm lực cho việc xây dựng, hoạt động của ngành y tế. Nhưng có một nguyên nhân quan trọng là sự yếu kém, bất cập của đội ngũ cán bộ và công tác cán bộ ngành y. Vì vậy, để vượt qua thách thức, đưa ngành y tế đáp ứng yêu cầu của thời kỳ mới, cần chú trọng trước hết đến việc xây dựng, phát triển đội ngũ cán bội y tế.
Qua hơn 10 nǎm đổi mới, nước ta đã ra khỏi khủng hoảng kinh tế - xã hội, bước vào thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Yêu cầu bảo vệ, tǎng cường sức khoẻ và tǎng cường chất lượng sống cho các tầng lớp dân cư, bảo đảm nguồn lực cho sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá rất khẩn trương. Ngành y tế vừa phải khắc phục những khó khǎn, hạn chế, trong điều kiện cơ sở vật chất - kỹ thuật còn thiếu và yếu, vừa phải vươn lên đi trước, đón đầu để thích ứng, đối phó với những thách thức và nguy cơ nảy sinh của các xã hội hiện đại: ô nhiễm môi trường, phân cực giàu nghèo, các bệnh xã hội, các tác động phức hợp trong bước chuyển đổi nền kinh tế. Trong điều kiện mới, những tư tưởng và chỉ dẫn của Hồ Chí Minh về xây dựng đội ngũ cán bộ càng có giá trị to lớn và thời sự.
Đại hội VIII của Đảng trong khi chỉ ra những định hướng lớn cho đất nước bước vào thời kỳ mới, đã xác định rõ nhiệm vụ của ngành y tế, phấn đấu đến nǎm 2.000 và 2.020 là:
- Tiếp tục cải thiện các chỉ số về sức khoẻ của nhân dân.
- Làm giảm hẳn tỷ lệ mắc và chết do các bệnh gây dịch, bệnh do ký sinh trùng và các bệnh trong mô hình bệnh tật của các nước phát triển.
- Mở rộng, nâng cao chất lượng và hiệu quả chǎm sóc sức khoẻ, thực hiện công bằng trong chǎm sóc sức khoẻ, đẩy mạnh xã hội hoá công tác y tế.
- Củng cố và nâng cao hiệu lực của các tổ chức y tế, đặc biệt là tuyến y tế cơ sở.
- Mở rộng đa dạng hoá, nâng cao chất lượng và hiệu quả các dịch vụ chǎm sóc sức khoẻ nhân dân. Đổi mới và tǎng cường công tác quản lý bệnh viện, kiện toàn hệ thống khám chữa bệnh đủ sức đáp ứng nhu cầu ngày càng cao và đa dạng của nhân dân. Thực hiện khám chữa bệnh miễn phí cho các gia đình chính sách, cho người nghèo.
- Tǎng cường đầu tư của Nhà nước, kết hợp với tạo thêm nguồn kinh phí khác cho y tế. Khuyến khích và quản lý tốt hoạt động chǎm sóc sức khoẻ nhân dân của các tổ chức y tế nhà nước và y tế tư nhân. Phát triển y học cổ truyền dân tộc, kết hợp y học cổ truyền với y học hiện đại. Xây dựng chính sách về quản lý và phát triển công nghiệp dược, thiết bị y tế, đáp ứng nhu cầu trong nước và xuất khẩu.
- Có chính sách đãi ngộ để sử dụng tốt cán bộ y tế, nhất là ở những nơi có khó khǎn. Ngǎn chặn tình trạng xuống cấp trong ngành y tế, từ cơ sở vật chất, trang thiết bị đến chất lượng và thái độ phục vụ...Phát triển phong trào thể dục, thể thao sâu rộng trong cả nước...
Những chỉ dẫn trên đây cũng chính là phương hướng, nhiệm vụ, yêu cầu cơ bản để xây dựng đội ngũ cán bộ y tế hiện nay. Từ phương hướng, nhiệm vụ nêu trên, quan điểm cơ bản cần quán triệt trong xây dựng đội ngũ cán bộ y tế theo tư tưởng Hồ Chí Minh hiện nay là:
- Xây dựng một nền y học khoa học, dân tộc, đại chúng, với đội ngũ cán bộ đủ mạnh để đảm bảo được yêu cầu chǎm sóc, bảo vệ và nâng cao sức khoẻ, chất lượng sống của nhân dân. Đào tạo, đầu tư cho cán bộ y tế cũng là đầu tư cho con người - mục tiêu và động lực của công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội.
- Xây dựng đội ngũ cán bộ y tế đủ về số lượng và mạnh về chất lượng, cả về y đức và y thuật, đảm bảo cân đối, hài hoà giữa cán bộ y và dược, Đông y và Tây y, giữa các miền, vùng, giữa các loại cán bộ, vừa giải quyết được yêu cầu trước mắt, kế thừa, vừa hiện đại, có thể tiếp thu được những thành tựu y học mới nhất và phát triển hiện đại hoá ngành y và dược Việt Nam.
- Xây dựng đội ngũ cán bộ y tế là một nhiệm vụ chủ yếu của ngành y tế đồng thời cũng như là sự nghiệp của toàn dân. Phải phát huy cao nhất nội lực của ngành, đồng thời huy động sức mạnh tổng hợp của toàn Đảng, toàn dân, của các ngành, các cấp tham gia xây dựng đội ngũ cán bộ y tế, trong đó sự lãnh đạo, chỉ đạo của Đảng bộ các cấp là rất quan trọng.
- Xây dựng đội ngũ cán bộ y tế mạnh không tách rời những điều kiện, hoàn cảnh cụ thể, chịu tác động nhiều chiều của tình hình kinh tế - xã hội, môi trường. Vì vậy, phải đặt chiến lược trong toàn bộ sự nghiệp xây dựng, phát triển đội ngũ cán bộ của Đảng nói chung, vừa xây dựng, phát triển đội ngũ, vừa không ngừng tạo lập, cải thiện các quan hệ xã hội như là môi trường lành mạnh để cán bộ y tế hoạt động rèn luyện và trưởng thành.
Mục tiêu đặt ra đối với ngành y tế trong công tác xây dựng đội ngũ cán bộ của ngành (cả y lẫn dược) là đủ, mạnh, giỏi về chuyên môn, vững vàng về chính trị, có lòng yêu nước, yêu dân và đoàn kết nội bộ, cân đối, hài hoà, vừa phù hợp yêu cầu trước mắt, vừa phát triển, hiện đại hoá ngành y tế dân tộc. Để đạt được mục tiêu ấy, cần quán triệt tư tưởng Hồ Chí Minh, các nghị quyết của Đảng, về cán bộ nói chung, cán bộ y tế nói riêng, đặc biệt là Nghị quyết Hội nghị lần thứ ba Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khoá VIII) "Về chiến lược cán bộ của thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước".
2.Một số giải pháp lớn để củng cố, xây dựng và phát triển đội ngũ cản bộ y tế phù hợp với tư tưởng Hồ Chí Minh và chiến lược cán bộ của Đảng trong thời kỳ mới:
Thứ nhất,Hồ Chí Minh thường cǎn dặn và trao nhiệm vụ cho ngành y, phải xây dựng nền y học của ta theo nguyên tắc khoa học, dân tộc, đại chúng. Vì vậy, đội ngũ cán bộ y tế cũng phải được xây dựng và hoạt động trên cơ sở các nguyên tắc cơ bản ấy.
Thực hiện nguyên tắc này, phải đảm bảo sự cân đối, tính hệ thống của đội ngũ cán bộ y tế. Về cơ cấu, đội ngũ cán bộ y tế phải bao gồm cả cán bộ y và dược, cán bộ Đông y và Tây y, cán bộ y học cổ truyền và cán bộ y học hiện đại, dân y và quân y, cân đối giữa cán bộ quản lý, cán bộ phong trào và cán bộ điều trị. Hiện nay, trong ngành y tế đang có sự mất cân đối giữa bác sĩ điều trị so với bác sĩ làm công tác dự phòng, giữa bác sĩ và y tá (điều dưỡng). Thí dụ tỷ lệ bác sĩ điều dưỡng hiện nay là 1/1,24 trong khi tỷ lệ hợp lý phải là 1/3. Sự cân đối còn yêu cầu tính đến quan hệ giữa các vùng, các miền, các độ tuổi để bảo đảm tính kế thừa và khả nǎng phát triển, giữa đáp ứng nhu cầu, nhiệm vụ trước mắt, với vươn lên chủ động ứng phó với nhiệm vụ lâu dài, đón đầu những xu thế phát triển của y học hiện đại. Cân đối, hài hoà trong toàn bộ cấu trúc của ngành y; giữa tổ chức hành chính (bốn tuyến: trung ương, tỉnh, huyện, xã), với các khu vực phổ cập và chuyên sâu và các thành phần kinh tế, dưới sự chỉ đạo chung của Bộ chủ quản.
Do ở vị trí giao lưu thuận lợi, đội ngũ cán bộ y tế của ta khá phong phú đa dạng, gồm cả cán bộ Đông y và Tây y. Mỗi ngành, dù Đông y hay Tây y đều có những mặt mạnh và có những hạn chế. Do đó, cần phải có những cán bộ chuyên sâu, được đào tạo cơ bản trên từng lĩnh vực để tận dụng phát huy hết lợi thế chuyên ngành của mình. Đồng thời, sự hiểu biết, vận dụng kiến thức, kinh nghiệm của ngành khác cũng góp phần quan trọng nâng cao hiệu quả chữa bệnh, tǎng cường sức khoẻ.
