Về xây dựng chiến lược phát triển khoa học công nghệ ngành công nghiệp đến nǎm 2000, 2020; xây dựng lộ trình công nghệ đến nǎm 2005, 2010

Đặng Ngọc Tùng

Nghị quyết Hội nghị lần thứ hai Ban Chấp hành Trung ương Đảng khoá VIII đã định hướng phát triển khoa học công nghệ trong thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá, nhằm thực hiện thành công mục tiêu đến nǎm 2020, nước ta cơ bản trở thành nước công nghiệp. Nghị quyết khẳng định khoa học công nghệ phải trở thành nền tảng và động lực cho công nghiệp hoá và hiện đại hoá đất nước. 

Một trong những nội dung quan trọng của Chương trình hành động của Bộ Công nghiệp thực hiện Nghị quyết Hội nghị lần thứ hai Ban Chấp hành Trung ương khoá VIII là công tác xây dựng Chiến lược phát triển Khoa học công nghệ ngành Công nghiệp đến nǎm 2010, 2020, xây dựng lộ trình công nghệ đến nǎm 2005, 2010. 

Chiến lược phát triển Khoa học công nghệ phải được hội nhập, gắn kết trong chiến lược phát triển kinh tế - xã hội, đồng thời là tiền đề, là động lực cho chiến lược phát triển kinh tế - xã hội. Chiến lược Khoa học công nghệ được thực hiện song song với chiến lược phát triển kinh tế - xã hội và tác động thúc đẩy thực hiện các nội dung chiến lược phát triển kinh tế - xã hội. 

Chiến lược phát triển Khoa học công nghệ, lộ trình công nghệ được xây dựng trên cơ sở nhìn nhận, phân tích đánh giá tình hình và xu thế phát triển kinh tế - xã hội của đất nước, hình thái hoạt động và chiến lược, quy hoạch phát triển sản xuất kinh doanh, trình độ, tình trạng và động thái phát triển công nghệ của toàn ngành Công nghiệp và các ngành sản xuất công nghiệp. 

Trong xu thế toàn cầu hoá, khu vực hoá về hoạt động kinh tế, hoạt động thương mại, hoạt động Khoa học công nghệ, chiến lược phát triển khoa học công nghệ, lộ trình công nghệ cần khai thác yếu tố kết hợp có hiệu quả giữa tranh thủ hợp tác quốc tế, tiếp nhận khoa học công nghệ tiên tiến, hiện đại với tǎng cường phát huy nội lực nắm vững, làm chủ công nghệ nhập, tạp công nghệ nội sinh. Chú trọng gắn lộ trình phát triển, đổi mới công nghệ với tiến trình hội nhập khu vực, hội nhập thế giới. 

Xây dựng chiến lược phát triển khoa học và lộ trình công nghệ là công việc có nội dung rất phong phí, xử lý quan hệ nhiều yếu tố, quan hệ đa hướng. 

Đối với các ngành sản xuất kinh doanh hàng hoá công nghiệp, trong quá trình cây dựng lộ trình công nghệ, chú trọng lựa chọn hợp lý các công nghệ chủ yếu - công nghệ then chốt, các sản xuất chủ yếu - sản phẩm chiến lược. Đó là các sản xuất công nghiệp yêu cầu tính cạnh tranh cao, các sản phẩm nhạy cảm với hội nhập, đáp ứng yêu cầu gia nhập thị trường thương mại tự do khu vực và thế giới; đó là các sản phẩm, các công nghệ ảnh hưởng trực tiếp đến sự phát triển công nghệ của nhiều ngành khác nhau, như công nghệ thông tin, công nghệ vật liệu, công nghệ sinh học, công nghệ tự động hoá, cơ khí chế tạo, công nghệ chuyển hoá, sử dụng nǎng lượng... 

