Phát biểu khai mạc Hội nghị lần thứ chín Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa VII, ngày 6/11/1995

Thưa các đồng chí Cố vấn,

Thưa các đồng chí Trung ương,

Thưa các đồng chí,

Thay mặt Bộ Chính trị, tôi xin nhiệt liệt chào mừng các đồng chí về dự Hội nghị lần thứ chín Ban Chấp hành Trung ương, một hội nghị mang tầm vóc lớn lao và có ý nghĩa quan trọng đặc biệt.

Như các đồng chí đã biết, trong nhiệm kỳ này, Ban Chấp hành Trung ương đã họp tám kỳ để thảo luận và quyết định nhiều vấn đề  lớn về lãnh đạo các mặt kinh tế, xã hội, an ninh, quốc phòng, đối ngoại, xây dựng Đảng, phát triển văn hoá, giáo dục - đào tạo, khoa học - công nghệ, xây dựng nhà nước, công tác thanh niên và trong một số nghị quyết của Trung ương có đề cập nhiệm vụ xây dựng giai cấp công nhân, chính sách đối với nông dân. Về mặt trận, Bộ Chính trị có nghị quyết riêng. Những quyết định trên đã tiếp tục cụ thể hoá Cương lĩnh của Đảng, Nghị quyết Đại hội lần thứ VII của Đảng.

Hội nghị Trung ương lần này sẽ thảo luận và quyết định nội dung các dự thảo văn kiện trình Đại hội toàn quốc lần thứ VIII của Đảng, bao gồm: Báo cáo chính trị, Báo cáo phương hướng, nhiệm vụ kế hoạch kinh tế - xã hội 5 năm 1996-2000, Báo cáo sửa đổi Điều lệ Đảng và Điều lệ Đảng sửa đổi.

Đại hội VIII có nhiệm vụ kiểm điểm việc thực hiện Nghị quyết Đại hội VII cũng như việc thực hiện Cương lĩnh, Chiến lược, Điều lệ Đảng; tổng kết 10 năm đổi mới, tiếp tục bổ sung, phát triển, hoàn thiện Cương lĩnh, Chiến lược; đề ra phương hướng, giải pháp thực hiện công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước đến năm 2020 và trước mắt đến năm 2000; bổ sung và sửa đổi Điều lệ Đảng. Vì vậy, Đại hội VIII có ý nghĩa rất trọng đại. Đây là đại hội đánh dấu bước chuyển quan trọng của đất nước ta sang thời kỳ phát triển mới - thời kỳ đẩy mạnh sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, văn minh.

Những nội dung, yêu cầu của Đại hội VIII và tình hình, nhiệm vụ cách mạng hiện nay đặt ra trách nhiệm nặng nề cho Hội nghị Trung ương kỳ này.

Nhìn lại 5 năm, 10 năm đã qua, hướng về 5 năm và vài chục năm sắp tới, từ phương hướng, nhiệm vụ chính trị chung của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc đến lĩnh vực kinh tế - xã hội cho đến xây dựng Đảng, có rất nhiều vấn đề lớn và quan trọng đặt ra mà các đồng chí Uỷ viên Bộ Chính trị thay mặt các tiểu ban sẽ báo cáo với Trung ương khi trình bày các dự thảo Báo cáo chính trị, Báo cáo phương hướng, nhiệm vụ kế hoạch kinh tế - xã hội 5 năm 1996-2000, Báo cáo sửa đổi Điều lệ Đảng. ở đây tôi chỉ phát biểu một vấn đề cốt lõi, quán xuyến các dự thảo văn kiện để Trung ương xem xét, thảo luận, cho ý kiến quyết định. Đó là vấn đề tiếp tục bổ sung, phát triển quan niệm về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Cũng có thể nói, đây là vấn đề tiếp tục cụ thể hoá mô hình xây dựng chủ nghĩa xã hội trong thời kỳ quá độ ở Việt Nam dựa trên nền tảng chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh.

Trước kia, chúng ta có quan niệm giản đơn, chủ quan, duy ý chí, muốn sớm có chủ nghĩa xã hội đầy đủ trong khi nền kinh tế còn ở trình độ thấp kém. Cơ chế quản lý kinh tế, xã hội là kế hoạch hoá tập trung cao độ và bao cấp. Điều đó có mặt thích hợp với tình hình thời chiến, cho phép động viên được sức người, sức của để tiến hành kháng chiến thắng lợi. Song, tiếc rằng chúng ta chậm phát hiện và chậm có biện pháp khắc phục mặt nhược điểm của cơ chế ấy, nhất là khi cách mạng nước ta đã chuyển sang giai đoạn mới: xây dựng chủ nghĩa xã hội trên phạm vi cả nước, trong đó xây dựng kinh tế trở thành nhiệm vụ trung tâm.