Nguyên tắc dân tộc trong xây dựng đội ngũ cán bộ ngành y theo tư tưởng Hồ Chí Minh đòi hỏi chúng ta cần chú trọng việc kế thừa, phát triển các thầy thuốc Đông y. Từ những nǎm đầu thập kỷ 60, Đảng, Nhà nước và ngành y tế đã chủ trương phát động cuộc vận động nuôi trồng cây, con làm thuốc, sử dụng thuốc Nam, châm cứu ở tuyến y tế cơ sở và cộng đồng để phòng bệnh, chữa bệnh thông thường cho nhân dân, thực hiện khẩu hiệu "thầy tại chỗ, thuốc tại chỗ" đã đem lại kết quả tốt.
Để kế thừa và phát huy những truyền thống y học cổ truyền, bên cạnh việc đầu tư, nâng cấp trang thiết bị và nâng cao trình độ của các bệnh viện lớn, các trung tâm y tế và của các lương y hiện có, cần tǎng cường việc thu thập, sưu tầm những bài thuốc hay, sử dụng những thầy thuốc Đông y, kết hợp tốt hoạt động của các loại thầy thuốc, các trung tâm Đông - Tây y.
Trước khi Tây y xuất hiện ở Việt Nam, việc chữa trị, chǎm sóc sức khoẻ của cộng đồng phần lớn nhờ ở hoạt động chẩn trị tự phát của "thầy thuốc ta" (bao gồm thuốc Bắc và thuốc Nam). Đội ngũ cán bộ tự có này đã được phân bố tự nhiên phù hợp với địa bàn dân cư. Nay cần được sử dụng, khuyến khích, đặc biệt là với những lương y có kinh nghiệm, có bài thuốc gia truyền, để hỗ trợ, bổ sung và phối hợp hoạt động với cán bộ Tây y. Đồng thời, các trung tâm y học dân tộc, Đông y hiện có cũng cần được tǎng cường, củng cố, vừa chữa trị, vừa nghiên cứu phát triển y học dân tộc, hướng dẫn hoạt động của các lương y. Đưa vào chương trình đào tạo của các loại trường đào tạo cán bộ y tế nội dung, kiến thức Đông y và kiến thức y học dân gian, khuyến khích dùng những thầy thuốc vừa có kiến thức chuyên ngành vừa có kiến thức rộng rãi về các ngành y học khác. Cần đẩy mạnh hơn việc đào tạo một đội ngũ những thầy thuốc đa nǎng Tây y - Đông y cung cấp cho cơ sở, địa phương, vừa làm nhiệm vụ điều trị, vừa có trách nhiệm nâng cao sức khoẻ của nhân dân.
Theo hướng này, cần thống nhất chương trình đào tạo thầy thuốc y học cổ truyền, việc đào tạo các thầy thuốc Đông y chuyên khoa, một số có học hàm, học vị tạo cơ sở quan trọng cho bước phát triển đội ngũ cán bộ y học dân tộc những nǎm tới. Xuất phát từ nhiệm vụ chǎm sóc, bảo vệ sức khoẻ nhân dân cũng như từ sự nghiệp giữ gìn, phát huy bản sắc nền y học Việt Nam đều đòi hỏi cần sớm thành lập những trường đại học y học cổ truyền, trước hết là tại Thủ đô Hà Nội và Thành phố Hồ Chí Minh.
Một nội dung lớn trong tư tưởng vǎn hoá Hồ Chí Minh là trên cái nền dân tộc, gốc dân tộc, chúng ta vươn tới tiếp thu tinh hoa vǎn hoá nhân loại, kết hợp chặt chẽ vǎn hoá dân tộc với vǎn hoá nhân loại. Ngành y tế nước ta có thể vận dụng tư tưởng nêu trên của Hồ Chí Minh vào việc bồi dưỡng, đào tạo đội ngũ cán bộ của mình.
Nền y học đại chúng là nền y học gắn với quần chúng và phục vụ quần chúng nhân dân. Mọi hoạt động bảo vệ sức khoẻ phải xuất phát từ yêu cầu của nhân dân dựa trên cơ cấu bệnh tật của từng địa phương, từng khu vực, đặc biệt là những bệnh phổ biến, nhiều người mắc, có ảnh hưởng lớn đến sức khoẻ và sức lao động của quần chúng nhân dân.
Nền y học mang tính đại chúng còn bao hàm sự kết hợp chặt chẽ dân y với quân y, nhằm phục vụ chǎm sóc sức khỏe của nhân dân và bộ đội ở mọi miền đất nước.
Hiện nay, cần chú trọng việc củng cố, phát triển và hoàn chỉnh đội ngũ cán bộ chǎm sóc sức khoẻ cho nhân dân theo hướng tǎng cường cán bộ y tế ở các địa phương, cơ sở hoạt động dưới sự chỉ đạo chuyên môn của ngành và sự quản lý chung của từng địa phương. Phát triển y tế cơ sở, phấn đấu đưa cán bộ y tế về đến tận xã, thôn bản với mức độ phù hợp, bao gồm: cán bộ y tế cộng đồng, nữ hộ sinh, y tá, y sĩ, bác sĩ. Bên cạnh nhiệm vụ điều trị, sơ cứu, cán bộ y tế cơ sở phải hướng hoạt động vào nhiệm vụ trọng tâm là triển khai công tác y học dự phòng, chǎm sóc sức khỏe gia đình, thực hiện phương châm "phòng bệnh hơn chữa bệnh", "chữa bệnh từ gốc".
Thực trạng đội ngũ cán bộ y tế ở vùng sâu, vùng xa, miền núi vừa yếu, vừa thiếu, cần củng cố, phát triển các đội y tế lưu động tuyên truyền vệ sinh phòng bệnh, chữa bệnh cho nhân dân. Đồng thời, có chủ trương, chính sách sử dụng và khuyến khích những lương y tham gia vào công tác chữa trị, phòng bệnh cho cộng đồng.
Cần chú trọng đến hoạt động y học dự phòng từ khâu đào tạo cán bộ đến tổ chức và hoạt động chuyên môn.
Sắp xếp lại hệ thống khám chữa bệnh theo địa bàn dân cư, từ đó có tổ chức biên chế cán bộ y tế phù hợp. Thực hiện việc hạch toán kinh tế, tiết kiệm trong quá trình quản lý theo phương thức hoạt động lồng ghép: phục vụ + đào tạo + nghiên cứu khoa học + tuyên truyền bảo vệ sức khoẻ. Từ đó nâng cao hiệu quả hoạt động, tiết kiệm và phát huy tối đa tiềm lực về cơ sở vật chất và nguồn nhân lực hiện có.
Trong xây dựng đội ngũ cán bộ, ngành y tế hiện đang cùng một lúc vừa trải rộng, phủ kín mạng lưới y tế, bảo đảm khám chữa bệnh công bằng cho nhân dân, vừa tập trung xây dựng và đầu tư cán bộ cho các trung tâm y tế chuyên sâu của mỗi vùng, trước hết là ở Thành phố Hà Nội, Thành phố Hồ Chí Minh và miền Trung - Tây Nguyên. Sau đó, mở rộng ra các tuyến khác: Tây Bắc, đồng bằng sông Cửu Long... Nếu trong lĩnh vực khoa học - công nghệ, mũi nhọn của sự phát triển là ở các trung tâm nghiên cứu - kỹ thuật cao... thì trong ngành y tế, sự hình thành những trung tâm y học với đội ngũ cán bộ có trình độ cao là rất cần thiết. Những trung tâm này vừa là động lực, mũi nhọn kéo theo sự phát triển của toàn ngành, vừa tạo điều kiện thuận lợi cho giao lưu, hợp tác quốc tế và đạt những thành tựu cao, trình độ hiện đại.
Thứ hai,để bảo đảm nguồn nhân lực cho trước mắt và lâu dài, công tác đào tạo cán bộ ngành y tế cần được chú trọng trên cơ sở quy hoạch, kế hoạch, chỉ tiêu đào tạo hằng nǎm và dự báo nhu cầu phát triển của những nǎm tới, chú ý cơ cấu hợp lý về số lượng cán bộ y tế ở các ngành y - dược và ở các trình độ. Cần có chính sách khuyến khích đào tạo cán bộ y tế cho những vùng cao, vùng sâu, vùng có những khó khǎn, đào tạo theo địa chỉ, khuyến khích cán bộ ra trường về công tác tại các vùng này bằng chế độ lương, phụ cấp thích hợp. Ngành y tế có thể và cần áp dụng chế độ luân chuyển cán bộ theo tinh thần Nghị quyết Trung ương ba (khoá VIII).
Để tạo nguồn cho ngành y, cần có chính sách phù hợp về lương, phụ cấp, bảo đảm cho họ đủ sống bằng nghề nghiệp, phù hợp với quá trình đào tạo sáu nǎm (so với bốn, nǎm nǎm của các trường đào tạo cán bộ khác). Có thể áp dụng chế độ khuyến khích tương tự như đã áp dụng với sinh viên sư phạm và với giáo viên. Tất nhiên họ cũng phải đáp ứng những yêu cầu cần thiết của sự ưu tiên.