Trong xây dựng lộ trình công nghệ, cần lưu ý giải quyết hợp lý quan hệ giữa việc đi thẳng vào công nghệ hiện đại, tiên tiến với việc đổi mới công nghệ từng phần, từng bước. Đối với một số ngành công nghiệp cụ thể, thực hiện phương án phân tầng công nghệ để kết hợp việc đổi mới hiện đại hoá công nghệ với việc sử dụng hợp lý công nghệ truyền thống, công nghệ thích hợp, khai thác triệt để và hiệu quả công nghệ hiện có. 

Chú ý đúng mức đến kế hoạch, chương trình phát triển công nghệ cao, đồng thời, lộ trình công nghệ tập trung một mũi nhọn quan trọng giải quyết nhiệm vụ phát triển công nghệ phục vụ chương trình đồng bộ cho công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn, thu hút sự tham gia tích cực, đồng bộ của các Bộ, các ngành, các địa phương. 

Trong xây dựng chiến lược phát triển khoa học công nghệ và lộ trình công nghệ, chú ý đúng mức đến nội dung phát triển nǎng lực nội sinh, phát triển tiềm lực khoa học công nghệ, trong đó một yếu tố quan trọng là tǎng cường đào tạo, xây dựng và phát triển đội ngũ khoa học công nghệ, thực hiện hữu hiệu nhiệm vụ tiếp nhận, chuyển giao công nghệ, làm chủ công nghệ mới, công nghệ tiên tiến, hiện đại, đặc biệt công nghệ cao sử dụng trong sản xuất, phát triển ngành công nghiệp như công nghệ vật liệu, công nghệ điện tử - tin học - viễn thông, công nghệ tự động hoá, công nghệ sinh học. Phát huy nội lực, kết hợp với thúc đẩy hợp tác, hội nhập, tạo công nghệ nội sinh. 

Xây dựng một chiến lược phát triển khoa học công nghệ, một lộ trình công nghệ hợp lý chính là giải quyết hợp lý, có hiệu quả việc phát huy vai trò của Nhà nước thông qua đầu tư phát triển công nghệ, tác động chính sách, điều tiết tích cực, có hiệu quả, kết hợp tốt viết khai thác các yếu tố tích cực trong việc vận dụng quy luật kinh tế thị trường, nhằm tạo được nhu cầu, thị trường cho công nghệ, tạo động lực thúc đẩy phát triển khoa học công nghệ. 

Nhờ nguồn viện trợ to lớn và kịp thời từ các nước xã hội chủ nghĩa anh em, công cuộc khôi phục kinh tế, phát triển vǎn hoá - xã hội ở nước ta đã nhanh chóng đạt được những thành tựu to lớn và toàn diện, điều đó có ý nghĩa quan trọng trong cuộc đối đầu với đế quốc Mỹ sau này. 

Bài học rút ra ở đây là: ngoại giao và hợp tác quốc tế được xem như một giải pháp quan trọng và hữu hiệu để giải quyết các vấn đề kinh tế. Trong đó có thể thấy đường lối ngoại giao "có trọng tâm" đã phát huy hết hiệu quả. 

Tình hình khách quan và chủ quan hiện nay đã khác với hoàn cảnh những nǎm cuối thập niên nǎm mươi, dù vậy, vấn đề hợp tác có trọng tâm, trọng điểm, trên cơ sở nắm chắc các thông số mới nhất (mục tiêu chính trị, kinh tế, kỹ thuật) của đối tác để biết được ý đồ của họ và khả nǎng hiệu quả hợp tác vẫn còn nguyên ý nghĩa. Điều đó cũng có nghĩa là sẽ tránh được nguy cơ trở thành thị trường tiêu thụ hàng hoá ế thừa, "bãi thải của các công nghệ lạc hậu, đồng thời có điều kiện tiêu thụ những thành tựu mới nhất về khoa học công nghệ, thúc đẩy quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá nhanh chóng hơn, hiệu quả hơn. 

