Phát biểu khai mạc Hội nghị lần thứ bảy BCHTW Đảng khoá VII, ngày 25/7/1994

Thưa các đồng chí Cố vấn,

Thưa các đồng chí Uỷ viên Trung ương,

Thưa toàn thể các đồng chí,

Để cụ thể hoá Nghị quyết Hội nghị đại biểu toàn quốc giữa nhiệm kỳ khoá VII, Hội nghị toàn thể lần thứ bảy Ban Chấp hành Trung ương sẽ bàn định phương hướng, chủ trương, chính sách nhằm đẩy tới một bước sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.

Trong quá trình chuẩn bị, Bộ Chính trị, Ban Bí thư đã trực tiếp cho ý kiến để Tiểu ban soạn thảo bổ sung, chỉnh lý báo cáo trình Hội nghị Trung ương. Việc tổ chức lấy ý kiến rộng rãi của các cấp uỷ đảng, các nhà khoa học, các cán bộ quản lý, các đồng chí lão thành cách mạng, cán bộ cao cấp nghỉ hưu và một số trí thức người Việt ở nước ngoài đã tạo điều kiện huy động trí tuệ của nhiều tập thể và cá nhân vào việc xây dựng báo cáo. Nhờ vậy, chất lượng báo cáo đã được nâng lên, làm cơ sở để Trung ương thảo luận và ra quyết định. Các đồng chí Trung ương đã nghiên cứu kỹ nội dung trình bày trong báo cáo, vì vậy, tôi không nhắc lại mà chỉ phát biểu làm rõ thêm một số vấn đề sau đây:

Như báo cáo đã nêu, công nghiệp hoá là quá trình chuyển đổi căn bản, toàn diện các hoạt động kinh tế, xã hội từ sử dụng sức lao động thủ công là chính sang sử dụng một cách phổ biến sức lao động cùng với công nghệ, phương tiện và phương pháp tiên tiến, hiện đại, tạo ra năng suất lao động xã hội cao. Đối với nước ta, đó là một quá trình thực hiện Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội nhằm cải biến một xã hội nông nghiệp lạc hậu thành một xã hội công nghiệp, gắn với việc hình thành từng bước quan hệ sản xuất tiến bộ, ngày càng thể hiện đầy đủ hơn bản chất ưu việt của chế độ mới.

Công nghiệp hoá, hiện đại hoá phải tạo ra những điều kiện cần thiết về vật chất - kỹ thuật, về con người và khoa học - công nghệ, thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế, nhằm huy động và sử dụng có hiệu quả mọi nguồn lực, không ngừng tăng năng suất lao động xã hội, làm cho nền kinh tế tăng trưởng nhanh và bền vững, nâng cao đời sống vật chất và văn hoá của nhân dân, thực hiện công bằng và tiến bộ xã hội, bảo vệ và cải thiện môi trường, sinh thái.

Thật ra, từ nhiều năm nay chúng ta đã nêu ra vấn đề công nghiệp hoá, coi đó là nhiệm vụ trung tâm xuyên suốt thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Điểm mới lần này là gắn công nghiệp hoá với hiện đại hoá, với việc áp dụng rộng rãi những thành tựu khoa học và công nghệ tiên tiến của thời đại, đúng như C.Mác đã nói: "Những thời đại kinh tế khác nhau không phải ở chỗ chúng sản xuất ra cái gì, mà là ở chỗ chúng sản xuất bằng cách nào, với những tư liệu lao động nào". Trên ý nghĩa đó, có thể coi công nghiệp là phương tiện chuyển tải công nghệ mới vào cuộc sống. Để làm được việc này, điều quyết định là ở con người, với trí tuệ và năng lực ngày càng cao; tất cả là do con người và vì con người. Qua đây, chúng ta càng hiểu sâu sắc rằng nâng cao cả mặt bằng dân trí và đỉnh cao dân trí, bồi dưỡng, phát huy nguồn lực to lớn của con người Việt Nam là nhân tố quyết định thắng lợi của công cuộc công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.

Mục tiêu của công nghiệp hoá, hiện đại hoá là tạo ra tiềm lực to lớn, đủ khả năng xây dựng cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc của toàn dân, thực hiện dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, văn minh, bảo vệ vững chắc nền độc lập của Tổ quốc. Đó là một quá trình phấn đấu lâu dài, gian khổ, đòi hỏi mọi người phải có hoài bão lớn, quyết tâm cao, chấp nhận những khó khăn, thử thách và hy sinh cần thiết để vĩnh viễn đưa dân tộc ta thoát khỏi lạc hậu, nghèo nàn, tiến lên "sánh vai cùng các cường quốc năm châu" như Bác Hồ từng nói. Đó cũng là lòng mong ước của biết bao thế hệ đi trước mà ngày nay chúng ta phải nỗ lực làm bằng được. Song, mục tiêu và mong ước đó không phải là điều xa vời, mà phải thể hiện ngay trong từng bước phát triển, quan tâm đáp ứng các nhu cầu thiết thân hằng ngày của nhân dân, từng bước cải thiện đời sống vật chất và tinh thần cho người lao động; xử lý đúng đắn mối quan hệ giữa tích luỹ và tiêu dùng, giữa lợi ích trước mắt và lâu dài; huy động đi đôi với bồi dưỡng sức dân, chăm lo nhu cầu đời sống hằng ngày đi đôi với ra sức tiết kiệm để đầu tư phát triển... Chính sự quan tâm thường xuyên đó sẽ tạo ra động lực mạnh mẽ và bền vững để thực hiện mục tiêu lâu dài, bảo đảm sự thành công của công cuộc công nghiệp hoá, hiện đại hoá.

Công nghiệp hoá, hiện đại hoá là sự nghiệp của toàn dân. Đó là một cuộc cách mạng toàn diện và sâu sắc trong tất cả các lĩnh vực đời sống xã hội, đòi hỏi phải đầu tư rất nhiều trí tuệ, sức người, sức của. Chỉ có huy động sức mạnh và khả năng sáng tạo to lớn của toàn dân, dưới sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng, sự quản lý điều hành có hiệu lực và hiệu quả của Nhà nước thì mới bảo đảm thắng lợi.

Chính sách công nghiệp nhằm thực hiện công nghiệp hoá, hiện đại hoá phải hướng tới hình thành một số ngành công nghiệp trọng yếu đối với sự phát triển kinh tế - xã hội, quốc phòng, an ninh, trong đó trọng tâm là công nghiệp chế biến và chế tạo, mà công nghiệp cơ khí và điện tử có vị trí hàng đầu. Phải vươn lên theo kịp trình độ tiên tiến của thế giới với bước đi, cơ cấu và quy mô hợp lý, phù hợp với điều kiện trong nước và khả năng hợp tác với bên ngoài trong từng thời kỳ phát triển. Chính sách công nghiệp phải gắn kết chặt chẽ với các chính sách và giải pháp phát triển các ngành và lĩnh vực khác, hỗ trợ và thúc đẩy lẫn nhau, tạo nên sự phát triển đồng bộ trong đời sống kinh tế - xã hội của đất nước.

