Báo cáo Chính trị của Ban Chấp hành Trung ương khóa III tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IV của Đảng

Thưa các đồng chí đại biểu,

Thưa các vị khách kính mến,

Mười sáu năm đã qua kể từ Đại hội lần thứ III đến Đại hội lần thứ IV này của Đảng.

Trong thời gian ấy, Tổ quốc ta đã trải qua những thử thách cực kỳ nghiêm trọng. Vừa ra khỏi cuộc kháng chiến vĩ đại chống thực dân Pháp, nhân dân ta lại bước vào một trận chiến đấu mới chống cuộc chiến tranh xâm lược tàn bạo chưa từng có của đế quốc Mỹ, tên đế quốc đầu sỏ, tên sen đầm quốc tế, kẻ thù hung ác nhất của loài người. Trong cuộc đọ sức đó, đế quốc Mỹ tưởng có thể đè bẹp chúng ta trong một thời gian ngắn. Nhưng dưới sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng, và được anh em bầu bạn khắp thế giới hết lòng giúp đỡ, nhân dân và quân đội cả nước ta đã chiến đấu cực kỳ anh dũng và chiến thắng hết sức vẻ vang.

Năm tháng sẽ trôi qua, nhưng thắng lợi của nhân dân ta trong sự nghiệp kháng chiến chống Mỹ, cứu nước mãi mãi được ghi vào lịch sử dân tộc ta như một trong những trang chói lọi nhất, một biểu tượng sáng ngời về sự toàn thắng của chủ nghĩa anh hùng cách mạng và trí tuệ con người, và đi vào lịch sử thế giới như một chiến công vĩ đại của thế kỷ XX, một sự kiện có tầm quan trọng quốc tế to lớn và có tính thời đại sâu sắc.

Đối với nhân dân ta, thắng lợi oanh liệt đó mở ra một bước ngoặt vĩ đại trong lịch sử dân tộc. Nó kết thúc vẻ vang quá trình ba mươi năm chiến tranh giải phóng dân tộc và bảo vệ Tổ quốc bắt đầu từ Cách mạng Tháng Tám, chấm dứt vĩnh viễn ách thống trị hơn một thế kỷ của chủ nghĩa đế quốc trên đất nước ta, hoàn thành cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân trong cả nước, bảo vệ và phát triển những thành quả của cách mạng xã hội chủ nghĩa trên miền Bắc, xoá bỏ mọi chướng ngại trên con đường thực hiện thống nhất nước nhà, đưa cả nước tiến lên chủ nghĩa xã hội.

Đối với thế giới, thắng lợi của nhân dân ta đã đập tan cuộc phản công lớn nhất của tên đế quốc đầu sỏ chĩa vào các lực lượng cách mạng kể từ sau Chiến tranh thế giới thứ hai, đẩy lùi trận địa của chủ nghĩa đế quốc, mở rộng trận địa của chủ nghĩa xã hội, phá vỡ một phòng tuyến quan trọng của đế quốc Mỹ ở Đông Nam châu á, làm đảo lộn chiến lược toàn cầu phản cách mạng của chúng, đẩy Mỹ vào tình thế khó khăn chưa từng thấy, làm yếu hệ thống đế quốc chủ nghĩa, tăng thêm sức mạnh và thế tiến công của các trào lưu cách mạng của thời đại, đem lại lòng tin và niềm phấn khởi cho hàng trăm triệu người trên trái đất đang đấu tranh vì hoà bình, độc lập dân tộc, dân chủ và chủ nghĩa xã hội.

Với thắng lợi vĩ đại của cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta đã hoàn thành tốt đẹp những nhiệm vụ lịch sử giải phóng dân tộc và thống nhất nước nhà do Đại hội lần thứ III của Đảng đề ra, làm tròn sứ mệnh thiêng liêng đối với Tổ quốc và nghĩa vụ quốc tế cao cả của mình.

Hôm nay, chúng ta vô cùng tự hào nhìn lại bước đường đấu tranh cách mạng lâu dài và oanh liệt mà nhân dân ta đã vượt qua dưới sự lãnh đạo của Đảng. Từ những người dân mất nước, nhân dân ta đã anh dũng vùng lên, lần lượt đánh bại sự xâm lược của nhiều đế quốc lớn mạnh, lật đổ ách thống trị của phát xít Nhật, đập tan chủ nghĩa thực dân cũ của Pháp và nay lại chiến thắng chủ nghĩa thực dân mới của Mỹ, đưa nước nhà bước vào kỷ nguyên của độc lập, tự do và chủ nghĩa xã hội. Với những chiến công hiển hách ấy, nhân dân ta xứng đáng đứng vào hàng các dân tộc tiên phong đấu tranh cho những lý tưởng đẹp đẽ của loài người, góp phần tích cực thúc đẩy tiến trình cách mạng thế giới. Và Đảng ta, người tổ chức mọi thắng lợi của cách mạng Việt Nam, ngày nay đã trở thành một đảng Mác - Lênin lớn mạnh, một đảng tôi luyện về chính trị, vững mạnh về tư tưởng và tổ chức, một đội ngũ kiên cường của phong trào cộng sản và công nhân quốc tế.

Thắng lợi của cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước là thành quả tổng hợp của một loạt nhân tố tạo nên sức mạnh vô địch của cách mạng Việt Nam. Nguồn gốc của mọi nhân tố ấy chính là sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng ta, đội tiên phong dày dạn của giai cấp công nhân Việt Nam, người đại biểu trung thành và đầy đủ những lợi ích sống còn, những nguyện vọng sâu xa và chính đáng của nhân dân Việt Nam, của cả dân tộc Việt Nam, người kết hợp nhuần nhuyễn và thành công khoa học cách mạng của giai cấp công nhân là chủ nghĩa Mác - Lênin với nghị lực chiến đấu phi thường và sức sáng tạo vô tận của nhân dân ta, với những tinh hoa trong truyền thống bốn nghìn năm của dân tộc Việt Nam ta.

Thắng lợi của cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước là thắng lợi của cuộc chiến đấu đầy gian khổ, hy sinh, ngoan cường và bền bỉ, anh dũng và thông minh của nhân dân và quân đội cả nước, đặc biệt là của các đảng bộ miền Nam, các cán bộ, chiến sĩ công tác và chiến đấu ở miền Nam, và hàng chục triệu đồng bào yêu nước trên tuyến đầu Tổ quốc đã nêu cao tấm gương kiên cường, bất khuất hơn ba mươi năm dưới ách quân xâm lược.

