NGHỊ QUYẾT
HỘI NGHỊ LẦN THỨ BẢY
BAN CHẤP HÀNH TRUNG ƯƠNG ĐẢNG KHÓA VII
số 07 - NQ/HNTW, ngày 30 tháng 7 năm 1994
Phát triển công nghiệp, công nghệ đến năm 2000 theo hướng công nghiệp hoá,
hiện đại hoá đất nước và xây dựng giai cấp công nhân trong giai đoạn mới
----------------------------------------
Công nghiệp hoá, hiện đại hoá là quá trình chuyển đổi căn bản, toàn diện các hoạt động sản xuất, kinh doanh, dịch vụ và quản lý kinh tế, xã hội từ sử dụng lao động thủ công là chính sang sử dụng một cách phổ biến sức lao động cùng với công nghệ, phương tiện và phương pháp tiên tiến, hiện đại, dựa trên sự phát triển của công nghiệp và tiến bộ khoa học - công nghệ, tạo ra năng suất lao động xã hội cao.Đó là một quá trình lâu dài.Để kịp thời triển khai thực hiện Nghị quyết Hội nghị đại biểu toàn quốc giữa nhiệm kỳ, Hội nghị lần thứ bảy Ban Chấp hành Trung ương tập trung bàn định chủ chương, chính sách phát triển công nghiệp, công nghệ và xây dựng giai cấp công nhân, nhằm đẩy tới một bước sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.
I- TÌNH HÌNH CÔNG NGHIỆP, CÔNG NGHỆ VÀ GIAI CẤP CÔNG NHÂN
Mấy chục năm qua công cuộc phát triển công nghiệp và công nghệ ở nước ta đã đạt những thành tựu quan trọng, tạo cơ sở vật chất - kỹ thuật ban đầu, góp phần vào sự nghiệp bảo vệ và xây dựng đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
Sản phẩm công nghiệp đã đáp ứng được nhiều nhu cầu của sản xuất, đời sống và xuất khẩu. Một số công trình lớn được xây dựng; một số ngành và khu công nghiệp đã hình thành. Mấy năm gần đây, công nghiệp nước ta có bước đổi mới và phát triển, góp phần tạo nhịp độ tăng trưởng kinh tế tương đối khá. Đã đào tạo được một đội ngũ đáng kể cán bộ khoa học - kỹ thuật, công nhân lành nghề. Công tác nghiên cứu, triển khai khoa học và công nghệ có tiến bộ.
Tuy nhiên, công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp và công nghệ nước ta còn yếu kém. Đến năm 1993 tỷ trọng công nghiệp mới chiếm khoảng 20% tổng sản phẩm trong nước và 11% lực lượng lao động. Công nghiệp chế tạo và chế biến chiếm tỷ trọng nhỏ. Khả năng công nghiệp trang bị cho nền kinh tế quốc dân chưa đáng kể. Kết cấu hạ tầng kém phát triển. Trình độ công nghệ lạc hậu. Năng suất lao động thấp, chi phí sản xuất kinh doanh cao, chất lượng sản phẩm kém. Môi trường ngày càng bị ô nhiễm. Điều kiện tài chính và phương tiện vật chất cho phát triển khoa học và công nghệ thiếu thốn; năng lực nghiên cứu - triển khai, đánh giá, lựa chọn công nghệ còn nhiều hạn chế. Trình độ văn hoá, kỹ năng nghề nghiệp của lực lượng lao động còn thấp.
Nhiều doanh nghiệp nhà nước làm ăn kém hiệu quả. Công nghiệp tư nhân và hợp tác xã phát triển chưa đáng kể, chưa được hỗ trợ thích đáng; người có vốn chưa thực sự yên tâm đầu tư vào sản xuất.
Cơ chế, chính sách quản lý vĩ mô nền kinh tế đổi mới chưa đồng bộ, chưa tạo môi trường thuận lợi cho sự phát triển công nghiệp và công nghệ. Hệ thống luật pháp, nhất là luật kinh tế chưa đủ và thực hiện chưa nghiêm; hệ thống tài chính, ngân hàng còn bất cập; quản lý xuất, nhập khẩu có nhiều sơ hở; thủ tục hành chính phiền hà...
Giai cấp công nhân Việt Nam thông qua Đảng tiên phong của mình đã lãnh đạo cách mạng nước ta trong hơn nửa thế kỷ qua, ngày nay lại đang đi đầu trong sự nghiệp đổi mới và công nghiệp hoá, hiện đại hoá.
Nhưng trong quá trình chuyển sang cơ chế mới, đã có nhiều biểu hiện coi nhẹ vị trí, vai trò của giai cấp công nhân. Các chủ trương, chính sách xây dựng giai cấp công nhân chậm được đổi mới. Chưa chú trọng bồi dưỡng ý thức giai cấp, trình độ kiến thức và tay nghề, lương tâm nghề nghiệp, tác phong công nghiệp... cho công nhân. Chưa làm tốt việc chăm lo lợi ích, tạo ra động lực trực tiếp kích thích công nhân lao động sáng tạo. Nhiều chính sách xã hội đối với giai cấp công nhân không còn thích hợp. Việc nghiên cứu về giai cấp công nhân chưa được coi trọng.
Một bộ phận công nhân chưa nhận thức được vai trò và nhiệm vụ của giai cấp mình, thiếu tính tiền phong cách mạng. Không ít cán bộ, đảng viên thoái hoá, quan liêu, tham nhũng, xa hoa, lãng phí, xa rời bản chất giai cấp công nhân.
Công đoàn chưa phát huy tốt vai trò của một tổ chức chính trị xã hội rộng lớn của giai cấp công nhân; phương thức hoạt động còn lúng túng.
II- CHỦ TRƯƠNG PHÁT TRIỂN CÔNG NGHIỆP VÀ CÔNG NGHỆ ĐẾN NĂM 2000
1. Thuận lợi và khó khăn.
Nước ta đang có những thuận lợi và thời cơ lớn:
Tình hình chính trị - xã hội ổn định. Nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần vận động theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước đang hình thành và phát triển. Nguồn lực vật chất được tăng cường, xuất khẩu tăng khá, nền kinh tế bắt đầu có tích luỹ. Trình độ dân trí được nâng lên. Sự lãnh đạo của Đảng và quản lý của Nhà nước có thêm kinh nghiệm.
Xu hướng quốc tế hoá kinh tế tăng lên, cuộc cách mạng khoa học - công nghệ diễn ra sôi động. Kinh tế khu vực châu Á - Thái Bình Dương đang phát triển nhanh. Quan hệ quốc tế của nước ta ngày càng mở rộng.
Nước ta có những lợi thế quan trọng để phát triển:
Chế độ chính trị ưu việt. Vị trí địa - kinh tế thuận lợi. Nguồn nhân lực dồi dào, giá nhân công tương đối rẻ. Tài nguyên đa dạng. Nhân dân ta có nhiều khả năng học hỏi kinh nghiệm và tiếp thu công nghệ tiên tiến của thế giới.
Chúng ta cũng đứng trước nhiều khó khăn, thách thức gay gắt:
Nền kinh tế kém phát triển. Lạm phát chưa được kiềm chế vững chắc; nguồn vốn còn hạn chế; phải đương đầu với cuộc cạnh tranh quyết liệt về kinh tế và thương mại. Tình hình quốc phòng - an ninh còn phức tạp. Công tác giáo dục và đào tạo, nghiên cứu và triển khai chưa theo kịp yêu cầu. Đội ngũ cán bộ còn yếu, bố trí, sử dụng chưa hợp lý. Bộ máy của Đảng, Nhà nước và các đoàn thể cồng kềnh, kém hiệu lực. Tình trạng lãng phí, quan liêu, tham nhũng nghiêm trọng.
Chúng ta phải ra sức tranh thủ thời cơ, phát huy thuận lợi , khắc phục khó khăn, đẩy lùi nguy cơ, vượt qua thử thách để đẩy tới một bước sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.
2. Mục tiêu và quan điểm
a) Mục tiêu
Mục tiêu lâu dài của công nghiệp hoá, hiện đại hoá là cải biến nước ta thành một nước công nghiệp có cơ sở vật chất- kỹ thuật hiện đại, có cơ cấu kinh tế hợp lý, quan hệ sản xuất tiến bộ, phù hợp với trình độ phát triển của sức sản xuất, mức sống vật chất và tinh thần cao, quốc phòng - an ninh vững chắc, dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, văn minh.