Trong khoảng thời gian 10 năm đầu sau khi thống nhất đất nước, Đảng ta và nhân dân ta đã trăn trở tìm tòi cơ chế mới, tiến hành đổi mới từng phần. Đại hội lần thứ VI là một bước ngoặt, đánh dấu quá trình đổi mới tư duy mạnh mẽ của Đảng ta, đề ra đường lối đổi mới toàn diện, trước hết là về kinh tế. Đại hội VII, các kỳ hội nghị Trung ương sau đó và Hội nghị đại biểu toàn quốc giữa nhiệm kỳ của Đảng tiếp tục bổ sung, phát triển đường lối đó, hình thành một hệ thống quan điểm chỉ đạo công cuộc đổi mới ở nước ta. Hệ thống quan điểm đó bao gồm phát triển lực lượng sản xuất và xây dựng quan hệ sản xuất; tăng trưởng kinh tế với giải quyết các vấn đề về xã hội; xây dựng kinh tế và phát triển văn hoá; tăng cường hệ thống chính trị và củng cố an ninh, quốc phòng; tăng cường nguồn lực trong nước và mở rộng quan hệ đối ngoại... Tư tưởng đổi mới của Đảng ta bắt nguồn trực tiếp từ thực tiễn nước ta lại rất phù hợp với tư tưởng của Lênin về xây dựng chủ nghĩa xã hội trong thời kỳ quá độ.

Thực hiện đường lối đổi mới về kinh tế là vận dụng chính sách kinh tế mới của Lênin, tiến hành việc điều chỉnh lớn về quan hệ sản xuất nhằm phát triển tốt lực lượng sản xuất, xây dựng cơ sở vật chất - kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội. Nội dung chủ yếu của chính sách đó ở Việt Nam là xây dựng nền kinh tế nhiều thành phần, thực hiện cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước, mở cửa để hội nhập nền kinh tế thế giới, theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Chúng ta không đi con đường tư bản chủ nghĩa vì chủ nghĩa tư bản không còn là giải pháp của thời đại. Chúng ta cũng không đi con đường "chủ nghĩa xã hội dân chủ" theo cương lĩnh của các đảng xã hội - dân chủ, vì thực chất đó chỉ là chủ nghĩa tư bản tự điều chỉnh. Chúng ta cũng chưa có mô hình chủ nghĩa xã hội đầy đủ, trọn vẹn. Thực tiễn 10 năm đổi mới cho thấy, trong điều kiện của nước ta, một nước nghèo đang quá độ lên chủ nghĩa xã hội, có Nhà nước cách mạng của dân, do dân, vì dân, do Đảng Cộng sản lãnh đạo, lại có kinh tế nhà nước nắm vai trò chi phối, chúng ta có thể và cần phải sử dụng rộng rãi hình thức kinh tế tư bản nhà nước, là hình thức kinh tế phù hợp với con đường quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta.

Chúng ta đang thực hiện lời nói của Lênin: "Trong một nước tiểu nông, trước hết các đồng chí phải bắc những chiếc cầu nhỏ vững chắc, đi xuyên qua chủ nghĩa tư bản nhà nước, tiến lên chủ nghĩa xã hội" "phải lợi dụng chủ nghĩa tư bản (nhất là bằng cách hướng nó vào con đường chủ nghĩa tư bản nhà nước) làm mắt xích trung gian giữa nền tiểu sản xuất và chủ nghĩa xã hội, làm phương tiện, con đường, phương pháp, phương thức để tăng cường lực lượng sản xuất lên". Nếu như, thời Lênin, nước Nga chưa thực hiện bao nhiêu thì bây giờ hình thức kinh tế tư bản nhà nước đang được thực hiện rộng rãi ở nước ta. Đó là sự phát triển sâu rộng, đa dạng, ở mức độ khác nhau những quan hệ kinh tế, những hình thức tổ chức kinh doanh dựa trên cơ sở liên doanh, liên kết giữa Nhà nước với những nhà tư bản tư nhân trong và ngoài nước.

Trước năm 1986, về mặt quan hệ sản xuất, ở nước ta trên thực tế hầu như chỉ có hai thành phần quốc doanh và tập thể. Ngày nay, sau 10 năm đổi mới, nước ta đã thật sự có nền kinh tế nhiều thành phần, bao gồm kinh tế nhà nước, kinh tế hợp tác, kinh tế cá thể và tiểu chủ, kinh tế tư bản tư nhân và tư bản nhà nước. Do sự đan xen các thành phần mà đã xuất hiện các hình thức doanh nghiệp đa sở hữu. Thực hiện nền kinh tế nhiều thành phần cũng là thực hiện dân chủ về kinh tế, khắc phục tính ỷ lại, trông chờ vào bao cấp của Nhà nước, giải phóng lực lượng sản xuất, chủ yếu là giải phóng sức lao động to lớn của nhân dân ta, tạo động lực khai thác tiềm năng mọi mặt của xã hội, thúc đẩy mọi người, mọi nhà, mọi tổ chức, các cấp, các ngành phát huy tính năng động, sáng tạo, cần cù, tiết kiệm, phấn đấu thực hiện mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, văn minh.