Đó là thắng lợi của chế độ xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc, một chế độ hoàn toàn mới trong lịch sử nước nhà, nhờ phát huy quyền làm chủ tập thể của nhân dân lao động và tính ưu việt của những quan hệ xã hội mới, đã tạo nên sức mạnh cực kỳ to lớn, bảo đảm cho miền Bắc vừa xây dựng, vừa chiến đấu để tự bảo vệ một cách vững chắc, đồng thời động viên ngày càng nhiều sức người, sức của để đánh Mỹ, cứu nước ở miền Nam.

Trong ngày hội trọng thể này, Đại hội chúng ta nhiệt liệt biểu dương lòng yêu nước nồng nàn và chủ nghĩa anh hùng cách mạng tuyệt vời của đồng bào, chiến sĩ, cán bộ, đảng viên thuộc tất cả các dân tộc anh em từ Nam đến Bắc đã đoàn kết chiến đấu không mệt mỏi vì sự nghiệp giải phóng dân tộc và thống nhất Tổ quốc!

Đại hội tuyên dương cán bộ, chiến sĩ các lực lượng vũ trang nhân dân anh hùng, suốt mấy chục năm ròng đã chiến đấu cực kỳ anh dũng, từ gậy tầm vông, súng kíp đã lớn lên thành những binh đoàn hùng mạnh, đánh thắng những kẻ thù hung ác, lập được những chiến công oanh liệt từ trận Điện Biên Phủ đến Chiến dịch Hồ Chí Minh, làm rạng rỡ truyền thống vẻ vang của quân đội ta, cùng với toàn dân viết nên bản anh hùng ca kỳ diệu của chiến tranh cách mạng Việt Nam!

Đại hội chúng ta ghi nhớ công ơn các liệt sĩ đã anh dũng hy sinh vì độc lập, tự do của Tổ quốc, vì chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản, vì nghĩa vụ thiêng liêng đối với dân tộc và nghĩa vụ quốc tế cao cả. Nhân dân ta tự hào về những người con trung hiếu mẫu mực đã đem máu đào tô thắm lá cờ vinh quang của Tổ quốc!

Thắng lợi to lớn của sự nghiệp chống Mỹ, cứu nước cũng như những trang sử chói lọi của cách mạng Việt Nam ngót nửa thế kỷ nay mãi mãi gắn liền với tên tuổi của Chủ tịch Hồ Chí Minh, người sáng lập và rèn luyện Đảng ta, người khai sinh nền Cộng hoà Dân chủ Việt Nam, người vun trồng khối đại đoàn kết dân tộc và xây dựng lực lượng vũ trang cách mạng, vị lãnh tụ thiên tài của giai cấp công nhân và nhân dân ta, người anh hùng dân tộc vĩ đại, người chiến sĩ lỗi lạc của phong trào cộng sản quốc tế. Trong giờ phút quang vinh này, chúng ta vô cùng xúc động tưởng nhớ tới Bác Hồ muôn vàn kính yêu, vì Bác của chúng ta không còn nữa để cùng tham dự Đại hội lịch sử này. Nhưng toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta rất tự hào đã thực hiện một cách xuất sắc Di chúc thiêng liêng của Bác. Điều mong ước và lời căn dặn thiết tha nhất của Bác hôm nay đã thành sự thật. Đế quốc Mỹ đã vĩnh viễn cút khỏi nước ta. Tổ quốc ta đã hoàn toàn độc lập, thống nhất và đang tiến lên chủ nghĩa xã hội. Đồng bào Nam - Bắc đã sum họp một nhà. Đại biểu tình cảm sâu sắc nhất của đồng bào và chiến sĩ cả nước, Đại hội xin kính dâng lên Chủ tịch Hồ Chí Minh vĩ đại chiến công thắng Mỹ, bày tỏ lòng biết ơn vô hạn đối với Bác, người đã cống hiến trọn đời mình cho sự nghiệp giải phóng nhân dân, thống nhất Tổ quốc, cho sự nghiệp của Đảng và của dân tộc, làm rạng rỡ non sông đất nước ta, để lại cho chúng ta và các thế hệ mai sau những di sản bất diệt! Xin đề nghị Đại hội chúng ta đứng dậy tưởng niệm Bác Hồ và các liệt sĩ đã hy sinh vì Tổ quốc!

Thắng lợi của chúng ta cũng là thắng lợi của tình đoàn kết chiến đấu không gì lay chuyển nổi của nhân dân ba nước Việt Nam, Lào và Campuchia, của mối quan hệ đặc biệt đã có từ lâu trong lịch sử và được thử thách trong ngọn lửa cách mạng chống kẻ thù chung của ba dân tộc. Thay mặt toàn Đảng, toàn dân ta, Đại hội nhiệt liệt chào mừng thắng lợi lịch sử vĩ đại của nhân dân Lào và nhân dân Campuchia anh em, coi đó như thắng lợi của chính mình, và xin gửi đến các bạn chiến đấu cùng chiến hào lòng biết ơn vô hạn và tình đoàn kết trước sau như một của chúng ta.

Thắng lợi của chúng ta cũng chính là thắng lợi của các lực lượng xã hội chủ nghĩa, độc lập dân tộc, dân chủ và hoà bình trên toàn thế giới đã ủng hộ nhân dân ta đấu tranh chống đế quốc Mỹ xâm lược. Đại hội chúng ta bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc nhất đối với Liên Xô, Trung Quốc và các nước xã hội chủ nghĩa anh em khác, đã vì tình nghĩa quốc tế vô sản, dành cho nhân dân ta sự ủng hộ và giúp đỡ toàn diện, to lớn và quý báu, và hiện đang tiếp tục giúp đỡ chúng ta hàn gắn các vết thương chiến tranh, xây dựng lại đất nước. Chúng ta nhiệt liệt cảm ơn các Đảng cộng sản và giai cấp công nhân các nước trên thế giới, các phong trào giải phóng dân tộc, các nước dân tộc chủ nghĩa, các nước yêu chuộng hoà bình, các tổ chức dân chủ quốc tế và cả loài người tiến bộ, đã đồng tình, ủng hộ, cổ vũ mạnh mẽ cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước của nhân dân ta, và nay đang dành cho chúng ta sự ủng hộ và giúp đỡ nhiệt tình trong giai đoạn mới.

Thưa các đồng chí,

Đại hội lần thứ IV của Đảng là Đại hội có ý nghĩa lịch sử cực kỳ trọng đại,

Đại hội toàn thắng của sự nghiệp giải phóng dân tộc,

Đại hội thống nhất nước nhà,

Đại hội cả nước tiến lên chủ nghĩa xã hội!