Trong những năm trước mắt, khả năng vốn còn có hạn, nhu cầu công ăn việc làm rất bức bách, đời sống nhân dân còn nhiều khó khăn, tình hình kinh tế - xã hội chưa thật ổn định vững chắc. Vì vậy, cần tập trung nỗ lực đẩy mạnh công nghiệp hoá nông nghiệp và nông thôn, ra sức phát triển các ngành công nghiệp chế biến nông - lâm - thuỷ sản, công nghiệp hàng tiêu dùng và hàng xuất khẩu, các ngành du lịch, dịch vụ... cả ở thành thị và nông thôn. Khôi phục, phát triển, từng bước hiện đại hoá các ngành nghề tiểu thủ công truyền thống có thị trường tiêu thụ lớn trong và ngoài nước. 

Phát triển mạnh công nghiệp chế biến và chế tạo; đặc biệt quan tâm phục hồi và phát triển ngành cơ khí, phát triển ngành điện tử và tin học.

Cân nhắc, lựa chọn những dự án cũng như thời điểm khởi công trong lĩnh vực xây dựng kết cấu hạ tầng và phát triển công nghiệp nặng như năng lượng, luyện kim, hoá chất, sản xuất nguyên vật liệu...

Quan tâm đúng mức đến công nghiệp quốc phòng. Xây dựng phương án và cơ chế để huy động các ngành công nghiệp dân dụng phục vụ những nhu cầu quốc phòng một cách có hiệu quả. Đồng thời, tận dụng năng lực công nghiệp quốc phòng để làm hàng dân dụng, góp phần đáp ứng nhu cầu của sản xuất và đời sống.

Phát triển các loại hình doanh nghiệp quy mô vừa và nhỏ, với công nghệ tiên tiến, vốn đầu tư ít, suất sinh lời cao, thời gian thu hồi vốn nhanh, theo phương châm lấy ngắn nuôi dài. Đồng thời, cần xây dựng hoặc tích cực chuẩn bị để xây dựng một số công trình lớn cần thiết đối với phát triển kinh tế, xã hội trước mắt và lâu dài. Quan tâm thích đáng đầu tư chiều sâu, đổi mới trang thiết bị nhằm khai thác có hiệu quả năng lực sản xuất hiện có.

Giải quyết đúng đắn mối quan hệ giữa công nghiệp và nông nghiệp, công nhân và nông dân, thành thị và nông thôn là vấn đề có ý nghĩa chiến lược trong quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá.

Nước ta hiện là một nước nông nghiệp với 80% dân cư đang sinh sống ở nông thôn. Đây cũng là địa bàn, tập trung đại bộ phận người nghèo trong xã hội. Vì vậy, phát triển nông nghiệp và kinh tế - xã hội nông thôn đã, đang và sẽ còn là mối quan tâm hàng đầu của chúng ta. Song, nông nghiệp không thể tự mình đổi mới cơ sở vật chất - kỹ thuật và công nghệ, không có khả năng tăng trưởng đủ nhanh để tạo thêm nhiều công ăn việc làm cho nông dân. Phải có tác động mạnh của công nghiệp, dịch vụ; phát huy vai trò hạt nhân của các đô thị trên từng vùng, từng địa bàn. Chỉ có như vậy thì mới phá vỡ được trạng thái trì trệ, lạc hậu của nền kinh tế nông nghiệp sản xuất nhỏ, tăng nhanh sản phẩm xã hội và thu nhập quốc dân, thực hiện xoá đói, giảm nghèo, làm cho nông dân và nông thôn ngày càng khá giả. Đặc biệt quan tâm tới vùng căn cứ cách mạng, vùng đồng bào dân tộc thiểu số, vùng cao, vùng sâu.

Mặt khác, bản thân nông nghiệp và nông thôn cũng phải phát triển một cách tương ứng theo quan điểm công nghiệp hoá để tạo cơ sở cho công nghiệp phát triển bền vững, có hiệu quả. Phải xuất phát từ yêu cầu của công nghiệp hoá, hiện đại hoá mà đặt vấn đề phát triển nông nghiệp và nông thôn. Đầu tư cho công nghiệp trước hết phải nhằm khai thác có hiệu quả tiềm năng đa dạng về nông - lâm - ngư nghiệp, thúc đẩy nhanh việc hình thành các vùng tập trung chuyên canh, đưa công nghệ sinh học và các phương pháp canh tác tiên tiến vào nông nghiệp, từng bước công nghiệp hoá nông nghiệp và nông thôn, bảo đảm vững chắc nhu cầu lương thực, thực phẩm cho cả thành thị và nông thôn, tạo nguồn nguyên liệu có khối lượng lớn, chất lượng cao, giá thành hạ, đủ tiêu chuẩn đáp ứng yêu cầu của công nghiệp chế biến, tăng khối lượng và giá trị hàng nông sản xuất khẩu; tăng thêm công ăn việc làm và thu nhập cho nông dân, phân công lại lao động xã hội, mở rộng thị trường cho sản phẩm và dịch vụ công nghiệp. Đồng thời, nông nghiệp phải góp phần tích luỹ vốn cho công nghiệp hoá, đáp ứng nhu cầu phát triển, trước hết là phát triển chính bản thân nông nghiệp và nông thôn; bổ sung cho các ngành công nghiệp lực lượng lao động có văn hoá, sức khoẻ và kỹ năng nghề nghiệp cần thiết.

Vì vậy, xây dựng quan hệ hợp tác, bình đẳng, cùng có lợi, hỗ trợ, giúp đỡ nhau cùng phát triển giữa công nghiệp và nông nghiệp, thành thị và nông thôn, công nhân, nông dân và trí thức, là một khâu mấu chốt trong công cuộc công nghiệp hoá, hiện đại hoá.

Mối quan hệ giữa công nghiệp và nông nghiệp được thực hiện bằng các quan hệ trực tiếp qua đầu tư của công nghiệp và nông nghiệp, hoặc bằng quan hệ gián tiếp qua thị trường. Chấn chỉnh lưu thông hàng hoá giữa thành thị và nông thôn, giữa công nghệ phẩm và nông sản phẩm. Đây chính là thể hiện liên minh giữa công nhân, nông dân và trí thức trên cơ sở tự nguyện, cùng có lợi, hỗ trợ nhau cùng phát triển, từ liên minh kinh tế mà củng cố, tăng cường liên minh chính trị. Tăng cường vai trò chủ đạo của thương nghiệp quốc doanh, nhất là trong khâu bán tư liệu sản xuất và mua nông sản, thực hiện trao đổi ngang giá để thúc đẩy sản xuất phát triển, bảo đảm lợi ích của nông dân.

Phát triển giáo dục, y tế, thuỷ lợi, điện, giao thông nông thôn, bảo đảm nước sạch cho sinh hoạt, xây dựng nông thôn ngày càng văn minh, giảm bớt sự cách biệt về trình độ phát triển kinh tế, văn hoá, xã hội giữa thành thị và nông thôn, hạn chế việc di chuyển dân cư từ nông thôn vào các đô thị, khuyến khích nông dân: "rời ruộng không rời làng", phát triển ngành nghề trên địa bàn, không làm nông nghiệp nhưng vẫn sinh sống ở nông thôn.

Công nghiệp hoá, hiện đại hoá đòi hỏi phải động viên các thành phần kinh tế tích cực tham gia đầu tư phát triển.