Thứ hai, trong khi mở rộng quan hệ ngoại giao, thông qua đó tǎng cường hợp tác quốc tế song phương và đa phương để tạo ra nguồn lực phát triển đất nước, phải chủ động về đường lối đối ngoại, không lệ thuộc hoặc chịu sức ép từ các hợp đồng kinh tế, hay viện trợ vật chất, không dao động, từ bỏ mục tiêu chính trị ban đầu. Trong vấn đề này, Hồ Chí Minh là một tấm gương tiêu biểu về sự thuỷ chung nhất quán, nhưng rất kiên quyết và khôn khéo để giải quyết các bất đồng chính trị thông qua đối thoại, đàm phán tách rời sức ép chính trị khỏi viện trợ kinh tế. 

Nhìn lại lịch sử trong những nǎm đầu của thập niên sáu mươi, đế quốc Mỹ ngày càng gia tǎng sức ép quân sự trên chiến trường miền Nam và đe doạ ném bom bắn phá miền Bắc, trong khi đó bất đồng Xô - Trung ngày càng sâu sắc. Có thể nói lúc này nhân dân Việt Nam không tránh được áp lực tác động từ cả ba phía Mỹ - Xô - Trung 

Trước sức ép từ nhiều hướng, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ đạo tháo gỡ theo phương châm kiên trì đường lối ngoại giao mềm mỏng, nhưng kiên quyết giữ vững lập trường chính trị, không sa vào tư tưởng tả khuynh biệt lập, chia rẽ bè phái, tách ra khỏi phong trào cộng sản và công nhân quốc tế. Mặt khác giương cao ngọn cờ đoàn kết, chủ động dàn xếp mối bất động Xô - Trung, thông qua con đường ngoại giao mà thẳng thắn bày tỏ quan điểm của mình. Hồ Chí Minh khẳng định Đảng Lao động Việt Nam không bao giờ lại tự tách mình với các Đảng anh em, Đảng lấy toàn bộ thực tiễn của mình để chứng minh rằng chủ nghĩa yêu nước triệt để không thể nào tách với chủ nghĩa quốc tế vô sản. Người cũng thường xuyên theo dõi, chỉ đạo các cơ quan tuyên truyền của ta không tham gia vào việc phê phán hay đả kích cuộc đấu tranh trong Đảng Cộng sản Liên Xô (Trung Quốc coi đó là hành động của chủ nghĩa xét lại của những phần tử Sa hoàng mới), chỉ xem đây là công việc nội bộ của họ. 

Thực tiễn lịch sử cho thấy tư tưởng chỉ đạo của Hồ Chí Minh là cực kỳ sáng suốt, "thấu tình, đạt lý", vì thế mặc dù mâu thuẫn Trung - Xô không hề giảm bớt, nhưng Việt Nam vẫn tranh thủ được sự giúp đỡ của Chính phủ cũng như nhận định được sự đồng tình ủng hộ của nhân dân hai nước Trung - Xô. 

Bài học kinh nghiệm nhìn thấy ở đây là: trong bất kỳ tình huống nào cũng không được dao động, không ham lợi kinh tế mà từ bỏ mục tiêu chính trị là lập trường có tính nguyên tắc của chủ nghĩa Mác - Lênin. 

Hiện nay, khủng hoảng kinh tế khu vực và thế giới đang có tác động mạnh mẽ đến nền kinh tế và đời sống của nhân dân ta. Công cuộc công nghiệp hoá, hiện đại hoá cũng chịu nhiều ảnh hưởng từ hậu quả của cuộc khủng hoảng mang tính toàn cầu này, do đó nảy sinh mâu thuẫn, khó khǎn mới cả về tiến độ lẫn chất lượng. Nhưng không phải vì thế mà chúng ta dễ dàng chấp nhận những điều kiện có lợi về kinh tế nhưng lại xa dời mục tiêu chính trị là xây dựng đất nước tiến lên chủ nghĩa xã hội. Cho dù đó là sức ép của EU (Cộng đồng châu âu) hay IMF (Quỹ tiền tệ quốc tế)..., chúng ta cũng không được đi ra ngoài quỹ đạo phát triển của chủ nghĩa xã hội vì mục tiêu phấn đấu xây dựng một xã hội: "Công bằng, vǎn minh, ngày càng giàu đẹp". Hơn nữa, bài học mới đây cho thấy một số nước do muốn nhanh chóng khắc phục khủng hoảng, đã chấp nhận những yêu cầu bất hợp lý của IMF, hậu quả là sự đổ vỡ không giảm bớt mà lại có phần nghiêm trọng hơn cả về kinh tế lẫn chính trị. Phải chǎng đó cũng là bài học đối với Việt Nam. 