Trong khi xây dựng nền kinh tế nhiều thành phần, Đảng ta chủ trương thành phần kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo, thành phần kinh tế nhà nước và thành phần kinh tế hợp tác dần dần trở thành nền tảng của nền kinh tế quốc dân, khuyến khích thành phần cá thể và tư bản tư nhân phát triển theo pháp luật, sử dụng tư bản nhà nước để đi từng bước vững chắc lên chủ nghĩa xã hội. Trên thực tế, khu vực kinh tế nhà nước vẫn giữ những vị trí then chốt và đang cố gắng bảo đảm các cân đối lớn, giữ vai trò chủ đạo đối với nền kinh tế quốc dân.

Trước đổi mới, chúng ta chủ yếu sử dụng cơ chế quản lý kế hoạch hoá tập trung cao, coi nhẹ quan hệ thị trường. Ngày nay, gắn liền với phát triển nền kinh tế nhiều thành phần, chúng ta đã sử dụng mạnh mẽ cơ chế thị trường, chuyển nền kinh tế hiện vật sang nền kinh tế hàng hoá. Đảng ta cũng luôn luôn chủ trương thực hiện cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Trên thực tế, cơ chế thị trường đã có tác dụng làm sống động nền kinh tế, thúc đẩy phát triển sản xuất và cải thiện đời sống nhân dân.

Cùng với phát triển kinh tế nhiều thành phần, đa sở hữu, thực hiện cơ chế thị trường, cũng đã có bước chuyển từ nền kinh tế còn khép kín do điều kiện lịch sử trước đây sang nền kinh tế mở với bên ngoài. Chúng ta tuyên bố Việt Nam sẵn sàng là bạn của tất cả các nước, thực hiện đa dạng hoá, đa phương hoá trong quan hệ đối ngoại nói chung và quan hệ kinh tế đối ngoại nói riêng, trên nguyên tắc giữ vững độc lập, tự chủ. Làm như vậy, chúng ta đã tranh thủ được nguồn vốn, công nghệ tiên tiến, học hỏi được kinh nghiệm quản lý kinh tế và quản lý xã hội của nhiều nước.

Những thành tựu của đổi mới kinh tế đã tạo cơ sở phát triển mọi mặt của đời sống xã hội. Trên cơ sở ổn định chính trị mà tiến hành đổi mới kinh tế có kết quả, đồng thời những thành tựu của đổi mới kinh tế lại có tác động tích cực tăng cường ổn định chính trị. Điều đặc biệt trong lịch sử phát triển của nước ta là chúng ta đã đứng vững và đi lên trong hoàn cảnh Liên Xô tan vỡ, Mỹ tiến hành bao vây cấm vận. Những thành tựu của công cuộc đổi mới đã làm cho cán bộ, đảng viên và nhân dân ta rất vui mừng, bè bạn quốc tế hoan nghênh, cổ vũ.

Tuy nhiên, trong khi thực hiện cơ chế mới để tổ chức quản lý xã hội, quản lý kinh tế... bên cạnh mặt tốt, mặt tích cực là cơ bản, cũng đã bộc lộ cả mặt trái, mặt tiêu cực không nhỏ, đang làm nhức nhối xã hội và nhân dân lo lắng.

Đó là, do hiệu quả kinh doanh còn thấp, thành phần kinh tế nhà nước chưa thực hiện tốt vai trò chủ đạo; nhiều hợp tác xã tổ chức theo mô hình cũ chậm đổi mới, đã tan rã, hoặc chỉ còn là hình thức.

Đó là, tình trạng phân hoá giàu - nghèo đang diễn ra trong các tầng lớp dân cư, giữa thành thị với nông thôn, giữa thành thị với thành thị, giữa nông thôn với nông thôn, phân hoá giàu - nghèo cả trong Đảng. Chúng ta đã thấy vấn đề này, đã có những chính sách, biện pháp xoá đói giảm nghèo, hạn chế phân hoá, song kết quả đạt được còn thấp so với yêu cầu. Chúng ta nhất định phải tránh chủ nghĩa bình quân làm suy giảm động lực phát triển kinh tế như trước đây từng mắc phải. Song cũng không thể chấp nhận tình trạng mất công bằng xã hội một cách quá đáng. Đó là tình trạng người nghèo còn gặp nhiều khó khăn trong học tập, trong khám, chữa bệnh, trong hưởng thụ văn hoá; nhiều người có công với nước còn đang sống nghèo khổ, thiếu thốn; trong khi đó kẻ làm giàu phi pháp sống phè phỡn, xa hoa; chế độ phân phối còn nhiều điều bất hợp lý, không công bằng.

