Phần thứ nhất Tổ chức và hoạt động của nhà nước ta thời gian qua và những yêu cầu trước tình hình mới
Ra đời từ Cách mạng tháng Tám năm 1945, ngay buổi đầu, Nhà nước ta đã thể hiện bản chất tốt đẹp của một nhà nước gắn bó chặt chẽ và phục vụ lợi ích của dân tộc, của nhân dân, dưới sự lãnh đạo của Đảng tiên phong của giai cấp công nhân. Từ đó đến nay, Nhà nước ta không ngừng lớn mạnh, làm tròn nhiệm vụ của mình, xứng đáng là công cụ đắc lực của nhân dân trong quá trình đấu tranh bảo vệ độc lập dân tộc, xây dựng cuộc sống mới, xã hội mới.
Công cuộc đổi mới những năm qua được tiến hành toàn diện, lấy đổi mới kinh tế làm trọng tâm, đồng thời từng bước đổi mới hệ thống chính trị. Tổ chức và hoạt động của Nhà nước có nhiều tiến bộ trên các lĩnh vực từ lập pháp đến hành pháp và tư pháp. Quản lý nhà nước bằng pháp luật được tăng cường. Dân chủ xã hội chủ nghĩa được phát huy trên nhiều lĩnh vực trước hết là kinh tế. ổn định chính trị, xã hội giữ vững.
Trên cơ sở Hiến pháp 1992, đã bầu cử Quốc hội khoá IX, với cơ cấu đại biểu có tính chất tiêu biểu hơn. Chất lượng các kỷ họp Quốc hội được nâng cao hơn. Nền hành chính đã sửa đổi từng bước về thể chế và cơ cấu tổ chức. Chính phủ chuyển dần việc quản lý xã hội phù hợp với cơ chế mới. Viện Kiểm sát và toà án các cấp được xác định vị trí, nhiệm vụ, tổ chức quản lý trên cơ sở luật tổ chức Viện Kiểm sát nhân dân và Luật tổ chức Toà án nhân dân.
Phương thức lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước có tiến bộ, tạo tiền đề cho việc kiện toàn, phát huy vai trò và hiệu lực quản lý của Nhà nước.Việc thành lập đảng đoàn, ban cán sự đảng góp phần tăng cường sự lãnh đạo của Đảng trong các cơ quan nhà nước.
Tuy nhiên, tổ chức và hoạt động của Nhà nước ta còn bộc lộ nhiều khuyết điểm và yếu kém:
Hệ thống pháp luật chưa đồng bộ, chưa tạo đủ khuôn khổ pháp lý cần thiết; việc thi hành pháp luật chưa nghiêm. Kỷ cương, kỷ luật lỏng lẻo. Một bộ phận những người có trách nhiệm giữ gìn pháp luật lại chính là những người làm sai pháp luật. ở một số nơi, cấp uỷ đồng tình, thậm chí còn ra nghị quyết trái pháp luật để chính quyền thực hiện. Trong nhiều lĩnh vực thuộc đời sống xã hội, có tình trạng vừa thiếu dân chủ, vừa lỏng lẻo kỷ cương. ở nhiều nơi, quyền làm chủ của nhân dân bị vi phạm.
Tổ chức bộ máy nhà nước cồng kềnh, nhiều tầng nấc, công việc chồng chéo và nhiều khi cản trở lẫn nhau, hiệu lực và hiệu quả thấp. Nạn quan liêu, lãng phí, tham nhũng nghiêm trọng, việc thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ còn yếu. Đội ngũ cán bộ, công chức nhìn chung chưa ngang tầm nhiệm vụ, một bộ phận không nhỏ thoái hoá, biến chất.
Sự lãnh đạo của Đảng chưa được tăng cường đúng mức, chưa có quy chế rõ ràng bảo đảm cho việc kiện toàn và phát huy hiệu lực của bộ máy nhà nước. Chậm đặt vấn đề nghiên cứu có hệ thống về cải cách bộ máy nhà nước. Tình trạng tổ chức đảng bao biện, làm thay, can thiệp sâu vào những công việc thuộc chức năng điều hành của nhà nước vẫn còn tồn tại. Mặt khác, có những nơi lại xem nhẹ sự lãnh đạo của Đảng, của tập thể cấp uỷ. ý thức đảng của một số cán bộ nhà nước, cán bộ chuyên môn là đảng viên còn yếu và có những quan niệm lệch lạc. Chủ nghĩa cá nhân, chủ nghĩa cơ hội có chiều hướng phát triển.
*
* *
Tình hình trên đặt ra yêu cầu cấp thiết phải xây dựng, kiện toàn bộ máy nhà nước vững mạnh, trong sạch, có hiệu lực và hiệu quả, bài trừ quan liêu, tham nhũng, luôn luôn giữ vững và phát huy bản chất cách mạng của một nhà nước của dân,do dân, vì dân.
Để làm tốt việc đó, cần nắm vững những quan điểm cơ bản sau đây :
1- Xây dựng nhà nước xã hội chủ nghĩa của dân, do dân và vì dân, lấy liên minh giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và tầng lớp trí thức làm nền tảng, do Đảng Cộng sản lãnh đạo. Thực hiện đầy đủ quyền dân chủ của nhân dân, giữ nghiêm kỷ cương xã hội, chuyên chính với mọi hành động xâm phạm lợi ích của Tổ quốc và của nhân dân.
Quán triệt bản chất giai cấp công nhân chính là kiên định vai trò lãnh đạo của Đảng, kiên định chủ nghĩa Mác -Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, kiên định con đường xã hội chủ nghĩa. Trong mọi lĩnh vực từ chính trị, tư tưởng, kinh tế, xã hội, quốc phòng, an ninh, đối ngoại, xây dựng và thực hiện pháp luật đến tổ chức cán bộ đều phải thể hiện sâu sắc bản chất giai cấp công nhân của Nhà nước ta.