Thứ ba, phát huy tiềm nǎng sức mạnh của đường lối ngoại giao nhân dân làm tǎng hiệu quả của hợp tác quốc tế, tạo lực từ nhiều nguồn để thúc đẩy sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá. 

Một đặc điểm lớn của nền ngoại giao Việt Nam là ngoại giao nhân dân. Trong cuộc chiến tranh chống Pháp cũng như trong cuộc chiến tranh chống đế quốc Mỹ xâm lược, thế mạnh của ngoại giao nhân dân đã tỏ rõ sức mạnh đặc biệt của mình, tạo ra các phong trào đấu tranh ủng hộ Việt Nam trên phạm vi thế giới, đó cũng là biểu hiện sáng tạo nhất trong tư tưởng ngoại giao Hồ Chí Minh. 

Dưới sự lãnh đạo của Người, ngoại giao nhân dân là vũ khí sắc bén góp phần làm thất bại cuộc chiến tranh tổng lực của kẻ thù, làm nản lòng kẻ xâm lược, buộc chúng phải xuống thang từng bước để rồi đi đến chấm dứt chiến tranh. Ngoại giao nhân dân không những nâng cao vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế, mà còn tranh thủ được sự đoạn kết giúp đỡ của nhân dân thế giới ủng hộ Việt Nam, vì sự nghiệp củng cố hoà bình trên toàn thế giới. Trong Di chúc của mình, Chủ tịch Hồ Chí Minh viết đến ngày thắng lợi: "Tôi sẽ thay mặt nhân dân ta đi thǎm và cảm ơn các nước trong phe xã hội chủ nghĩa và bầu bạn khắp nǎm châu đã tận tình ủng hộ và giúp đỡ cuộc chống Mỹ cứu nước của nhân dân ta" 1. Điều đó thể hiện sự ghi nhận và đánh giá cao của Hồ Chí Minh đối với các tổ chức chính trị, các đoàn thể quần chúng và nhân dân tiến bộ, yêu chuộng hoà bình trên toàn thế giới, đồng thời tỏ rõ sự quan tâm chú ý của Người đến hình thức ngoại giao này. 

Sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở nước ta hiện nay đòi hỏi sự đầu tư, giúp đỡ, hợp tác từ nhiều nguồn, của nhiều tổ chức, chính phủ và phi chính phủ , ở nhiều cấp độ cả vừa và nhỏ, cả công nghiệp lẫn nông nghiệp, khoa học, vǎn hoá, giáo dục... Nếu chúng ta biết vận dụng bài học ngoại giao nhân dân theo tư tưởng Hồ Chí Minh một cách sáng tạo, chủ động thì không những tranh thủ được nguồn đầu tư, tài trợ trực tiếp đáng kể vào tất cả các ngành kinh tế nước ta, mà còn nâng cao vị thế Việt Nam trên trường quốc tế. 

Ngoại giao nhân dân phối hợp với ngoại giao nhà nước thiết lập cầu nối với nhân dân các dân tộc trong đó có cả các nước vốn là thù địch trước đay, từng bước xoá đi sự thù hằn, "khép lại quá khứ, nhìn về tương lai, làm thất bại âm mưu bao vây, cấm vận kinh tế, làm phá sản kế hoạch "diễn biến hoà bình" của kẻ địch. 

Ngoại giao nhân dân còn hướng vào việc tranh thủ viện trợ nhân dân thông qua các tổ chức nhân đạo quốc tế để giải quyết các vấn đề xã hội, thông qua viện trợ phát triển các dự án vừa và nhỏ về sản xuất, y tế, giáo dục, xây dựng nền tảng vững chắc cho công cuộc đổi mới, tạo tiền đề thuận lợi cho công nghiệp hoá, hiện đại hoá. 