Trong điều kiện một nền kinh tế chậm phát triển, nhất là trong hoàn cảnh nước ta, để rút ngắn thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá, Nhà nước phải động viên mọi thành phần kinh tế, mọi tầng lớp nhân dân tham gia. Dân ta còn nghèo, khả năng đầu tư còn ít, nên có nhiều việc Nhà nước phải đảm đương vì lợi ích chung của xã hội. Vì vậy, cần chấn chỉnh, đổi mới và phát triển có hiệu quả khu vực doanh nghiệp nhà nước, làm tốt vai trò chủ đạo, hỗ trợ và thúc đẩy các thành phần khác cùng phát triển. Tập trung cố gắng của doanh nghiệp nhà nước vào những khâu then chốt như kết cấu hạ tầng, những công trình đòi hỏi kỹ thuật cao, vốn đầu tư lớn, thời gian thu hồi chậm và kéo dài; đồng thời, đáp ứng nhu cầu về hàng hoá, vật tư, dịch vụ khoa học kỹ thuật, thương mại, tài chính, ngân hàng, v.v. cần thiết, tạo điều kiện thuận lợi cho sự phát triển của nền kinh tế quốc dân và của toàn xã hội.

Chú trọng phát triển quốc doanh cả trong lĩnh vực kết cấu hạ tầng, sản xuất và lưu thông phân phối. Trong thương nghiệp, không chỉ nắm đại bộ phận bán buôn mà còn phải tổ chức bán lẻ với những hình thức và quy mô phù hợp như các siêu thị, có nhiều mặt hàng phong phú, bảo đảm văn minh thương nghiệp. Cần sớm khắc phục tình trạng để cho thương nghiệp quốc doanh suy sụp, thương nghiệp hợp tác xã tan rã, đại bộ phận vận tải ôtô bị tư nhân hoá như vừa qua.

Phân loại doanh nghiệp nhà nước để có chính sách và cơ chế quản lý phù hợp:

- Có loại Nhà nước đầu tư 100% vốn. Có loại Nhà nước nắm tỷ lệ cổ phần khống chế, phần còn lại bán cho công nhân viên chức của doanh nghiệp hoặc cho các doanh nghiệp khác, các thành phần kinh tế khác. Có loại Nhà nước liên doanh trong và ngoài nước.

- Có loại hoạt động vì lợi ích chung của nền kinh tế, vì phúc lợi xã hội, không nhằm mục tiêu kinh doanh có lãi hoặc có thể bị lỗ và được Nhà nước tài trợ. Có loại hoạt động độc lập, tự chủ trong kinh doanh, làm ăn có lãi và cạnh tranh được với các thành phần kinh tế khác.

- Có những doanh nghiệp không cần giữ hình thức quốc doanh thì có thể cho thuê hoặc chuyển đổi sở hữu.

Trên cơ sở chức năng, nhiệm vụ, phạm vi hoạt động được giao mà xác định quy mô và lực lượng của từng doanh nghiệp nhà nước: có doanh nghiệp quy mô quốc gia, quốc tế; có doanh nghiệp quy mô khu vực, địa phương. Chuẩn bị hình thành một số tổ chức kinh tế lớn có mức tích tụ, tập trung cao về vốn, tổ chức chính quy, hiện đại, đủ sức cạnh tranh có hiệu quả trên thị trường trong nước và thế giới.

Xác định rõ và có những hình thức thích hợp để bảo đảm thực hiện có hiệu quả quyền sở hữu của Nhà nước đối với những tài sản công giao cho doanh nghiệp sử dụng. Mặt khác, cần trao quyền tự chủ đầy đủ, rõ ràng, tạo điều kiện cho doanh nghiệp cạnh tranh bình đẳng theo đúng pháp luật, quy định của Nhà nước như các thành phần kinh tế khác. Tích cực tìm kiếm và áp dụng các giải pháp nhằm tăng cường hiệu quả hoạt động của khu vực doanh nghiệp nhà nước, trong đó có việc thí điểm các hình thức cổ phần hoá, tổ chức hội đồng quản trị, cử giám đốc điều hành, xoá bỏ dần cơ chế "chủ quản"...

Kinh tế hợp tác có nhu cầu và triển vọng phát triển rộng lớn đối với người sản xuất nhỏ, cá thể, do tác động khách quan của quá trình xã hội hoá sản xuất. Hình thức kinh tế hợp tác rất đa dạng, theo cả chiều dọc và chiều ngang, kết hợp, đan xen nhiều loại hình sở hữu, áp dụng những biện pháp tổ chức quản lý khác nhau, những phương thức phân phối khác nhau, đáp ứng yêu cầu phát triển sản xuất kinh doanh có hiệu quả và lợi ích của các thành viên, trên nguyên tắc tự nguyện, bình đẳng, cùng có lợi.

Kinh tế tư nhân cần được khuyến khích, hỗ trợ, hướng mạnh vào phát triển sản xuất, giảm bớt buôn bán; phải làm ăn đúng pháp luật. Nhà nước bảo vệ lợi ích chính đáng của người lao động, đồng thời bảo hộ sở hữu và quyền lợi hợp pháp khác của giới chủ. Xây dựng quan hệ lao động, quan hệ chủ thợ lành mạnh trong các doanh nghiệp, chủ và thợ đoàn kết, phối hợp với nhau xử lý các mâu thuẫn, các khó khăn nảy sinh trong quá trình sản xuất, kinh doanh, để doanh nghiệp làm ăn phát đạt, chủ doanh nghiệp có lãi, đời sống người lao động được cải thiện, cùng nhau làm tròn nghĩa vụ với Nhà nước.

Nhà nước tạo môi trường kinh tế thuận lợi, có luật lệ, quy chế rõ ràng, nhất quán và ổn định, thực hiện nghiêm minh, để nhân dân yên tâm đầu tư, mở mang sản xuất kinh doanh, các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế có điều kiện cạnh tranh lành mạnh, hợp pháp.

Nhà nước giúp đỡ, hỗ trợ kinh tế hợp tác, kinh tế cá thể, kinh tế tư nhân về công nghệ, thông tin thị trường, đào tạo cán bộ, thương mại, tín dụng; hợp tác, liên doanh, góp cổ phần vào các doanh nghiệp ngoài quốc doanh để giúp họ mở rộng quy mô sản xuất kinh doanh.

Chính sách kinh tế nhiều thành phần, với nhiều hình thức, quy mô, mức độ trên đây sẽ còn tiếp tục được nghiên cứu, bổ sung, hoàn chỉnh. Đó là sự vận dụng sáng tạo tư tưởng của V.I. Lênin về chính sách kinh tế mới, mà một nội dung quan trọng của nó là chủ nghĩa tư bản nhà nước, phù hợp với hoàn cảnh thực tế nước ta trong thời đại ngày nay.

Công nghiệp hoá, hiện đại hoá phải được tiến hành theo mô hình một nền kinh tế mở, cả trong nước và với nước ngoài. Phát huy hơn nữa quyền tự chủ, tính năng động sáng tạo, tăng cường liên doanh, liên kết, hợp tác cùng có lợi giữa các ngành, các địa phương và cơ sở để phát triển sản xuất kinh doanh có hiệu quả. Khuyến khích các hình thức đa dạng và các giải pháp cụ thể, thi đua đuổi kịp và vượt các đơn vị, địa phương khác, nhưng phải chống cục bộ, bản vị, vô tổ chức, vi phạm kỷ luật, kỷ cương, pháp luật của Nhà nước, phương hại đến lợi ích chung.