Bản chất giai cấp công nhân gắn bó chặt chẽ với tính dân tộc, tính nhân dân của Nhà nước ta. Đó là Nhà nước của dân, do dân và vì dân. Mọi quyền lực nhà nước đều thuộc về nhân dân. Nhà nước do dân lập nên, dân bầu ra, dân giám sát và bãi miễn. Nhà nước phải thể hiện đúng ý chí, nguyện vụng của dân, bảo đảm trên thực tế mọi quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân.
Dân chủ xã hội chủ nghĩa là vấn đề thuộc Bản chất Nhà nước ta. Phát huy quyền làm chủ của nhân dân trên mọi lĩnh vực. Quyền làm chủ đó được thể chế hoá bằng pháp luật, được hoàn thiện và nâng cao trong qúa trình phát triển kinh tế - xã hội và mở mang dân trí. Dân chủ đi đôi với kỷ luật, kỷ cương; thực hiện quyền làm chủ của nhân dân và chuyên chính với những hành vi xâm phạm lợi ích của nhân dân, vi phạm an ninh Tổ quốc.
2- Quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công và phối hợp chặt chẽ giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện ba quyền : lập pháp, hành pháp, tư pháp.
Quyền lực nhà nước bao gồm ba quyền : Lập pháp, hành pháp và tư pháp, không ngừng hoàn thiện hệ thống tổ chức bộ máy nhà nước, xác định rõ chức năng, quyền hạn, có sự phân công, phối hợp chặt chẽ giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực thi ba quyền đó.
3- Quán triệt nguyên tắc tập trung dân chủ trong tổ chức và hoạt động của Nhà nước cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
Kết hợp đúng đắn tập trung và dân chủ là yếu tố quyết định sức mạnh và hiệu lực của bộ máy Nhà nước ta. Nguyên tắc tập trung dân chủ cần được quán triệt trong việc xây dựng pháp luật, trong quy chế về tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước, được quy định cụ thể sát hợp với tính chất, chức năng của từng tổ chức, từng lĩnh vực hoạt động và phải chấp hành nghiêm túc.
Tăng cường sự lãnh đạo và điều hành tập trung thống nhất của Trung ương đồng thời phát huy trách nhiệm và tính chủ động, năng động của địa phương. Khắc phục cả hai khuynh hướng lệch lạc : phân tán cục bộ và tập trung quan liêu.
Phân định rõ thẩm quyền và trách nhiệm của mỗi cấp chính quyền. Tập trung vào trung ương quyền quyết định những vấn đề ở tầm vĩ mô. Đồng thời phân cấp quản lý để phát huy tính chủ động và tinh thần trách nhiệm của chính quyền địa phương.
4- Tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa; xây dựng nhà nước pháp quyền Việt Nam quản lý xã hội bằng pháp luật, đồng thời coi trọng giáo dục, nâng cao đạo đức xã hội chủ nghĩa.
Nhà nước quản lý xã hội bằng pháp luật, theo pháp luật. Đó là cơ sở chủ yếu điều chỉnh các quan hệ cơ bản trong xã hội. Đồng thời coi trọng giáo dục nâng cao đạo đức xã hội chủ nghĩa, kết hợp biện pháp hành chính với giáo dục tư tưởng, nâng cao dân trí. Cán bộ viên chức nhà nước phải nêu gương đạo đức. Tăng cường tuyên truyền, giáo dục pháp luật trong nhân dân, trước hết trong đảng và cơ quan nhà nước, làm cho mọi người hiểu và làm theo pháp luật.
5- Tăng cường vai trò lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước.
Việc xây dựng và hoàn thiện Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam đòi hỏi tăng cường vai trò lãnh đạo của Đảng. Trong tình hình hiện nay, cần khẳng định vai trò lãnh đạo của Đảng, đấu tranh chống lại các luận điệu thù địch, và khắc phục những nhận thức, quan điểm mơ hồ, lệch lạc. Tăng cường vai trò lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước phải gắn liền và dựa trên cơ sở đổi mới và chỉnh đốn đảng, bao gồm đổi mới nội dung và phương thức lãnh đạo của Đảng.
Đảng lãnh đạo định ra đường lối, chính sách, những chủ trương cụ thể quan trọng, có quan hệ nhiều mặt, có ảnh hưởng chính trị rộng. Nhà nước thể chế hoá đường lối chủ trương của Đảng và tổ chức, quản lý, điều hành việc thực hiện. Đảng kiểm tra việc chấp hành đường lối, chủ trương, chính sách, khuyến khích những mặt tốt, uốn nắn kịp thời những lệch lạc coi trọng việc bố trí cán bộ, chỉ đạo sự phối hợp giữa các tổ chức, phát huy sức mạnh tổng hợp của cả hệ thống chính trị. Đảng lãnh đạo nhà nước, nhưng đảng và mọi đảng viên đều phải hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật.
Đảng lãnh đạo thông qua đảng bộ, đảng uỷ, đảng đoàn, ban cán sự, qua đảng viên hoạt động ở cơ quan nhà nước. Tổ chức đảng và đảng viên hoạt động ở các cơ quan đó phải nghiêm chỉnh chấp hành các nghị quyết, chỉ thị của Đảng và pháp luật của Nhà nước.
Phần thứ hai
Chủ trương, nhiệm vụ trong thời gian tới
I- Tiếp tục đổi mới tổ chức và hoạt động của Quốc hội.
Đẩy mạnh hoạt động lập pháp của Quốc hội, phấn đấu trong những năm tới dần dần có đủ các đạo luật điều chỉnh các lĩnh vực của đời sống xã hội theo đúng đường lối, quan điểm của đảng, bảo đảm định hướng xã hội chủ nghĩa; dựa trên cơ sở tổng kết kinh nghiệm thực tiễn Việt Nam, có nghiên cứu tham khảo chọn lọc kinh nghiệm nước ngoài nhưng không sao chép, rập khuôn. Trong khi chưa có đủ luật Uỷ ban Thường vụ Quốc hội tiếp tục ban hành pháp lệnh và Chính phủ ban hành văn bản pháp quy để đáp ứng kịp thời yêu cầu phát triển của đất nước.
Có quy chế phối hợp chặt chẽ giữa Quốc hội với Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể quần chúng để tập hợp trí tuệ của nhân dân tham gia vào các dự án luật và những vấn đề quan trọng của đất nước.