Đảng quang vinh của chúng ta đi tới Đại hội lần thứ IV của mình, tràn đầy phấn khởi và nghị lực cách mạng, trưởng thành vượt bậc trong bản lĩnh chính trị và năng lực sáng tạo, đoàn kết nhất trí hơn bao giờ hết, gắn bó hơn bao giờ hết với giai cấp và dân tộc, với đạo quân quốc tế vĩ đại những người cộng sản, với những chiến sĩ đấu tranh cho độc lập, tự do và tiến bộ xã hội trên toàn thế giới. Đảng tin tưởng sắt đá ở sức mạnh của mình và ở đường lối đúng đắn do Đại hội vạch ra cho cách mạng Việt Nam trong giai đoạn mới.

I - Thắng lợi vĩ đại, bước ngoặt lịch sử của cách mạng Việt Nam

Thưa các đồng chí,

Từ tháng 7 năm 1954 đến tháng 5 năm 1975 là thời kỳ đấu tranh vô cùng sôi động và phong phú của cách mạng Việt Nam. Dưới ánh sáng của đường lối do Đại hội lần thứ III của Đảng đề ra, nhân dân cả nước ta đã đấu tranh vô cùng anh dũng và bền bỉ để thực hiện hai nhiệm vụ chiến lược: giải phóng miền Nam, xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc, nhằm thực hiện một nước Việt Nam hoà bình, thống nhất, độc lập, dân chủ và giàu mạnh. Dưới đây, Ban Chấp hành Trung ương xin báo cáo tổng quát cuộc đấu tranh cách mạng của nhân dân ta và hoạt động của Đảng và Nhà nước ta trong việc thực hiện những nhiệm vụ ấy.

Như chúng ta đã biết, sau Chiến tranh thế giới thứ hai, đế quốc Mỹ, nhờ lợi dụng vị trí đặc biệt của nước Mỹ mà trở thành tên đế quốc giàu có và hùng mạnh nhất, đã đứng ra đóng vai trò sen đầm quốc tế để bảo vệ và cứu nguy cho cả hệ thống đế quốc chủ nghĩa đã suy yếu nghiêm trọng và lâm vào một cuộc tổng khủng hoảng mới, trước sự ra đời và lớn mạnh nhanh chóng của hệ thống xã hội chủ nghĩa thế giới, trước những đòn quyết liệt của phong trào giải phóng dân tộc và làn sóng đấu tranh dồn dập của phong trào công nhân ở các nước tư bản chủ nghĩa. Trước sức tiến công mạnh mẽ của ba dòng thác cách mạng ấy, đế quốc Mỹ lần lượt mất vị trí này đến vị trí khác và lực lượng so sánh trên thế giới tiếp tục thay đổi ngày càng không có lợi cho phe đế quốc chủ nghĩa. Sau khi thất bại trong chiến lược "trả đũa ồ ạt" dựa vào vũ khí hạt nhân, từ đầu những năm 1960, đế quốc Mỹ buộc phải chuyển sang thực hành chiến lược "phản ứng linh hoạt", chĩa mũi nhọn chủ yếu vào các lực lượng xã hội chủ nghĩa và giải phóng dân tộc ở những vùng có chọn lựa, mà Việt Nam là điểm nóng bỏng nhất theo quan điểm chiến lược của Mỹ.

Từ lâu đế quốc Mỹ đã nhòm ngó nước ta. Khi Pháp sa lầy trong chiến tranh Đông Dương, một mặt Mỹ ra tay giúp Pháp, mặt khác âm mưu thay thế Pháp để độc chiếm Đông Dương. Sau khi Pháp thua ở Điện Biên Phủ, đế quốc Mỹ nhảy vào miền Nam Việt Nam, hất cẳng Pháp và từ đó biến nước ta thành nơi thí nghiệm các chiến lược, chiến thuật của Mỹ, hòng đánh bại cách mạng Việt Nam, và rút kinh nghiệm để đối phó với phong trào cách mạng thế giới. Bởi vì, từ một thuộc địa vùng lên giành độc lập, anh dũng đánh thắng một đế quốc to là Pháp, đưa nửa nước tiến lên chủ nghĩa xã hội, đồng thời kiên quyết đấu tranh để hoàn thành độc lập dân tộc trong cả nước, cách mạng Việt Nam dưới sự lãnh đạo của Đảng cộng sản là ngọn cờ tiêu biểu cho sự kết hợp các trào lưu cách mạng của thời đại, cho xu thế phát triển tất yếu của phong trào giải phóng dân tộc lên chủ nghĩa xã hội.

Âm mưu cơ bản của đế quốc Mỹ là tiêu diệt bằng được phong trào yêu nước của nhân dân ta, thôn tính miền Nam, chia cắt lâu dài đất nước ta, biến miền Nam thành thuộc địa kiểu mới và căn cứ quân sự của Mỹ, lập phòng tuyến ngăn chặn chủ nghĩa xã hội lan xuống Đông Nam châu á; đồng thời lấy miền Nam làm căn cứ để tiến công miền Bắc, tiền đồn của hệ thống xã hội chủ nghĩa thế giới ở Đông Nam châu á, hòng đè bẹp và đẩy lùi chủ nghĩa xã hội ở vùng này, bao vây và uy hiếp các nước xã hội chủ nghĩa khác. Năm tổng thống Mỹ kế tiếp nhau đã theo đuổi âm mưu ấy bằng con đường chiến tranh, ngoan cố bám lấy chính sách thực dân mới và lao vào những cuộc phiêu lưu quân sự với bất cứ giá nào. Đế quốc Mỹ chắc mẩm có thể khuất phục được nhân dân ta mà không bị trừng phạt và không gây ra xung đột quốc tế mở rộng do có sự bất hoà trong hệ thống xã hội chủ nghĩa. Đất nước ta, vì vậy, trở thành nơi thử thách sức mạnh và uy tín của đế quốc Hoa Kỳ, như chính bọn cầm quyền Mỹ đã thú nhận. Chiến tranh xâm lược Việt Nam là một bộ phận quan trọng trong chiến lược toàn cầu phản cách mạng của đế quốc Mỹ. Mỹ muốn chứng tỏ rằng lực lượng quân sự và kinh tế khổng lồ của chúng có thể đè bẹp mọi phong trào giải phóng dân tộc và chặn đứng bước tiến của chủ nghĩa xã hội ở bất cứ nơi nào trên thế giới.

Trong cuộc chiến tranh cách mạng lâu dài chống chiến tranh xâm lược của đế quốc Mỹ, nhân dân ta đã lần lượt đánh bại những chiến lược khác nhau của các tổng thống Mỹ, đưa cuộc kháng chiến cứu nước qua những chặng đường thắng lợi rất vẻ vang.