Nhà nước cũng như doanh nghiệp phải tìm cách thích ứng và khai thác tốt những thuận lợi của xu thế quốc tế hoá sản xuất và đời sống, hiểu rõ đối tác, có chiến lược và sách lược khôn ngoan để chiến thắng trong cuộc cạnh tranh kinh tế ngày càng gay gắt.

Trong bối cảnh khu vực và quốc tế hiện nay, sự hạn chế về quỹ đất và về phần lớn các loại tài nguyên, sự dồi dào về nguồn nhân lực, lợi thế về giá nhân công rẻ, vị trí địa lý thuận lợi, đòi hỏi và cho phép chúng ta lựa chọn chiến lược công nghiệp hoá hướng về xuất khẩu là chính để phát triển nhanh, đồng thời thay thế nhập khẩu những hàng hoá - dịch vụ trong nước tự cung ứng có hiệu quả hơn. Hướng về xuất khẩu là cách thức tận dụng những lợi thế so sánh, tranh thủ sức mua lớn trên thị trường thế giới để tích tụ vốn nhằm nhanh chóng mở rộng quy mô và nâng cao trình độ sản xuất trong nước, tạo thêm nhiều việc làm và thu nhập, tăng khả năng nhập vật tư, thiết bị để tạo ra những hàng hoá, dịch vụ có giá trị gia tăng lớn, chất lượng cao, có sức cạnh tranh mạnh cả trên thị trường nội địa và thị trường thế giới, đáp ứng nhu cầu sản xuất và đời sống của nhân dân.

Để thực hiện thành công chiến lược hướng về xuất khẩu, phải tạo được sự tin cậy trong quan hệ quốc tế trên ba mặt sau đây: trong thanh toán bằng ngoại tệ, trong việc thực hiện các hợp đồng buôn bán, trong việc bảo đảm phẩm chất của hàng hoá. Đặc biệt chú trọng không ngừng nâng cao chất lượng hàng xuất khẩu.

Hướng về xuất khẩu phải đi đôi với khuyến khích phát triển mạnh và bảo hộ đúng mức sản xuất nội địa, không để hàng ngoại nhập lậu tràn lan, bóp chết hàng nội, khiến sản xuất trong nước bị giảm sút hoặc đình đốn, người lao động mất công ăn việc làm và thu nhập.

Nước ta trải dài dọc theo bờ biển, bề ngang hẹp, khoảng cách giữa vùng đồng bằng duyên hải và các trung tâm đô thị tới các vùng trung du, miền núi không xa. Trong khi đó, vùng biển của ta rất rộng lớn, với nhiều tiềm năng phong phú, nhiều tuyến giao lưu quốc tế, nằm trong khu vực đang và sẽ phát triển sôi động nhất trên thế giới. Một số vùng tuy nằm xa bờ biển nhưng lại tiếp giáp với các nước láng giềng, có điều kiện mở rộng giao lưu, hợp tác. Cần tận dụng lợi thế này để tích cực mở cửa thu hút đầu tư trong và ngoài nước vì lợi ích của từng vùng và của cả nước, mở mang kinh tế biển, kinh tế vùng biên giới, làm cho giao thông liên lạc, giao lưu hàng hoá thông suốt giữa các vùng. Nơi đã mở, có điều kiện tốt thì mở mạnh hơn; nơi chưa đủ điều kiện thì tích cực chuẩn bị để mở cửa; nơi thiếu hoặc không có điều kiện thì hợp tác, liên kết với nơi có điều kiện để mở cửa. Qua đó, huy động được toàn dân tham gia vào quá trình phát triển, phân phối lợi ích công bằng hơn, giảm bớt mức độ chênh lệch về kinh tế - xã hội giữa các tầng lớp dân cư và các vùng trong nước.

Kinh tế hợp tác, liên doanh với nước ngoài không chỉ là phương thức chính để thu hút vốn đầu tư bên ngoài, mà còn là con đường thích hợp để tiếp nhận công nghệ, kỹ năng, kinh nghiệm quản lý tiên tiến, mở lối đi vào thị trường khu vực và thị trường thế giới, thúc đẩy xuất khẩu, tăng năng lực cạnh tranh, điều chỉnh và chuyển dịch cơ cấu kinh tế phù hợp với biến đổi của tình hình quốc tế, khai thác có hiệu quả những lợi thế so sánh trong từng thời kỳ phát triển.

Chúng ta cần tích cực cải thiện hơn nữa môi trường đầu tư, đổi mới tổ chức và quản lý hoạt động hợp tác, liên doanh với nước ngoài, có nhiều hình thức thích hợp để tận dụng mọi nguồn vốn đầu tư, chú trọng phát triển các quan hệ hợp tác với các công ty đa quốc gia, xuyên quốc gia nhằm tạo thế đứng trong quá trình hội nhập nền kinh tế khu vực và thế giới.

Chính sách kinh tế mở là đúng đắn và phải được tiếp tục thực hiện tốt hơn nữa, hiệu quả hơn nữa. Phải tập trung cho những chương trình, lĩnh vực, địa bàn thiết yếu, lựa chọn những dự án cần thiết, tranh thủ thu hút vốn, công nghệ hiện đại và kỹ năng quản lý tiên tiến.

Phải tăng cường quản lý và chỉ đạo thống nhất quá trình mở cửa, hợp tác với bên ngoài. Chuẩn bị tốt cả về kinh tế và chính trị. Chuẩn bị tốt các chương trình, quy hoạch, kế hoạch, dự án hợp tác với bên ngoài, không bỏ lỡ thời cơ, không gây thiệt hại cho lợi ích của dân tộc. Đồng thời, chuẩn bị tốt về tổ chức, cán bộ, cả về quan điểm, tư tưởng, năng lực và phẩm chất. Hợp tác phải trên cơ sở giữ vững độc lập, chủ quyền, bảo đảm lợi ích kinh tế, chính trị, văn hoá, xã hội, bảo đảm quốc phòng, an ninh.

Công nghiệp hoá, hiện đại hoá phải được thực hiện theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa.

Xử lý tốt mối quan hệ giữa kế hoạch và thị trường. Việc xây dựng và thực hiện các chương trình, kế hoạch phát triển công nghiệp và công nghệ phải xuất phát từ những yêu cầu của sản xuất và đời sống trong nước và xuất khẩu, thông qua việc đánh giá và dự báo đúng đắn nhu cầu và chiều hướng phát triển của thị trường trong và ngoài nước. Giá cả phần lớn hàng hoá, dịch vụ được hình thành trên thị trường Nhà nước can thiệp trong trường hợp thật cần thiết. Thị trường phản ánh nhu cầu xã hội, có tiếng nói quyết định trong việc phân bổ phần lớn các nguồn lực để sản xuất cái gì, bao nhiêu, cho ai, bằng cách nào, kể cả đối với những nguồn lực tập trung của Nhà nước. Doanh nghiệp nhà nước cũng như tư nhân được tạo đủ điều kiện tự chủ kinh doanh, căn cứ vào tín hiệu thị trường, thông qua cạnh tranh lành mạnh, hợp pháp mà đổi mới và phát triển.