Trong y học, khoa học - công nghệ, các trang thiết bị hiện đại có ý nghĩa rất lớn. Cần tǎng cường cán bộ nghiên cứu khoa học và công nghệ, nghiên cứu bệnh học đặc thù ở Việt Nam, nghiên cứu y học cổ truyền và những ứng dụng các thành tựu y dược hiện đại thế giới vào Việt Nam. Mở rộng trao đổi thông tin trong ngành, giao lưu, hợp tác quốc tế và khu vực cũng như đưa kiến thức y học cổ truyền vào chương trình giảng dạy của các trường y - dược.
Thứ ba,trong quá trình xây dựng và phát triển đội ngũ cán bộ y tế theo tư tưởng Hồ Chí Minh, cần chú ý đến cán bộ ở cơ sở.
Hồ Chí Minh luôn luôn chú trọng đến chǎm lo sức khoẻ đến từng người dân ở từng xóm làng. Y tế cơ sở là nơi gần dân nhất, là nơi chǎm sóc sức khoẻ tại chỗ. Nước ta hiện nay có 80% số dân sống ở nông thôn, người nghèo chủ yếu cũng tập trung ở khu vực đó. Người nghèo không có điều kiện đến điều trị ở các bệnh viện tuyến trên mà chủ yếu là trạm y tế cơ sở.
Hiện nay, số bác sĩ đã được đào tạo đưa về xã còn ít, đặc biệt ở vùng sâu, vùng xa. So với yêu cầu từ nay đến nǎm 2.000, nước ta còn thiếu hàng nghìn bác sĩ cho các xã. Nguồn cán bộ y tế cung cấp cho cơ sở là ở các trường đào tạo cán bộ y tế. Nhưng việc sắp xếp, phân bổ lực lượng cán bộ y tế chưa hợp lý, cán bộ về cơ sở còn ít. Số người tốt nghiệp ngành y tập trung nhiều ở thành thị, thậm chí nhiều người làm trái nghề, gây ra lãng phí rất lớn về chất xám. Cắt nghĩa nguyên nhân này có nhiều: tâm lý không muốn xa nhà, ngại về nông thôn, ngay cả ở quê hương mình, do chế độ chính sách đãi ngộ chưa phù hợp, do phương tiện ở các trạm y tế cơ sở lạc hậu làm cho họ lo sợ mai một kiến thức, v.v..
Giải pháp củng cố, xây dựng và phát triển đội ngũ cán bộ y tế theo tư tưởng Hồ Chí Minh ở cơ sở cũng nằm trong việc đổi mới chế độ chính sách, cần ưu đãi nhiều hơn cho họ, đồng thời với việc có cơ chế để các cơ sở chịu kinh phí gửi đi đào tạo rồi trở về phục vụ quê hương.
Hiện nay, số cán bộ y tế cả dân y và quân y nghỉ hưu về nông thôn cũng rất lớn. Vì thế, cần tập hợp lực lượng thầy thuốc này lại một cách quy củ, có tổ chức để họ vừa góp phần chǎm sóc sức khoẻ cho từng người dân, vừa có thêm thu nhập chính đáng.
Một vấn đề không kém phần quan trọng là cần đổi mới chính sách cũng như định biên cán bộ y tế cơ sở. Ngoài các vǎn bản đã có của Chính phủ, liên Bộ và Bộ Y tế về vấn đề này, cần xem xét lại để bổ cứu một số vấn đề quy định chức nǎng, nhiệm vụ, chức danh của từng người trong hệ thống y tế cơ sở. Họ phải được định biên chính thức của Nhà nước để được hưởng mức thu nhập ổn định, thường xuyên, mặt khác họ còn được hưởng phụ cấp của từng địa phương.
Chúng ta không coi nhẹ công tác giáo dục chính trị tư tưởng. Đó là một biện pháp quan trọng không thể thiếu để nâng cao y đức. Song vấn đề chủ yếu là cần có chính sách ưu đãi, khen thưởng và cơ chế thu hút cán bộ y tế về cơ sở. Tháng 3-1948, Chủ tịch Hồ Chí Minh cho rằng: "Chúng ta vừa kháng chiến, vừa kiến quốc. Vì vậy, nhân tài chuyên môn nhất là nhân tài về môn y tế, chỉ sẽ thiếu chứ chưa có thừa. Vì vậy, các ngành chuyên môn, nhất là ngành thuốc, sẽ được đặc biệt trọng đãi, lẽ tất nhiên ngành thuốc phải cố gắng làm thoả mãn nhu cầu của đồng bào"1 . Cái mà chúng ta thiếu hiện nay là chưa thực hiện đầy đủ quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh về "đặc biệt trọng đãi" cán bộ y tế. Đương nhiên, cán bộ y tế nói đến ở đây là những người có đủ đức và tài, đã có nhiều đóng góp cho sự nghiệp chǎm sóc, bảo vệ sức khoẻ của nhân dân.
Hướng tới nǎm 2.000 và những nǎm đầu thế kỷ XXI, chúng ta phải tích cực triển khai thực hiện Nghị định số 01/NĐ-CP ngày 3-1-1998 của Chính phủ về hệ thống tổ chức y tế địa phương. Trong quá trình thực hiện Nghị định đó, việc củng cố, xây dựng và phát triển đội ngũ cán bộ y tế cơ sở là một nhiệm vụ quan trọng và cấp thiết.
Trong quá trình đào tạo, huấn luyện cán bộ, Hồ Chí Minh chú trọng trước hết là học đạo làm người, "tư cách của người cách mạng", theo tư tưởng của Người, cán bộ y - dược phải được đào tạo kiến thức chuyên sâu, đồng thời phải được đào luyện về y đức, thấm nhuần những tư tưởng nhân vǎn. Việc giáo dục chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và các khoa học xã hội - nhân vǎn sẽ góp phần tích cực vun trồng y đức của người thầy thuốc. Hồ Chí Minh luôn đòi hỏi mỗi cán bộ Đảng, Nhà nước phải thường xuyên học tập chuyên môn, nghiệp vụ đi đôi với việc học tập lý luận, nghiên cứu chủ nghĩa Mác-Lênin.
Chế độ kiểm tra, thanh tra y tế của ngành và của xã hội cũng góp phần tích cực giữ gìn y đức của cán bộ y tế, phù hợp với yêu cầu và khả nǎng hiện có của đất nước. Người thầy thuốc cũng cần được tôn vinh và đãi ngộ tương đương với thầy giáo. Phải chǎng đó là điều "đặc biệt trọng đãi" mà Hồ Chí Minh đã nói tới. Cần có chế độ khen thưởng, kỷ luật rõ ràng. Đặt công tác đào tạo, phát triển đội ngũ cán bộ y tế trong toàn bộ công tác cán bộ, công tác đào tạo nguồn nhân lực của Đảng, Nhà nước nói chung.
Xã hội hoá hoạt động y tế, cũng có nghĩa là xã hội hoá hoạt động xây dựng đội ngũ cán bộ. Đa dạng hoá các loại hình thức khám chữa bệnh, cho phép các thành phần kinh tế tham gia vào hoạt động bảo đảm, nâng cao sức khoẻ cho nhân dân. Phát động phong trào thể dục, vệ sinh, rèn luyện sức khoẻ, làm trong sạch, lành mạnh môi trường sống (bao gồm môi trường tự nhiện và môi trường xã hội). Biến việc chǎm sóc, bảo vệ sức khoẻ của ngành y tế thành sự nghiệp của toàn dân. Biến mỗi người dân là một vệ sinh viên, cán bộ môi trường một cách tự giác, tự chǎm sóc và nâng cao thể lực cho mình, làm lành mạnh môi trường, phát triển nòi giống.
Phù hợp với sự phát triển kinh tế - xã hội của đất nước chúng ta, có thể tiên liệu về sự phát triển của đội ngũ cán bộ y tế - dịch vụ, đáp ứng nhu cầu chữa trị, chǎm sóc, nâng cao thể lực đến từng gia đình - xu thế này đang gia tǎng cùng với sự tǎng trưởng của kinh tế, mức sống và sự đông dần của tầng lớp trung lưu.
Cần tuyên truyền, giáo dục cho mọi người hiểu rõ quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh "thầy thuốc như mẹ hiền" để mọi người có ý thức tôn trọng và xây dựng đội ngũ cán bộ y tế trong giai đoạn mới.
Công tác khám chữa bệnh là một lĩnh vực nhạy cảm, liên quan chặt chẽ đến sức khoẻ và tính mạng của con người. Do vậy thầy thuốc, cán bộ ngành y cũng phải được nâng cao về y đức, cần học tập nghiên cứu về tư tưởng, đạo đức Hồ Chí Minh.
Việc xây dựng y đức "thầy thuốc như mẹ hiền", cần phải bắt đầu từ cả hai phía, phía cán bộ y tế và phía người bệnh, gia đình người bệnh. Chúng ta lên án nghiêm khắc những cán bộ y tế đã làm mất thanh danh, chạy theo đồng tiền. Đó là những "con sâu làm rầu nồi canh". Nhưng, như thế chưa đủ. Phía người bệnh và gia đình người bệnh không ít trường hợp góp phần vô ý thức làm hư hỏng một số thầy thuốc.