Làm tốt hơn nữa công tác giám sát của Quốc hội. Tăng cường công tác giám sát tại kỳ họp Quốc hội, và hoạt động giám sát của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội, Hội đồng dân tộc, các uỷ ban của Quốc hội, các đoàn đại biểu Quốc hội, xác định trách nhiệm xử lý các kiến nghị của những hoạt động giám sát đó. Mọi đại biểu Quốc hội phải gương mẫu tuyên truyền giải thích, chấp hành pháp luật, tích cực chống quan liêu, tham nhũng trong bộ máy nhà nước và ngay trong cơ quan lập pháp, tham gia giám sát việc chấp hành pháp luật ở địa phương, đơn vị công tác của mình và từ thực tiễn mà rút kinh nghiệm để có những kiến nghị bổ xung, hoàn chỉnh luật.
Tiếp tục đổi mới về tổ chức,tăng thêm số đại biểu Quốc hội làm việc chuyên trách; kiện toàn Hội đồng dân tộc và các uỷ ban của Quốc hội. Phân định rõ trách nhiệm của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội và Chính phủ trong việc giám sát, kiểm tra và hướng dẫn hội đồng nhân dân các cấp. Bộ máy giúp việc của Quốc hội phải tinh gọn, làm việc có hiệu quả và tiết kiệm
II- Cải cách một bước nền hành chính nhà nước.
Đây là yêu cầu rất bức xúc và là trọng tâm của việc xây dựng và hoàn thiện Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam trong thời gian tới. Mục tiêu của cải cách hành chính là nhằm xây dựng một nền hành chính trong sạch, có đủ năng lực, sử dụng đúng quyền lực và từng bước hiện đại hoá để quản lý có hiệu lực và hiệu qủa công việc của Nhà nước, thúc đẩy xã hội phát triển lành mạnh, đúng hướng, phục vụ đắc lực đời sống nhân dân, xây dựng nếp sống và làm việc theo pháp luật trong xã hội. Trong những năm trước mắt, tập trung làm tốt một số việc sau đây.
1. Cải cách thể chế của nền hành chính
Trong năm 1995, phải cải cách một bước cơ bản các thủ tục hành chính, cả về thể chế và tổ chức thực hiện.
Loại bỏ những khâu xin phép, xét duyệt không cần thiết, giảm phiền hà, ngăn chặn tệ cửa quyền, sách nhiễu, tham nhũng, hối lộ, vi phạm pháp luật. Lập lại trật tự trong việc ban hành thủ tục hành chính và quy định lệ phí. Chính phủ nắm quyền ban hành thủ tục hành chính đồng thời quy định phạm vi giao quyền cho cấp tỉnh, thành phố được ban hành một số loại thủ tục mang tính đặc thù của địa phương.
Tập trung cải cách thủ tục trong các lĩnh vực tác động trực tiếp tới đời sống và sản xuất kinh doanh của nhân dân. Quy định chế độ công vụ và quy chế phối hợp của các cơ quan có trách nhiệm giải quyết công việc của dân một cách công khai, minh bạch chống cửa quyền.
Đẩy mạnh việc giải quyết các khiếu kiện của dân. Soát xét, bổ sung và thể chế hoá các chính sách trước hết đối với những lĩnh vực mà dân khiếu kiện nhiều, như những tranh chấp về nhà, đất... Xúc tiến việc thiết lập hệ thống toà án hành chính để xét xử các khiếu kiện của dân đối với các quyết định hành chính. Sửa đổi, bổ sung thể chế và đề cao trách nhiệm của các cơ quan hành chính trong việc xử lý các khiếu nại của dân không cần đưa xét xử ở toà án. Coi trọng vai trò hoà giải của chính quyền kết hợp với Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể ở cơ sở.
Tăng cường trách nhiệm của các cơ quan quản lý cán bộ trong việc giải quyết các đơn, thư tố cáo về những sai phạm của cán bộ, công chức. Các vụ tố cáo phải được cơ quan có thẩm quyền kết luận rõ. Người bị tố cáo được quyền nhận thông tin đầy đủ và bào chữa giải trình. Người tố cáo không đúng sự thật với dụng ý xấu phải bị xử lý theo pháp luật.
Có quy chế giao trách nhiệm nghiên cứu, tập hợp và trả lời thư của nhân dân góp ý về công việc chung của đất nước. Tổ chức thu thập ý kiến của các đối tượng chính phải thi hành các văn bản pháp quy trước khi ban hành.
Tiếp tục xây dựng hoàn chỉnh thể chế kinh tế mới, tập trung vào ba lĩnh vực : Xây dựng và bổ sung hệ thống luật và văn bản pháp quy tạo khuôn khổ pháp lý cho việc hình thành đồng bộ các yếu tố thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Hoàn chỉnh thể chế quản lý tài chính công (ngân sách, kho bạc, vốn đầu tư xây dựng cơ bản của nhà nước...) và các tài sản công khác. Phân loại các doanh nghiệp nhà nước và xây dựng thể chế quản lý phù hợp với tính chất từng loại doanh nghiệp.
Đổi mới quy trình lập pháp và lập quy. Cải tiến sự phân công và phối hợp giữa các cơ quan của Quốc hội và Chính phủ để đảm bảo tính kịp thời và nâng cao chất lượng xây dựng luật. Tăng cường công tác lập quy của Chính phủ nhằm cụ thể hoá và triển khai thực hiện luật được nhanh chóng, có hiệu quả. Kịp thời có quy định pháp lý cho những vấn đề chưa đủ điều kiện xây dựng thành luật. Bảo đảm việc ban hành văn bản pháp quy theo đúng thẩm quyền. Văn bản chính chỉ ban hành khi đã cơ bản chuẩn bị được văn bản hướng dẫn. Nghị định của Chính phủ phải đủ cụ thể để chấp hành; thông tư của bộ, liên bộ quy định chi tiết và hướng dẫn thực hiện văn bản pháp quy của Chính phủ.