Từ nay đến năm 2000, việc đẩy tới một bước công nghiệp hoá, hiện đại hoá phải nhằm đạt và vượt các mục tiêu đã xác định trong chiến lược kinh tế - xã hội 1991-2000: ra khỏi khủng hoảng, ổn định tình hình kinh tế - xã hội, vượt qua tình trạng nước nghèo và kém phát triển, cải thiện đời sống nhân dân, củng cố quốc phòng, an ninh, tạo điều kiện cho đất nước phát triển nhanh hơn vào đầu thế kỷ XXI. Phấn đấu tăng tổng sản phẩm trong nước (GDP) từ 2 đến 2,5 lần so với năm 1990, trong đó công nghiệp tăng bình quân hàng năm 13 -15%, đưa tỷ trọng công nghiệp trong GDP lên khoảng 30% vào năm 2000.
b) Quan điểm
- Công nghiệp hoá, hiện đại hoá phải theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
- Giữ vững độc lập tự chủ đi đôi với mở rộng hợp tác quốc tế; đa phương hoá, đa dạng hoá quan hệ với nước ngoài, kết hợp kinh tế với quốc phòng - an ninh. Xây dựng nền kinh tế mở, hướng mạnh về xuất khẩu, đồng thời thay thế nhập khẩu bằng những sản phẩm trong nước sản xuất có hiệu quả.
- Công nghiệp hoá, hiện đại hoá là sự nghiệp của toàn dân, của mọi thành phần kinh tế, trong đó kinh tế nhà nước là chủ đạo; được vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước.
- Lấy việc phát huy nguồn lực con người làm yếu tố cơ bản cho sự phát triển nhanh và bền vững. Động viên toàn dân cần kiệm xây dựng đất nước. Tăng trưởng kinh tế gắn với cải thiện đời sống nhân dân, phát triển văn hoá, giáo dục, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội, bảo vệ môi trường.
- Khoa học, công nghệ là nền tảng của công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Kết hợp công nghệ truyền thống với công nghệ hiện đại; tranh thủ đi nhanh vào hiện đại ở những khâu quyết định.
- Lấy hiệu quả kinh tế - xã hội làm tiêu chuẩn cơ bản để xác định phương án phát triển, lựa chọn dự án đầu tư và công nghệ. Đầu tư chiều sâu để khai thác tối đa năng lực sản xuất hiện có. Trong phát triển mới, ưu tiên quy mô vừa và nhỏ, công nghệ tiên tiến, thu hồi vốn nhanh; đồng thời xây dựng một số công trình quy mô lớn thật cần thiết và có hiệu quả. Tập trung thích đáng nguồn lực cho các lĩnh vực, các địa bàn trọng điểm; đồng thời quan tâm đáp ứng những nhu cầu phát triển thiết yếu của mọi vùng trong nước; có chính sách hỗ trợ những vùng khó khăn.
3. Chủ trương phát triển công nghiệp
Căn cứ vào định hướng chung về công nghiệp hoá, hiện đại hoá đến cuối thập kỷ mà Nghị quyết Hội nghị đại biểu toàn quốc giữa nhiệm kỳ đã xác định, hướng bố trí cụ thể như sau:
a) Các ngành công nghiệp và kết cấu hạ tầng:
Công nghiệp chế biến nông, lâm, thuỷ sản:
Nông nghiệp (bao gồm nông, lâm, ngư nghiệp) phải quy vùng tập trung chuyên canh, đưa công nghệ mới, đặc biệt là công nghệ sinh học vào sản xuất, tạo ra nguồn nguyên liệu lớn, chất lượng cao, đáp ứng yêu cầu của công nghiệp chế biến hiện đại. Hạn chế đến mức thấp nhất việc sử dụng hoá chất có độc tố, tiến tới một nền nông nghiệp"sạch", phù hợp với tiêu chuẩn quốc tế. Coi trọng đầu tư công nghệ trong khâu bảo quản, vận chuyển và tiêu thụ sản phẩm.
Phát triển cơ sở chế biến gắn với vùng nguyên liệu. Nâng cao chất lượng dinh dưỡng, bảo đảm tiêu chuẩn vệ sinh, đa dạng hoá mặt hàng thực phẩm.
Chú ý một số trọng điểm sau đây:
- Phát triển trồng và chế biến lúa gạo có chất lượng ngày càng tốt hơn cho tiêu dùng trong nước, đạt giá trị và hiệu quả xuất khẩu cao.
- Chế biến thịt, sữa, cá, tôm , dầu ăn và rau quả; phát triển mạnh công nghiệp chế biến đường đi đôi với mở rộng trồng mía để tự đáp ứng đủ nhu cầu về đường.
- Mở rộng sản xuất nước giải khát các loại, nhất là nước quả; hạn chế sản xuất rượu có độ cồn cao. Phát triển có mức độ sản xuất thuốc lá, tăng mức tự cung ứng nguyên liệu.
- Tăng nhanh năng lực và nâng cao trình độ công nghệ chế biến đến sản phẩm cuối cùng: cao su, tơ tằm, chè, cà phê, gỗ và các loại nông, lâm, thuỷ sản xuất khẩu, giảm xuất khẩu nguyên liệu thô hoặc sơ chế.
Công nghiệp hàng tiêu dùng:
Phát triển công nghiệp hàng tiêu dùng thông dụng, mở rộng sản xuất hàng lâu bền, cao cấp. Đổi mới công nghệ, nâng cao chất lượng, đa dạng hoá mặt hàng, cải tiến bao bì và giảm giá thành.
Phát triển mạnh sản xuất hàng tiêu dùng xuất khẩu, đặc biệt là các sản phẩm may mặc, dệt, da, hàng điện tử, đồ điện gia dụng, hàng thủ công, mỹ nghệ... Chuyển nhanh từ gia công sang tự sản xuất để xuất khẩu.
Công nghiệp cơ khí và điện tử - tin học:
Chấn chỉnh và phát triển ngành cơ khí, tận dụng năng lực hiện có, tranh thủ công nghệ hiện đại, tạo thêm năng lực sản xuất mới cần thiết. Mở rộng hợp tác, liên doanh với nước ngoài, đi từ lắp ráp, sản xuất phụ tùng tiến tới sản xuất sản phẩm hoàn chỉnh.
Tập trung thực hiện chương trình cơ khí trang bị cho nông, lâm, ngư nghiệp, sản xuất thiết bị chế biến nông, lâm, thuỷ sản, làm hàng tiêu dùng. Sản xuất thiết bị, phương tiện xây dựng, khai khoáng, giao thông vận tải. Phát triển mạnh đóng tàu sông biển. Lắp ráp, sản xuất phụ tùng, hướng dần tới sản xuất xe máy, ô tô... Phát triển mạng lưới cơ khí sửa chữa. Chuẩn bị xây dựng một số nhà máy cơ khí chế tạo mới.
Phát triển ngành điện tử - tin học để đến thập kỷ tới trở thành một ngành mũi nhọn thực hiện chương trình quốc gia về công nghệ thông tin, đưa nhanh điện tử - tin học vào sản xuất, dịch vụ, quản lý, đời sống và an ninh, quốc phòng.
Các ngành công nghiệp sản xuất nguyên, nhiên, vật liệu:
Đẩy mạnh việc tìm kiếm, thăm dò và khai thác dầu, khí, tăng nhanh sản lượng dầu, khí; xây dựng nhà máy lọc dầu, đường ống dẫn khí và công nghiệp sử dụng khí thiên nhiên. Phát triển ngành công nghiệp dầu khí và hình thành dần công nghiệp hoá dầu Việt Nam.
Chấn chỉnh và phát triển ngành than đáp ứng đủ nhu cầu; bảo vệ tài nguyên và môi trường khu mỏ. Tăng chế biến than cho tiêu dùng.
Mở rộng sản xuất thép chủ yếu là thép xây dựng và một phần thép chế tạo. Cải tạo, mở rộng, đổi mới thiết bị và công nghệ các cơ sở sản xuất thép hiện có. Xây dựng một số công trình cán và luyện thép mới quy mô nhỏ và vừa. Nghiên cứu và chuẩn bị xây dựng nhà máy luyện thép lớn. Phát triển sản xuất một số kim loại màu với quy mô và công nghệ thích hợp.