Do vậy, điều cần bàn thêm là cả đội ngũ cán bộ y tế và người bệnh, gia đình người bệnh phải thiết lập mối quan hệ thiện cảm,vừa là tình đồng loại, vừa là tình người Việt Nam, vừa là quan hệ công dân của một nước độc lập, tự do. Sức khoẻ, như quan niệm của Chủ tịch Hồ Chí Minh, phải được hiểu ở cả thể xác lẫn tinh thần. Thầy thuốc cũng là con người. Nhân vô thập toàn. Thầy thuốc cũng có những nhu cầu và sở thích riêng, có những khuyết điểm riêng và cũng có thể có sai sót ngoài ý muốn. Một lời an ủi, động viên, cảm thông là những liều thuốc hữu hiệu để luôn luôn khơi dậy tinh thần y đức của người thầy thuốc. Mọi quy định về y đức đều là cần thiết. Nhưng quy định vẫn chỉ là quy định khi con người thiếu cái tâm, thiếu tự giác và thiếu sự giám sát cũng như tình cảm của những người xung quanh, nhất là người bệnh và thân nhân của họ.
Trong cơ chế thị trường hiện nay, cái mà chúng ta đang thiếu là niềm tin lẫn nhau giữa người thầy thuốc với người bệnh, gia đình người bệnh. Không ở lĩnh vực nào như lĩnh vực y học - khoa học về sức khoẻ con người lại chịu áp lực lớn, sự trǎn trở khôn nguôi về số phận con người. Đây cũng là lĩnh vực đòi hỏi cần có sự thông cảm, tin tưởng lẫn nhau cao nhất. Quy luật của con người thật nghiệt ngã: sinh, lão, bệnh, tử. Con người chịu bất lực đối với cuộc sống của chính mình. Trong y học, vì thế, càng phải thấm đượm tình người: người với người sống để yêu nhau nhưng không phải chỉ từ phía những người công tác trong ngành y tế.
Ngành y tế hoạt động dưới sự lãnh đạo của Đảng và quản lý của Nhà nước. Để xây dựng đội ngũ cán bộ, phải bảo đảm và tǎng cường sự lãnh đạo của Đảng và quản lý của Nhà nước. Các cấp uỷ đảng cần có những định hướng đúng cho sự phát triển, hoạt động của cán bộ y tế, phối hợp hoạt động của cán bộ y tế với cán bộ các ngành vǎn hoá - thể thao, giáo dục, thương binh - xã hội... để giải quyết các vấn đề chuyên sâu và liên ngành. Nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước trong lĩnh vực y tế, áp dụngLuật viên chức đối với cán bộ y tế; cải cách thủ tục hành chính, phương thức khám chữa bệnh, bảo đảm thuận lợi cho việc khám chữa bệnh của nhân dân, tạo điều kiện cho cán bộ y tế hoạt động, phát huy cao nhất y đức, y thuật phục vụ cộng đồng.
Hơn nửa thế kỷ qua, các thế hệ thầy thuốc và nhân viên y tế trên mọi miền đất nước đã tận tuỵ cống hiến, hy sinh trong việc chǎm sóc bảo vệ sức khoẻ cộng đồng dân tộc trong các cuộc chiến đấu bảo vệ Tổ quốc cũng như công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội và đổi mới đất nước. Trải qua các giai đoạn lịch sử, các thầy thuốc Việt Nam đã góp phần đem lại nguồn vui cho mọi người, đem lại hạnh phúc cho từng gia đình, đem lại niềm tin và sự tôn trọng của bạn bè nǎm châu bốn biển, về lòng nhân ái, về tài nǎng chuyên môn của các thầy thuốc Việt Nam thời đại Hồ Chí Minh.
Cách đây 44 nǎm, trong thư gửi Hội nghị cán bộ y tế (tháng 2-1955) Hồ Chí Minh viết: "Đoàn kết giữa cán bộ cũ và cán bộ mới, đoàn kết giữa tất cả những người trong ngành y tế, từ các bộ trưởng, thứ trưởng, dược sĩ đến các anh chị em giúp việc. Bởi vì công việc và địa vị tuy có khác nhau, nhưng người nào cũng là một bộ phận cần thiết trong ngành y tế trong việc phục vụ nhân dân". Để có một đội ngũ cán bộ y tế phù hợp với hệ thống tổ chức đã được vạch ra ở phần trên, Hồ Chí Minh nhấn mạnh: "cần lựa chọn và đào tạo nhiều cán bộ mới trong số thanh niên nam nữ, dạy cho họ những công tác cần thiết trong nhân dân".
Những lời cǎn dặn trên đây của Hồ Chí Minh vẫn là nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho hành động của ngành y tế trong công tác tổ chức và cán bộ thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.
Hồ Chí Minh - người thực hiện đầy đủ và trọn vẹn quan niệm về sức khoẻ của chính mình
Ngay cả khi còn sống, đến sau khi Hồ Chí Minh qua đời và cho đến ngày nay toàn dân Việt Nam đều có một ý nguyện phấn đấu chung "sống, chiến đấu, lao động và học tập theo gương Chủ tịch Hồ Chí Minh vĩ đại". Cũng như trong các hoạt động khác, ở lĩnh vực rèn luyện sức khoẻ, tấm gương Hồ Chí Minh lại có dịp toả sáng, trở thành một biểu tượng đẹp của ý chí tự rèn luyện của một nhân cách lớn.
1.ý thức tự rèn luyện thân thể ở Hồ Chí Minh có từ rất sớm và được hình thành trên cơ sở một quan niệm khoa học xác đáng về sức khoẻ và vai trò của nó đối với sự phát triển xã hội. Trong số các vĩ nhân được Liên hiệp quốc liệt vào hàng danh nhân vǎn hoá thế giới, Hồ Chí Minh là người đề cập nhiều nhất đến vấn đề sức khoẻ. Hồ Chí Minh đề cập một cách trực diện và mang tính hệ thống. Cách đề cập này có sức lan toả rộng nhờ ở vị trí lãnh đạo tối cao của Người và nhờ ở một cách nhìn chiến lược dài hạn, vượt qua không gian và đi trước thời gian.
Hồ Chí Minh quan niệm về sức khoẻ rất giản dị, dễ hiểu, không có ý khái quát về mặt lý luận, duy lý nhưng lại chứa đựng cả một nội dung rộng lớn, nêu bật được bản chất cốt lõi của vấn đề. Trong bài Sức khoẻ và thể dục, viết sau ngày Cách mạng Tháng Tám thành công (27-3-1947), Hồ Chí Minh đã đưa ra một định nghĩa chuẩn mực về sức khoẻ. Theo Người, thể dục là rất cần thiết, "ngày nào cũng tập thì khí huyết lưu thông, tinh thần đầy đủ, như vậy là sức khoẻ". Sức khoẻ trong quan niệm của Chủ tịch Hồ Chí Minh là bao gồm sự lành mạnh cả về thể chất lẫn tinh thần. Nó không chỉ nói đến trạng thái bệnh tật hoặc sống lâu mà còn là một trạng thái thoải mái nhất của con người về thể chất, tinh thần và xã hội.
Dưới góc độ và cách tiếp cận Hồ Chí Minh, khái niệm sức khoẻ còn hàm chứa trong đó cả chất lượng cuộc sống, hiệu quả đóng góp của mỗi người đối với sự phát triển xã hội. Quan niệm sức khoẻ của Hồ Chí Minh là sự tiếp nối liền mạch truyền thống vǎn hoá phương Đông, xem xét con người là thực thể của vũ trụ vô cùng động trên cơ sở "thiên nhân hợp nhất", không xa lạ mà hết sức gần gũi, đạt đến độ nắm bắt cốt lõi cách tiếp cận và tinh thần mác xít về con người. Mặc dù trong tính hiện thực của nó, bản chất con người là sự tổng hoà tất cả các quan hệ xã hội, nhưng con người chỉnh thể, toàn vẹn lại là sự thể hiện ra vừa như là một thực thể tự nhiên, lại vừa như là một thực thể xã hội. Tính tự nhiên và xã hội hoà quyện, thống nhất khǎng khít, nội tại trong chính bản thân con người.
Cách đặt vấn đề và quan niệm về sức khoẻ của Hồ Chí Minh có ý nghĩa phương pháp luận cho chỉ đạo hoạt động thực tiễn có liên quan đến con người. Khi sức khoẻ đã bao hàm cả về thể chất lẫn tinh thần thì sự chǎm lo đến con người nói chung và sức khoẻ nói riêng phải kết hợp bằng cả những biện pháp vật chất cũng như tinh thần. Hồ Chí Minh thường xuyên lưu ý và nhấn mạnh: làm thế nào cho đời sống của dân ta vật chất được đầy đủ hơn, tinh thần được vui vẻ, lành mạnh, phong phú hơn; mọi chính sách của Đảng và Chính phủ đều hướng về mục tiêu cuối cùng: nâng cao đời sống vật chất và tinh thần cho toàn thể quần chúng lao động. Từ đó, Hồ Chí Minh đã đi đến một kết luận vượt ra ngoài giới hạn chật hẹp, đụng chạm đến vấn đề hưng vong, phồn vinh của một quốc gia, dân tộc: lựa chọn con đường xã hội chủ nghĩa và xây dựng chủ nghĩa xã hội chính là sự lựa chọn con đường và xây dựng một cuộc sống ấm no về vật chất, phong phú, giàu có về tinh thần cho tất cả mọi người dân Việt Nam. Một cách trực tiếp hơn, trong thư gửi Hội nghị Quân y, tháng 3-1948, Hồ Chí Minh cǎn dặn: "Người thầy thuốc chẳng những có nhiệm vụ cứu chữa bệnh tật mà còn phải nâng đỡ tinh thần những người ốm yếu". Nhìn chung, Hồ Chí Minh trong quan niệm về sức khoẻ có sự kết hợp hài hoà giữa hai yếu tố thể chất và tinh thần, chúng là điểm tựa, bổ sung thúc đẩy lẫn nhau, nhưng trong rất nhiều trường hợp, Hồ Chí Minh lại hết sức chú trọng đến sự khai phóng, lành mạnh, phong phú, giàu có của đời sống tinh thần khi mà điều kiện và cuộc sống vật chất còn có những giới hạn, khó khǎn.