Nâng cao hiệu lực thi hành pháp luật, thiết lập trật tự, kỷ cương xã hội, kỷ luật trong bộ máy nhà nước. Hoàn thiện quy chế ban hành, công bố, phổ biến luật và các văn bản pháp quy khác; quy định trách nhiệm của các công sở trong việc niêm yết và cung cấp thông tin cho nhân dân về các văn bản pháp quy. Phối hợp chặt chẽ giữa các cơ quan bảo vệ pháp luật với các đoàn thể nhân dân và các phương tiện thông tin đại chúng trong việc phòng ngừa, phát hiện, đấu tranh chống tội phạm và những hành vi vi phạm pháp luật. Kiện toàn tổ chức, làm trong sạch đội ngũ và bổ sung phương tiện hoạt động của các cơ quan bảo vệ pháp luật. Xử phạt nghiêm cán bộ, công chức cơ quan bảo vệ pháp luật lợi dụng chức quyền vi phạm pháp luật. Điều chỉnh hợp lý sự phân công và phối hợp giữa cơ quan hành chính với viện kiểm sát và toà án trong các khâu điều tra, khởi tố, truy tố, thi hành án. Nâng cao năng lực và chất lượng của các cơ quan xét xử, bảo đảm giải quyết các vụ án kịp thời, nghiêm minh.
2. Chấn chỉnh tổ chức bộ máy và quy chế hoạt động của hệ thống hành chính theo phương hướng :
Một là, Chính phủ và cơ quan hành chính các cấp tập trung chủ yếu vào quản lý kinh tế vĩ mô, chăm lo các vấn đề văn hoá, xã hội, bảo vệ môi trường, duy trì hiệu lực của pháp luật, củng cố quốc phòng, an ninh, thi hành chính sách đối ngoại; không can thiệp trực tiếp việc điều hành hoạt động sản xuất kinh doanh; tiến tới xoá bỏ chế độ chủ quản đối với các doanh nghiệp nhà nước hoạt động theo cơ chế kinh doanh.
Hai là, vận dụng nguyên tắc tập trung dân chủ, kết hợp quản lý theo ngành và theo lãnh thổ sát hợp với chức năng chỉ đạo, điều hành của hệ thống hành chính và với đặc điểm của từng ngành, từng lĩnh vực. Xác định rõ thẩm quyền và trách nhiệm của các cấp hành chính, trước hết là về lập quy và ngân sách.
Xác định rõ quyền hạn, trách nhiệm tập thể và cá nhân; bảo đảm sự lãnh đạo tập thể về những vấn đề quan trọng được quy định rõ trong điều lệ tổ chức và hoạt động của từng cơ quan, đồng thời đề cao trách nhiệm cá nhân của thủ trưởng cơ quan trong công tác điều hành.
Theo các phương hướng và nguyên tắc chung đó, xúc tiến điều chỉnh từng bước cơ cấu tổ chức, tinh giản bộ máy hành chính các ngành, các cấp.
Điều chỉnh cơ cấu tổ chức bộ máy Chính phủ theo hướng giảm dần số lượng bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan trực thuộc Chính phủ. Tăng cường trách nhiệm của bộ trưởng trong việc quyết định các vấn đề thuộc chức năng và thẩm quyền của bộ. Thủ tướng tập trung vào việc chỉ đạo, phối hợp công việc giữa các bộ, giải quyết các vấn đề vượt khỏi thẩm quyền của bộ trưởng và trực tiếp nắm các vấn đề lớn như lập quy, kế hoạch, ngân sách, tổ chức và nhân sự hành chính cấp cao.
Bộ có trách nhiệm quản lý nhà nước đối với toàn ngành hoặc lĩnh vực được phân công trong phạm vi cả nước. Xác định rành mạch, cụ thể trách nhiệm và thẩm quyền quản lý của bộ và của chính quyền địa phương phù hợp với tính chất, đặc điểm từng ngành, từng lĩnh vực. Trên cơ sở đó, quy định tổ chức bộ máy ở trung ương và các cấp với quy chế hoạt động thích hợp với từng ngành, từng lĩnh vực.
Nâng cao chất lượng hoạt động của hội đồng nhân dân và uỷ ban nhân dân các cấp. Đề cao trách nhiệm và kỷ luật của hội đồng nhân dân, uỷ ban nhân dân trong việc chấp hành pháp luật và các quyết định của Quốc hội, Chính phủ và của cơ quan hành chính cấp trên. Tăng quyền chủ động của hội đồng nhân dân trong việc quyết định những vấn đề mang tính địa phương, quyết định ngân sách trong phạm vi được phân cấp. Quy định cụ thể, nhiệm vụ, quyền hạn của hội đồng nhân dân và uỷ ban nhân dân từng cấp. Xây dựng quy chế kết hợp quyền bầu cử của hội đồng nhân dân cùng cấp với quyền của Thủ tướng và chủ tịch uỷ ban nhân dân cấp trên phê chuẩn việc bầu cử các thành viên của uỷ ban nhân dân cấp dưới, việc miễn nhiệm, điều động, cách chức chủ tịch, phó chủ tịch uỷ ban nhân dân cấp dưới.
Tổ chức bộ máy hành chính thành phố, thị xã phù hợp với đặc điểm quản lý đô thị mang tính tập trung, thống nhất cao. Xác định hợp lý phạm vi ngoại thành, ngoại thị trên cơ sở quy hoạch đô thị. Xác định vị trí và chức năng của chính quyền cấp huyện với thẩm quyền và trách nhiệm rõ ràng. Kiện toàn chính quyền cấp xã, giải quyết vấn đề ngân sách xã và từng bước chuyên nghiệp hoá một số vị trí công tác ở xã. Thực hiện chế độ trưởng thôn, trưởng ấp, trưởng bản do dân cử.
Các cơ quan chuyên môn chịu sự chỉ đạo của cơ quan ngành dọc cấp trên và của uỷ ban nhân dân địa phương theo sự phân định phạm vi trách nhiệm, quyền hạn giữa bộ và chính quyền địa phương. Một số ngành do yêu cầu quản lý tập trung thống nhất cao có thể tổ chức cơ quan cấp dưới theo khu vực, không nhất thiết gắn với địa giới của cấp hành chính.
3. Xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức hành chính.
Xây dựng và từng bước hoàn thiện chế độ công vụ và quy chế công chức, chú trọng cả yêu cầu về phẩm chất, đạo đức và trình độ, năng lực. Tiếp tục đổi mới và hoàn thiện hệ thống ngạch, bậc công chức và cải tiến chế độ tiền lương, gắn trách nhiệm với quyền hạn, nhiệm vụ với chính sách đãi ngộ. Chú trọng phát hiện và bồi dưỡng các tài năng trong đảng, ngoài đảng. Ban hành quy chế tuyển dụng và đề bạt qua thi tuyển hoặc kiểm tra sát hạch. Mọi công dân có đủ điều kiện đều có cơ hội ngang nhau để được tuyển làm công chức.
Huấn luyện lại và tuyển chọn công chức theo tiêu chuẩn chức danh. Đối với những người không đủ tiêu chuẩn, cần có chính sách thoả đáng, tạo điều kiện cho họ tìm việc làm, ổn định đời sống. Kiên quyết sa thải những công chức thoái hoá, biến chất. Thực hiện chế độ nghỉ hưu đúng tuổi đối với công chức.
Đẩy mạnh việc đào tạo đội ngũ công chức. Có kế hoạch bồi dưỡng những công chức đang làm việc và đào tạo những người mới theo kịp trình độ hiện đại, bao gồm cả tiêu chuẩn về ngoại ngữ và ứng dụng công nghệ tin học. Phấn đấu sau một số năm, các công chức đều đạt được tiêu chuẩn quy định cho từng ngạch, từng chức danh. Coi trọng hình thức đào tạo ngắn ngày. Nâng cao trình độ của cán bộ giảng dạy. Mở rộng và quản lý tốt việc hợp tác với nước ngoài trong công tác đào tạo. Sắp xếp hợp lý và kiện toàn hệ thống các cơ sở đào tạo cán bộ quản lý và công chức.
Từng bước hiện đại hoá công sở, sớm hình thành mạng lưới tin học trong hệ thống hành chính.
Đấu tranh kiên quyết và bền bỉ chống tệ tham nhũng, lãng phí của công, gắn với cải cách nền hành chính và chỉnh đốn đảng trong hệ thống hành chính. Xác định rõ những việc liên quan đến kinh doanh, đến việc làm cho người nước ngoài mà công chức không được phép làm; quy định chặt chẽ việc nhận quà biếu, tiếp khách và chế độ cán bộ, công chức, đảng viên, trước hết là những người giữ cương vị lãnh đạo chủ chốt ở các cấp, phải báo cáo và chịu sự kiểm tra về nguồn tiền mua đất, làm nhà...
Huy động sức mạnh tổng hợp của tổ chức đảng, chính quyền, đoàn thể nhân dân, các cơ quan thông tin đại chúng phát hiện và đấu tranh chống tham nhũng, lãng phí của công. Quy định hình thức kỷ luật tương ứng với mức độ trách nhiệm của tập thể và cá nhân có cương vị chủ chốt ở nơi xảy ra tham nhũng và lãng phí. Có chế độ khen thưởng và bảo vệ người có công phát hiện, đấu tranh chống tham nhũng.
III- Đổi mới tổ chức và hoạt động của các cơ quan tư pháp.
Tiếp tục sửa đổi, bổ sung pháp luật, làm cơ sở cho việc tổ chức và hoạt động của các cơ quan tư pháp. Sớm ban hành các bộ luật Dân sự, Tố tụng dân sự và những văn bản pháp luật khác liên quan đến việc giải quyết các tranh chấp trong nội bộ nhân dân. Nghiên cứu việc xây dựng các tổ chức trọng tài để thực hiện chức năng hoà giải các tranh chấp. Nghiên cứu sửa đổi Bộ luật hình sự, Bộ luật tố tụng hình sự phù hợp với tình hình mới. Mở rộng quan hệ quốc tế về tương trợ tư pháp, về phòng chống tội phạm và các tệ nạn xã hội.
Cán bộ, nhân viên ngành tư pháp phải nêu gương chấp hành nghiêm pháp luật, tích cực chống quan liêu, tham nhũng trong xã hội và ngay trong các cơ quan tư pháp.
Về tổ chức và hoạt động của toà án nhân dân, trên cơ sở kiện toàn tổ chức và cán bộ, nghiên cứu tăng thẩm quyền xét xử cho toà án nhân dân cấp quận, huyện theo hướng việc xét xử sơ thẩm được thực hiện chủ yếu ở toà án cấp này. Toà án cấp tỉnh chủ yếu xét xử phúc thẩm. Toà án nhân dân tối cao chủ yếu xét xử giám đốc thẩm, tổng kết kinh nghiệm xét xử, hướng dẫn các toà án địa phương thực hiện xét xử thống nhất theo pháp luật. Hạn chế việc xét xử sơ thẩm đồng thời chung thẩm. Nghiên cứu tiếp tục thành lập các toà chuyên môn.
Tổng kết thực tiễn công tác quản lý toà án địa phương, xác định rõ trách nhiệm và quan hệ phối hợp trong việc quản lý các toà án địa phương về tổ chức và cán bộ. Đẩy mạnh việc xét và giải quyết kháng cáo và các khiếu nại, tố cáo về công tác xét xử, bảo đảm công bằng và nghiêm minh.
Về tổ chức và hoạt động của viện kiểm sát nhân dân, làm tốt hơn nữa công tác kiểm sát việc tuân theo pháp luật về kinh tế, xã hội và quốc phòng, an ninh, đối ngoại. Nghiên cứu sắp xếp tổ chức hợp lý, xây dựng quy chế hoạt động kiểm sát trong lĩnh vực hình sự, dân sự, kinh tế, hành chính. Tập trung làm tốt chức năng công tố, bảo đảm mọi hành vi phạm tội đều bị phát hiện, xử lý nghiêm minh, kịp thơì, đặc biệt là tội xâm phạm an ninh quốc gia và tội tham nhũng. Đối với việc bắt giữ, xét xử oan sai, cần truy cứu trách nhiệm của những người ra lệnh và người thừa hành, đồng thời minh oan công khai, thoả đáng đối với người bị bắt giữ, xét xử sai, bảo đảm quyền công dân đúng pháp luật.