Phát triển sản xuất xi măng đáp ứng nhu cầu trong nước, tiến tới có xuất khẩu. Tăng sản xuất các loại vật liệu xây dựng khác, chú ý vật liệu trang trí nội thất, vật liệu cao cấp.
Phát triển sản xuất các loại vật liệu mới (gốm kỹ thuật, vật liệu tổ hợp composit...) để thay thế một phần các loại vật liệu truyền thống kém hiệu quả.
Đẩy mạnh sản xuất phân bón; đáp ứng đủ nhu cầu phân lân; tăng năng lực sản xuất phân đạm; mở rộng sản xuất phân hỗn hợp. Coi trọng các loại phân vi sinh, vi lượng, thuốc trừ sâu bệnh ít gây độc hại.
Tăng sản xuất hoá chất cơ bản.
Đẩy mạnh thăm dò, khai thác, chế biến các nguồn tài nguyên khoáng sản có giá trị kinh tế khác.
Du lịch - dịch vụ:
Phát triển mạnh du lịch, hình thành ngành công nghiệp du lịch có quy mô ngày càng tương xứng với tiềm năng du lịch to lớn của nước ta.
Phát triển và hiện đại hoá từng bước các loại dịch vụ thông tin, kỹ thuật, thương mại, tài chính, ngân hàng, vận tải, bảo hiểm tư vấn pháp lý, phục vụ sinh hoạt..., góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế có hiệu quả.
Tổ chức lại và mở mang hệ thống chợ ở thành thị và nông thôn. Xây dựng một số siêu thị tại các thành phố lớn.
Công nghiệp quốc phòng:
Đầu tư thoả đáng cho công nghiệp quốc phòng trong từng bước phát triển công nghiệp và công nghệ, góp phần trang bị và hiện đại hoá dần các binh chủng, quân chủng. Trước mắt sản xuất được một số vũ khí và trang bị thông thường; từng bước đóng được tầu quân sự cho hải quân, bộ đội biên phòng.
Có chính sách và cơ chế phù hợp để áp dụng kịp thời những thành tựu khoa học và công nghệ vào công nghiệp quốc phòng. Đầu tư công nghệ mới để nâng cao năng lực bảo quản, sửa chữa và cải tiến, hiện đại hoá những trang bị hiện có. ứng dụng tin học và tự động hoá vào công tác chỉ huy và tham mưu tác chiến.
Phát triển công nghiệp dân dụng phải quan tâm đáp ứng các yêu cầu của quốc phòng và công nghiệp quốc phòng. Chọn lọc và tạo điều kiện cho một số xí nghiệp công nghiệp dân dụng kết hợp sản xuất phục vụ quân sự khi cần thiết. Tận dụng năng lực của công nghiệp quốc phòng để sản suất các mặt hàng dân dụng.
Kết cấu hạ tầng:
Cải tạo, hiện đại hoá, huy động tối đa công suất các nhà máy điện hiện có; hoàn thành xây dựng và xây dựng gối đầu một số nhà máy mới. Hoàn chỉnh mạng lưới điện quốc gia; cải tạo và tiêu chuẩn hoá từng bước lưới điện trung, hạ thế, thực hiện các biện pháp đồng bộ để giảm tổn thất điện. Nghiên cứu xây dựng nhà máy điện nguyên tử trong quy hoạch dài hạn. Tích cực sử dụng năng lượng mặt trời, gió, khí sinh vật...
Nâng cấp dần hệ thống đường bộ hiện có, đặc biệt là một số trục đường quan trọng nối liền miền Bắc với miền Nam, nối các trung tâm kinh tế lớn. Xây dựng thêm một số tuyến đường mới. Nâng cấp các tuyến đường trục đến các vùng miền núi, đường bộ từ tỉnh đến huyện, xã; mở thêm đường xuống xã. Cải tạo đường và mở rộng vận tải công cộng tại các đô thị và khu công nghiệp lớn. Mở rộng, hiện đại hoá từng bước các cảng biển và sân bay lớn; nâng cấp một số cảng biển nhỏ và sân bay địa phương. Giành đủ thương quyền vận tải biển và hàng không quốc tế. Củng cố một số tuyến đường sắt, khôi phục, nâng cấp và mở thêm một số đoạn, khai thác các tuyến liên vận quốc tế. Phát triển vận tải đường sông, chủ yếu ở hai vùng đồng bằng sông Hồng và sông Cửu Long.
Phát triển thông tin liên lạc hiện đại. Cải tạo và phát triển mạng điện thoại trong các thành phố. Đưa liên lạc điện thoại thông suốt đến hầu hết các xã, các cửa khẩu.
Quy hoạch sử dụng tổng hợp các nguồn nước, bảo đảm đủ nước cho công nghiệp và đời sống. Chống ô nhiễm các nguồn nước. Xử lý tốt chất thải, nước thải, cải thiện hệ thống thoát nước cho các đô thị, khu công nghiệp.
Tăng vốn đầu tư bằng nhiều nguồn cho nâng cấp, xây dựng và hiện đại hoá từng bước kết cấu hạ tầng văn hoá - xã hội như trường học, bệnh viện, truyền thanh, truyền hình, văn hoá, thể dục, thể thao... Tăng phương tiện và cơ sở vật chất cho việc thực hiện chương trình dân số - kế hoạch hoá gia đình và giải quyết một số vấn đề xã hội quan trọng khác. Xây dựng một số trung tâm đại học, khoa học - công nghệ, y tế, thể dục, thể thao quốc gia.
b) Các vùng và địa bàn quan trọng:
Công nghiệp hoá nông nghiệp và kinh tế nông thôn:
Phát triển thuỷ lợi, đáp ứng về cơ bản nhu cầu tưới tiêu.
Đưa các công nghệ tiến bộ, đặc biệt là công nghệ sinh học, vào sản xuất nông nghiệp, trước hết ở khâu giống. Thực hiện cơ giới hoá từng phần công việc. Mở rộng điện khí hoá ở các vùng có lưới điện và xây dựng các trạm thuỷ điện nhỏ, điện chạy dầu ở nơi chưa có lưới điện.
Phát triển chế biến nông, lâm, thuỷ sản và các công nghiệp khác; hình thành các cụm công nghiệp, dịch vụ ở các thị xã, thị trấn, thị tứ. Phát triển các ngành nghề, làng nghề truyền thống của từng vùng, mở thêm những ngành nghề mới; áp dụng công nghệ tiên tiến.
Coi trọng việc giải quyết nước sạch, phát triển giao thông nông thôn, lưới điện, trường học, trạm y tế, bưu điện, truyền thanh, truyền hình, nhà văn hoá..., các loại dịch vụ phục vụ sản xuất và đời sống, dần dần tạo bộ mặt nông thôn mới khang trang, sạch đẹp, văn minh.
Phát triển đô thị:
Đầu tư phát triển mạnh công nghiệp, dịch vụ và kết cấu hạ tầng, giải quyết việc làm, tăng nhanh sản phẩm xã hội và thu nhập quốc dân để các đô thị làm hạt nhân thúc đẩy công nghiệp hoá, hiện đại hoá trong vùng và trên cả nước.
Khẩn trương hoàn chỉnh quy hoạch hệ thống đô thị; quản lý đất đai, cải tạo và xây dựng đô thị theo quy hoạch và tiêu chuẩn. Ban hành đồng bộ các chính sách và quy chế quản lý đô thị. Kiện toàn bộ máy quản lý xây dựng đô thị. Tập trung giải quyết các yêu cầu cấp bách về cấp, thoát nước, cấp điện, giao thông, vệ sinh môi trường, thanh toán nhà ổ chuột.
Cải tạo, mở rộng, nâng cấp đô thị hiện có. Xây dựng Hà Nội, thành phố Hồ Chí Minh, Hải Phòng, Huế, Đà Nẵng, Cần Thơ thành những trung tâm lớn, song tránh sự tập trung quá đông dân cư. Nâng cấp một số đô thị loại vừa, trước hết là các đô thị nằm trên các trục giao thông chính, ở các cửa khẩu, các địa bàn kinh tế trọng điểm. Phát triển mạng đô thị nhỏ (thị trấn, thị tứ) làm chức năng trung tâm kinh tế - xã hội của huyện hoặc làm vệ tinh cho các đô thị lớn và vừa.