Với một nội hàm như vậy, quan niệm về sức khoẻ của Chủ tịch Hồ Chí Minh mang tính hiện đại và vượt trước thời gian, gần gũi với các chuẩn mực quốc tế đương thời. Theo Giáo sư Đỗ Nguyên Phương - Bộ trưởng Bộ Y tế, nội dung của định nghĩa của Hồ Chí Minh về sức khoẻ hoàn toàn thống nhất với định nghĩa về sức khoẻ của Tổ chức Y tế thế giới trong Tuyên ngôn Alma Ata nǎm 1978. Sự so sánh về phương diện lịch sử cho phép chúng ta đánh giá đúng đắn, khoa học về tầm nhìn thiên tài của vị lãnh tụ kính yêu. Gạch nối của tư tưởng Hồ Chí Minh nói chung, tư tưởng của Người về sức khoẻ nói riêng, là sự hội tụ các giá trị tinh hoa của vǎn hoá dân tộc và thế giới, của quá khứ, hiện đại và tương lai. Trước Tuyên ngôn Alma Ata hơn 30 nǎm, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đưa ra một quan niệm chính xác về sức khoẻ. Quan niệm đó, ngày nay vẫn đúng và giữ nguyên giá trị, không chỉ riêng cho Việt Nam mà cả cộng đồng nhân loại.
Dưới góc độ lý luận, quan niệm sức khoẻ của Hồ Chí Minh có thể dẫn đến một kết luận khác, không kém phần quan trọng, rộng lớn và sâu sắc, nhất là trong bối cảnh hiện nay. Nếu chúng ta xác định con người là nguồn lực phát triển thì cũng phải hiển nhiên thừa nhận rằng sức khoẻ, hay nói cách khác, thể chất, thể lực cũng là nguồn lực phát triển, nghĩa là toàn bộ những yếu tố cấu thành đã, đang và sẽ có khả nǎng góp phần thúc đẩy quá trình cải biến xã hội của một quốc gia dân tộc. Hơn thế nữa, đặt trong sự so sánh với các nguồn lực khác như tài nguyên thiên nhiên, cơ sở vật chất và khoa học - kỹ thuật, vị trí địa lý, nguồn lực bên ngoài (tài chính, công nghệ...), thì con người - sức khoẻ lại chính là yếu tố nội sinh quan trọng, là nguồn lực phát triển quan trọng nhất, quyết định nhất.
Quan niệm sức khoẻ của Hồ Chí Minh đặt cơ sở khoa học cho chiến lược chǎm lo sức khoẻ con người. Trong quan niệm của Hồ Chí Minh con người - sức khoẻ là vốn quý nhất trên đời, trở thành một giá trị thiêng liêng, đến mức người ta ao ước đạt đến chúng trên cõi "tiên", "trường sinh bất lão" để khắc phục giới hạn vốn có về mặt thời gian ở mỗi cá nhân, vượt qua quy luật sinh tử ở đời. ở đây, Hồ Chí Minh đã xác nhận sức khoẻ con người như là một giá trị cuộc sống, giá trị xã hội đích thực, không chỉ của một cá nhân mà là của cả cộng đồng. Giá trị sức khoẻ thuộc về "sở hữu" của con người, hoàn toàn không xa lạ và ở bên ngoài nó. Trong thang bậc giá trị cuộc sống, ở Việt Nam, sức khoẻ thuộc vào nhóm ưu tiên. Có thể với một người nào đó, tiền bạc, danh vọng, của cải, địa vị...được đề cao; nhưng đối với quảng đại quần chúng lao động, những thứ đó chỉ xếp ở hàng thứ yếu so với sức khoẻ. Làm sao có hạnh phúc khi bị ốm đau, bệnh tật! Hạnh phúc đích thực của con người là sống không ốm đau, bệnh tật ngay trên thế gian này. Khi bị ốm đau, người ta sẵn sàng đổi tất cả mọi thứ để lấy sức khoẻ. Sức khoẻ là thiên phú, vô giá và nghịch lý lại chính là ở chỗ nó không vô hạn mà lại là hạn hữu, buộc con người phải biết quý trọng và giữ gìn. Già trẻ, gái trai, đặc biệt là những người đã ở tuổi hoạt động, lao động sản xuất, dù làm công việc gì, ở bất kỳ lĩnh vực nào cũng cần đến sức khoẻ. Chất lượng và hiệu quả công tác phụ thuộc rất lớn ở sức khoẻ, ở trạng thái thể chất và tinh thần. ở một số lĩnh vực hoạt động, các tiêu chuẩn bảo đảm về sức khoẻ được đưa ra như là những nguyên tắc nghiêm ngặt, phải phục tùng; trạng thái thể chất quyết định nǎng lực thích ứng và khả nǎng chịu đựng của mỗi người. Hồ Chí Minh rất quan tâm đến sức khoẻ mọi người, chính vì hơn ai hết, Hồ Chí Minh hiểu rất rõ sức khoẻ là một trong những nhân tố quyết định thắng lợi của sự nghiệp cách mạng. Hồ Chí Minh nhấn mạnh: "Giữ gìn dân chủ, xây dựng nước nhà, gây đời sống mới, việc gì cũng cần có sức khoẻ mới làm thành công. Mỗi một người dân yếu ớt, tức là cả nước yếu ớt, mỗi một người dân mạnh khoẻ tức là cả nước mạnh khoẻ". Trong vấn đề sức khoẻ, tiềm lực phát triển quốc gia, mối quan hệ giữa cái riêng và cái chung đã được Hồ Chí Minh nêu lên một cách cụ thể và xác thực. Tạo nguồn sức khoẻ không chỉ là trách nhiệm của mỗi cá nhân, mà là cả cộng đồng, trước hết thuộc về Đảng, Nhà nước.
Theo Hồ Chí Minh, muốn sản xuất tốt, kháng chiến thắng lợi phải có sức khoẻ. Bởi lẽ, "người ốm thì sức lao động bị giảm sút", muốn lao động thường xuyên, có nǎng suất, chất lượng và hiệu quả cao thì phải có sức khoẻ, "ốm đau bệnh tật làm cho tinh thần giảm sút". Trong thời kỳ lãnh đạo toàn Đảng, toàn dân tiến hành cuộc kháng chiến trường kỳ, gian khổ và khó khǎn chống thực dân Pháp xâm lược, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ý thức một cách sâu sắc rằng: "Sức khoẻ của cán bộ và nhân dân được đảm bảo thì tinh thần càng hǎng hái. Tinh thần và sức khoẻ đầy đủ thì kháng chiến càng nhiều thắng lợi, kiến quốc càng mau thành công".
Có sức khoẻ, tinh thần mới phấn chấn, lạc quan yêu đời, hǎng hái làm tròn nghĩa vụ với nước, với dân, với Tổ quốc. Để động viên thanh thiếu niên, đồng bào và chiến sĩ cả nước ra sức rèn luyện sức khoẻ, trong bức thư cám ơn Quốc hội, Chính phủ, các đoàn thể, chiến sĩ, cán bộ, các cụ phụ lão, các cháu thanh thiếu niên chúc thọ Hồ Chí Minh 60 tuổi, Người đã viết với tinh thần đầy lạc quan: "60 tuổi vẫn còn thanh niên chán. Tôi vẫn đủ tinh thần và sức khoẻ để cùng chiến sĩ và đồng bào đánh đuổi giặc Pháp, giành lại độc lập và thống nhất thực sự cho Tổ quốc".
Đề cao sức khoẻ, chỉ rõ vai trò của nó trong công cuộc kháng chiến và kiến quốc, trong những bức thư viết cho các tổ chức đoàn thể, chính đảng, các cá nhân, khi kết thúc những bức thư ấy, lời chúc sức khoẻ thường được Hồ Chí Minh đặt ở vị trí ưu tiên. Đến thǎm nhân dân, các đơn vị bộ đội, các nhà máy, trường học... điều đầu tiên Hồ Chí Minh chú ý đến là sức khoẻ của cả tập thể và cá nhân, Người nhắc nhở, phê bình những biểu hiện không tốt, có ảnh hưởng xấu đến sức khoẻ. Vấn đề sức khoẻ, trong tiềm thức và hành động Hồ Chí Minh đã được nâng lên tầm vǎn hoá, như là một biểu hiện và chuẩn mực của một lối sống trong sạch, lành mạnh, bảo đảm nhân tài vật lực cho công cuộc xây dựng và phát triển đất nước. Trong các yếu tố tác động trực tiếp đến hoạt động sản xuất: thiên thời, địa lợi, nhân hoà, Hồ Chí Minh chú ý nhất đến nhân tố người, tất nhiên không tách rời sức khoẻ; có nhân hoà thì dù thiên nhiên có hà khắc đến mấy, đất đai, thổ nhưỡng có xấu đến đâu cũng có thể khắc phục và vượt qua, xây dựng cuộc sống ấm no, hạnh phúc.