Đó là, tình trạng suy thoái đạo đức trong xã hội và cả trong Đảng. Nếu như trước kia có lúc coi nhẹ lợi ích kinh tế, coi nhẹ sử dụng công cụ tiền tệ để xây dựng chủ nghĩa xã hội thì hiện nay lại xuất hiện lối sống thực dụng, chạy theo đồng tiền, coi đồng tiền là tất cả, bất chấp đạo đức và pháp luật, phai nhạt lý tưởng, giảm sút ý chí cách mạng. Lối sống thực dụng chạy theo đồng tiền đã dẫn đến bệnh hoạn xấu xa: ăn cắp, tham ô, hối lộ, đầu cơ, buôn lậu, thậm chí vì đồng tiền có kẻ đã cam tâm làm tay sai cho nước ngoài, phản dân hại nước. Vì đồng tiền mà một bộ phận dân cư và một số cán bộ, đảng viên chạy theo lối sống của "xã hội tiêu dùng", theo xu hướng phương Tây, có nguy cơ đánh mất bản sắc dân tộc.

Tình trạng suy thoái đạo đức gắn liền với tệ nạn xã hội phát triển như cờ bạc, rượu chè, mại dâm, mê tín dị đoan, du nhập văn hoá ngoại lai độc hại... là một nguy cơ đối với dân tộc và đất nước.

Mặt trái, mặt tiêu cực khi chuyển sang cơ chế mới là nghiêm trọng. Song, nếu hoang mang, dao động, quay về cơ chế cũ thì sẽ lâm vào bế tắc. Còn đi vào cơ chế mới mà không khắc phục được tiêu cực thì không tránh khỏi đổi màu sang chủ nghĩa tư bản. Chỉ có một giải pháp duy nhất là tiếp tục đẩy mạnh công cuộc đổi mới, kiên quyết khắc phục mặt trái, mặt tiêu cực phát sinh để đưa đất nước quá độ vững chắc lên chủ nghĩa xã hội.

Trong công cuộc đổi mới, đổi mới trên lĩnh vực kinh tế có vị trí rất quan trọng, bởi vì kinh tế là cơ sở của đời sống xã hội; phát triển kinh tế là nguyện vọng sâu xa, là mối quan tâm tha thiết của nhân dân; khắc phục nguy cơ tụt hậu xa hơn về kinh tế có ý nghĩa bức thiết hàng đầu. Trong đó, tất cả các thành phần kinh tế đều phải được đổi mới, tạo nên động lực mạnh mẽ thúc đẩy sản xuất, kinh doanh có hiệu quả.

Lý luận và thực tiễn đều cho thấy, có thể tạo động lực mạnh mẽ đối với kinh tế quốc doanh bằng cách phân phối theo lao động; bằng cách bán một tỷ lệ cổ phần của doanh nghiệp cho người lao động để họ trở thành người chủ sở hữu cụ thể, từ đó quan tâm thiết thân đến hoạt động của doanh nghiệp; hoặc bằng cách nghiên cứu việc chia một phần lợi nhuận cho công nhân, viên chức theo tiền lương cơ bản, làm cho người lao động quan tâm đến hiệu quả kinh doanh. Việc chia lãi cho công nhân đã được nêu lên trong Sắc lệnh 29 của Chủ tịch Hồ Chí Minh từ năm 1947, nay chính là lúc chúng ta cần thực hiện. Kinh tế nhà nước giữ những vị trí then chốt, lại kinh doanh có hiệu quả cao thì nhất định phát huy được tác dụng chủ đạo trong nền kinh tế quốc dân, thực hiện được vai trò là một công cụ quan trọng của Nhà nước ta để điều tiết nền kinh tế theo đúng định hướng xã hội chủ nghĩa, làm nòng cốt trong sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá nước nhà.