Vượt qua thời kỳ khó khăn từ năm 1954 đến năm 1959, dưới ánh sáng Nghị quyết Hội nghị lần thứ 15 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khoá II (tháng 5 năm 1959) và Nghị quyết Đại hội lần thứ III của Đảng, cách mạng miền Nam đã chuyển từ thế giữ gìn lực lượng sang thế tiến công. Vào cuối năm 1959 đầu năm 1960, những cuộc "đồng khởi" đã nổ ra trong những vùng rộng lớn thuộc đồng bằng Nam Bộ và rừng núi miền Trung. Những cuộc khởi nghĩa từng phần ấy đã phát triển nhanh chóng, nhất là từ sau chiến thắng ấp Bắc, thành một cuộc chiến tranh cách mạng vừa đấu tranh quân sự, vừa đấu tranh chính trị, kết hợp đánh địch ở rừng núi và nông thôn đồng bằng với phong trào đấu tranh quyết liệt ở thành thị, đẩy chế độ phát xít tay sai Ngô Đình Diệm đến sụp đổ và làm phá sản chiến lược "chiến tranh đặc biệt" của đế quốc Mỹ.

Năm 1965, cuộc chiến tranh xâm lược của Mỹ phát triển lên một bước mới. Trong tình hình chính quyền Giônxơn tiến hành "chiến tranh cục bộ" ở miền Nam và gây chiến tranh phá hoại đối với miền Bắc, các Hội nghị lần thứ 11 (tháng 3 năm 1965) và lần thứ 12 (tháng 12 năm 1965) của Ban Chấp hành Trung ương Đảng đã phân tích một cách khoa học lực lượng so sánh giữa ta và địch, khẳng định thất bại không tránh khỏi của đế quốc Mỹ, động viên quân đội và nhân dân cả nước giữ vững chiến lược tiến công, nêu cao ý chí tự lực tự cường, phát huy sức mạnh của mình và ra sức tranh thủ sự giúp đỡ quốc tế, kiên quyết đánh thắng hoàn toàn giặc Mỹ xâm lược, giải phóng miền Nam, bảo vệ miền Bắc, tiến tới thống nhất nước nhà. Hưởng ứng lời kêu gọi của Hồ Chủ tịch "Không có gì quý hơn độc lập, tự do", cả nước ra quân với khí thế hào hùng, đánh thắng giòn giã những trận đầu ở Núi Thành, Vạn Tường, tiếp đó, lần lượt đập tan các cuộc phản công chiến lược của Mỹ ở miền Nam, đồng thời giáng trả mãnh liệt những cuộc đánh phá bằng không quân của chúng trên miền Bắc. Mùa Xuân năm 1968, giữa lúc cuộc chiến tranh của Mỹ leo thang đến đỉnh cao nhất, Hội nghị lần thứ 14 Ban Chấp hành Trung ương Đảng chủ trương mở cuộc Tổng tiến công và nổi dậy đồng loạt Tết Mậu Thân nhằm giáng một đòn quyết liệt vào ý chí xâm lược của giặc Mỹ. Thắng lợi rất oanh liệt của đòn tiến công và nổi dậy táo bạo, bất ngờ đó đã đảo lộn thế chiến lược của địch, làm phá sản chiến lược "chiến tranh cục bộ", làm lung lay ý chí xâm lược của đế quốc Mỹ, buộc chúng phải xuống thang chiến tranh và ngồi vào đàm phán với ta tại Hội nghị Pari.

Nhưng với bản chất cực kỳ tàn bạo và ngoan cố, đế quốc Mỹ không cam chịu thất bại. Từ năm 1969, chúng chuyển sang thi hành "học thuyết Níchxơn" và chiến lược "Việt Nam hoá chiến tranh", đồng thời tăng cường chiến tranh ở Lào và mở rộng chiến tranh sang Campuchia. Mỹ đã sử dụng sức mạnh tối đa về quân sự kết hợp với những thủ đoạn chính trị và ngoại giao rất xảo quyệt hòng giành thế mạnh, cô lập và bóp nghẹt cuộc kháng chiến của nhân dân ta. Chống lại chiến lược chiến tranh mới này của Mỹ, quân và dân ta, phối hợp chặt chẽ với cuộc chiến đấu của nhân dân Lào và nhân dân Campuchia anh em, đã giáng cho địch những đòn quyết liệt. Tiếp theo chiến thắng oanh liệt trên mặt trận Đường số 9 - Nam Lào, ta đã mở cuộc tiến công chiến lược năm 1972 trên khắp chiến trường miền Nam, bồi tiếp cho quân nguỵ những đòn tiêu diệt rất nặng, phá vỡ nhiều tuyến phòng thủ kiên cố của địch ở Quảng Trị, Tây Nguyên, miền Đông Nam Bộ, làm thất bại một phần quan trọng chương trình bình định nông thôn của chúng. Đồng thời ta đã đánh bại hoàn toàn cuộc chiến tranh phá hoại lần thứ hai của Mỹ trên miền Bắc. Thắng lợi rất to lớn của cuộc Tiến công chiến lược năm 1972 và chiến công xuất sắc của quân và dân ta đập tan cuộc tập kích chiến lược bằng máy bay B.52 vào Hà Nội, Hải Phòng, cuối cùng đã buộc đế quốc Mỹ phải ký Hiệp định Pari về Việt Nam, rút hết quân Mỹ và quân chư hầu ra khỏi nước ta.

Hiệp định Pari là một thắng lợi to lớn của nhân dân ta. Nhưng đế quốc Mỹ và nguỵ quyền Nguyễn Văn Thiệu đã phá hoại nó một cách có hệ thống. Đánh giá đúng âm mưu của Mỹ và tay sai, Hội nghị lần thứ 21 Ban Chấp hành Trung ương Đảng (tháng 7 năm 1973) nhận định: bất kể trong tình huống nào con đường giành thắng lợi của cách mạng miền Nam cũng là con đường bạo lực, do đó phải nắm vững chiến lược tiến công, kiên quyết đấu tranh trên ba mặt trận quân sự, chính trị, ngoại giao nhằm tiến lên thực hành phản công để giành toàn thắng. Trong hai năm 1973, 1974, từ sau thắng lợi của miền Tây Nam Bộ đến chiến thắng giải phóng Thượng Đức, Phước Long, cục diện chiến trường miền Nam không ngừng thay đổi có lợi cho ta. Hội nghị Bộ Chính trị tháng 10 năm 19741 và đầu năm 19752 đã kịp thời đánh giá đúng lực lượng so sánh giữa ta và địch trong tình hình mới, vạch rõ sự xuất hiện của thời cơ lịch sử và hạ quyết tâm chiến lược giải phóng hoàn toàn miền Nam, đánh bại hoàn toàn chiến tranh xâm lược thực dân mới của Mỹ bằng cuộc Tổng tiến công và nổi dậy mùa Xuân năm 1975.