Đối với mọi quốc gia, kể cả nước ta, chi tiêu của Nhà nước bao giờ cũng là nguồn chi lớn nhất. Nguồn chi đó phải được kế hoạch hoá thông qua việc Nhà nước sử dụng một cách tập trung các nguồn vốn trong và ngoài nước, các công cụ và phương tiện cần thiết để đầu tư cho các chương trình, dự án trọng điểm, chủ yếu là xây dựng kết cấu hạ tầng và một số ngành, lĩnh vực, công trình then chốt có tác dụng thúc đẩy sự phát triển mạnh mẽ của toàn bộ nền kinh tế và xã hội. Việc chi tiêu của Nhà nước phải được hạch toán và quản lý chặt chẽ, lấy hiệu quả làm thước đo, với tinh thần triệt để tiết kiệm, chống lãng phí, tham ô, làm với bất cứ giá nào.

Đồng thời, Nhà nước phải thực hiện tốt vai trò quản lý toàn bộ quá trình phát triển kinh tế - xã hội. Thông qua pháp luật, các chương trình, kế hoạch, chính sách phát triển, các biện pháp tổ chức, hành chính, kinh tế, trong đó biện pháp kinh tế là chính, Nhà nước duy trì cân bằng cung cầu; xuất nhập, thu chi, tiền hàng..., ổn định vĩ mô, tạo môi trường và thể chế thuận lợi cho sản xuất kinh doanh phát triển; can thiệp và điều tiết thị trường, khắc phục những biến động lớn, những khuyết tật vốn có của thị trường để nó hoạt động hữu hiệu, trở thành công cụ điều tiết có hiệu quả hoạt động của các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế.

Nhà nước cũng thi hành các chính sách, biện pháp chăm lo sự nghiệp giáo dục, đào tạo, y tế, văn hoá, xã hội, bảo vệ môi trường, giữ vững ổn định chính trị, trật tự an toàn xã hội, củng cố quốc phòng an ninh, duy trì hiệu lực của pháp luật, tạo điều kiện thuận lợi cho toàn dân làm ăn, sinh sống.

Công nghiệp hoá, hiện đại hoá đòi hỏi phải huy động và sử dụng có hiệu quả cao mọi nguồn vốn trong và ngoài nước.

Nghị quyết Hội nghị đại biểu toàn quốc giữa nhiệm kỳ đã chỉ rõ: "Để công nghiệp hoá, hiện đại hoá, cần huy động nhiều nguồn vốn, gắn với sử dụng vốn có hiệu quả. Trong đó, nguồn vốn trong nước là quyết định, nguồn vốn từ bên ngoài là quan trọng". Đây là một tư tưởng chỉ đạo quan trọng cần được quán triệt sâu sắc, cả trước mắt và lâu dài.

Nguồn vốn cho công nghiệp hoá, hiện đại hoá bao gồm nguồn nhân lực, tài sản cố định tích luỹ từ nhiều thế hệ, tài nguyên thiên nhiên, vị trí địa lý và nhiều loại vốn hữu hình cũng như vô hình khác. Đó là nguồn vốn rất to lớn và quý báu của nước ta, nhưng một bộ phận đáng kể chưa được huy động và sử dụng tốt, thậm chí còn bị lãng phí, thất thoát, bị chiếm đoạt vì lợi ích riêng của một số người.

Chúng ta phải tận dụng khả năng để thu hút tối đa các nguồn vốn bên ngoài. Song trên thị trường vốn quốc tế hiện nay, cung về vốn cho các nước đang phát triển thấp hơn nhiều so với cầu về vốn của các nước đó. Chúng ta đang và sẽ gặp phải những đối thủ cạnh tranh rất mạnh trên lĩnh vực này. Thật là sai lầm nếu kỳ vọng quá lớn vào nguồn vốn bên ngoài, ỷ lại, trông chờ vào đó, trong khi không tận lực khai thác nguồn vốn sẵn có bên trong.

Vốn bên ngoài, dù là viện trợ phát triển chính thức (ODA) hay vốn đầu tư trực tiếp (FDI) hầu hết là loại vốn phải hoàn trả, kèm theo lãi suất. Nguồn trang trải quy cho đến cùng chính là từ kết quả lao động của bản thân chúng ta; kể cả ngân sách cũng là do toàn dân đóng góp. Vì vậy, phải tính toán thận trọng, huy động và sử dụng vốn bên ngoài vào những lĩnh vực, những địa bàn cần thiết, có hiệu quả. Chỉ có như vậy, chúng ta mới giữ vững được độc lập, chủ quyền về kinh tế, tránh được tình cảnh nợ nần chồng chất cũng như những hậu quả nghiêm trọng về nhiều mặt khác.

Chúng ta không máy móc, đòi hỏi bất cứ công trình gì, tại thời điểm nào, vốn đầu tư trong nước cũng phải chiếm tỷ trọng lớn hơn vốn bên ngoài. Cơ quan điều hành các cấp phải căn cứ vào những điều kiện cụ thể, lấy hiệu quả kinh tế - xã hội làm tiêu chuẩn cao nhất để quyết định những phương án thích hợp. Song cần nhấn mạnh rằng, sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá là sự nghiệp của bản thân nhân dân ta, do sức ta làm nên là chính.

Phải chấn chỉnh hoạt động tài chính - ngân hàng, huy động, phân bổ và sử dụng vốn có hiệu quả. Tính toán chi tiêu thận trọng, tiết kiệm, căn cứ vào khả năng thu. Mọi người phải sống bằng kết quả lao động của bản thân, của gia đình; lo cho cuộc sống trước mắt và lâu dài, đồng thời đóng góp để phát triển đất nước và bảo vệ Tổ quốc.

Toàn Đảng, toàn quân, toàn dân ta phải nỗ lực vượt bậc, phấn đấu làm ăn có hiệu quả, nêu cao tinh thần độc lập tự chủ, ý chí tự lực tự cường, ra sức cần kiệm trong sản xuất, tiết kiệm trong tiêu dùng, khắc phục những yếu kém và tiêu cực gây thất thoát, lãng phí tiền của của Nhà nước và nhân dân, dồn vốn cho đầu tư phát triển.

Thưa các đồng chí,

Trong thời đại xu hướng quốc tế hoá sản xuất và đời sống ngày một gia tăng, cách mạng khoa học - kỹ thuật trên thế giới đang diễn ra như vũ bão, thì công nghiệp hoá phải đi đôi với hiện đại hoá, với việc đổi mới và nâng cao trình độ văn hoá - giáo dục, khoa học - công nghệ.

Ngày nay, văn hoá được coi là một yếu tố nội sinh không phải chỉ là kết quả mà còn là nguyên nhân của sự phát triển. Phát triển kinh tế - xã hội phải đặt trên nền tảng văn hoá mang bản sắc dân tộc, đồng thời tiếp thụ các giá trị tinh hoa của loài người. Văn hoá phải kết tinh thành trí tuệ của cả dân tộc, được kế thừa, phát triển qua nhiều thế hệ, tạo ra sức mạnh vật chất, tinh thần to lớn của toàn dân để xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.

Khoa học và công nghệ có vai trò quyết định lợi thế cạnh tranh và tốc độ phát triển của các quốc gia. Phần thắng trong cuộc chiến "ai thắng ai" trên thị trường, quy cho đến cùng là do trí tuệ và năng lực sáng tạo của cả dân tộc, biết học hỏi một cách khôn ngoan kinh nghiệm và thành tựu tri thức của nhân loại, tận dụng được lợi thế của nước đi sau, đề ra được những chủ trương, biện pháp thích hợp với đất nước trong hoàn cảnh mới, giải quyết có hiệu quả các vấn đề kinh tế - xã hội, công nghệ, kỹ thuật, môi trường, sinh thái. Muốn vậy, phải chú trọng bồi dưỡng và sử dụng tốt nguồn nhân lực có trình độ văn hoá và kỹ năng nghề nghiệp ngày càng cao, ưu tiên hàng đầu cho phát triển giáo dục - đào tạo, nghiên cứu và triển khai, xây dựng tiềm lực khoa học và công nghệ ngày càng lớn mạnh, giải quyết tốt mối quan hệ giữa kinh tế và văn hoá trong quá trình phát triển.