Để phát triển các đô thị, ngoài phần vốn quan trọng do ngân sách Nhà nước cấp, cần sớm ban hành các chính sách cho các đô thị như: chuyển các dịch vụ đô thị sang hạch toán kinh doanh, thu tiền sử dụng đất, thuế nhà đất, lệ phí của các doanh nghiệp... Khuyến khích các doanh nghiệp nhà nước, các thành phần kinh tế và các tầng lớp dân cư tham gia đầu tư xây dựng kết cấu hạ tầng, dịch vụ công cộng và phát triển nhà ở theo đúng quy hoạch và chính sách kiến trúc. Các đô thị được quyền trực tiếp hợp tác với nước ngoài đầu tư khai thác cơ sở hạ tầng và dịch vụ công cộng theo quy định của Nhà nước.
Phát triển công nghiệp trung du, miền núi và Tây Nguyên:
Phát triển công nghiệp trên địa bàn nhằm phát huy các thế mạnh của miền núi, trung du và Tây Nguyên về lâm nghiệp, cây công nghiệp, cây ăn quả và dược liệu, chăn nuôi đại gia súc và khoáng sản.
Công nghiệp hoá nông - lâm nghiệp. Xây dựng các vùng nguyên liệu tập trung chuyên canh, áp dụng công nghệ sinh học cho năng suất, chất lượng cao và khối lượng sản phẩm lớn.
Phát triển các cơ sở công nghiệp chế biến nông, lâm, thuỷ sản.
Đối với công nghiệp khai khoáng, tiếp tục điều tra tài nguyên khoáng sản; trước mắt chủ yếu khai thác một số mỏ nhỏ và vừa, phục vụ nhu cầu địa phương và khu vực nhưng phải có sự quản lý chặt chẽ của Nhà nước; bảo đảm đúng quy trình, quy phạm để tận dụng nguồn tài nguyên, bảo đảm an toàn lao động, bảo vệ môi trường, sinh thái. Đồng thời quy hoạch và chuẩn bị một số dự án khai thác lớn cho những năm sau.
Trong việc phát triển kinh tế nhiều thành phần ở trung du, miền núi và Tây Nguyên, kinh tế nhà nước có vai trò đặc biệt quan trọng. Cần xây dựng những doanh nghiệp nhà nước làm tốt vai trò của các trung tâm kinh tế, văn hoá, khoa học - kỹ thuật, cung cấp dịch vụ về giống, vật tư, công nghệ, chế biến và tiêu thụ sản phẩm... cho nông dân trong vùng, giúp đồng bào các dân tộc phát triển kinh tế và xây dựng đời sống văn hoá.
Kết hợp khả năng của Nhà nước và nhân dân, trung ương và địa phương để cải tạo, nâng cấp và xây dựng mới kết cấu hạ tầng cần thiết, trước hết là ở các vùng sản xuất tập trung.
Coi trọng đào tạo nghề nghiệp, nâng cao dân trí và sức khoẻ của đồng bào các dân tộc để xây dựng nguồn nhân lực tại chỗ; đồng thời có chính sách thu hút lao động từ đồng bằng và các thành thị, kể cả cán bộ khoa học - kỹ thuật, quản lý và công nhân lành nghề, lên xây dựng miền núi, Tây Nguyên.
Phát triển công nghiệp miền biển:
Đẩy mạnh công tác tìm kiếm, thăm dò khảo sát các nguồn tài nguyên biển; từng bước nghiên cứu và khai thác toàn diện các tiềm năng to lớn của kinh tế biển.
Phát triển mạnh công nghiệp dầu khí và dịch vụ dầu khí; khai thác và chế biến một số khoáng sản khác như imênhit, cát thuỷ tinh, muối công nghiệp...; đẩy mạnh nuôi trồng, đánh bắt và chế biến hải sản, vươn mạnh ra khơi xa; phát triển mạnh công nghiệp sửa chữa tàu, đóng tàu, vận tải biển và các dịch vụ hàng hải; phát triển mạnh du lịch. Nâng cấp và mở rộng hệ thống cảng và các kết cấu hạ tầng khác. Xây dựng các khu công nghiệp, thương mại, du lịch và một số đô thị ven biển, mở cửa giao lưu kinh tế với bên ngoài.
Tổ chức, tạo điều kiện cho nhân dân ra các hải đảo sinh cơ lập nghiệp. Kết hợp chặt chẽ phát triển kinh tế biển với quốc phòng - an ninh, giữ vững chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ, lãnh hải, thềm lục địa, và các vùng đặc quyền kinh tế trên biển.
Trong khi coi trọng phát triển tất cả các vùng, cần tập trung thích đáng nguồn lực cho các địa bàn kinh tế trọng điểm để làm hạt nhân liên kết và thúc đẩy các vùng khác cùng phát triển. Đó là: khu vực Hà Nội - Hải Phòng - Quảng Ninh ở phía bắc; Thành phố Hồ Chí Minh - Biên Hoà - Vũng Tàu ở phía nam; Đà Nẵng - Huế - Nha Trang ở miền Trung.
4. Chủ trương phát triển khoa học - công nghệ.
Nhiệm vụ phát triển khoa học - công nghệ từ nay đến năm 2000 là:
- Cung cấp cơ sở khoa học cho các quyết định, các chủ trương, chính sách, quy hoạch, kế hoạch, dự án đầu tư.
- Đẩy nhanh quá trình đổi mới, nâng cao trình độ công nghệ trong nền kinh tế một cách có trọng điểm.
- Xây dựng và phát triển năng lực khoa học - công nghệ để làm chủ công nghệ nhập và sáng tạo công nghệ mới; chuẩn bị cho sự phát triển của đất nước vào đầu thập kỷ tới.
Các chủ trương cụ thể là:
Thực hiện cơ cấu công nghệ kết hợp nhiều trình độ, các giải pháp về công nghệ đều phải lấy hiệu quả kinh tế, xã hội gắn với bảo vệ môi trường sinh thái làm tiêu chuẩn cao nhất. Hướng chính để đổi mới nhanh công nghệ là nhập công nghệ tiên tiến và hiện đại, đồng thời khuyến khích cải tiến và sáng tạo công nghệ mới. Trong các dự án có vốn đầu tư nước ngoài, cần chú ý yếu tố chuyển giao công nghệ.
Chú trọng các công nghệ đòi hỏi suất đầu tư thấp, thu hồi vốn nhanh, có khả năng tạo thêm nhiều chỗ làm việc trực tiếp và gián tiếp. Tranh thủ đổi mới thiết bị, hiện đại hoá công nghệ trước hết ở một số khâu có ý nghĩa quyết định đối với việc nâng cao chất lượng sản phẩm, nhất là hàng xuất khẩu; ở một số ngành có tác động trực tiếp tới việc nâng cao trình độ công nghệ của nhiều ngành khác và ở một số lĩnh vực và địa bàn đòi hỏi sớm vươn lên ngang với trình độ khu vực và quốc tế.
Ưu tiên ứng dụng và phát triển các công nghệ tiên tiến, như: công nghệ thông tin phục vụ yêu cầu điện tử hoá và tin học hoá nền kinh tế quốc dân; công nghệ sinh học, trước hết phục vụ phát triển nông, lâm, ngư nghiệp, công nghiệp chế biến thực phẩm, dược phẩm và bảo vệ môi trường sinh thái; công nghệ chế tạo và gia công vật liệu, nhất là từ nguồn nguyên liệu trong nước...
Chú trọng phát triển nguồn nhân lực cho khoa học - công nghệ.
Ưu tiên các hướng nghiên cứu ứng dụng, đồng thời chú trọng đúng mức các nghiên cứu cơ bản, nhất là về khoa học xã hội và nhân văn.
Quan tâm xây dựng, nâng cấp mạng lưới dịch vụ công nghệ như: đo lường, tiêu chuẩn, kiểm tra chất lượng sản phẩm; đánh giá và thẩm định công nghệ, thông tin công nghệ...