Là bước phát triển ở giai đoạn chín muồi trong toàn bộ cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, là kết quả hợp thành của tất cả những lực lượng, những yếu tố làm nên sức mạnh tất thắng của nhân dân ta trong cuộc chiến tranh yêu nước vĩ đại, cuộc Tổng tiến công và nổi dậy mùa Xuân năm 1975 đã diễn ra với tốc độ "một ngày bằng hai mươi năm". Chỉ trong 55 ngày đêm, với sức mạnh áp đảo cả về quân sự và chính trị, quân và dân ta đã giành được toàn thắng bằng ba trận đánh then chốt: trận mở đầu đánh Buôn Mê Thuột giải phóng toàn bộ Tây Nguyên; trận thứ hai giải phóng Huế, Đà Nẵng và quét sạch địch ở ven biển miền Trung; và trận kết thúc là Chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử giải phóng Sài Gòn - Gia Định và các tỉnh còn lại của Nam Bộ. Hơn một triệu quân nguỵ và cả bộ máy nguỵ quyền bị đập tan. Chế độ thực dân mới được Mỹ dốc sức xây dựng qua năm đời tổng thống, hoàn toàn sụp đổ.

Trải qua hai mươi mốt năm chiến đấu, nhân dân ta đã đánh thắng cuộc chiến tranh xâm lược thực dân mới quy mô lớn nhất, dài ngày nhất, ác liệt và dã man nhất từ sau Chiến tranh thế giới thứ hai. Với cuồng vọng nghiền nát lực lượng cách mạng ở miền Nam và "đẩy lùi miền Bắc trở lại thời kỳ đồ đá", đế quốc Mỹ đã tung vào nước ta một đội quân viễn chinh hơn 60 vạn tên gồm quân Mỹ và quân của năm nước chư hầu của Mỹ làm nòng cốt cho hơn một triệu quân nguỵ; riêng về quân đội Mỹ, chúng đã huy động lúc cao nhất tới 68% bộ binh, 60% lính thuỷ đánh bộ, 32% lực lượng không quân chiến thuật, 50% lực lượng không quân chiến lược. Nếu tính cả số quân đóng ở nước ngoài tham chiến ở Việt Nam thì chúng đã sử dụng hơn 80 vạn quân Mỹ, và trong cả cuộc chiến tranh, chúng đã động viên tới 6 triệu lượt binh sĩ Mỹ, ném xuống đất nước ta 7 triệu 850 nghìn tấn bom và tiêu tốn 352 tỷ đôla. Ngoài ra, chúng còn dùng những phát minh khoa học, kỹ thuật mới nhất để gây vô vàn tội ác huỷ diệt đối với nhân dân ta. Ngày nay, nhìn lại tính chất và quy mô của cuộc chiến tranh, thấy hết những lực lượng mà kẻ địch đã tung ra, những ý đồ mà chúng đã thú nhận, nhớ lại những tình huống cực kỳ phức tạp và éo le mà con thuyền cách mạng đã vượt qua, chúng ta càng thấy vĩ đại biết bao tầm vóc và ý nghĩa của cuộc chiến đấu chống Mỹ, cứu nước của dân tộc ta!

Đối với đế quốc Mỹ, đây là thất bại lớn nhất trong lịch sử nước Mỹ. Nếu thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám và kháng chiến chống Pháp mở đầu sự sụp đổ của chủ nghĩa thực dân cũ, thì thắng lợi của cuộc kháng chiến chống Mỹ chứng minh trước toàn thế giới sự phá sản hoàn toàn của chủ nghĩa thực dân mới là không tránh khỏi. Rõ ràng ngày nay các lực lượng cách mạng đã lớn mạnh và có lợi thế hơn bao giờ hết. Đế quốc Mỹ không thể đóng vai sen đầm quốc tế bất cứ ở đâu mà không bị trừng phạt, không thể xâm chiếm một tấc đất của bất kỳ nước xã hội chủ nghĩa nào, không thể đẩy lùi phong trào giải phóng dân tộc và ngăn chặn con đường phát triển của các nước lên chủ nghĩa xã hội.

Thưa các đồng chí,

Thắng lợi vĩ đại của sự nghiệp chống Mỹ, cứu nước của nhân dân ta trước hết là thắng lợi của đường lối chính trị, đường lối quân sự độc lập, tự chủ, đúng đắn và sáng tạo của Đảng ta. Vận dụng chủ nghĩa Mác - Lênin vào hoàn cảnh cụ thể của nước ta sau khi đế quốc Mỹ thay chân thực dân Pháp đặt ách thống trị ở miền Nam, Đảng ta đã vạch ra đường lối tiến hành đồng thời cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân ở miền Nam và cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc, giương cao cùng một lúc hai ngọn cờ độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội. Vì giải phóng miền Nam phải bảo vệ và xây dựng miền Bắc, và để bảo vệ, xây dựng miền Bắc phải đánh thắng giặc Mỹ ở miền Nam; hai nhiệm vụ đó được kết hợp chặt chẽ với nhau trên phạm vi chiến lược nhằm một mục tiêu chung là hoàn thành cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân trong cả nước, thực hiện thống nhất nước nhà. Đảng tin tưởng chắc chắn rằng nhân dân ta nhất định đánh bại chiến tranh xâm lược của tên đế quốc đầu sỏ và hoàn thành được sứ mệnh lịch sử trọng đại đó.

Một đảng thống nhất lãnh đạo một nước tạm thời bị chia cắt làm đôi tiến hành đồng thời hai nhiệm vụ chiến lược khác nhau, đó là đặc điểm lớn nhất và cũng là nét độc đáo của cách mạng nước ta từ tháng 7 năm 1954 đến tháng 5 năm 1975. Giương cao cùng một lúc hai ngọn cờ độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, Đảng đã kết hợp sức mạnh chiến đấu của tiền tuyến lớn với tiềm lực của hậu phương lớn, đã động viên đến mức cao nhất lực lượng của toàn dân, toàn quốc vào cuộc chiến đấu cứu nước, đã kết tinh, tổng hợp và phát triển lên một trình độ mới những truyền thống cách mạng và sáng tạo của Đảng ta và dân tộc ta.