Phải đổi mới hợp tác xã theo hướng kết hợp sức mạnh tập thể với sức mạnh của từng thành viên, trên cơ sở đóng góp cổ phần và sự tham gia lao động trực tiếp của xã viên, phân phối theo kết quả lao động và theo cổ phần, mỗi xã viên có quyền định đoạt ngang nhau đối với công việc chung. Nói cách khác, chúng ta phát triển kinh tế hợp tác với nhiều dạng, trong đó đặc biệt chú trọng hợp tác xã cổ phần. Như thế, hợp tác xã được hình thành theo tất yếu kinh tế, dựa trên tinh thần hoàn toàn tự nguyện; xã viên là người chủ cụ thể thực sự của hợp tác xã, được hưởng phân phối theo cả công và của mà xã viên đóng góp cho tập thể. Với hình thức hợp tác xã cổ phần, sẽ xuất hiện nhiều loại hình hợp tác xã rất phong phú với nhiều mức độ khác nhau, trong các lĩnh vực công nghiệp, nông nghiệp và dịch vụ. Chỉ có hợp tác xã cổ phần mới hướng sản xuất nhỏ đi vào con đường  hợp tác một cách thuận lợi, hạn chế được tính tự phát, phát huy được mặt tích cực, đóng góp vào việc phát triển nền kinh tế quốc dân, tạo thuận lợi tiến hành công nghiệp hoá, khắc phục tình trạng thủ công, lạc hậu. Hợp tác xã cổ phần là hình thức tổ chức kinh tế mà người sản xuất nhỏ, chủ yếu và trước hết là nông dân, dễ tiếp thu, phù hợp với điều kiện kinh tế hàng hoá đang phát triển. Với hình thức hợp tác xã cổ phần, chúng ta bắc một nhịp cầu để đưa người sản xuất nhỏ lên chủ nghĩa xã hội như Lênin đã nói.

Kinh tế tư bản tư nhân trong nước cũng cần được đổi mới cho phù hợp với thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Tư bản tư nhân được khuyến khích phát triển theo pháp luật, nhằm  phát triển lực lượng sản xuất, xây dựng nền kinh tế quá độ lên chủ nghĩa xã hội, đồng thời bảo đảm lợi ích của các nhà tư sản dân tộc. Muốn vậy, phải có chính sách khuyến khích họ đi vào con đường liên doanh, liên kết, giữa tư nhân với Nhà nước, giữa chủ doanh nghiệp với người lao động, thực hiện đa sở hữu trong doanh nghiệp. Làm như vậy là hướng tư bản tư nhân trong nước phát triển qua "cái cầu tư bản nhà nước" vừa ích nước vừa lợi nhà, góp phần cùng nhân dân và cả dân tộc thực hiện quá độ lên chủ nghĩa xã hội.

Mở rộng quan hệ hợp tác, đầu tư giữa Nhà nước ta với tư bản nước ngoài dưới các hình thức liên doanh, liên kết có thời hạn. Về thực chất, đó cũng là một hình thức tư bản nhà nước mà cả ta và họ đều có lợi. Lợi ích của ta là tranh thủ vốn nước ngoài, tạo việc làm cho người lao động, tạo ra sản phẩm cho xã hội, thu thuế cho Nhà nước, tranh thủ công nghệ tiên tiến, học hỏi kinh nghiệm quản lý, phát triển lực lượng sản xuất, xây dựng cơ sở vật chất - kỹ thuật cho chủ nghĩa xã hội. Lợi ích của nhà tư bản nước ngoài là thu được lợi nhuận ở nơi nhân công rẻ và tài nguyên phong phú mới bắt đầu khai thác. Đương nhiên, trong quá trình mở rộng hợp tác, chúng ta phải giữ vững độc lập, chủ quyền, không cho phép bất kỳ ai làm phương hại đến lợi ích của đất nước, của chế độ xã hội chủ nghĩa của chúng ta.

Tất cả các thành phần kinh tế đều hoạt động trên thị trường, coi thị trường là mắt xích chung. Vì vậy, lãnh đạo các thành phần kinh tế phải gắn với lãnh đạo thị trường. Chúng ta đã từng biết có thị trường tư bản chủ nghĩa. Còn nước ta hiện nay đang ở trình độ một thị trường quá độ lên chủ nghĩa xã hội, chưa có thị trường xã hội chủ nghĩa với ý nghĩa đầy đủ. Đó là thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Trên thị trường có nhiều thành phần tham gia, trong đó thành phần kinh tế nhà nước phải phấn đấu giữ vai trò chủ đạo. Kinh tế hợp tác cần được xây dựng và lớn dần trên thị trường và lưu thông. Điều cần nhấn mạnh là phải có hình thức tư bản nhà nước trên thị trường, coi đó là một biểu hiện đặc trưng của thị trường quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Đảng lãnh đạo, Nhà nước kiểm kê, kiểm soát, chống đầu cơ buôn lậu, có chính sách điều tiết hợp lý để khắc phục và hạn chế sự phân hoá giàu nghèo quá đáng và phi pháp, vì lợi ích trước mắt và lâu dài của nhân dân.