Xây dựng hai trung tâm công nghệ cao ở Hà Nội và Thành phố Hồ Chí Minh. Hình thành mạng lưới tổ chức hỗ trợ chuyển giao công nghệ ở nông thôn, miền núi, ven biển.
Xây dựng và tổ chức thực hiện một số chương trình trọng điểm về: đổi mới công nghệ ở các ngành sản xuất, dịch vụ; xây dựng một số ngành công nghiệp mới dựa trên công nghệ cao; phát triển công nghệ phục vụ công nghiệp hoá nông nghiệp và kinh tế nông thôn; khoa học xã hội và nhân văn phục vụ công nghiệp hoá, hiện đại hoá.
5. Các chính sách và biện pháp.
a) Phát triển nguồn nhân lực.
Thực hiện tốt các mục tiêu về phát triển giáo dục đến năm 2000, nâng cao dân trí, đào tạo nguồn nhân lực có chất lượng cao và đồng bộ, đáp ứng nhu cầu của quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá.
Đánh giá nguồn nhân lực hiện có, có chính sách, kế hoạch sắp xếp, bố trí, sử dụng và đào tạo lại.
Phát triển hệ thống đào tạo đa dạng với mục tiêu, nội dung, phương pháp và quy mô phù hợp. Chú trọng đào tạo đồng bộ từ cán bộ khoa học - công nghệ, cán bộ quản lý, nhà kinh doanh đến công nhân lành nghề, nhân viên hành chính, nghiệp vụ v.v.. Ưu tiên đào tạo các ngành nghề mũi nhọn, chú trọng thích đáng năng lực thực hành. Bồi dưỡng thường xuyên lực lượng lao động đang làm việc.
Có định hướng và chính sách, kế hoạch đưa người đi đào tạo ở nước ngoài.
Thực hiện xã hội hoá sự nghiệp đào tạo. Nhà nước đầu tư thích đáng, đồng thời có chính sách khuyến khích, động viên mọi nhà, mọi tầng lớp dân cư, các thành phần kinh tế tham gia phát triển sự nghiệp giáo dục, đào tạo và tự đào tạo. áp dụng chính sách tín dụng để phát triển giáo dục, đào tạo, cả đối với người đi học.
Kết hợp đào tạo kiến thức, kỹ năng nghề nghiệp với bồi dưỡng phẩm chất, đạo đức, nhằm hình thành một đội ngũ lao động giỏi về chuyên môn, nghiệp vụ, có tác phong công nghiệp, lao động cần cù, sáng tạo, có năng suất, chất lượng, hiệu quả cao, có ý thức phấn đấu vì sự phồn vinh của Tổ quốc, hạnh phúc của nhân dân.
Bố trí, sử dụng, đãi ngộ hợp lý lực lượng lao động đã và sẽ được đào tạo. Đãi ngộ đặc biệt đối với những tài năng. Phát huy mạnh mẽ sức sáng tạo của đội ngũ trí thức.
Đổi mới hệ thống quy chế, quy định về giáo dục, đào tạo, gắn đào tạo với sử dụng. Xây dựng quan hệ chặt chẽ giữa các cơ quan quản lý nhà nước về giáo dục, đào tạo với các cơ quan quản lý nhân lực và việc làm, giữa cơ sở đào tạo với cơ sở sử dụng nhân lực. Tổ chức thông tin rộng rãi về giáo dục, đào tạo và việc làm.
Tạo điều kiện cho người lao động, nhất là người được đào tạo tốt tìm được việc làm đúng ngành nghề và có thu nhập xứng đáng. Giải quyết tình trạng cán bộ khoa học - kỹ thuật, văn hoá - xã hội... đã được đào tạo, nhưng thiếu việc làm, hoặc chưa có việc làm.
Khuyến khích mọi người tự tìm việc làm và đầu tư tạo việc làm cho xã hội.
b) Chính sách về vốn.
Quán triệt tinh thần vốn trong nước là quyết định, vốn ngoài nước là quan trọng. Tiếp tục đổi mới các chính sách kinh tế, đặc biệt là chính sách tài chính -tiền tệ để thực hiện tốt việc tạo vốn, huy động và sử dụng vốn có hiệu quả.
Xây dựng môi trường vĩ mô ổn định, thuận lợi, các chính sách, luật lệ, quy chế rõ ràng và nhất quán, thực hiện nghiêm minh để mọi người yên tâm, đầu tư phát triển sản xuất kinh doanh. Thực hiện tốt luật khuyến khích đầu tư trong nước và Luật đầu tư nước ngoài. Đơn giản hoá các thủ tục hành chính trong việc xin phép đầu tư, đăng ký kinh doanh, thuê đất, giải phóng mặt bằng, lắp đặt điện, nước, nhập máy móc thiết bị cho sản xuất... Quy hoạch, xây dựng sẵn những cơ sở hạ tầng cần thiết và những quy chế quản lý hành chính - kinh tế thích hợp ở những địa bàn chọn lọc để thu hút nhanh đầu tư trong và ngoài nước, hình thành những khu, cụm công nghiệp ở từng vùng, từng địa phương.
Cải cách hệ thống thuế; tiếp tục xoá bao cấp, bù lỗ đối với những hàng hoá, dịch vụ như điện, nước, giao thông vận tải, xăng dầu...; tăng thu cho ngân sách; cắt giảm những chi tiêu chưa thật cấp bách hoặc kém hiệu quả. Giảm bội chi ngân sách, tiến tới cân bằng thu chi.
Tiếp tục đổi mới hệ thống tín dụng - ngân hàng, mở rộng loại hình và nâng cao chất lượng dịch vụ ngân hàng, bảo đảm thuận tiện, an toàn, nhanh chóng, huy động tối đa vốn nhàn rỗi trong xã hội để đáp ứng nhu cầu đầu tư phát triển.
Cùng với việc đẩy lùi và kiểm soát lạm phát, cần điều chỉnh hợp lý lãi suất tín dụng.
Tích cực xây dựng thị trường vốn. Phát triển các hình thức huy động vốn bằng góp cổ phần, bán cổ phiếu, trái phiếu cho người đầu tư trong nước, thí điểm bán một phần ra thị trường vốn quốc tế. Xúc tiến chuẩn bị và từng bước hình thành thị trường chứng khoán.
Hướng dẫn tiêu dùng, Ban hành những quy định cụ thể để thực hành chế độ tiết kiệm trong các cơ quan Đảng, Nhà nước, các tổ chức xã hội và trong nhân dân, dành vốn cho đầu tư phát triển.
Phấn đấu nâng tổng mức tích luỹ đầu tư toàn xã hội lên khoảng 25-30% GDP.
Khẩn trương hoàn thành các công việc chuẩn bị cần thiết để tiếp nhận nhanh và sớm đưa vào sử dụng các nguồn hỗ trợ phát triển chính thức (ODA), các khoản cho vay của các tổ chức tài chính - tiền tệ quốc tế... đã được thoả thuận. Giải toả các vướng mắc để tranh thủ thêm các nguồn tài trợ mới.
Ưu tiên cho đầu tư trực tiếp, nhất là từ những công ty đa quốc gia, xuyên quốc gia có tầm cỡ trên thế giới, để tranh thủ chuyển giao công nghệ hiện đại, kỹ năng quản lý điều hành tiên tiến, mở lối thâm nhập vào thị trường khu vực và quốc tế.
Đổi mới căn bản phương thức đầu tư của Nhà nước. Chỉ cấp phát vốn cho những dự án không thể trực tiếp thu hồi vốn. Đối với các dự án khác, chủ yếu áp dụng hình thức tín dụng hoặc góp cổ phần.
Nghiên cứu mở rộng quyền hạn và trách nhiệm của ngành, địa phương, cơ sở trong lĩnh vực tạo vốn, huy động vốn, duyệt dự án đầu tư phát triển.
Quy định chặt chẽ về vay và trả nợ, kể cả vay trong nước và nước ngoài. Nhà nước vay chủ yếu để đầu tư cơ sở hạ tầng kinh tế, xã hội, xây dựng một số công trình hết sức trọng yếu. Đối với các doanh nghiệp, áp dụng cơ chế tự vay, tự trả. Nhà nước có thể dành một phần vốn vay làm nguồn tín dụng đầu tư trong nước, nhưng cần làm có trọng điểm và đều phải bảo đảm trả được nợ.
c) Chính sách các thành phần kinh tế.