Những quan điểm, tư tưởng về việc tạo nguồn lực từ sự hợp tác quốc tế cho công cuộc công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước theo tư tưởng ngoại giao Hồ Chí Minh, sẽ được vận dụng, nghiên cứu nhằm thúc đẩy quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá đúng hướng và hiệu quả. 

Về xây dựng chiến lược phát triển khoa học công nghệ ngành công nghiệp đến nǎm 2010, 2020; xây dựng lộ trình công nghệ đến nǎm 2005, 2010. 

Nghị quyết Hội nghị lần thứ hai Ban Chấp hành Trung ương Đảng khoá VIII đã định hướng phát triển khoa học công nghệ trong thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá, nhằm thực hiện thành công mục tiêu đến nǎm 2020, nước ta cơ bản trở thành nước công nghiệp. Nghị quyết khẳng định khoa học công nghệ phải trở thành nền tảng và động lực cho công nghiệp hoá và hiện đại hoá đất nước. 

Một trong những nội dung quan trọng của Chương trình hành động của Bộ Công nghiệp thực hiện Nghị quyết Hội nghị lần thứ hai Ban Chấp hành Trung ương khoá VIII là công tác xây dựng Chiến lược phát triển Khoa học công nghệ ngành Công nghiệp đến nǎm 2010, 2020, xây dựng lộ trình công nghệ đến nǎm 2005, 2010. 

Chiến lược phát triển Khoa học công nghệ phải được hội nhập, gắn kết trong chiến lược phát triển kinh tế - xã hội, đồng thời là tiền đề, là động lực cho chiến lược phát triển kinh tế - xã hội. Chiến lược Khoa học công nghệ được thực hiện song song với chiến lược phát triển kinh tế - xã hội và tác động thúc đẩy thực hiện các nội dung chiến lược phát triển kinh tế - xã hội. 

Chiến lược phát triển Khoa học công nghệ, lộ trình công nghệ được xây dựng trên cơ sở nhìn nhận, phân tích đánh giá tình hình và xu thế phát triển kinh tế - xã hội của đất nước, hình thái hoạt động và chiến lược, quy hoạch phát triển sản xuất kinh doanh, trình độ, tình trạng và động thái phát triển công nghệ của toàn ngành Công nghiệp và các ngành sản xuất công nghiệp. 

Trong xu thế toàn cầu hoá, khu vực hoá về hoạt động kinh tế, hoạt động thương mại, hoạt động Khoa học công nghệ, chiến lược phát triển khoa học công nghệ, lộ trình công nghệ cần khai thác yếu tố kết hợp có hiệu quả giữa tranh thủ hợp tác quốc tế, tiếp nhận khoa học công nghệ tiên tiến, hiện đại với tǎng cường phát huy nội lực nắm vững, làm chủ công nghệ nhập, tạp công nghệ nội sinh. Chú trọng gắn lộ trình phát triển, đổi mới công nghệ với tiến trình hội nhập khu vực, hội nhập thế giới. 

Xây dựng chiến lược phát triển khoa học và lộ trình công nghệ là công việc có nội dung rất phong phí, xử lý quan hệ nhiều yếu tố, quan hệ đa hướng. 

Đối với các ngành sản xuất kinh doanh hàng hoá công nghiệp, trong quá trình cây dựng lộ trình công nghệ, chú trọng lựa chọn hợp lý các công nghệ chủ yếu - công nghệ then chốt, các sản xuất chủ yếu - sản phẩm chiến lược. Đó là các sản xuất công nghiệp yêu cầu tính cạnh tranh cao, các sản phẩm nhạy cảm với hội nhập, đáp ứng yêu cầu gia nhập thị trường thương mại tự do khu vực và thế giới; đó là các sản phẩm, các công nghệ ảnh hưởng trực tiếp đến sự phát triển công nghệ của nhiều ngành khác nhau, như công nghệ thông tin, công nghệ vật liệu, công nghệ sinh học, công nghệ tự động hoá, cơ khí chế tạo, công nghệ chuyển hoá, sử dụng nǎng lượng... 