Sức khoẻ cần cho mỗi người, mỗi gia đình, mỗi quốc gia và toàn nhân loại. Muốn có được sức khoẻ tốt, đáp ứng nhu cầu phát triển kinh tế - xã hội đất nước cần có chiến lược và biện pháp duy trì, bảo dưỡng và bổ sung. Theo các chuyên gia y tế, sức khoẻ cá nhân hay cộng đồng phụ thuộc vào nǎm yếu tố cơ bản. Đó là môi trường tự nhiên, môi trường xã hội và giáo dục; điều kiện dinh dưỡng; sinh hoạt, học tập, lao động, nghỉ ngơi, giải trí và rèn luyện thân thể; ý thức tự bảo vệ sức khoẻ của mỗi người; tác động của y học và y tế. ở mỗi yếu tố tác động đến sức khoẻ con người, Hồ Chí Minh đều có những chỉ dẫn cụ thể và đề xuất các giải pháp dễ làm nhằm hiện thực hoá quan niệm về sức khoẻ của chính mình trên quy mô toàn xã hội.
Muốn nâng cao sức khoẻ cho toàn dân, theo Hồ Chí Minh trước hết phải bảo đảm cho nhân dân một cuộc sống no đủ, đủ ǎn, đủ mặc, được học hành. Ǎn, ở, mặc, học hành là nhu cầu tối thiểu của đời sống, bảo đảm và duy trì sự phát triển tự nhiên của cơ thể. Hồ Chí Minh rất đau lòng, khi thấy cảnh nhân dân cơ cực, lầm than. Vì thế, một trong sáu nhiệm vụ cấp bách của chính quyền mới là phải bằng mọi nỗ lực nhanh chóng "diệt giặc đói, diệt giặc dốt" để nhằm bảo tồn nòi giống, duy trì lực lượng làm cho "dân cường" và "nước thịnh". Mặt khác, sức khoẻ gắn với nếp sống hoà nhập với xã hội, thiên nhiên, coi đó như một triết lý nhân sinh, hành động. Do vậy, để có sức khoẻ, con người phải biết sống hoà nhập với thiên nhiên. Con người cần khai thác những gì tự nhiên có thể ban cho mình và biết bảo vệ, chǎm sóc môi trường sống của mình nhằm tạo ra sự hoà hợp giữa con người như một bộ phận của tự nhiên với phần còn lại của nó. Con người không được phép hành động như một tên bạo chúa đối với tự nhiên, không để cho sự ham muốn của cải và quyền lực làm cho mình mù quáng. Trong điều kiện hiện nay, trước những tác động mạnh mẽ của sự phát triển kinh tế, khoa học - kỹ thuật đang làm cho môi trường bị suy giảm đến mức báo động, sự trở về với những lời khuyên đầy tính nhân bản của Hồ Chí Minh càng có ý nghĩa thực tiễn lớn lao. Tết trồng cây mà Người phát động đã đem lại màu xanh cho đường phố, không khí trong lành cho làng quê, sức khoẻ cho mọi người đang trở thành vấn đề của thời đại, mang tính toàn cầu, đang được nhiều quốc gia hưởng ứng.
Hồ Chí Minh đặc biệt nhấn mạnh đến trách nhiệm của ngành y tế trong việc chǎm sóc sức khoẻ cho nhân dân. Với sự can thiệp của y tế, bệnh tật bị đẩy lùi, sự sống được trả lại cho con người. Vì thế, sinh thời Hồ Chí Minh đặc biệt chú ý đến hoạt động của ngành y tế, đề xuất các quan điểm chỉ đạo xây dựng một nền y học mang tính khoa học, dân tộc, đại chúng, coi phòng bệnh là chính, củng cố các tuyến phòng, chữa bệnh, đáp ứng đầy đủ và kịp thời nhu cầu của cán bộ và nhân dân. Thông qua chỉ đạo hoạt động y tế, Hồ Chí Minh từng bước thực hiện tâm niệm của mình về một nền y tế nhân bản chữa bệnh cứu người, làm cho cả một dân tộc khoẻ mạnh về thể chất, giàu có về đời sống nội tâm.
Quan trọng hơn, theo Hồ Chí Minh, để giữ gìn sức khoẻ một cách tích cực, chủ động, bền vững cần phòng bệnh hơn trị bệnh. Muốn phòng bệnh có hiệu quả cần phải giữ gìn vệ sinh. Vì thế, Hồ Chí Minh đã phát động một phong trào vệ sinh phòng bệnh rộng khắp, bền bỉ thường xuyên, mục đích là làm cho đồng bào hiểu rằng "muốn lao động sản xuất tốt thì phải giữ gìn sức khoẻ. Muốn giữ gìn sức khoẻ thì phải ǎn sạch, uống sạch, mặc sạch, ở sạch". Việc giữ gìn vệ sinh chung, tránh lây lan bệnh tật cần nhất là đối với đời sống tập thể, Hồ Chí Minh khuyên: "ǎn chung, ở chung, nếu có bệnh càng dễ lây cho nhau. Cho nên càng phải rất chú ý việc vệ sinh".
Để bảo vệ và tránh dịch bệnh, có thể đưa đến tổn thất to lớn, Hồ Chí Minh đề nghị toàn dân diệt muỗi. Bởi lẽ "Ruồi muỗi là bạn đồng minh của giai cấp bóc lột, nó gây ra nhiều bệnh tật, làm cho người ta ốm đau. Người ốm đau thì sức lao động bị giảm sút, công cuộc phát triển kinh tế và vǎn hoá bị hạn chế. Vì vậy, chúng ta phải ra sức tiêu diệt những kẻ địch độc ác là ruồi, muỗi, để tiêu diệt bệnh tật, bảo vệ sức khoẻ nhân dân". Hồ Chí Minh nhấn mạnh, "không nên cho việc diệt ruồi, muỗi là việc nhỏ, dễ làm mà sinh ra chủ quan, khinh địch" mà thực ra "hàng triệu cái nhỏ cộng lại thành cái to". Ruồi muỗi gây nên bệnh tật phải uống thuốc trị bệnh, đem đến "một số tổn thất khổng lồ, khó xác định. Mặt khác, việc diệt ruồi muỗi, ngoài ý nghĩa vệ sinh phòng bệnh, cao hơn thế còn có ý nghĩa chính trị nữa, có quan hệ kinh tế và vǎn hoá".
Hồ Chí Minh coi việc phòng bệnh và chống các loại dịch bệnh, nhất là những cǎn bệnh mang tính xã hội, dễ lây lan, là nhiệm vụ của tất cả cán bộ và toàn dân, chứ không phải chỉ riêng ngành y tế. Nó trực tiếp tác động đến sức khoẻ, đời sống toàn dân, một khi đã xảy ra thì khó khắc phục, gây tổn thất lớn về sức người, sức của. Phòng bệnh là cách trị bệnh từ xa, tốt nhất.
Để tǎng cường sức khoẻ, không chỉ cần có một tâm hồn lành mạnh, yêu cuộc sống, yêu thiên nhiên, yêu con người, mà còn phải hướng đến hoạt động thực tiễn, lao động sản xuất và tham gia thể thao, vǎn hoá tích cực. Hồ Chí Minh thường cǎn dặn nhân dân và các cháu thiếu niên, nhi đồng phải luôn luôn tập thể dục, rèn luyện sức khoẻ, coi đó như là bổn phận của mỗi người dân yêu nước, ai cũng có thể làm được, trong bất cứ hoàn cảnh nào. Ngoài ra, Hồ Chí Minh còn khuyên mọi người bỏ những tật xấu như uống rượu, vừa tốn tiền lại vừa có hại cho sức khoẻ.
2.Hồ Chí Minh đã xây dựng được một quan niệm nhất quán, khoa học, chuẩn xác về sức khoẻ, xác định đúng vai trò của nó trong quá trình phát triển đất nước. Người đã hiện thực hoá quan niệm của mình không chỉ ở tầm vĩ mô, thông qua các chính sách thực tiễn xã hội do mình khởi xướng, mà cả ở việc chǎm lo, bảo vệ sức khoẻ của cá nhân với tư cách một thành viên xã hội, một con người. ở đây, Hồ Chí Minh đã thực hiện trọn vẹn quan niệm của chính mình về sức khoẻ.
Đối với Hồ Chí Minh, mục đích của việc rèn luyện sức khoẻ là để phục vụ sự nghiệp đấu tranh cách mạng. Cuộc đời hoạt động cách mạng của Hồ Chí Minh đã phải trải qua những tháng nǎm đầy khó khǎn gian khổ, thử thách hy sinh, nhưng do chịu khó rèn luyện, Người đã có được một sức khoẻ dẻo dai, khả nǎng chịu đựng, thích ứng với mọi môi trường, vượt qua khó khǎn gian khổ của cuộc sống, của bệnh tật. Hơn ai hết, Hồ Chí Minh tiên liệu, hiểu biết và thấm thía rằng cuộc đời hoạt động cách mạng đầy rẫy những trở ngại, chông gai, cần phải có nghị lực, lý trí và sức lực để hoàn thành. Vì vậy, Hồ Chí Minh rất chú ý rèn luyện sức khoẻ, coi đó là một "tài sản" phải có của người cách mạng.