Những chính sách, giải pháp đúng trong phát triển giáo dục và đào tạo phải hướng tới hình thành một nguồn nhân lực đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá trong thời đại ngày nay. Đó là một nguồn nhân lực bao gồm những con người có đức, có tài, ham học hỏi, thông minh, sáng tạo, làm việc quên mình vì nền độc lập và sự phồn vinh của Tổ quốc; được chuẩn bị tốt về kiến thức văn hoá, được đào tạo thành thạo về kỹ năng nghề nghiệp, về năng lực quản lý sản xuất kinh doanh, về điều hành vĩ mô nền kinh tế và toàn xã hội, có trình độ khoa học - kỹ thuật vươn lên ngang tầm thế giới.

Chính sách khoa học và công nghệ không chỉ giới hạn ở việc xử lý các vấn đề công nghệ và kỹ thuật trong quá trình phát triển công nghiệp. Công cuộc công nghiệp hoá, hiện đại hoá đòi hỏi chúng ta phải quan tâm xây dựng và phát huy tốt lực lượng nghiên cứu khoa học xã hội và nhân văn, khoa học tự nhiên và khoa học kỹ thuật, kết hợp có hiệu quả thành tựu của nhiều bộ môn khoa học vào việc giải quyết các vấn đề được đặt ra.

Muốn cho khoa học và công nghệ trở thành động lực của sự phát triển thì trước hết phải tìm ra động lực cho sự phát triển của bản thân khoa học và công nghệ. Động lực này nằm ở lợi ích của những người nghiên cứu, phát minh và ứng dụng có hiệu quả khoa học và công nghệ, bao gồm cả lợi ích vật chất và lợi ích tinh thần, lợi ích kinh tế và lợi ích chính trị - xã hội. Sản phẩm trí tuệ trước hết phải là sở hữu của người trực tiếp tạo ra chúng, được coi như những thứ hàng hoá đặc biệt, được trả giá tương xứng với giá trị của chúng.

Gắn hoạt động nghiên cứu khoa học và công nghệ với thực tiễn, với nhu cầu xã hội, thiết lập các quan hệ trực tiếp giữa doanh nghiệp với cơ quan và người làm công tác nghiên cứu, phát minh, sáng chế trên cơ sở bạn hàng, cùng có lợi; trả công thoả đáng, tương xứng với hiệu quả kinh tế - xã hội của việc áp dụng các kết quả nghiên cứu khoa học và công nghệ nhằm khuyến khích các nhà khoa học hăng hái, miệt mài sáng tạo, sáng chế, phát minh để có cuộc sống ngày càng đầy đủ hơn bằng chính trí tuệ của mình. Thực hiện nghiêm chỉnh pháp lệnh của Nhà nước về bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp và điều lệ của Chính phủ về sáng kiến cải tiến kỹ thuật, hợp lý hoá sản xuất và sáng chế. Đó là một trong những phương hướng quan trọng nhất tạo nên động lực bền vững cho sự phát triển khoa học và công nghệ.

Tạo những điều kiện làm việc cần thiết cho nhà khoa học như cung cấp thông tin, trang bị phương tiện thí nghiệm, các cơ sở triển khai...; ứng dụng nhanh các kết quả nghiên cứu vào thực tiễn. Xây dựng môi trường dân chủ, đoàn kết và ý thức trách nhiệm cao trong lĩnh vực nghiên cứu. Khuyến khích, trân trọng những tìm tòi khoa học, những kiến giải khác nhau về các vấn đề của tự nhiên, kỹ thuật cũng như kinh tế - xã hội, không định kiến, hẹp hòi, làm thui chột nhiệt tình sáng tạo của người nghiên cứu. Phát hiện, bồi dưỡng và trọng dụng tài năng. Tìm ra những hình thức tổ chức, phương thức và cơ chế hoạt động cho phép kết hợp và phát huy tối đa trí tuệ tập thể cũng như tài năng cá nhân của nhà khoa học. Đó cũng là những biện pháp quan trọng tạo nên động lực to lớn thúc đẩy sự phát triển của khoa học và công nghệ.

Về phần mình, các nhà khoa học phải nêu cao lòng yêu nước, xây dựng hoài bão lớn, cống hiến quên mình cho sự nghiệp nghiên cứu, sáng chế, phát minh, đóng góp tích cực và có hiệu quả cho xã hội, cho công cuộc công nghiệp hoá, hiện đại hoá, đáp ứng sự tin cậy của Đảng, Nhà nước và nhân dân.

Đương nhiên phải có sự đầu tư thoả đáng về phương diện tài chính thì mới có thể tạo ra tiềm lực khoa học và công nghệ mạnh. Đầu tư lâu nay thấp xa so với mức tối thiếu cần thiết. Điều đó có nguyên nhân ở việc chưa coi đầu tư cho khoa học và công nghệ là đầu tư cho phát triển, cũng có phần do khó khăn chung của nền kinh tế và sự eo hẹp của ngân sách. Song cái chính là ở chỗ cách xử lý chưa trúng nguồn vốn đầu tư cho khoa học và công nghệ; cơ chế quản lý khoa học - công nghệ, huy động, phân bổ và sử dụng vốn còn mang nặng tính chất tập trung quan liêu bao cấp, kém hiệu quả.

Đầu tư cho nghiên cứu khoa học, đổi mới công nghệ, nhất là ở khâu nghiên cứu và triển khai, phải là nhiệm vụ của cả xã hội, trong đó nguồn lớn nhất là từ các cơ sở sản xuất kinh doanh, nơi mà cạnh tranh thị trường đòi hỏi phải luôn luôn tìm cách áp dụng các phát minh sáng chế, đổi mới công nghệ, trang thiết bị, đổi mới mẫu mã sản phẩm, nâng cao chất lượng, tăng năng suất lao động, hạ giá thành sản phẩm. ở nhiều nước, các doanh nghiệp không chỉ mua phát minh, sáng chế, đặt hàng và tài trợ cho các trung tâm khoa học và cho các nhà khoa học, mà còn tự tổ chức những cơ sở nghiên cứu và triển khai có đủ trang bị kỹ thuật, phương tiện vật chất và nguồn nhân lực cần thiết.