Trong xây dựng lộ trình công nghệ, cần lưu ý giải quyết hợp lý quan hệ giữa việc đi thẳng vào công nghệ hiện đại, tiên tiến với việc đổi mới công nghệ từng phần, từng bước. Đối với một số ngành công nghiệp cụ thể, thực hiện phương án phân tầng công nghệ để kết hợp việc đổi mới hiện đại hoá công nghệ với việc sử dụng hợp lý công nghệ truyền thống, công nghệ thích hợp, khai thác triệt để và hiệu quả công nghệ hiện có. 

Chú ý đúng mức đến kế hoạch, chương trình phát triển công nghệ cao, đồng thời, lộ trình công nghệ tập trung một mũi nhọn quan trọng giải quyết nhiệm vụ phát triển công nghệ phục vụ chương trình đồng bộ cho công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn, thu hút sự tham gia tích cực, đồng bộ của các Bộ, các ngành, các địa phương. 

Trong xây dựng chiến lược phát triển khoa học công nghệ và lộ trình công nghệ, chú ý đúng mức đến nội dung phát triển nǎng lực nội sinh, phát triển tiềm lực khoa học công nghệ, trong đó một yếu tố quan trọng là tǎng cường đào tạo, xây dựng và phát triển đội ngũ khoa học công nghệ, thực hiện hữu hiệu nhiệm vụ tiếp nhận, chuyển giao công nghệ, làm chủ công nghệ mới, công nghệ tiên tiến, hiện đại, đặc biệt công nghệ cao sử dụng trong sản xuất, phát triển ngành công nghiệp như công nghệ vật liệu, công nghệ điện tử - tin học - viễn thông, công nghệ tự động hoá, công nghệ sinh học. Phát huy nội lực, kết hợp với thúc đẩy hợp tác, hội nhập, tạo công nghệ nội sinh. 

Xây dựng một chiến lược phát triển khoa học công nghệ, một lộ trình công nghệ hợp lý chính là giải quyết hợp lý, có hiệu quả việc phát huy vai trò của Nhà nước thông qua đầu tư phát triển công nghệ, tác động chính sách, điều tiết tích cực, có hiệu quả, kết hợp tốt viết khai thác các yếu tố tích cực trong việc vận dụng quy luật kinh tế thị trường, nhằm tạo được nhu cầu, thị trường cho công nghệ, tạo động lực thúc đẩy phát triển khoa học công nghệ. 

Chiến lược phát triển khoa học công nghệ và lộ trình công nghệ ngành Công nghiệp được xây dựng ở các cấp độ, quy mô khác nhau: cấp quốc gia, cấp vùng lãnh thổ địa phương, cấp ngành, cấp cơ sở. Đó là các đề án của doanh nghiệp - các Công ty, Tổng Công ty - của ngành kinh tế - kỹ thuật, ngành công nghệ, của các địa phương, của toàn ngành công nghiệp; giữa các đề án này có quan hệ tương thích và hội nhập chặt chẽ, lôgích. 

Xây dựng chiến lược khoa học công nghệ và lộ trình công nghệ là công việc của các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh, của các chuyên gia và tổ chức tư vấn khoa học công nghệ, các cơ quan quản lý khoa học công nghệ, quản lý kinh tế - xã hội. Nếu đặt đúng vị trí của công nghệ trong hoạt động sản xuất kinh doanh của các Tổng Công ty, thì việc xây dựng lộ trình công nghệ chính là hoạt động quản lý công nghệ, quản lý sản xuất kinh doanh của Tổng Công ty. Xây dựng lộ trình công nghệ cho ngành Công nghiệp, cho doanh nghiệp, phải quán triệt và thực hiện phương châm: trong hoạt động công nghiệp, phát triển công nghệ chủ yếu và trước hết do doanh nghiệp, vì doanh nghiệp, từ doanh nghiệp và trở về với doanh nghiệp, tạo cho doanh nghiệp phát triển ổn định và bền vững. 