Trên thị trường tất yếu có cạnh tranh, trong đó có một số lĩnh vực Nhà nước giữ  toàn quyền chi phối. Trong xã hội tư bản, cạnh tranh và độc quyền là vì lợi ích của nhà tư bản, của các tập đoàn tư bản lũng đoạn; còn ở nước ta hiện nay, cạnh tranh hay Nhà nước toàn quyền chi phối một số lĩnh vực nào đó đều là vì lợi ích của đất nước, của dân tộc, của nhân dân, vì sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội.

Thị trường và kế hoạch có tác động qua lại, không thể tách rời. Sử dụng thị trường phải đi đôi với bảo đảm vai trò của kế hoạch hoá. Qua đó thực hiện chức năng quản lý của Nhà nước và chức năng lãnh đạo của Đảng. Một mặt, thị trường phải theo định hướng kế hoạch; mặt khác, kế hoạch cũng phải lấy thị trường làm một căn cứ xuất phát quan trọng, phải thúc đẩy hoạt động lành mạnh của thị trường, thông qua thị trường mà hướng dẫn sự vận hành nền kinh tế.

Nói tóm lại, Đảng ta phải lãnh đạo thực hiện nhất quán chính sách kinh tế nhiều thành phần, vận động theo cơ chế thị trường, từ sản xuất đến lưu thông, mở cửa ra bên ngoài, tất cả theo định hướng xã hội chủ nghĩa; trong đó kinh tế nhà nước là chủ đạo, hình thức tư bản nhà nước trở thành phổ biến. Hình thức tư bản nhà nước nói ở đây là tư bản có kiểm kê, kiểm soát, có sự lãnh đạo của Đảng và hướng dẫn của Nhà nước, là một trong những hình thức kinh tế phù hợp với điều kiện nước ta, một nước nông nghiệp lạc hậu, sản xuất nhỏ, kinh tế kém phát triển, bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa để đi lên chủ nghĩa xã hội. Suy đến cùng, sự tác động lẫn nhau giữa quan hệ sản xuất và lực lượng sản xuất là động lực thúc đẩy sự tiến hoá xã hội. Với chính sách đúng đắn đối với các thành phần kinh tế nói trên, chúng ta tin rằng sẽ tạo ra động lực mạnh mẽ thúc đẩy tiến bộ xã hội ở nước ta.

Thưa các đồng chí Cố vấn,

Thưa các đồng chí Trung ương,

Thưa các đồng chí,

Đảng ta khẳng định: Phát triển kinh tế là nhiệm vụ trọng tâm, xây dựng Đảng là khâu then chốt, lúc này, xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh về chính trị, tư tưởng và tổ chức, nâng cao sức chiến đấu, năng lực và vai trò lãnh đạo của Đảng là vấn đề cốt tử, quyết định bước tiến của cách mạng Việt Nam.

Đổi mới kinh tế, chuyển sang nền kinh tế nhiều thành phần, vận động theo cơ chế thị trường, hội nhập với cộng đồng quốc tế đang đặt ra hàng loạt vấn đề trong công tác xây dựng Đảng: giữ vững bản chất giai cấp công nhân, nâng cao phẩm chất cách mạng, năng lực trí tuệ của Đảng có ý nghĩa quyết định trong sự nghiệp xây dựng Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Hiện nay, có những thế lực vẫn đang tìm mọi cách để phá hoại vai trò lãnh đạo của Đảng ta, hòng làm biến chất Đảng ta, làm cho Đảng ta trở thành đảng xã hội - dân chủ. Bởi vậy, hội nghị lần này phải thống nhất nhận thức về tầm quan trọng của công tác xây dựng Đảng. Đảng ta đã được dân tộc giao cho sứ mệnh lịch sử là người duy nhất lãnh đạo sự nghiệp cách mạng, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Đảng ta phải phấn đấu để thật sự xứng đáng với niềm tin yêu của nhân dân, xứng đáng là đội tiên phong chính trị của cả dân tộc. Muốn vậy, mỗi cán bộ, đảng viên phải ra sức học tập, nắm vững bản chất cách mạng và khoa học của chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, thực hiện Di chúc thiêng liêng của Bác Hồ: "Đảng ta là một đảng cầm quyền. Mỗi đảng viên và cán bộ phải thật sự thấm nhuần đạo đức cách mạng, thật sự cần kiệm liêm chính, chí công, vô tư. Phải giữ gìn Đảng ta thật trong sạch, phải xứng đáng là người lãnh đạo, là người đày tớ thật trung thành của nhân dân"1. Học thuyết Mác - Lênin vạch ra con đường giải quyết các mâu thuẫn xã hội, đưa loài người tiến lên một xã hội ngày càng văn minh. Đảng ta đi theo học thuyết ấy vì đó là lý luận cách mạng, lý luận về giải phóng và phát triển xã hội, đem lại lợi ích cho giai cấp công nhân, nhân dân lao động và cho các dân tộc bị áp bức. Mặt khác, lý luận đó cũng chỉ ra rằng, giai cấp công nhân muốn giải phóng mình thì phải giải phóng toàn thể nhân dân lao động, giải phóng toàn xã hội, giải phóng mọi con người. Chính vì vậy, chủ nghĩa Mác - Lênin là học thuyết nhân bản nhất.