Sau ngày cách mạng thành công, ở Hồ Chí Minh, ý thức rèn luyện sức khoẻ gắn liền với ý thức và trách nhiệm công dân. Theo Hồ Chí Minh, mỗi một người dân, với tư cách là công dân của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà tự do, độc lập, khoẻ mạnh sẽ làm cho nước nhà khang kiện. Hồ Chí Minh cũng là một công dân, hơn thế lại là "công dân số 1", cho nên Người cố gắng rèn luyện, trau dồi để khoẻ mạnh về thể lực, phong phú về đời sống trí tuệ, tinh thần, đủ sức chèo lái con thuyền cách mạng Việt Nam qua bão tố, cập bến bờ vinh quang hạnh phúc.
Xuất phát từ truyền thống vǎn hoá phương Đông, "một tấm gương sống có ý nghĩa nhiều hơn những điều thuyết lý", bằng hành động thực tế, Hồ Chí Minh muốn lôi kéo toàn dân tham gia phong trào thể dục, thể thao, ích nước, lợi nhà "tự tôi, ngày nào tôi cũng tập". Với lời nói và việc thực hiện nghiêm túc trên thực tế lời nói đó, Hồ Chí Minh thật sự trở thành tấm gương sống. Nghiên cứu và tìm hiểu ý thức chǎm sóc, rèn luyện sức khoẻ của Hồ Chí Minh, chúng tôi thấy nổi lên những nét rất đáng chú ý, định hình rõ một phong cách - phong cách rèn luyện thân thể Hồ Chí Minh.
ở Người, quan niệm về sức khoẻ đã đạt đến một chu trình khép kín, bao gồm các yếu tố có quan hệ móc xích, phát triển tuần hoàn: từ nhận thức về sức khoẻ, vai trò của nó trong quá trình phát triển xã hội đến mục đích rèn luyện sức khoẻ và các phương pháp rèn luyện để duy trì, bồi dưỡng, hoàn thiện, bổ sung sức khoẻ. Chu trình tuần hoàn này vừa phản ánh đúng quy luật nhận thức, làm rõ rèn luyện thân thể như là một hoạt động hoàn toàn tự giác, vừa thể hiện nguyên tắc sống của lãnh tụ Hồ Chí Minh: lý luận gắn liền với thực tiễn; suy nghĩ gắn với hành động; bộc lộ qua hành động; nói đi đôi với làm. Xét riêng về phương pháp rèn luyện sức khoẻ, ở Hồ Chí Minh cũng đã có nhiều nội dung phong phú và hết sức cụ thể.
Một nét đặc trưng dễ thấy là Hồ Chí Minh luôn luôn hoà nhập với thiên nhiên, làm bạn với chim muông, cỏ cây, hoa lá, tìm cách thích nghi với điều kiện, hoàn cảnh sống để có sức khoẻ học tập, làm việc. Tính cách đó có từ thời còn nhỏ, khi tìm đường cứu nước và sau này khi lãnh đạo toàn dân kháng chiến, xây dựng Tổ quốc. Biết cách thích nghi, Hồ Chí Minh có khả nǎng chống chọi với mùa đông lạnh lẽo ở châu Âu, ở nước Nga, với điều kiện khắc nghiệt của nhà tù, thiếu thốn trong rừng núi. Chính đặc trưng rèn luyện, tạo cho cơ thể khả nǎng đề kháng cao, đã giúp Hồ Chí Minh có một sức chịu đựng bền bỉ, dẻo dai và đạt đến độ tuổi "cổ lai hy". Thêm vào đó, sự hoà nhập với thiên nhiên còn tạo cho lãnh tụ cảm quan nhạy bén, tinh thần sảng khoái, khám phá tự nhiên theo các giá trị "chân, thiện, mỹ", làm phong phú, đa dạng thêm đời sống nội tâm.
ở Hồ Chí Minh, có một phẩm chất đáng quý, đó là tính kiên trì, bền bỉ, luyện tập thường xuyên. Hồ Chí Minh quan niệm rèn luyện thân thể là một quá trình tự ý thức. Hằng ngày, trong bất cứ hoàn cảnh nào, Người cũng giữ được thói quen tập thể dục theo một thời khoá biểu xác định. Tập thể dục buổi sáng và rèn luyện sức khoẻ đã trở thành nếp sống hằng ngày của Hồ Chí Minh. Sau 30 nǎm đi tìm đường cứu nước và hoạt động ở nước ngoài (1911-1941), tháng 1-1941, Hồ Chí Minh trở về Tổ quốc. Bên hang lạnh hay lán Khuổi Nậm giữa rừng sâu Pắc Bó, một trong những việc làm đầu tiên của Người là chuẩn bị những điều kiện giản đơn và có hiệu quả cho việc rèn luyện sức khoẻ. Trong hoàn cảnh khó khǎn, lúc ở, lúc đi bất chợt, hoàn toàn không cố định, Hồ Chí Minh vẫn kiên trì đắp một cái nền đất giữa dòng suối Khuổi Nậm để đứng tập thể dục. Trước Cách mạng Tháng Tám, cuộc đời hoạt động cách mạng của Người gắn liền với những chuyến đi xa. ở nước ngoài thì bằng phương tiện cơ giới. Về gần thì chủ yếu đi bộ.
Có thể nói, thời gian thử thách quyết liệt nhất và sự rèn luyện thân thể, rèn luyện tinh thần kiên cường nhất trong cuộc đời hoạt động của Hồ Chí Minh là những nǎm tháng Người bị giam cầm trong nhà tù.
Trong nhà tù, Hồ Chí Minh bị giam ở một xà lim hẹp, ǎn hai bữa cơm gạo xay, thức ǎn chỉ có rau muống, mắm thối hoặc cá ươn; khi ngủ bị cùm chân, lấy giấy báo cũ làm chǎn, mỗi ngày đi bộ mấy chục cây số... Nhiều tháng trời như vậy, sức khoẻ của Người bị giảm sút, rǎng rụng, tóc bạc, ghẻ lở đầy mình. Nhưng Hồ Chí Minh đã vượt lên tất cả, ý thức rõ tự do trong tất yếu, chiến thắng cái chết, bệnh tật bằng nghị lực, bằng sự lạc quan và hy vọng vào ngày mai. Hồ Chí Minh đã biến nhà tù đế quốc thành nơi rèn luyện bản thân, mặc dù vật chất tuy đau khổ, nhưng tinh thần không nao núng, tai ương rèn luyện tinh thần càng thêm hǎng!
Sau hơn một nǎm (1942-1943) bị đoạ đày trong các nhà tù của chính quyền Tưởng Giới Thạch ở Quảng Tây (Trung Quốc), Hồ Chí Minh mới được trả tự do. Do chế độ lao tù hà khắc, bị gông cùm, cầm cố, đôi chân Hồ Chí Minh bị bại liệt, sức khoẻ bị giảm sút nhiều. Vì vậy, khi vừa được trả tự do (9-1943), Hồ Chí Minh đã kiên trì tập leo núi để rèn luyện đôi chân. Người tập trung vào việc luyện tập lấy lại sức khoẻ bình thường để có thể mau chóng trở về nước lãnh đạo cách mạng. Đầu tiên, Hồ Chí Minh tập đi, tập đứng. Công việc luyện tập cho thuần lại đôi chân của Người vô cùng khó khǎn gian khổ, đòi hỏi phải có ý chí, nghị lực và hết sức bền bỉ. Hồ Chí Minh tự đặt cho mình một chương trình khổ luyện. Ngày nào Người cũng tập, tập đi từng bước một và tập rất đều đặn. Mỗi ngày mức tập lại tǎng lên, tập đi thêm một quãng xa hơn. Ròng rã hàng tháng trời, cuối cùng Hồ Chí Minh đã thắng, Người đã "tái sinh" cho đôi chân của chính mình từ chỗ bị bại liệt tưởng chừng tàn phế, vô dụng, trở nên một đôi chân bình thường, hơn thế, một đôi chân khoẻ mạnh, dẻo dai như khi ở tuổi thanh niên.
Cùng với tập đi, thời gian này Người còn rèn luyện đôi mắt và tắm nước lạnh để tǎng cường sức chịu đựng. Những tháng cuối nǎm 1944, đầu nǎm 1945, do yêu cầu của công việc, bằng đôi chân đi bộ là chính, Hồ Chí Minh đã thực hiện một cuộc hành trình hàng nghìn cây số qua các chặng đường Liễu Châu - Cao Bằng - Côn Minh (Trung Quốc).
Sau Cách mạng Tháng Tám, việc nước như "ngàn cân treo sợi tóc", công việc càng thêm bộn bề và cǎng thẳng, nhưng Hồ Chí Minh vẫn giữ nền nếp rèn luyện sức khoẻ hằng ngày. Giờ giao thừa của Tết độc lập đầu tiên (1946), Hồ Chí Minh cải trang hoà vào dòng người đến thắp hương ở đền Ngọc Sơn (Hà Nội). Sáng sớm mồng một, Người vẫn dậy sớm tập thể dục, bắt đầu một ngày làm việc mới với rất nhiều cuộc gặp gỡ, tiếp xúc và những công việc cần giải quyết. Trên những chặng đường gian khổ cuối cùng của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, dù đã sang tuổi sáu mươi, Hồ Chí Minh vẫn có thể đi bộ 50, 60 cây số một ngày. Có lần, thấy Hồ Chí Minh mệt, anh em trong cơ quan đề nghị Người nằm cáng, Người nói: "Bác mệt thì các chú cũng mệt".