Để có cǎn cứ xây dựng nội dung chiến lược khoa học công nghệ và lộ trình công nghệ và Công nghiệp, cần tập hợp tổng quan hiện trạng, quy hoạch phát triển kinh tế các chuyên ngành, điều tra, khảo sát, đánh giá trình độ, hiện trạng công nghệ, đặc biệt các công nghệ then chốt sản xuất các mặt hàng chiến lược, mặt hàng chủ yếu, mặt hàng nhạy cảm đối với cạnh tranh trên thị trường. Cần khảo sát, đánh giá đúng thực trạng ảnh hưởng công nghệ đến hiệu suất, chất lượng sản phẩm hàng hoá công nghiệp, đến hiệu quả sử dụng nǎng lượng, tài nguyên thiên nhiên, đến môi trường, môi sinh trong sản xuất công nghiệp. 

Cần phải tập hợp, phân tích hiện trạng và dự báo, chuẩn đoán xu thế phát triển công nghệ các nước trong khu vực và trên thế giới; phân tích, nhận dạng thị trường công nghệ, thị trường hàng hoá công nghiệp Việt Nam và khu vực ở các nǎm 2000, 2005...; cần phân tích, đánh giá điều kiện, nhu cầu, và nǎng lực của ta tiếp cận với khu vực và thế giới về chuyển giao công nghệ, đổi mới công nghệ, về sản xuất các sản phẩm hàng hoá cạnh tranh. 

Trong nội dung xây dựng lộ trình công nghệ, cần tập hợp, phân tích, xác định cụ thể, định lượng hoặc có tính định lượng đối với từng Tổng Công ty, từng chuyên ngành sản xuất công nghiệp, toàn ngành công nghiệp về các nội dung như: 

- Hình thái hoạt động, trình độ, nǎng lực công nghệ, khả nǎng tiếp nhận chuyển giao công nghệ, phát triển công nghệ; 

- Nhận dạng thị trường nội địa, thị trường khu vực và thế giới về cung cấp và tiêu thụ, về cạnh tranh giá, chất lượng sản phẩm... 

- Lựa chọn công nghệ then chốt, lựa chọn sản phẩm chủ yếu, sản phẩm chiến lược, sản phẩm cần và có thể cạnh tranh, sản phẩm nhạy cảm với cạnh tranh không khu vực và trên thế giới. 

- Điều kiện và khả nǎng lựa chọn công nghệ; loại hình, nội dung, phương thức tiếp nhận và tạo công nghệ mới; 

- Hoạch định nội dung, lịch trình và nguồn lực cần đầu tư cho các hoạt động phát triển, đổi mới công nghệ để phát triển sản xuất công nghiệp, tạo nǎng lực cạnh tranh cao cho các sản phẩm chiến lược đã chọn, hướng vào thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế, đáp ứng các yêu cầu của công nghiệp hoá, hiện đại hoá đối với phát triển khoa học công nghệ ngành Công nghiệp. 

- Những giải pháp chủ yếu cần thiết đảm bảo tính khả thi của lịch bản lộ trình công nghệ. Cần được thể hiện là một lộ trình đúng, hợp lý, một lộ trình mở, có độ thích nghi, tính hiệu quả và khả dụng cao. 

Để thực hiện có kết quả Chiến lược phát triển khoa học công nghệ và lộ trình công nghệ ngành Công nghiệp, cần xây dựng hệ thống các chính sách và các biện pháp có tính chính sách để thúc đẩy phát triển, đổi mới công nghệ trong sản xuất công nghiệp. Chú trọng các chính sách: 

- Khuyến khích, hỗ trợ tạo điều kiện tiếp nhận chuyển giao, ứng dụng công nghệ mới, tiên tiến, hiện đại, sản xuất hàng hoá công nghiệp chất lượng cao; thúc đẩy nghiên cứu ứng dụng, làm chủ và sáng tạo công nghệ mới, hiện đại, ứng dụng công nghệ sạch, công nghệ kiểm soát và bảo vệ môi trường; 