Kinh tế nhà nước trước hết là doanh nghiệp nhà nước phải được củng cố, đổi mới và phát triển, nâng cao hiệu quả để phát huy vai trò chủ đạo trong nền kinh tế.
Ban hành Luật doanh nghiệp nhà nước. Tiếp tục sắp xếp lại, đổi mới và hoàn thiện cơ chế quản lý doanh nghiệp nhà nước. Thực hiện từng bước việc cổ phần hoá một bộ phận doanh nghiệp nhà nước. Thành lập cơ quan quản lý tài sản và vốn của Nhà nước, xác định rõ quy chế đại diện chủ sở hữu để thực hiện quyền quản lý vốn nhà nước trong doanh nghiệp. Chấn chỉnh công tác thống kê, đổi mới căn bản chế độ kế toán, hoàn thiện quy chế kiểm toán độc lập. Tăng cường hơn nữa quyền tự chủ kinh doanh của doanh nghiệp đi đôi với quản lý chặt chẽ vốn và tài sản của Nhà nước. Để lại khấu hao cơ bản cho doanh nghiệp, khuyến khích doanh nghiệp tự tích luỹ vốn để đầu tư phát triển. Hình thành một số tổ chức kinh tế lớn, với mức tích tụ, tập trung cao về vốn, đủ sức cạnh tranh trên thị trường thế giới. Từng bước xoá bỏ chế độ bộ chủ quản, cấp hành chính chủ quản đối với các doanh nghiệp nhà nước.
Ban hành Luật hợp tác xã. Khôi phục và khuyến khích phát triển các hình thức kinh tế hợp tác đa dạng trong công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp và các ngành, lĩnh vực khác, theo nguyên tắc tự nguyện, bình đẳng và cùng có lợi. Nhà nước hỗ trợ, hướng dẫn, giúp đỡ hợp tác xã về tín dụng, thông tin, thị trường, đào tạo cán bộ... để kinh tế hợp tác phát triển có hiệu quả.
Nhà nước thông qua luật pháp và các chính sách tạo môi trường thuận lợi hơn nữa cho tư nhân yên tâm bỏ vốn đầu tư vào sản xuất. Khuyến khích kinh tế tư bản tư nhân phát triển theo con đường liên doanh, liên kết với kinh tế nhà nước dưới nhiều hình thức thích hợp.
d) Chính sách thị trường.
Nghiên cứu, thăm dò, dự báo, thông tin kịp thời về thị trường ngoài nước và các đối tác.
Đổi mới cơ cấu xuất khẩu, tạo ra những mặt hàng có kim ngạch xuất khẩu lớn theo hướng khai thác các lợi thế so sánh, nhất là lợi thế về nguồn nhân lực.
Thực hiện chính sách tỷ giá hối đoái hợp lý để khuyến khích mạnh xuất khẩu, điều tiết nhập khẩu có hiệu quả.
Cải tiến các thủ tục xuất nhập khẩu, nhất là về cấp côta, giấy phép. Tổ chức tốt việc thu thập và cung cấp các thông tin kinh tế thế giới và khu vực cho các cơ quan và doanh nghiệp trong nước. Cung cấp các thông tin cần thiết về thương mại và kinh tế Việt Nam cho nước ngoài. Phát triển các tổ chức làm dịch vụ tiếp thị, các hiệp hội xuất nhập khẩu. Từng bước tham gia các hội, các tổ chức kinh tế, thương mại thế giới và khu vực.
Hoàn thiện luật pháp về xuất, nhập khẩu phù hợp với chính sách của ta và với thông lệ quốc tế. Nâng cao trình độ chính trị, chuyên môn, nghiệp vụ và bồi dưỡng phẩm chất, đạo đức của đội ngũ cán bộ làm công tác này.
Mở rộng thị trường trong nước để phục vụ đắc lực công cuộc công nghiệp hoá, hiện đại hoá; thúc đẩy sản xuất và lưu thông vật tư, hàng hoá, đáp ứng nhu cầu phát triển sản xuất và đời sống của nhân dân ở cả thành thị và nông thôn.
Hình thành các trung tâm thương mại phù hợp với mức độ phát triển của thị trường trên các địa bàn.
Chấn chỉnh lưu thông hàng hoá giữa thành thị và nông thôn, quan tâm đúng mức đối với miền núi, vùng xa, vùng sâu, vùng đồng bào dân tộc.
Lập lại trật tự trên thị trường; hướng dẫn các thành phần thương nghiệp phát triển đúng hướng, đúng chính sách, pháp luật, cạnh tranh lành mạnh. Tăng cường vai trò chủ đạo của thương nghiệp nhà nước cả ở khâu bán buôn và bán lẻ, cả trong kinh doanh tư liệu sản xuất, hàng tiêu dùng và dịch vụ, cả trên thị trường thành thị và thị trường nông thôn.
Khắc phục tình trạng chia cắt giữa thương nghiệp nhà nước với cơ sở sản xuất của Nhà nước, giữa nội thương với ngoại thương, giữa bán buôn và bán lẻ; giải quyết tình trạng thiếu vốn, nâng cao trình độ tổ chức kinh doanh, loại trừ tiêu cực để thương nghiệp nhà nước hoạt động có hiệu quả. Phát triển mạng lưới đại lý bán lẻ cho công thương nghiệp nhà nước ở nông thôn, miền núi.
Phát triển thương nghiệp hợp tác xã; quản lý tốt thương nghiệp tư nhân.
Chấn chỉnh mậu dịch biên giới và cửa khẩu, xử lý nghiêm những hành vi buôn lậu, trốn thuế, buôn bán hàng cấm, hàng giả.
Thực hiện chính sách bảo hộ sản xuất trong nước chủ yếu bằng cách tạo điều kiện và thúc đẩy các cơ sở sản xuất vươn lên cạnh tranh được với hàng ngoại trên thị trường, đáp ứng lợi ích của người tiêu dùng. Đồng thời, từng thời gian, Nhà nước xác định và công bố rõ chính sách bảo hộ có mức độ, có thời hạn, đối với những ngành và lĩnh vực thật cần thiết, đối với từng mặt hàng cụ thể. Giáo dục và khuyến khích nhân dân dùng hàng nội.
đ) Chính sách công nghệ.
Gắn khoa học - công nghệ với sản xuất, dịch vụ; gắn các chương trình phát triển khoa học - công nghệ với các chương trình phát triển kinh tế - xã hội. Mở rộng phương thức ký kết hợp đồng nghiên cứu. Khuyến khích sự sáng tạo của các nhà khoa học, đồng thời coi trọng phát huy sáng kiến của mọi người lao động. Tạo lập thị trường để sản phẩm của hoạt động khoa học - công nghệ được trả giá đúng mức và lưu thông như một dạng hàng hoá đặc biệt.
Thực hiện tốt Pháp lệnh về bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp và Pháp lệnh chuyển giao công nghệ. Sớm ban hành Luật khoa học - công nghệ. Tăng cường hệ thống các cơ quan quản lý phát triển công nghệ.
Tăng đáng kể vốn đầu tư cho khoa học - công nghệ từ nhiều nguồn: ngân sách nhà nước, vốn của các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế, tài trợ của các tổ chức quốc tế và nước ngoài. áp dụng và tăng tỷ trọng vốn tín dụng đầu tư cho khoa học - công nghệ.
Nhà nước tập trung nguồn lực cho một số chương trình trọng điểm quốc gia về phát triển công nghệ, cho các dự án sản phẩm có hiệu quả kinh tế lớn và tác động tới nhiều ngành kinh tế. Các ngành, các địa phương và các doanh nghiệp cũng có các chương trình, dự án về đổi mới công nghệ.
Áp dụng các chính sách kinh tế thúc đẩy doanh nghiệp ứng dụng các công nghệ tiên tiến thích hợp. Có chính sách khuyến khích đối với các công nghệ mới áp dụng lần đầu ở nước ta, đối với phần vốn dành cho các công tác nghiên cứu và đổi mới công nghệ tại các doanh nghiệp.