Với hai ngọn cờ đó, cách mạng Việt Nam thể hiện chân lý sáng ngời của thời đại ngày nay là độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội phải gắn liền với nhau, kết hợp chặt chẽ cuộc chiến đấu cứu nước của nhân dân ta với thế tiến công của ba dòng thác cách mạng, kết hợp những yêu cầu cơ bản của nhân dân ta với những mục tiêu cách mạng của nhân dân thế giới là hoà bình, độc lập dân tộc, dân chủ và chủ nghĩa xã hội. Nhờ kết hợp sức mạnh của nhân dân ta với sức mạnh của thời đại, nhờ đường lối quốc tế đúng đắn của Đảng, chúng ta đã tranh thủ được sự ủng hộ rất to lớn về tinh thần và vật chất của các nước xã hội chủ nghĩa anh em, của tất cả các lực lượng cách mạng và tiến bộ trên thế giới, tạo thành một mặt trận quốc tế rộng lớn chưa từng có ủng hộ Việt Nam chống đế quốc Mỹ xâm lược.

Thắng lợi của cách mạng miền Nam và của cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước là thắng lợi của chiến lược tiến công. Từ cao trào "đồng khởi" chuyển thành chiến tranh cách mạng đánh thắng chiến tranh xâm lược của đế quốc Mỹ, cách mạng miền Nam và kháng chiến chống Mỹ, cứu nước là một quá trình liên tục giữ vững thế tiến công, liên tục thực hành chiến lược tiến công. Song, trong điều kiện lấy nhỏ đánh lớn, phải biết thắng từng bước nhằm đánh bại những âm mưu chính trị, quân sự của địch trong từng thời kỳ, đẩy lùi địch từng bước, không ngừng củng cố trận địa cách mạng, tạo thế và lực hơn hẳn địch để tiến lên giành thắng lợi hoàn toàn. Trong quá trình ấy, Đảng luôn luôn coi trọng việc củng cố và bảo vệ hậu phương lớn miền Bắc, nhân tố thường xuyên quyết định thắng lợi của chiến tranh cứu nước. Do đó, đi đôi với đẩy mạnh tiến công, Đảng chủ trương kiềm chế và đánh thắng bộ binh địch ở miền Nam; và khi Mỹ leo thang mở rộng chiến tranh, Đảng chủ trương kiên quyết đánh thắng bất kỳ loại chiến tranh nào của Mỹ, đồng thời tìm cách kéo Mỹ xuống thang từng bước, để tiến lên giành thắng lợi hoàn toàn.

Cuộc kháng chiến chống Mỹ là cuộc kháng chiến toàn dân, toàn diện và lâu dài. Đi đôi với việc tổ chức lực lượng chiến đấu trong cả nước, Đảng hết sức coi trọng việc xây dựng và phát triển lực lượng cách mạng ở miền Nam. Đó là các đảng bộ miền Nam được củng cố, tôi luyện thành những bộ tham mưu dày dạn trên tiền tuyến lớn; là khối liên minh công nông mà Đảng ta đã dày công xây đắp trong cách mạng dân tộc dân chủ; là đội quân chính trị quần chúng và lực lượng vũ trang nhân dân, hai lực lượng chiến đấu cơ bản trong chiến tranh cách mạng; là Mặt trận Dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam do Đảng ta lãnh đạo, mặt trận yêu nước bao gồm các đoàn thể của công nhân, nông dân, thanh niên, phụ nữ, học sinh, trí thức, các tổ chức tôn giáo và đại biểu các dân tộc; là Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hoà miền Nam Việt Nam, đã cùng với Mặt trận Dân tộc giải phóng động viên và tập hợp đông đảo các tầng lớp nhân dân miền Nam kháng chiến cứu nước, và tranh thủ ngày càng rộng rãi sự đồng tình và ủng hộ của nhân dân và chính phủ nhiều nước trên thế giới.

Phương pháp cách mạng ở miền Nam, những vấn đề có tính quy luật của chiến tranh cách mạng chống Mỹ, cứu nước là: sử dụng bạo lực cách mạng với hai lực lượng, lực lượng chính trị quần chúng và lực lượng vũ trang nhân dân; tiến hành khởi nghĩa từng phần ở nông thôn và từ khởi nghĩa phát triển thành chiến tranh cách mạng; kết hợp đấu tranh quân sự với đấu tranh chính trị và đấu tranh ngoại giao; kết hợp khởi nghĩa của quần chúng với chiến tranh cách mạng, nổi dậy và tiến công, tiến công và nổi dậy; đánh địch trên cả ba vùng chiến lược: rừng núi, nông thôn đồng bằng và thành thị; đánh địch bằng ba mũi giáp công: quân sự, chính trị, binh vận; kết hợp ba thứ quân, kết hợp chiến tranh du kích với chiến tranh chính quy, kết hợp đánh lớn, đánh vừa, đánh nhỏ; thực hiện làm chủ để tiêu diệt địch, tiêu diệt địch để làm chủ; nắm vững phương châm chiến lược đánh lâu dài, đồng thời biết tạo thời cơ và nắm vững thời cơ mở những trận tiến công chiến lược làm thay đổi cục diện chiến tranh, tiến lên thực hiện tổng tiến công và nổi dậy đè bẹp quân địch để giành thắng lợi cuối cùng.

Tất cả những hình thức, phương pháp đấu tranh nói trên là một thể thống nhất, có quan hệ hữu cơ với nhau, tạo nên chiến lược tổng hợp và nghệ thuật quân sự của chiến tranh cách mạng Việt Nam. Đó là kết quả rực rỡ của sự vận dụng sáng tạo lý luận về bạo lực cách mạng và khoa học quân sự của chủ nghĩa Mác - Lênin vào hoàn cảnh cụ thể của nước ta, phát triển lên một trình độ mới những kinh nghiệm của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp cũng như của toàn bộ cuộc đấu tranh cách mạng từ khi Đảng ta ra đời.

Đường lối chính trị, quân sự, phương pháp tiến hành cách mạng và chiến tranh cách mạng nói trên đã tạo nên sức mạnh tổng hợp cực kỳ to lớn để nhân dân ta đánh thắng lực lượng khổng lồ và những cố gắng chiến tranh rất cao của tên đế quốc giàu mạnh nhất, hung bạo nhất trong thời đại ngày nay.