Xây dựng đội ngũ kiểm sát viên theo các tiêu chuẩn đã được pháp lệnh kiểm sát viên quy định.
Nghiên cứu tổ chức hệ thống các cơ quan điều tra hợp lý, bớt chồng chéo. Xác định rõ quyền hạn và trách nhiệm của thủ trưởng cơ quan điều tra và điều tra viên theo hướng phân biệt thẩm quyền hành chính và thẩm quyền tố tụng.
Sớm xây dựng và hoàn thiện pháp luật về thi hành án theo hướng tiến tới tập trung nhiệm vụ quản lý nhà nước về công tác thi hành án vào Bộ Tư pháp. Xây dựng đội ngũ cán bộ làm công tác thi hành án để bảo đảm hoàn thành tốt nhiệm vụ xét xử. Đối xử nhân đạo với người bị phạt tù. Có chương trình dạy nghề cho phạm nhân và giới thiệu việc làm cho họ sau khi ra tù, giúp họ nhanh chóng tái hoà nhập vào cộng đồng xã hội.
Quy định rõ nguyên tắc, nội dung hoạt động của các tổ chức hỗ trợ tư pháp để hỗ trợ đắc lực hoạt động xét xử của toà án một cách khách quan, chính xác và đúng luật. Nhà nước tăng cường hướng dẫn, theo dõi, kiểm tra, khắc phục các biển hiện tiêu cực trong công tác dịch vụ và tư vấn pháp lý, kể cả của các tổ chức và người nước ngoài.
IV- Phát huy vai trò làm chủ nhà nước của nhân dân.
Hoàn thiện những quy định về bầu cử, ứng cử, hiệp thương giới thiệu người ứng cử. Tăng thêm đại biểu là người ngoài đảng vào các cơ quan dân cử. Tôn trọng và bảo đảm quyền tự do bầu cử và ứng cử của công dân.
Bảo đảm quyền của nhân dân giám sát hoạt động của nhà nước. Các phương tiện thông tin đại chúng có quyền và có trách nhiệm thông tin kịp thời, nhanh chóng về hoạt động của các cơ quan nhà nước, nhất là hoạt động của Quốc hội, Uỷ ban Thường vụ Quốc hội, Chính phủ, Toà án nhân dân và Viện kiểm sát nhân dân tối cao. Nghiên cứu mở rộng việc mời đại diện các tầng lớp nhân dân dự thính các kỳ họp Quốc hội và hội đồng nhân dân các cấp.
Cải tiến chế độ tiếp xúc, báo cáo của đại biểu Quốc hội và hội đồng nhân dân với cử tri, tạo điều kiện để nhân dân không chỉ phản ánh ý chí, nguyện vọng của mình, mà còn biểu thị thái độ, đánh giá hoạt động của đại biểu dân cử, của cơ quan nhà nước. Quốc hội, hội đồng nhân dân, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các đoàn thể cần thu thập, phản ánh và kịp thời xem xét các ý kiến của cử tri về sự tín nhiệm đối với đại biểu Quốc hội và hội đồng nhân dân các cấp.
Phát huy vai trò nhân dân tham gia quản lý nhà nước, vừa nâng cao chất lượng chế độ dân chủ đại diện, vừa mở rộng và phát huy chế độ dân chủ trực tiếp, nhất là ở cơ sở. Củng cố và phát triển các tổ chức tự nguyện của nhân dân.
Tổ chức hội nghị nhân dân hoặc đại biểu nhân dân ở thôn, ấp, bản, xã, phường để lấy ý kiến về các nhiệm vụ quản lý nhà nước, tham gia quyết định những vấn đề liên quan đến đời sống của dân cư trên địa bàn. Cải tiến việc lấy ý kiến nhân dân về các văn bản pháp luật theo hướng thiết thực, tránh hình thức, lãng phí.
Tổ chức điều tra dư luận xã hội về những vấn đề cần thiết cho công tác lãnh đạo và quản lý nhà nước. Xây dựng luật về trưng cầu ý dân.
Đổi mới tổ chức và hoạt động để phát huy vai trò của các tổ chức chính trị - xã hội trong việc thực hiện quyền làm chủ nhà nước của nhân dân. Nhà nước tham khảo ý kiến của các tổ chức xã hội có liên quan trong việc xây dựng chính sách và pháp luật.
Nâng cao dân trí, giáo dục và động viên nhân dân thực hiện đúng quyền làm chủ, gắn quyền hạn với trách nhiệm, lợi ích với nghĩa vụ công dân, tôn trọng kỷ cương, trật tự xã hội; giáo dục, động viên nhau chấp hành pháp luật, tích cực đấu tranh phòng, chống vi phạm, tội phạm.
V- Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước.
Đối với Quốc hội.
Bộ Chính trị nghe báo cáo và cho ý kiến lãnh đạo về : nội dung chủ yếu của mỗi kỳ họp Quốc hội; chương trình xây dựng luật, pháp lệnh hàng năm và dài hạn; những quan điểm chỉ đạo trong mỗi dự án luật, pháp lệnh và những vấn đề quan trọng khác mà Đảng đoàn Quốc hội thấy cần xin ý kiến Bộ Chính trị.
Đảng đoàn Quốc hội có trách nhiệm lãnh đạo mọi hoạt động của Quốc hội theo đúng đường lối chính sách của Đảng, truyền đạt cho các đảng viên là đại biểu Quốc hội những quan điểm chỉ đạo của Bộ Chính trị, thuyết phục vận động các đại biểu Quốc hội ngoài đảng làm theo đường lối, quan điểm của Đảng.
Mọi đảng viên trong Quốc hội phải nói và thực hiện đúng những chủ trương, chính sách mà Bộ Chính trị đã khẳng định. Đối với những vấn đề mà Bộ Chính trị chỉ nêu phương hướng, đảng viên phải đề cao tính đảng, tham gia thảo luận, tranh luận thẳng thắn, xây dựng để Quốc hội đi tới những quyết định chuẩn xác. Đối với các vấn đề có ý kiến khác nhau, căn cứ để kết luận chưa thật rõ, thì sau khi thảo luận, Đảng đoàn Quốc hội báo cáo xin ý kiến Bộ Chính trị.