Đổi mới theo con đường xã hội chủ nghĩa là sự nghiệp chưa có tiền lệ. Trước những thực tiễn mới mẻ và phức tạp, suy nghĩ, kiến giải của cán bộ, đảng viên có sự khác nhau là điều bình thường. Bởi vậy, trong sinh hoạt nội bộ, Đảng phải phát huy dân chủ đầy đủ để tìm ra các hình thức, biện pháp tốt nhất nhằm thực hiện đường lối của Đảng; đồng thời phải giữ vững tập trung cao trong tổ chức và hành động. Nguyên tắc tập trung dân chủ là cái bảo đảm tạo ra sức mạnh của Đảng ta, một đảng chiến đấu, một đảng thật sự cách mạng. Phương hướng sửa đổi Điều lệ Đảng không đi ra ngoài những nguyên tắc căn bản của Đảng kiểu mới - một đảng luôn luôn lấy chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng và kim chỉ nam cho hành động, lấy tập trung dân chủ làm nguyên tắc cơ bản về tổ chức và sinh hoạt đảng. Đây là vấn đề sống còn của Đảng, đồng thời cũng là vấn đề sống còn của chế độ xã hội và của cả dân tộc.

Đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước và Mặt trận trước hết phải dựa trên nguyên tắc giữ vững bản chất giai cấp công nhân của Nhà nước ta. Chỉ có lập trường, tư tưởng, thế giới quan của giai cấp công nhân mới bảo đảm cho lợi ích của dân tộc. Và chính theo ý nghĩa đó mà chúng ta nói rằng chỉ có giai cấp công nhân mới đại diện cho lợi ích của nhân dân và toàn thể dân tộc. Nhà nước mang bản chất của giai cấp công nhân thì đồng thời và do đó cũng mang tính nhân dân và tính dân tộc sâu sắc. Khi trở thành đảng cầm quyền, Đảng phải lãnh đạo Nhà nước, chịu trách nhiệm trước lịch sử, bảo đảm sự phát triển của dân tộc, bảo đảm lợi ích chính đáng, hợp pháp của tất cả các giai cấp, tầng lớp và của mọi công dân. Nâng cao vai trò của pháp luật trong quản lý xã hội là một trọng tâm lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước hiện nay. Xây dựng nhà nước pháp quyền nhất thiết phải bảo đảm cho Nhà nước của chúng ta là nhà nước của dân, do dân và vì dân. Muốn vậy, nhà nước đó phải đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng.

Đại đoàn kết toàn dân là truyền thống quý báu của dân tộc và là nguồn sức mạnh của cách mạng Việt Nam. Mở rộng Mặt trận dân tộc thống nhất trên cơ sở khối liên minh giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và tầng lớp trí thức do Đảng lãnh đạo là nhiệm vụ chiến lược của chúng ta hiện nay. Phải kiên quyết đấu tranh vạch trần những âm mưu và thủ đoạn lợi dụng "dân chủ, nhân quyền" để chia rẽ Đảng, Nhà nước với nhân dân. Việt Nam là một quốc gia độc lập, có chủ quyền, nhân dân ta không cho phép bất cứ ai can thiệp vào công việc nội bộ, vào việc quản lý của đất nước ta. Đảng và Nhà nước ta có chính sách phát triển kinh tế, từng bước nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân. Đó là thực chất và cũng là nghĩa lớn của dân chủ, nhân quyền mà chúng ta theo đuổi.

Cách mạng bao giờ cũng là sự nghiệp của nhân dân. Công cuộc đổi mới ngày nay cũng là như vậy. Đảng phải thu hút mọi người Việt Nam yêu nước thuộc mọi giai cấp, tầng lớp, dân tộc, tôn giáo, đảng viên và người ngoài đảng, đoàn kết, nhất trí thực hiện mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, văn minh. Đảng có trách nhiệm bố trí những người có đủ đức, tài vào những cương vị trọng trách, tạo điều kiện tốt nhất để họ cống hiến tài năng cho sự nghiệp xây dựng đất nước; làm cho công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội thật sự là trách nhiệm của toàn dân.