Trong quá trình lãnh đạo cách mạng miền Nam và chiến tranh chống Mỹ, cứu nước, Trung ương Đảng đã nhận rõ âm mưu cơ bản của đế quốc Mỹ, đánh giá đúng lực lượng so sánh giữa ta và địch và đề ra những chủ trương chiến lược chính xác, sắc bén và linh hoạt để đánh bại những âm mưu và hành động chiến tranh của Mỹ - nguỵ trong từng thời kỳ, đi đến chiến thắng hoàn toàn chiến tranh xâm lược của chúng. Đó là thành công nổi bật về chỉ đạo chiến lược của Trung ương Đảng. Đó cũng là thành công của công tác tổ chức chiến đấu của các cấp bộ Đảng và các cấp chỉ huy quân đội. Song, trong một cuộc chiến tranh mà đế quốc Mỹ vừa đánh vừa dò, vừa đánh vừa thí nghiệm các chiến lược, chiến thuật của chúng, một cuộc chiến tranh leo thang từng bước, không có tiền lệ trong lịch sử, thì việc hiểu địch, hiểu ta là một quá trình nhận thức ngày càng sâu hơn, sát hơn, rõ ràng hơn, chắc chắn hơn, thông qua thực tế chiến đấu và những diễn biến cụ thể của cuộc đọ sức trên chiến trường. Trên cơ sở phương hướng chiến lược đúng, hãy làm đi rồi thực tiễn sẽ cho phép ta hiểu rõ sự vật hơn nữa. Đó là một trong những bài học quan trọng của chúng ta. Cuộc kháng chiến chống Mỹ là một kho kinh nghiệm rất phong phú và quý báu. Sau này, cần tổ chức tốt việc tổng kết cuộc chiến tranh yêu nước của chúng ta để phát triển và hoàn chỉnh lý luận và khoa học quân sự Việt Nam nhằm đáp ứng yêu cầu của nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa trong giai đoạn mới.

Thắng lợi của chúng ta chứng minh rằng trong thời đại ngày nay, khi các lực lượng cách mạng thế giới đang ở thế tiến công, một dân tộc nước không rộng, người không đông, song đoàn kết chặt chẽ và đấu tranh kiên quyết dưới sự lãnh đạo của một đảng Mác - Lênin có đường lối và phương pháp cách mạng đúng đắn, giương cao hai ngọn cờ độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, lại được sự đồng tình, ủng hộ và giúp đỡ của các nước xã hội chủ nghĩa, các lực lượng cách mạng và nhân dân tiến bộ trên thế giới, thì hoàn toàn có thể đánh bại mọi thế lực đế quốc xâm lược, dù đó là tên đế quốc đầu sỏ.

Thưa các đồng chí,

Thắng lợi của kháng chiến chống Mỹ, cứu nước là thắng lợi của cả hai chiến lược cách mạng được tiến hành đồng thời và kết hợp chặt chẽ với nhau: cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân ở miền Nam và cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc, trong đó, như Nghị quyết Đại hội lần thứ III của Đảng đã chỉ rõ và ngày nay được toàn bộ thực tiễn chứng minh, cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân ở miền Nam có tác dụng quyết định trực tiếp đối với việc đánh đổ ách thống trị của đế quốc Mỹ và tay sai, còn cách mạng xã hội chủ nghĩa trên miền Bắc là nhiệm vụ quyết định nhất đối với sự phát triển của toàn bộ cách mạng nước ta, đối với sự nghiệp thống nhất nước nhà.

Thật vậy, không thể nào có thắng lợi của sự nghiệp kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, nếu không có miền Bắc xã hội chủ nghĩa, suốt mười sáu năm qua, luôn luôn cùng một lúc phải làm hai nhiệm vụ chiến lược. Đặc biệt từ năm 1965, khi Hội nghị lần thứ 11 Ban Chấp hành Trung ương Đảng khẳng định chống Mỹ, cứu nước là nhiệm vụ hàng đầu của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân, thì miền Bắc đã dốc vào chiến tranh cứu nước và giữ nước toàn bộ sức mạnh của chế độ xã hội chủ nghĩa, và đã làm tròn một cách xuất sắc nghĩa vụ căn cứ địa cách mạng của cả nước, xứng đáng là pháo đài vô địch của chủ nghĩa xã hội.

Trên mặt trận cải tạo xã hội chủ nghĩa và xây dựng nền kinh tế quốc dân, miền Bắc đã đạt được những thành tựu đáng tự hào. Thành tựu to lớn nhất là đã thủ tiêu chế độ người bóc lột người; chế độ sở hữu xã hội chủ nghĩa dưới hai hình thức toàn dân và tập thể đã được xác lập một cách phổ biến. Đến năm 1975 trong khu vực sản xuất vật chất, 99,7% tài sản cố định đã thuộc về kinh tế xã hội chủ nghĩa; phần lớn thu nhập quốc dân cũng như sản lượng công nghiệp, nông nghiệp là do kinh tế xã hội chủ nghĩa tạo ra.

Các giai cấp bóc lột đã bị xoá bỏ. Giai cấp công nhân, giai cấp lãnh đạo cách mạng, đã lớn lên cả về số lượng và chất lượng. Nông dân đã trở thành một giai cấp mới, giai cấp nông dân tập thể. Khối liên minh công nông do đó được củng cố trên một cơ sở mới, cao hơn trước. Tầng lớp trí thức xã hội chủ nghĩa mà hầu hết được đào tạo dưới chế độ mới ngày càng phát triển. Xã hội miền Bắc đã trở thành xã hội của những người lao động. Sự nhất trí về chính trị và tinh thần trong nhân dân ngày một tăng thêm. Các thành phần dân tộc sống bình đẳng, đoàn kết, hoà hợp theo tinh thần của chủ nghĩa xã hội. Phụ nữ bình đẳng với nam giới, đảm đương mọi nhiệm vụ xã hội.

Dưới ánh sáng đường lối của Đại hội lần thứ III của Đảng, thực hiện Nghị quyết của các Hội nghị lần thứ năm, thứ bảy, thứ tám của Ban Chấp hành Trung ương, chúng ta đã xây dựng được cơ sở vật chất - kỹ thuật bước đầu của chủ nghĩa xã hội, theo hướng tiến lên một nền sản xuất lớn hiện đại và một nền kinh tế độc lập, tự chủ. Trong những năm 1961-1964, vốn đầu tư xây dựng kinh tế gấp 4,5 lần thời kỳ 1955-1957. Đến năm 1964, miền Bắc đã tự bảo đảm được lương thực về cơ bản, tự giải quyết được 90% hàng tiêu dùng, đồng thời đã bắt đầu tạo được nguồn tích luỹ từ trong nước. Nhưng từ năm 1965, miền Bắc phải chuyển hướng kinh tế từ thời bình sang thời chiến, và từ đó đến năm 1975 là thời kỳ chống chiến tranh phá hoại xen kẽ với những thời kỳ ngắn khôi phục kinh tế. Mặc dù vậy, sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội đã đạt được những thành quả đáng kể. Đến năm 1975, tài sản cố định trong khu vực sản xuất vật chất đã tăng lên gấp 5,1 lần so với năm 1960; số xí nghiệp công nghiệp gấp 16,5 lần số xí nghiệp năm 1955. Nhiều khu công nghiệp lớn đã và đang hình thành. Trong cơ cấu công nghiệp đã có những cơ sở đầu tiên của các ngành công nghiệp nặng quan trọng: điện, than, cơ khí, luyện kim, hoá chất, vật liệu xây dựng; đồng thời một số ngành công nghiệp nhẹ cũng được xây dựng; mạng lưới giao thông phát triển.