Đối với Chính phủ.
Căn cứ vào Nghị quyết Đại hội Đảng và các nghị quyết Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị xem xét quyết định những chủ trương, phương hướng lớn về các lĩnh vực thuộc phạm vi trách nhiệm của mình, bảo đảm đúng định hướng chính trị của Đảng.
Về kinh tế - xã hội, Bộ Chính trị xem xét quyết định mục tiêu, phương hướng kế hoạch dài hạn và ngắn hạn, phương hướng cân đối ngân sách nhà nước hàng năm, các chính sách về các thành phần kinh tế, về chuyển dịch cơ cấu kinh tế, đổi mới cơ chế quản lý, quy hoạch phát triển một số ngành trọng yếu, một số công trình lớn, những khoản vay nợ lớn của nước ngoài, các chủ trương, chính sách về xã hội, văn hoá, giáo dục, y tế... và những vấn đề quan trọng khác do Ban cán sự đảng Chính phủ đề nghị.
Các lĩnh vực quốc phòng, an ninh, đối ngoại đặt dưới sự lãnh đạo tuyệt đối của Đảng. Bộ Chính trị quyết định chủ trương, phương hướng, nhiệm vụ hàng năm về quốc phòng, an ninh, đối ngoại; trực tiếp và cho ý kiến lãnh đạo về đối sách cụ thể đối với những vụ việc phức tạp, quan trọng.
Đối với các cơ quan tư pháp.
Bộ Chính trị lãnh đạo hoạt động của các cơ quan tư pháp về lĩnh vực bảo vệ pháp luật, về chính sách xử lý các loại tội xâm phạm an ninh quốc gia, tội gây thiệt hại nghiêm trọng tài sản nhà nước, tính mạng và tài sản của nhân dân. Đối với một số vụ án có ý nghĩa quan trọng về chính trị, ban cán sự đảng các cơ quan tư pháp báo cáo xin ý kiến Bộ Chính trị.
Trách nhiệm của các cơ quan lãnh đạo của Đảng trên các lĩnh vực hoạt động nhà nước phân định như sau :
Ban Chấp hành Trung ương : Căn cứ Nghị quyết Đại hội Đảng, lập chương trình làm việc toàn khoá để bàn các vấn đề quan trọng nhất về chính trị, kinh tế, xã hội, quốc phòng, an ninh, đối ngoại... Quyết định việc đề nghị Quốc hội sửa đổi Hiến pháp; giới thiệu nhân sự ứng cử vào các chức vụ Chủ tịch nước, Chủ tịch Quốc hội, Thủ tướng Chính phủ.
Bộ Chính trị : Căn cứ Nghị quyết Đại hội và các nghị quyết Hội nghị Trung ương, ra nghị quyết, chỉ thị để lãnh đạo các lĩnh vực hoạt động của Nhà nước như đã nêu trên. Quyết định bố trí cán bộ ứng cử vào các chức vụ chủ chốt trong bộ máy nhà nước theo quy định về phân cấp quản lý cán bộ.
Ban Bí thư : Thực hiện nhiệm vụ theo quy định của Điều lệ Đảng; kiểm tra hoạt động của Đảng đoàn Quốc hội, các Ban cán sự đảng Chính phủ, Viện Kiểm sát nhân dân tối cao, Toà án Nhân dân tối cao, các bộ... bảo đảm thực hiện đúng các nghị quyết của Trung ương, Bộ Chính trị; chăm lo công tác cán bộ ở các cơ quan nhà nước trong diện được phân cấp quản lý.
Ban Bí thư chỉ đạo Ban Tổ chức Trung ương và các tỉnh uỷ, thành uỷ căn cứ tinh thần trên để xây dựng quy chế cụ thể về nội dung và phương thức lãnh đạo của cấp uỷ đối với đảng đoàn, ban cán sự đảng ở các cơ quan chính quyền địa phương.
Đảng đoàn, ban cán sự đảng trong các cơ quan nhà nước, chịu trách nhiệm trước cấp uỷ về quán triệt đường lối, chính sách của Đảng trong hoạt động của ngành, bàn bạc và quyết định những công việc quan trọng để thủ trưởng căn cứ vào đó điều hành; phối hợp với đảng uỷ khối và cấp uỷ địa phương trong công tác xây dựng đảng thuộc ngành mình và chịu trách nhiệm quản lý cán bộ theo quy định về phân cấp quản lý cán bộ của Đảng. Đối với những cán bộ thuộc diện cấp uỷ quản lý, nếu là chức vụ bổ nhiệm thì ban cán sự đảng lãnh đạo việc thực hiện; nếu là chức vụ bầu cử thì cấp uỷ dưới và Đảng đoàn Quốc hội, hội đồng nhân dân có trách nhiệm lãnh đạo thực hiện quyết định của cấp uỷ.
Đảng uỷ, đảng đoàn, ban cán sự làm việc theo nguyên tắc tập thể lãnh đạo, có chế độ sinh hoạt định kỳ với nội dung rõ ràng, không lẫn lộn với sinh hoạt của chính quyền. Xây dựng quy chế làm việc của đảng uỷ, đảng đoàn, ban cán sự, làm rõ chức năng, nhiệm vụ, xác định các mối quan hệ với tổ chức khác.
Quy định rõ chức năng, nhiệm vụ, quy chế làm việc của các đảng uỷ khối. Kiện toàn các đảng bộ cơ quan trong bộ máy nhà nước, khắc phục tình trạng hoạt động hình thức.
Các đảng uỷ, ban cán sự, đảng đoàn và đảng viên ở các cơ quan nhà nước có trách nhiệm nghiên cứu, đề xuất ý kiến, chủ trương với đảng, cả về nhiệm vụ chính trị và công tác tổ chức, cán bộ. Kiện toàn các ban đảng tinh gọn, làm đúng chức năng tham mưu cho cấp uỷ.