Nước ta chỉ có một đảng - đó là Đảng Cộng sản Việt Nam - không có nhu cầu đa đảng. Mặt trận Tổ quốc Việt Nam là một tổ chức xã hội rộng rãi, bao gồm các giai cấp, các tầng lớp, các đoàn thể nhân dân, các cá nhân tiêu biểu, các tôn giáo và dân tộc, trong đó Đảng Cộng sản Việt Nam vừa là thành viên, vừa là lực lượng lãnh đạo. Vì thế, Đảng ta hoàn toàn có khả năng mở rộng sinh hoạt dân chủ trong xã hội, phát huy và tập hợp được trí tuệ và năng lực sáng tạo của toàn thể nhân dân, của cả dân tộc để đưa đất nước tiến lên.

Nền kinh tế nhiều thành phần, cơ chế thị trường, mở cửa ra bên ngoài đang tác động mạnh vào Đảng ta, đồng thời cũng đòi hỏi Đảng ta tăng cường vai trò lãnh đạo. Chúng ta phải biết tự bảo vệ, ngăn ngừa và chống lại những ảnh hưởng tiêu cực thâm nhập vào trong Đảng. Giữ vững đạo đức cách mạng, tư cách của người cán bộ, đảng viên, làm trong sạch Đảng và Nhà nước, đó là nhiệm vụ quan trọng trong công tác xây dựng Đảng hiện nay.

Kinh nghiệm cho thấy, đối với cán bộ, đảng viên, sự thoái hoá về lối sống, đi vào con đường bóc lột dưới nhiều hình thức thường dẫn tới thoái hoá về chính trị. Chính ở đây các thế lực chống đối đang lợi dụng để chống Đảng, chống sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc của nhân dân ta. Vì vậy, có thể nói, tham nhũng, buôn lậu, đầu cơ là một nguy cơ lớn phá hoại sự nghiệp xây dựng đất nước. Lênin đã từng nói: Không ai có thể làm mất uy tín của người cộng sản nếu như chính họ không làm điều đó. Giữ vững lý tưởng cách mạng, phẩm chất, lối sống trong sạch, lành mạnh, làm cho mỗi cán bộ, đảng viên trở thành tấm gương sáng trước nhân dân, đó là sự bảo đảm trong thực tế vai trò lãnh đạo của Đảng ta, là điều kiện để Đảng ta hoàn thành được sứ mệnh lịch sử của mình trong giai đoạn mới.

*
*     *

Trên đây là vấn đề cốt lõi, quán xuyến các dự thảo văn kiện mà tôi đề cập, với mong muốn được các đồng chí Trung ương trao đổi và cho ý kiến.

Xin chúc sức khoẻ các đồng chí Cố vấn, các đồng chí Trung ương, các đồng chí tham dự hội nghị. Chúc Hội nghị lần thứ chín Ban Chấp hành Trung ương (khoá VII) thành công tốt đẹp.

 

Lưu tại Kho Lưu trữ
Trung ương Đảng.



1. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2002, t.12, tr.510. 

Phản hồi

Thông tin người gửi phản hồi

Chỉ thị của Ban Bí thư về công tác an toàn, vệ sinh lao động trong tình hình mới

(ĐCSVN) - Ngày 19/3/2024, đồng chí Trương Thị Mai ký ban hành Chỉ thị số 31-CT/TW về tiếp tục tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác an toàn, vệ sinh lao động trong tình hình mới.

Sớm đưa vào sử dụng các công trình, dự án hạ tầng cấp bách, trọng điểm về giao thông

(ĐCSVN) - Bộ Chính trị yêu cầu tập trung đầu tư, sớm đưa vào sử dụng các công trình, dự án hạ tầng cấp bách, trọng điểm về giao thông đường bộ, đường sắt, đường biển, đường thuỷ nội địa, đường hàng không kết nối các địa phương, vùng và khu vực, quốc tế.

Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác thực hành tiết kiệm, chống lãng phí

(ĐCSVN) - Các cấp uỷ, tổ chức đảng, chính quyền, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các tổ chức chính trị - xã hội cần quán triệt, nâng cao nhận thức, tổ chức thực hiện nghiêm chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước về công tác thực hành tiết kiệm, chống lãng phí; xem đây là nhiệm vụ trọng tâm, thường xuyên của cả hệ thống chính trị và xã hội; là văn hoá ứng xử của mỗi cán bộ, đảng viên, công chức, viên chức và mỗi người dân, nhất là người đứng đầu, cán bộ lãnh đạo, quản lý.

Bộ Chính trị ban hành quy định phòng chống tham nhũng, tiêu cực trong điều tra, xét xử

(ĐCSVN) – Ngày 27/10/2023, Bộ Chính trị đã ban hành Quy định số 132-QĐ/TW về kiểm soát quyền lực, phòng, chống tham nhũng, tiêu cực trong hoạt động điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án.

Liên kết website