Trong những nǎm cuối đời, sức khoẻ giảm sút, nhưng Hồ Chí Minh vẫn kiên trì luyện tập để chống lại bệnh tật và khi miền Nam được giải phóng, thống nhất đất nước, Người có thể đến được với đồng bào, đồng chí ở miền Nam...
Thói quen vận động, duy trì nếp sống, kiên quyết theo đuổi mục đích, là phẩm chất đáng tôn trọng của người chiến sĩ cách mạng; còn ở Hồ Chí Minh đã trở thành nhu cầu sống: tập luyện cho cơ thể cường tráng, dẻo dai, khoẻ mạnh cũng như không khí, thức ǎn, nước uống hằng ngày. Có giữ được sức khoẻ mới đảm đương được công tác, làm việc sảng khoái, đạt hiệu quả cao. Từ nhu cầu cá nhân, rèn luyện sức khoẻ thường xuyên trở thành một chuẩn mực sống của người cán bộ nhà nước, đối với người đứng đầu Chính phủ thì điều đó càng trở nên cần thiết và bức xúc.
Trong rèn luyện sức khoẻ, Hồ Chí Minh đã kết hợp nhiều hình thức vận động, tập luyện phù hợp với điều kiện công tác, trạng thái sức khoẻ, tuổi tác và thể chất. Hồ Chí Minh không phải chỉ biết một hình thức vận động, luyện tập. Theo những người sống gần Người kể lại, Hồ Chí Minh vẫn dành thời gian chơi bóng chuyền, cờ vua, cờ tướng, luyện võ, thể dục dưỡng sinh... Đặc biệt, Người leo núi và đi bộ rất giỏi. Có lần Người kể, Bác đi công tác 40 - 50 km mỗi ngày là chuyện thường, lúc cần đi gấp, Bác có thể đi 60 - 70 km mỗi ngày. Không chịu khó rèn luyện, không thể đạt được một phong độ dẻo dai đến vậy!
Tuổi trẻ của Hồ Chí Minh không có điều kiện tập luyện có bài bản các môn thể thao. Khi nước nhà độc lập, mặc dù tuổi đã cao, Người vẫn luyện tập thể thao một cách say mê và nhiệt tình. Sau giờ làm việc, Hồ Chí Minh đi câu cá, làm vườn. Lao động chân tay đối với Người không chỉ để thư giãn, để rèn luyện sức khoẻ mà còn có ý nghĩa thiết thực, vì công việc để cải thiện sinh hoạt, tạo tính tự lập trong cuộc sống. Không có gì ngạc nhiên khi thấy Hồ Chí Minh biết tát nước gàu sòng, lội ruộng bùn như một nông dân thực thụ...Hồ Chí Minh tranh thủ rèn luyện khả nǎng lao động cả trong lúc làm việc.
Việc kết hợp và đa dạng các hình thức vận động không đem đến sự lặp lại nhàm chán và mỗi một hình thức đem đến khả nǎng rèn luyện một chức nǎng riêng như nghe, nhìn, phán đoán, ghi nhớ, v.v..Vì thế sau này, khi tuổi tác đã cao, sức yếu nhưng mọi động tác của Hồ Chí Minh vẫn minh mẫn, linh hoạt và chính xác.
Bên cạnh đi nhiều, áp dụng nhiều hình thức rèn luyện thể chất, Hồ Chí Minh còn hết sức chú ý rèn luyện tâm hồn, đời sống trí tuệ, tình cảm. Đây cũng là một nét đáng chú ý khác của lãnh tụ. Điều đó tạo cho Người có một đời sống tâm hồn phong phú, lạc quan, yêu đời, ung dung tự tại, tin tưởng ở sức mình.
Những phẩm chất này một phần do thiên tính, tư chất bẩm sinh, nhưng phần cơ bản là do được rèn dũa, tôi luyện trong trường đời phức tạp, đan xen mâu thuẫn mới đạt đến đỉnh cao, trở thành một tính cách ổn định. Phong cách sống ung dung, tự tại, lạc quan, tin tưởng... được Hồ Chí Minh tổng kết trong bài thơ Sáu mươi ba tuổi, viết vào nǎm 1953:
"Chưa nǎm mươi tuổi đã kêu già
Sáu ba, mình nghĩ vẫn là đương trai
Sống quen thanh đạm nhẹ người
Việc làm tháng rộng ngày dài ung dung".
Với quan niệm này, Hồ Chí Minh đã vượt qua các giới hạn về tuổi tác, không sợ tuổi già như là quy luật của tự nhiên, ung dung, thanh thản đi giữa cuộc đời!
ở Hồ Chí Minh, rèn luyện thân thể gắn với một đời sống cá nhân điều độ, có chừng mực, sạch sẽ, ngǎn nắp, hợp vệ sinh. Suốt đời, Người giữ một nếp sống thanh đạm, hết sức thanh tao. Những lúc cách mạng gặp khó khǎn, thức ǎn chủ yếu của Người chỉ có cháo bẹ (ngô), canh mǎng. Về Hà Nội, Người cũng vẫn thích ǎn cơm với cá kho, dưa cà. Đi công tác trong nước, Hồ Chí Minh thường có cơm nắm mang theo. Cuộc sống cá nhân của Hồ Chí Minh bình dị, đơn sơ đến mức trở thành huyền thoại!
Theo Hồ Chí Minh, ǎn, ngủ, sinh hoạt hợp vệ sinh cũng là một khoa học và nghệ thuật cần phải học, tìm hiểu và hướng dẫn cho nhân dân. Chính những yếu tố tưởng chừng như vụn vặt này lại có ảnh hưởng rất lớn đến sức khoẻ, kéo dài tuổi thọ, tạo nên cảm giác thoải mái, dễ chịu. Khi ốm đau, hoạ hoằn Người mới dùng đến thuốc trị bệnh, bởi lẽ nó có thể trở thành thói quen, giảm khả nǎng đề kháng của cơ thể.
Phong cách giữ gìn sức khoẻ, rèn luyện thân thể của Hồ Chí Minh đã trở thành một chuẩn mực sống, ảnh hưởng sâu rộng đến phong trào rèn luyện, chǎm sóc sức khoẻ của toàn dân. Khắp nơi trên miền Bắc, từ thành thị đến nông thôn, từ trường học, cơ sở nghiên cứu, các nhà máy đến các khu tập thể dân cư, trong những nǎm 50, 60 đã dấy lên một phong trào rèn luyện sức khoẻ theo phương châm: khoẻ để lao động, chiến đấu và học tập; khoẻ để xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Phong trào tập thể dục buổi sáng, thể dục giữa giờ, nhất là trong thanh thiếu niên, học sinh, hình thành từ đây. Rèn luyện sức khoẻ trở thành một phong trào quần chúng sâu rộng, đem lại hiệu quả thiết thực, phù hợp với lợi ích phòng, chống bệnh tật, bồi bổ sức khoẻ của đông đảo quần chúng lao động. Chính từ trong phong trào này, nhiều tài nǎng thể thao xuất hiện, đại diện cho ý chí luyện tập và đỉnh cao thể chất của con người Việt Nam.
Trong sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, khi mà sự phát triển nguồn lực con người được đặt ở vị trí trung tâm trong chiến lược kinh tế, vǎn hoá, xã hội thì tấm gương tự rèn luyện sức khoẻ của Hồ Chí Minh vẫn còn nóng hổi tính thời sự và cho phép rút ra nhiều bài học bổ ích. Trong đó, đáng chú ý là các bài học sau đây:
1. Giữ vững niềm tin vào cuộc sống, đặc biệt trong những lúc khó khǎn, gian khổ, khi sự sống bị đe doạ.
2. Rèn luyện tác phong làm việc khoa học, nền nếp, giờ nào việc nấy, chương trình kế hoạch đề ra phải được thực hiện.
3. Rèn luyện tính tự lập và ý thức tự giác trong bảo vệ sức khoẻ.
4. Cần có nghị lực để làm chủ bản thân mình, ngay cả đối với những công việc đơn giản trong cuộc sống đời thường.
5. Thường xuyên chǎm lo đến đời sống vật chất và tinh thần, kết hợp hài hoà yếu tố xã hội và môi trường tự nhiên.
Thực tiễn hoạt động và đời sống sinh hoạt của Chủ tịch Hồ Chí Minh chẳng những là phương thức thể hiện quan niệm sống của Người, hiện thực hoá và làm sinh động các quan điểm lý luận, mà trong nhiều trường hợp đã góp phần làm phong phú, hoàn thiện và bổ sung nhiều nội dung mới vào quan niệm đó.
Việc nghiên cứu tư tưởng, lý luận của Hồ Chí Minh trong đó có quan điểm về y tế, về sức khoẻ không chỉ cǎn cứ vào những tác phẩm, những bài viết, bài nói mà cần xuất phát từ cuộc sống đời thường và việc làm hằng ngày của Người. Trong hoạt động cách mạng, trong lĩnh vực y tế, cũng như trong cuộc sống hằng ngày, Hồ Chí Minh luôn có ý thức thực hiện đầy đủ những ý đồ tư tưởng do mình đề ra. Đây là một nguyên tắc phương pháp luận cần tuân thủ khi nghiên cứu, học tập, vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh nói chung, tư tưởng của Người về y tế nói riêng.