- Khuyến khích ứng dụng công nghệ cao trong sản xuất công nghiệp; 

- Khuyến khích phát triển công nghệ phục vụ nông nghiệp, phát triển kinh tế - xã hội nông thôn, phục vụ công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông thôn; 

- Khuyến khích tǎng cường phát triển nǎng lực khoa học công nghệ: Đào tạo, phát triển nguồn nhân lực hoạt động R&D, tǎng cường hiệu quả hoạt động các loại hình dịch vụ tư vấn khoa học công nghệ, khuyến khích phát triển hợp tác quốc tế khoa học công nghệ trong lĩnh vực phát triển công nghiệp; 

- Khuyến khích hỗ trợ đầu tư trong nước và đầu tư nước ngoài phát triển công nghệ, khuyến khích nhập công nghệ tiên tiến từ nước ngoài, tạo công nghệ nội sinh. 

Trên cơ sở kết quả xây dựng Chiến lược phát triển khoa học công nghệ và lộ trình công nghệ ngành Công nghiệp, các đề xuất chính sách, các biện pháp có tính chính sách, cần xây dựng một kế hoạch, một Chương trình hành động cụ thể về phát triển khoa học công nghệ, phát triển, đổi mới công nghệ cho các doanh nghiệp, cho các chuyên ngành sản xuất công nghiệp cho toàn ngành Công nghiệp và hội nhập nó trong Kế hoạch hành động quốc gia về phát triển khoa học công nghệ, trong sự phát triển kinh tế - xã hội toàn đất nước.

NXB. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2000

Phản hồi

Thông tin người gửi phản hồi

Các tin khác

Chính sách mới có hiệu lực từ tháng 5

(ĐCSVN) - Tiêu chuẩn chức danh công chức lãnh đạo, quản lý trong cơ quan hành chính nhà nước; quy định mới về xét tặng danh hiệu "Nhà giáo nhân dân", "Nhà giáo ưu tú"; vi phạm quy định về khai thác thủy sản trong khu vực cấm bị phạt tới 90 triệu đồng;... là những chính sách mới có hiệu lực từ tháng 5/2024.

Chống khai thác thủy sản bất hợp pháp

(ĐCSVN) - Đồng chí Trương Thị Mai vừa ký Chỉ thị số 32-CT/TW về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác chống khai thác thủy sản bất hợp pháp, không báo cáo, không theo quy định (IUU) và phát triển bền vững ngành thủy sản.

Sớm đưa vào sử dụng các công trình, dự án hạ tầng cấp bách, trọng điểm về giao thông

(ĐCSVN) - Bộ Chính trị yêu cầu tập trung đầu tư, sớm đưa vào sử dụng các công trình, dự án hạ tầng cấp bách, trọng điểm về giao thông đường bộ, đường sắt, đường biển, đường thuỷ nội địa, đường hàng không kết nối các địa phương, vùng và khu vực, quốc tế.

Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác thực hành tiết kiệm, chống lãng phí

(ĐCSVN) - Các cấp uỷ, tổ chức đảng, chính quyền, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các tổ chức chính trị - xã hội cần quán triệt, nâng cao nhận thức, tổ chức thực hiện nghiêm chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước về công tác thực hành tiết kiệm, chống lãng phí; xem đây là nhiệm vụ trọng tâm, thường xuyên của cả hệ thống chính trị và xã hội; là văn hoá ứng xử của mỗi cán bộ, đảng viên, công chức, viên chức và mỗi người dân, nhất là người đứng đầu, cán bộ lãnh đạo, quản lý.

Bộ Chính trị ban hành quy định phòng chống tham nhũng, tiêu cực trong điều tra, xét xử

(ĐCSVN) – Ngày 27/10/2023, Bộ Chính trị đã ban hành Quy định số 132-QĐ/TW về kiểm soát quyền lực, phòng, chống tham nhũng, tiêu cực trong hoạt động điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án.

Liên kết website