ở nước ta, các doanh nghiệp từ hộ nông dân, ngư dân, tiểu, thủ công nghiệp đến các cơ sở kinh tế lớn của Nhà nước đều đang có nhu cầu rất bức bách về đổi mới công nghệ, áp dụng tiến bộ khoa học - kỹ thuật vào sản xuất kinh doanh để có thể đứng vững và phát triển. Do năng lực bản thân còn có hạn, họ rất cần những dịch vụ khoa học - kỹ thuật, những phát minh, sáng chế cả về công nghệ lẫn về tổ chức, quản lý. Nắm bắt đúng các nhu cầu thực tiễn, xây dựng các mối quan hệ liên kết trực tiếp giữa khoa học và sản xuất, tổ chức ký kết các hợp đồng nghiên cứu, ứng dụng đem lại lợi ích thiết thực cho doanh nghiệp... là phương thức và cơ chế cho phép tăng nguồn vốn đầu tư cho phát triển khoa học và công nghệ, đồng thời bảo đảm sử dụng vốn có hiệu quả. Doanh nghiệp phải là người tài trợ chính và trực tiếp cho nghiên cứu và triển khai, cũng là người kiểm nghiệm, đánh giá và cùng chia sẻ lợi ích của việc áp dụng thành quả khoa học với nhà nghiên cứu, phát minh. Các doanh nghiệp lớn sẽ dần dần lập ra những cơ sở nghiên cứu triển khai của riêng mình, trong khi vẫn dựa vào bộ máy và lực lượng của cả nước để giải quyết các vấn đề lớn về khoa học và công nghệ.

Các cơ sở nghiên cứu và lực lượng cán bộ khoa học thực hiện các đề tài nghiên cứu ứng dụng cụ thể phải từng bước chuyển sang hạch toán kinh doanh, gắn với các doanh nghiệp, lấy kết quả thu được từ việc ứng dụng thành tựu khoa học vào thực tiễn sản xuất kinh doanh mà bù đắp chi phí và phát triển. Chấp hành nghiêm túc chế độ bảo mật đối với những sáng chế có liên quan đến quốc phòng, an ninh và những sáng chế cần giữ bí mật vì lợi ích quốc gia.

Nhà nước có những hỗ trợ nhất định cho các nghiên cứu ứng dụng cụ thể, nhất là trong giai đoạn đầu, nhưng người gánh vác phần chủ yếu phải là doanh nghiệp. Nhà nước tập trung đầu tư xây dựng đồng bộ, trang bị đủ phương tiện cần thiết cho những trung tâm nghiên cứu khoa học và công nghệ tầm cỡ quốc gia; tài trợ cho những đề tài nghiên cứu khoa học cơ bản, xử lý những vấn đề mang tính vĩ mô, liên ngành; thực hiện những giải pháp lớn nhằm phát triển các ngành khoa học cơ bản với công nghệ cao, bảo vệ và cải thiện môi trường sinh thái.

Tận dụng lợi thế của nước đi sau, chúng ta phải tập trung trước hết cho việc tiếp thu và vận dụng sáng tạo các thành tựu khoa học, kỹ thuật của thế giới; ứng dụng, làm chủ và nhân rộng các công nghệ tiến bộ đi đôi với việc quản lý chặt chẽ công nghệ nhập, lường trước và ngăn chặn các hậu quả tiêu cực, lâu dài. Đồng thời, phải biết dành nỗ lực nhất định cho những mũi nhọn phát triển, tìm cách đi tắt, đón đầu, tạo nên lợi thế cạnh tranh mạnh cả về phương diện khoa học và công nghệ để bảo đảm sự tăng trưởng nhanh và lâu bền của nền kinh tế, gắn với việc xử lý tốt các vấn đề công bằng và tiến bộ xã hội, môi trường sinh thái.

Thưa các đồng chí,

Nhiệm vụ chính trị quan trọng nhất của Đảng ta trong thời kỳ này là xây dựng và mở rộng khối đại đoàn kết toàn dân, động viên mọi thành phần, mọi tầng lớp nhân dân trong nước và người Việt Nam sinh sống ở nước ngoài đồng tâm nhất trí, nỗ lực phấn đấu góp phần đẩy tới một bước công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.

Muốn vậy, trước hết phải xây dựng Đảng thật sự trong sạch, vững mạnh, có bản lĩnh chính trị vững vàng, tầm nhìn sâu rộng, tổ chức chặt chẽ, nghiêm minh, năng lực lãnh đạo và chỉ đạo giỏi, đề ra và thực hiện được những đường lối, chủ trương, chính sách đúng đắn, giữ vững ổn định chính trị, xã hội, tranh thủ thời cơ đẩy mạnh phát triển kinh tế, đưa đất nước vượt qua mọi khó khăn thử thách, trở thành một nước công nghiệp trong vài ba thập kỷ tới.

Cán bộ, đảng viên phải vừa có giác ngộ sâu sắc về lý tưởng, vừa có kiến thức và năng lực chuyên môn, gương mẫu, sáng tạo, cần kiệm trong lao động sản xuất và trong sinh hoạt, biết tổ chức và vận động nhân dân thực hiện tốt đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước.

Cần tập trung nghiên cứu xác định đúng vai trò, chức năng, nhiệm vụ của Nhà nước trong cơ chế mới. Trên cơ sở đó, chấn chỉnh, đổi mới tổ chức và cơ chế hoạt động của bộ máy nhà nước, làm cho bộ máy gọn nhẹ, trong sạch, cán bộ tinh thông nghiệp vụ, tận tuỵ với công việc, làm việc có hiệu lực và hiệu quả.

Kiên quyết bài trừ nạn tham nhũng, thói xa hoa, lãng phí, tệ quan liêu, ức hiếp dân, tình trạng thiếu kỷ luật, kỷ cương, đang gây ra thất thoát nghiêm trọng, làm xói mòn lòng tin của nhân dân, làm suy yếu khối thống nhất ý chí và hành động của toàn dân.

Phải coi vấn đề xây dựng giai cấp công nhân và công tác công đoàn là một nghiên cứu trọng tâm của toàn Đảng trong thời kỳ phát triển mới, bởi vì chỉ với một giai cấp công nhân trưởng thành về chính trị, có trình độ tổ chức, kiến thức và kỹ năng nghề nghiệp cao, mới có thể là nòng cốt để liên minh với nông dân, trí thức, tập hợp và đoàn kết các thành phần khác, phấn đấu cho thành công của sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá.

Việc chuyển sang nền kinh tế nhiều thành phần, vận động theo cơ chế thị trường, mở rộng hợp tác liên doanh với bên ngoài, cùng những tác động mới về khoa học - công nghệ đang và sẽ làm biến đổi cơ cấu, chiều hướng phát triển của giai cấp công nhân, các mối quan hệ chính trị - xã hội giữa công nhân với những thành phần xã hội khác. Ngày nay, đội ngũ công nhân không chỉ là những người lao động sản xuất và dịch vụ công nghiệp thuộc các doanh nghiệp nhà nước và hợp tác xã, mà còn bao gồm những công nhân lao động thuộc khu vực tư nhân, cá thể, hợp tác liên doanh với nước ngoài. Một số ngành nghề, lĩnh vực hoạt động bị thu hẹp hoặc biến mất, trong khi đó một số ngành nghề khác lại đang được mở rộng và phát triển; đã, đang và sẽ xuất hiện những ngành nghề, lĩnh vực mới do tiến bộ khoa học - công nghệ và đòi hỏi khách quan của xã hội, của việc quốc tế hoá sản xuất và đời sống. Xu hướng trí thức hoá công nhân, giảm bớt lao động chân tay nặng nhọc, tăng cường yếu tố trí tuệ và lao động trí óc ngay trong dây chuyền công nghiệp đang tăng lên.

Xây dựng giai cấp công nhân phải bắt đầu từ việc tạo động lực cho giai cấp công nhân vươn lên đi đầu trong công cuộc đổi mới đất nước, làm lực lượng chủ yếu trong quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá, không ngừng phát triển về số lượng, nâng cao về chất lượng, thích ứng với cơ chế mới, làm chủ công nghệ hiện đại.