Bí thư cấp uỷ có thể được giới thiệu ứng cử kiêm nhiệm chủ tịch hội đồng nhân dân cùng cấp; nói chung không kiêm nhiệm chủ tịch uỷ ban nhân dân.
Một số cán bộ lãnh đạo các ban của Đảng có thể kiêm nhiệm chức chủ nhiệm, phó chủ nhiệm các uỷ ban tương ứng của Quốc hội và các ban của hội đồng nhân dân tỉnh, huyện.
Đảng kiểm tra tổ chức đảng và đảng viên hoạt động trong cơ quan nhà nước về quán triệt và chấp hành đường lối, chính sách, nghị quyết, chỉ thị của đảng, phát hiện và uốn nắn những lệch lạc, tìm ra những kinh nghiệm hay, những vấn đề mới nảy sinh trong thực tiễn để bổ sung, hoàn chỉnh chủ trương, chính sách.
Đảng thống nhất lãnh đạo công tác cán bộ trong cả hệ thống chính trị nói chung, trong bộ máy nhà nước nói riêng; quyết định đường lối, chính sách cán bộ, tiêu chuẩn cán bộ và kiểm tra việc chấp hành trong các ngành, các cấp; trực tiếp quản lý cán bộ trong bộ máy đảng, nhà nước, đoàn thể xã hội theo quy định về phân cấp quản lý cán bộ. Cần lựa chọn những người ngoài đảng có đức, có tài, có ý thức tôn trọng sự lãnh đạo của đảng, tham gia các cơ quan dân cử và một số chức vụ trong cơ quan hành pháp, tư pháp.
Thủ trưởng các cơ quan nhà nước cần trực tiếp nắm công tác cán bộ, giao nhiệm vụ, kiểm tra công tác, bồi dưỡng, đánh giá cán bộ. Việc đề bạt, điều động, kỷ luật cán bộ do thủ trưởng cơ quan kiến nghị, ban cán sự đảng quyết định tập thể.
Phần thứ ba: Tổ chức thực hiện
1- Ban Bí thư chỉ đạo việc tổ chức quán triệt sâu rộng nội dung nghị quyết trong nội bộ đảng, làm cho các cấp bộ đảng và mọi cán bộ, đảng viên nhận rõ chủ trương, nhiệm vụ cấp bách về xây dựng Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam mà trọng tâm là cải cách nền hành chính nhà nước trong thời gian tới; tổ chức triển khai Nghị quyết Trung ương 8, theo dõi, đôn đốc, kiểm tra việc thực hiện; có kế hoạch chỉ đạo hoạt động của các ban đảng có liên quan đến lĩnh vực công tác xây dựng nhà nước và pháp luật.
2- Bộ Chính trị xét duyệt đề án "Kiện toàn tổ chức và hoạt động của Quốc hội" và đề án "Cải cách tư pháp" do Đảng đoàn Quốc hội và các ngành liên quan chuẩn bị.
3- Đảng đoàn Quốc hội có chương trình, kế hoạch triển khai công việc thuộc phạm vi trách nhiệm của mình; trước hết là nâng cao chất lượng hoạt động lập pháp và giám sát; kiện toàn các uỷ ban của Quốc hội và tinh giản bộ máy giúp việc. Cùng với Ban cán sự đảng Chính phủ tạo điều kiện và có quy chế để Mặt trận và các đoàn thể thực hiện tốt nhiệm vụ tham gia quản lý nhà nước.
4- Ban Cán sự đảng Chính phủ có kế hoạch triển khai thực hiện đề án cải cách một bước nền hành chính nhà nước, trước hết là đẩy mạnh việc cải cách các thủ tục hành chính; xác định rõ chức năng quản lý nhà nước, nghiên cứu phân định thẩm quyền của các cấp chính quyền và phân cấp quản lý trên các lĩnh vực; sắp xếp, tinh giản bộ máy nhà nước; đào tạo và bồi dưỡng công chức...
5- Ban Cán sự đảng Toà án nhân dân tối cao, Viện Kiểm sát nhân dân tối cao, có chương trình kế hoạch cải tiến tổ chức và hoạt động của mình; cùng với Ban Cán sự đảng Chính phủ tổng kết kinh nghiệm thi hành Luật Tổ chức toà án nhân dân và Luật Tổ chức viện kiểm sát nhân dân, làm rõ thêm chức năng, nhiệm vụ, các mối quan hệ công tác, nhất là về công tác kiểm sát chung, về công tác quản lý toà án địa phương.
6- Đảng đoàn Uỷ ban trung ương Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể có kế hoạch giáo dục, vận động và tổ chức nhân dân tham gia quản lý nhà nước. Sắp xếp tổ chức, xây dựng quy chế làm việc để phát huy vai trò làm chủ của nhân dân.
7- Ban Tổ chức Trung ương nghiên cứu làm rõ phương thức lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước ở từng lĩnh vực, từng cấp; nghiên cứu rút kinh nghiệm xây dựng quy chế làm việc của đảng uỷ, đảng đoàn, ban cán sự đảng.
8- Đảng uỷ Quân sự Trung ương, Đảng uỷ Công an Trung ương, các ban cán sự đảng bộ, ngành có kế hoạch thực hiện những công việc thuộc lĩnh vực của mình.
9- Các tỉnh uỷ, thành uỷ chỉ đạo đảng đoàn hội đồng nhân dân và ban cán sự đảng uỷ ban nhân dân căn cứ vào Nghị quyết Trung ương 8 và các quyết định của Quốc hội, của Chính phủ để liên hệ, kiểm điểm hoạt động của chính quyền địa phương, vạch chương trình, kế hoạch nâng cao chất lượng hoạt động trong thời gian tới.
10- Các cơ quan nghiên cứu khoa học về nhà nước và pháp luật triển khai công tác nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh và đường lối quan điểm của Đảng, tổng kết kinh nghiệm xây dựng nhà nước và pháp luật của nước ta, góp phần làm sáng tỏ lý luận về nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam để vận dụng một cách phù hợp.
T/M BAN CHẤP HÀNH TRUNG ƯƠNG ĐẢNG
TỔNG BÍ THƯ
Đỗ Mười