Bồi dưỡng và phát triển đội ngũ cán bộ khoa học - công nghệ, công nhân lành nghề về số lượng, chất lượng và cơ cấu, đáp ứng yêu cầu trước mắt và lâu dài; chú ý đào tạo cán bộ khoa học - công nghệ là người dân tộc thiểu số. Thực hiện đồng bộ các biện pháp để sử dụng có hiệu quả đội ngũ cán bộ hiện có. Bổ sung và mau chóng trẻ hoá cán bộ ở các cơ sở nghiên cứu - triển khai.
Gấp rút đào tạo cán bộ đầu đàn, các tổng công trình sư cho các ngành công nghệ then chốt. Bồi dưỡng và tạo điều kiện cho các chuyên gia có trình độ vào làm việc tại các cơ quan và tổ chức quốc tế, các trung tâm khoa học - công nghệ mạnh ở các nước phát triển. Cho mở một số trường đại học, viện nghiên cứu công nghệ quốc tế hoặc khu vực ở Việt Nam. Mở rộng việc cử chuyên gia ra nước ngoài nghiên cứu, khảo sát, trao đổi khoa học, chú trọng những lĩnh vực công nghệ cần ưu tiên. Khuyến khích chuyên gia Việt kiều chuyển giao tri thức và công nghệ về nước.
Bố trí lại lực lượng khoa học - công nghệ. Có chính sách thu hút cán bộ khoa học - công nghệ đến làm việc trực tiếp ở các doanh nghiệp, các địa phương. Khuyến khích các doanh nghiệp lập cơ sở nghiên cứu - triển khai. Chuyển phần lớn các viện nghiên cứu - triển khai về các doanh nghiệp. Một số viện nghiên cứu có thể chuyển thành doanh nghiệp sản xuất các sản phẩm công nghệ cao. Tăng cường cơ sở nghiên cứu khoa học của các trường đại học. Các trường đảm nhiệm phần lớn nhiệm vụ nghiên cứu cơ bản.
e) Chính sách khai thác, sử dụng, bảo vệ tài nguyên và bảo vệ môi trường.
Rất coi trọng vấn đề khai thác có hiệu quả, bảo vệ tài nguyên, bảo vệ môi trường sinh thái trong quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá.
Đẩy mạnh tìm kiếm, thăm dò, đánh giá tài nguyên. Kế hoạch khai thác và sử dụng tài nguyên, nhất là cho xuất khẩu, phải tính đến cả nhu cầu trước mắt và lâu dài, kinh tế và quốc phòng.
Ban hành các luật về khai thác và bảo vệ tài nguyên. Tăng cường quản lý các hoạt động khai thác khoáng sản, chấn chỉnh công nghiệp khai khoáng, thực hiện đúng quy trình, quy phạm, bảo đảm an toàn, hiệu quả, chống lãng phí tài nguyên và huỷ hoại môi trường. Ngăn chặn và xử lý nghiêm việc khai thác tài nguyên trái phép.
Chính phủ quy định cụ thể những loại mỏ do nhà nước khai thác hoặc liên doanh trong và ngoài nước để khai thác, loại mỏ để cho các thành phần kinh tế khác tổ chức khai thác.
Khẩn trương ban hành các văn bản dưới luật để thực hiện tốt Luật môi trường. Nhanh chóng hình thành mạng lưới kiểm soát môi trường từ Trung ương đến địa phương. Kết hợp quản lý theo ngành với quản lý theo địa bàn lãnh thổ. Xử lý nghiêm những hành vi phá hoại môi trường, phá vỡ cảnh quan thiên nhiên, đô thị, công trình công cộng. Ngăn chặn và khắc phục tình trạng xuống cấp về môi trường; đề phòng và xây dựng lực lượng giải quyết những sự cố môi trường.
Quy định cụ thể về bảo vệ môi trường trong từng dự án đầu tư, về sự đóng góp tài chính của các doanh nghiệp vào việc bảo vệ môi trường. Hạn chế các công nghệ gây tác hại lớn đối với môi trường. Khuyến khích sử dụng công nghệ "sạch". Xây dựng phong trào quần chúng bảo vệ và phát triển bền vững môi trường.
Đầu tư thoả đáng vào việc phát triển các nguồn tài nguyên thiên nhiên tái sinh được.
Từng bước phát triển công nghệ, công nghiệp môi trường.
III- PHƯƠNG HƯỚNG, NHIỆM VỤ XÂY DỰNG GIAI CẤP CÔNG NHÂN TRONG GIAI ĐOẠN MỚI
Giai cấp công nhân Việt Nam thấm nhuần chủ nghĩa Mac - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, thông qua Đảng tiên phong của mình thực hiện sứ mệnh lãnh đạo sự nghiệp cách mạng và công cuộc cong nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước; là hạt nhân của liên minh công - nông - trí thức và khối đại đoàn kết các dân tộc ở nước ta.
Lợi ích của giai cấp công nhân gắn liền với lợi ích dân tộc, nằm trong lợi ích dân tộc. Nhiệm vụ của giai cấp công nhân là: đoàn kết, hợp tác với các giai cấp và các tầng lớp nhân dân trong xã hội để hoàn thành công cuộc công nghiệp hoá, hiện đại hoá, đưa đất nước vững bước tiến lên theo con đường xã hội chủ nghĩa.
Xây dựng giai cấp công nhân vững mạnh là trách nhiệm của Đảng, Nhà nước, Công đoàn và các tổ chức chính trị - xã hội, đồng thời là trách nhiệm của mỗi người, mỗi tập thể công nhân.
Cùng với quá trình phát triển công nghiệp và công nghệ theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, cần xây dựng giai cấp công nhân phát triển về số lượng, giác ngộ về giai cấp, vững vàng về chính trị, tư tưởng, có trình độ học vấn và tay nghề cao, có năng lực tiếp thu và sáng tạo công nghệ mới, lao động đạt năng suất, chất lượng, hiệu quả cao, vươn lên làm tròn sứ mệnh lịch sử của mình.
Giai cấp công nhân phải làm nòng cốt trong việc xây dựng khối liên minh vững chắc với nông dân, trí thức và các tầng lớp nhân dân lao động khác, để thực hiện thành công công cuộc công nghiệp hoá, hiện đại hoá nói chung, công nghiệp hoá nông nghiệp và nông thôn nói riêng; thực hiện tốt chính sách đại đoàn kết dân tộc của Đảng, hợp tác với các nhà tư sản dân tộc, các chủ đầu tư nước ngoài để phát triển kinh tế; tôn trọng quyền lợi hợp pháp của giới chủ, đồng thời đấu tranh, thuyết phục họ bảo đảm lợi ích chính đáng của người lao động và làm tròn nghĩa vụ với Nhà nước.
Nâng cao giác ngộ giai cấp, bồi dưỡng truyền thống yêu nước, tinh thần độc lập tự chủ, ý chí tự lực tự cường, rèn luyện tác phong công nghiệp, ý thức tổ chức, kỷ luật, tính năng động sáng tạo của người công nhân.
Tổ chức tốt việc đào tạo và nâng cao học vấn, trình độ nghề nghiệp cho công nhân. Khuyến khích công nhân tự học tập nâng cao trình độ về mọi mặt. Đẩy mạnh công tác giáo dục đào tạo, đặc biệt là đào tạo tại nơi làm việc, đào tạo gắn với lao động sản xuất, bảo đảm đến năm 2000 hầu hết công nhân đều có trình độ văn hoá từ phổ thông cơ sở trở lên, có kỹ năng nghề nghiệp cần thiết.
Tạo thêm việc làm, cải thiện điều kiện lao động. Thực hiện tốt những quy định về bảo hộ lao động, an toàn lao động, giảm bớt lao động chân tay giản đơn, nặng nhọc, độc hại. Thực hiện nghiêm các quy định về sử dụng lao động nữ và các chính sách đối với lao động nữ. Phòng chống có hiệu quả các bệnh nghề nghiệp.
Tiếp tục nghiên cứu bổ sung, hoàn chỉnh chính sách tiền lương và tiền công lao động, thực hiện tốt nguyên tắc phân phối theo lao động; có chính sách khuyến khích công nhân giỏi nghề, làm cho tiền công thực sự là đòn bẩy kích thích lao động sáng tạo. Áp dụng rộng rãi cơ chế khoán trong các doanh nghiệp nhà nước. Bán cổ phần cho công nhân ở những doanh nghiệp có đủ điều kiện.