Động lực trực tiếp đối với người công nhân chính là những lợi ích thiết thân về việc làm, thu nhập, các nhu cầu ngày càng tăng về văn hoá - xã hội. Cần quan tâm thường xuyên và có giải pháp cụ thể để đáp ứng tốt hơn những nhu cầu đó. Song, lợi ích của người công nhân chỉ có thể thực hiện bằng chính lao động của bản thân mình, doanh nghiệp mình với năng suất cao, chất lượng tốt, chi phí thấp, cạnh tranh thắng lợi trên thị trường trong và ngoài nước. Mỗi người phải phát huy cao độ năng lực tự chủ, sáng tạo, ra sức học tập nâng cao trình độ nghề nghiệp, kiến thức và kỹ năng lao động; xử lý tốt những vấn đề phát sinh, nhất là quan hệ về lợi ích, nhằm xây dựng quan hệ cộng đồng trách nhiệm, hợp tác cùng có lợi trong nội bộ xí nghiệp nhà nước cũng như tư nhân, tham gia cải tiến tổ chức quản lý, áp dụng công nghệ tiến bộ để phát triển doanh nghiệp có hiệu quả, tuân thủ pháp luật nhà nước.

Đồng thời, động lực sâu xa của sự phát triển giai cấp công nhân với tư cách giai cấp tiên phong là ở chỗ lãnh đạo thành công công cuộc xây dựng một xã hội mới, trong đó nhân dân lao động làm chủ, đất nước độc lập và phồn vinh, xoá bỏ áp bức bất công, mọi người đều có điều kiện phấn đấu cho cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc. Lợi ích đó phù hợp về căn bản với lợi ích chung của cả dân tộc, được đặt ra và giải quyết trong quan hệ tổng hoà về lợi ích với nông dân, trí thức, các tầng lớp lao động khác cũng như giới chủ doanh nghiệp thuộc khu vực tư nhân, hợp tác, liên doanh với nước ngoài.

Giai cấp công nhân phải là nòng cốt để phát triển các quan hệ liên minh vững chắc về kinh tế và chính trị với nông dân, thúc đẩy giao lưu hàng hoá giữa công nghiệp và nông nghiệp, thành thị và nông thôn, từng bước công nghiệp hoá nông nghiệp và nông thôn, mở rộng thành phần công nhân trong lao động nông nghiệp. Giai cấp công nhân phải vươn lên làm chủ khoa học kỹ thuật và công nghệ mới, tự mình trí thức hoá, đồng thời có chính sách đoàn kết và động viên giới trí thức đem hết tâm huyết và tài năng phục vụ sự nghiệp xây dựng xã hội mới. Giai cấp công nhân phải là chỗ dựa tin cậy của Đảng, giúp đỡ, hướng dẫn các tầng lớp nhân dân lao động khác khắc phục khó khăn, ra sức phát triển sản xuất kinh doanh, cải thiện đời sống, tham gia giải quyết các công việc chung của xã hội. Giai cấp công nhân phải hỗ trợ, khuyến khích giới chủ doanh nghiệp yên tâm đầu tư mở rộng sản xuất kinh doanh theo đúng pháp luật nhà nước, tạo thêm nhiều việc làm, làm giàu cho mình và cho Tổ quốc, có vị trí xứng đáng trong cộng đồng dân tộc.

Giai cấp công nhân chỉ trở thành giai cấp lãnh đạo khi mỗi thành viên ngày càng giác ngộ sâu sắc về lý tưởng cách mạng, về sứ mệnh lịch sử của giai cấp mình, được tổ chức chặt chẽ và được dẫn dắt bởi một đảng tiền phong vững mạnh. Xây dựng giai cấp công nhân đòi hỏi phải xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh, có cơ sở sâu rộng trong tất cả các ngành, các lĩnh vực, các thành phần kinh tế; củng cố, đổi mới và phát triển Công đoàn cùng các tổ chức chính trị - xã hội khác dưới sự lãnh đạo của Đảng. Đồng thời, giai cấp công nhân có nhiệm vụ góp phần xây dựng Đảng, xây dựng Công đoàn và các tổ chức chính trị - xã hội khác, mở rộng khối đại đoàn kết toàn dân, thống nhất ý chí và hành động để đưa cả dân tộc tiến lên, hoàn thành xuất sắc công cuộc công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.

*
*     *

Trên đây là một số ý kiến mà tôi muốn nhấn mạnh thêm để các đồng chí tham khảo trong quá trình thảo luận và quyết định.

Chúc các đồng chí Cố vấn và các đồng chí Uỷ viên Trung ương mạnh khoẻ.

Chúc Hội nghị toàn thể lần thứ bảy Ban Chấp hành Trung ương khoá VII thành công tốt đẹp.


Lưu tại Kho Lưu trữ
Trung ương Đảng.

Phản hồi

Thông tin người gửi phản hồi

Hướng dẫn kiểm tra, giám sát phục vụ đại hội đảng bộ các cấp tiến tới Đại hội XIV của Đảng

(ĐCSVN) - Tại văn bản số 08-HD/UBKTTW ngày 18/11/2024, Ủy ban Kiểm tra Trung ương hướng dẫn công tác kiểm tra, giám sát phục vụ đại hội đảng bộ các cấp tiến tới Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIV của Đảng.

Phương án nghiên cứu sắp xếp, sáp nhập các bộ, cơ quan thuộc Chính phủ

(ĐCSVN) - Theo phương án nghiên cứu sắp xếp, sáp nhập được Trưởng Ban Tổ chức Trung ương Lê Minh Hưng nêu tại Hội nghị toàn quốc sáng 1/12, sẽ tối thiểu giảm được 5 bộ, 2 cơ quan trực thuộc Chính phủ.

Phương án sáp nhập các ủy ban của Quốc hội và cơ quan thuộc Ủy ban Thường vụ Quốc hội

(ĐCSVN) - Sáng 1/12, Trưởng Ban Tổ chức Trung ương Lê Minh Hưng thông báo chuyên đề về các nội dung chính, trọng tâm việc triển khai tổng kết Nghị quyết 18. Theo phương án định hướng được nêu sẽ giảm 4 ủy ban của Quốc hội và 1 cơ quan trực thuộc Ủy ban Thường vụ Quốc hội.

Phương án giảm 4 cơ quan Đảng, 25 ban cán sự đảng, 16 đảng đoàn trực thuộc Trung ương

(ĐCSVN) - Sáng 1/12, đồng chí Lê Minh Hưng, Uỷ viên Bộ Chính trị, Bí thư Trung ương Đảng, Trưởng ban Tổ chức Trung ương đã trình bày các nội dung chính, trọng tâm việc triển khai tổng kết Nghị quyết 18-NQ/TW của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XII.

Quy trình kỷ luật đảng viên thuộc thẩm quyền của Trung ương Đảng, Bộ Chính trị, Ban Bí thư

(ĐCSVN) - Thay mặt Bộ Chính trị, Thường trực Ban Bí thư Lương Cường vừa ký Quyết định số 165-QĐ/TW ngày 6/6/2024 của Bộ Chính trị ban hành Quy trình xem xét, thi hành kỷ luật đối với tổ chức Đảng, đảng viên thuộc thẩm quyền của Ban Chấp hành Trung ương Đảng, Bộ Chính trị, Ban Bí thư.

Liên kết website