Có cơ chế bảo đảm quyền của công nhân và quyền của công đoàn trong từng loại doanh nghiệp. Bảo vệ lợi ích và nhân cách của công nhân theo luật pháp, theo hợp đồng và thoả ước lao động. Nghiên cứu ban hành chính sách trợ cấp thất nghiệp, bổ sung các chính sách trợ cấp xã hội đối với công nhân mất việc làm, thiếu việc làm. Hoàn chỉnh chính sách bảo hiểm xã hội.
Cải thiện đời sống vật chất và văn hoá của công nhân. Chăm lo giải quyết vấn đề nhà ở, đáp ứng các nhu cầu sinh hoạt về điện, nước, phương tiện đi làm việc, trường học, bệnh viện, cơ sở văn hoá, thể dục thể thao... cho công nhân.
Đẩy mạnh phong trào công nhân xây dựng nếp sống văn hoá, có kỷ luật, kỷ cương, lành mạnh, tiết kiệm. Thực hiện tốt sinh đẻ có kế hoạch. Phát triển các hoạt động văn hoá quần chúng, thể dục thể thao, giữ gìn và phát huy bản sắc văn hoá dân tộc, ngăn chặn các trào lưu văn hoá phản động, đồi truỵ. Gương mẫu thực hiện pháp luật, các chủ trương chính sách của Đảng và Nhà nước, tích cực đấu tranh chống quan liêu, tham nhũng, buôn lậu và các tệ nạn xã hội khác.
Thành lập và phát triển tổ chức Đảng, Công đoàn và các đoàn thể xã hội khác trong các doanh nghiệp.
IV- NÂNG CAO NĂNG LỰC LÃNH ĐẠO CỦA ĐẢNG VÀ HIỆU LỰC QUẢN LÝ CỦA NHÀ NƯỚC, PHÁT HUY VAI TRÒ CỦA MẶT TRẬN VÀ CÁC ĐOÀN THỂ NHÂN DÂN
1. Nâng cao năng lực lãnh đạo của Đảng
Nhằm đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá, công tác xây dựng đảng trong những năm tới chú trọng làm tốt mấy vấn đề dưới đây:
Làm cho cán bộ, đảng viên, đoàn viên thanh niên, giai cấp công nhân và các tầng lớp nhân dân ngày càng quán triệt và thực hiện tốt các chủ trương, chính sách về công nghiệp hoá, hiện đại hoá; nêu cao tinh thần tự lực, tự cường, cần kiệm xây dựng đất nước, nâng cao trình độ, kiến thức về mọi mặt; chống quan liêu, tham nhũng, xa hoa, lãng phí; đề cao cảnh giác giữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa.
Tổ chức cơ sở đảng trong các doanh nghiệp nhà nước phải thực sự là hạt nhân chính trị, lãnh đạo công nhân, viên chức thực hiện các nhiệm vụ sản xuất kinh doanh. Xúc tiến nghiên cứu để sớm ban hành quy chế hoạt động của tổ chức đảng trong các doanh nghiệp tư nhân và doanh nghiệp liên doanh với nước ngoài. Sắp xếp lại hợp lý các đảng uỷ khối và đảng uỷ cấp trên của tổ chức đảng ở các doanh nghiệp.
Nâng cao trình độ kiến thức của các cấp uỷ về công nghiệp và khoa học - công nghệ. Mỗi tỉnh, thành phải có một số cán bộ am hiểu công tác quản lý kinh tế, quản lý công nghiệp tham gia tỉnh, thành uỷ và uỷ ban nhân dân. Đẩy mạnh công tác phát triển đảng trong công nhân, bồi dưỡng, bổ sung cán bộ xuất thân công nhân vào các cấp uỷ đảng và cơ quan nhà nước.
Đảng phải tăng cường lãnh đạo xây dựng và thực hiện quy hoạch, kế hoạch đào tạo cán bộ, đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Các cấp uỷ phải trực tiếp chỉ đạo củng cố, nâng cao chất lượng hệ thống trường lớp đào tạo cán bộ của Đảng, Nhà nước và các đoàn thể.
Đẩy mạnh việc tổ chức nghiên cứu về giai cấp công nhân và tổ chức công đoàn.
2. Nâng cao hiệu lực quản lý của Nhà nước
Nhà nước thể chế hoá đường lối của Đảng về công nghiệp hoá, hiện đại hoá và xây dựng giai cấp công nhân thành hệ thống luật pháp, cơ chế, chính sách.
Tạo lập môi trường ổn định thuận lợi cho sự phát triển kinh tế xã hội.
Xây dựng và tổ chức thực hiện các quy hoạch, kế hoạch, chương trình tổng thể và cho từng ngành, từng vùng, từng lĩnh vực về phát triển công nghiệp và khoa học - công nghệ.
Đổi mới và tăng cường công tác kế hoạch hoá phù hợp với cơ chế mới, khắc phục xu hướng tập trung quan liêu và xu hướng phân tán. Xây dựng chính sách tài chính - tiền tệ đúng đắn để huy động và sử dụng có hiệu quả mọi nguồn lực vào sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá.
Thực hiện tốt việc hướng dẫn và hỗ trợ các thành phần kinh tế, các doanh nghiệp phát triển, kiểm tra, kiểm soát các hoạt động kinh tế - xã hội; xử lý nghiêm minh các vi phạm.
Xúc tiến cải cách hành chính, xoá các thủ tục phiền hà, sách nhiễu đang cản trở công cuộc đổi mới; tăng cường kỷ luật, kỷ cương, bảo đảm hiệu lực và tính tập trung thống nhất trong quản lý vĩ mô của Nhà nước đi đôi với mở rộng dân chủ, tạo điều kiện phát huy tính chủ động, năng động sáng tạo của ngành, địa phương và cơ sở.
Chống quan liêu, tham nhũng, làm trong sạch bộ máy nhà nước. Tiến tới tổ chức thi tuyển đội ngũ viên chức nhà nước theo các tiêu chuẩn quốc gia, đồng thời quan tâm đãi ngộ thoả đáng. Có kế hoạch bồi dưỡng đào tạo đội ngũ công chức.
Chỉ đạo, kiểm tra các cấp, các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế thực hiện tốt Bộ luật lao động, Luật công đoàn. Hỗ trợ, phối hợp với Công đoàn chăm lo sự nghiệp phúc lợi xã hội, phúc lợi tập thể của công nhân, lao động; giải quyết kịp thời các tranh chấp lao động. Bổ sung các quy định về trách nhiệm của các chủ doanh nghiệp tư nhân, các doanh nghiệp do nước ngoài đầu tư với công nhân và tổ chức Công đoàn.
3. Phát huy vai trò của Mặt trận và các đoàn thể nhân dân
Mặt trận Tổ quốc Việt Nam phát huy vai trò to lớn trong việc đoàn kết toàn dân, thống nhất ý chí và hành động vì thành công của sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Tuyên truyền, hướng dẫn mọi người cần kiệm làm ăn, mở mang sản xuất kinh doanh ích nước lợi nhà, làm tròn nghĩa vụ với nhà nước; tích cực tham gia đóng góp các kế sách làm cho dân giàu, nước mạnh.
Coi trọng việc xây dựng, kiện toàn tổ chức Công đoàn ở các ngành các cấp, các cơ sở.
Tổng Liên đoàn lao động, Đoàn Thanh niên cộng sản Hồ Chí Minh, Hội Liên hiệp phụ nữ, Hội Nông dân, Liên hiệp các hội khoa học và kỹ thuật, văn học - nghệ thuật, Hội Cựu chiến binh, các hội nghề nghiệp và các tổ chức xã hội khác làm nhiệm vụ động viên, tổ chức, hướng dẫn và giúp đỡ đoàn viên, hội viên và các tầng lớp nhân dân phát huy thế mạnh và khả năng của mình, khắc phục khó khăn, năng động, sáng tạo trong việc thực hiện các chương trình, kế hoạch phát triển, hoàn thành thắng lợi các mục tiêu, nhiệm vụ công nghiệp hoá, hiện đại hoá.
T/M BAN CHẤP HÀNH TRUNG ƯƠNG ĐẢNG
Tổng Bí thư
Đỗ Mười
|