Trong nông nghiệp, kết hợp với phong trào hợp tác hoá và nhờ thắng lợi của hợp tác hoá, hàng loạt công trình thủy lợi đã được xây dựng, bảo đảm tưới, tiêu nước cho hàng chục vạn hécta. Quá nửa số hợp tác xã nông nghiệp đã được trang bị máy móc nhỏ. Sản lượng điện phục vụ nông nghiệp, số máy bơm, máy kéo đều tăng lên gấp nhiều lần so với năm 1955. Nông nghiệp đã có những cố gắng lớn trong việc áp dụng một số thành tựu và tiến bộ mới về kỹ thuật trồng trọt và chăn nuôi, đã đạt được thành tích quan trọng về tăng năng suất lúa và tăng vụ, nhất là đã biến vụ đông - xuân thành một vụ sản xuất ổn định, có năng suất cao.

Một mặt tiêu biểu của miền Bắc xã hội chủ nghĩa là sự nghiệp giáo dục, văn hoá, y tế phát triển với tốc độ cao, ngay cả những năm có chiến tranh. Hệ thống trường học được mở rộng khắp thành thị và nông thôn, đồng bằng và miền núi. Xã có trường cấp II, huyện có trường cấp III. Trên miền Bắc hiện nay cứ ba người dân có một người đi học. Đội ngũ cán bộ khoa học, kỹ thuật và cán bộ quản lý có trình độ trên đại học, đại học và trung học chuyên nghiệp hơn 43 vạn người, tăng 19 lần so với năm 1960. Năm 1975, cứ một vạn người lao động có 1.040 lao động kỹ thuật (gồm 660 công nhân kỹ thuật, 260 cán bộ trung cấp, 120 cán bộ đại học và trên đại học). Mạng lưới y tế trải ra rộng khắp; công tác bảo vệ bà mẹ và trẻ em được đẩy mạnh; số bác sĩ, y sĩ tăng gấp 13,4 lần, số giường bệnh tăng 2,3 lần so với năm 1960. Hoạt động văn hoá, nghệ thuật cũng phát triển trên nhiều mặt với nội dung lành mạnh, đã cổ vũ quần chúng đấu tranh và sản xuất vì độc lập, tự do, vì chủ nghĩa xã hội, và góp phần xây dựng cuộc sống mới, con người mới, mà hàng nghìn anh hùng, chiến sĩ thi đua trong chiến đấu và lao động sản xuất là những tấm gương đẹp đẽ nhất.

Nhìn chung, sau hai mươi năm cải tạo và xây dựng, miền Bắc đã bước đầu kiến lập được một hình thái kinh tế - xã hội xã hội chủ nghĩa với quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa và những cơ sở vật chất - kỹ thuật ban đầu của chủ nghĩa xã hội, với một Nhà nước chuyên chính vô sản được củng cố, cùng với hệ tư tưởng và nền văn hoá xã hội chủ nghĩa được đặt trên những nền móng vững chắc, đem lại những thay đổi sâu sắc trên tất cả các lĩnh vực.

Ngày nay trên miền Bắc, người lao động không còn bị bóc lột và khinh rẻ nữa. Tuy số dân tăng gần gấp đôi so với hai mươi năm trước, nhưng mọi người đều có ăn, có mặc, con cái mọi nhà đều được đi học, trình độ văn hoá chung của xã hội đã được nâng lên một mức đáng kể. Lối sống mới đã trở thành phổ biến, người với người sống có tình có nghĩa, đoàn kết, thương yêu nhau. Trong những năm chiến tranh, sản xuất vẫn được duy trì, và có ngành, có mặt tiếp tục phát triển. Những nhu cầu thiết yếu về đời sống của nhân dân được bảo đảm. Đói rét, dịch tễ không xảy ra. An ninh chính trị và trật tự xã hội được giữ vững. Mức sống tuy chưa cao và còn nhiều khó khăn, nhưng mọi người đều hiểu nguyên nhân của những khó khăn đó và vững lòng tin tưởng ở tương lai.

Những thành tựu và biến đổi ấy còn thấp so với những mục tiêu của chủ nghĩa xã hội. Song, trong hoàn cảnh miền Bắc vừa phải đương đầu với hàng triệu tấn bom đạn của đế quốc Mỹ, vừa không ngừng cung cấp sức người, sức của cùng đồng bào miền Nam đánh giặc, cứu nước, đồng thời gánh vác nghĩa vụ quốc tế, thì những thành tựu đã đạt được là những kỳ tích mà người ta không thể nào tưởng tượng bên ngoài quỹ đạo của chủ nghĩa xã hội. Thử thách cực kỳ nghiêm trọng của chiến tranh đã làm ngời sáng tính ưu việt và sức mạnh của chủ nghĩa xã hội. Đó là cái bảo đảm cho miền Bắc không ngừng phát huy vai trò quyết định đối với toàn bộ sự nghiệp cách mạng của cả nước trong thời gian qua.

Tình hình thực tế của công cuộc cải tạo và xây dựng kinh tế, văn hoá ở miền Bắc cho phép khẳng định đường lối cách mạng xã hội chủ nghĩa do Đại hội lần thứ III của Đảng đề ra và được các hội nghị Ban Chấp hành Trung ương phát triển thêm là đúng đắn. Chúng ta đã chuyển miền Bắc từ chế độ thuộc địa và nửa phong kiến với một nền kinh tế nông nghiệp hết sức lạc hậu sang chế độ xã hội chủ nghĩa một cách nhanh gọn. Chúng ta đã kết hợp thành công hai loại quy luật: quy luật của chiến tranh cách mạng với quy luật cách mạng xã hội chủ nghĩa, do đó đã phát huy được sức mạnh của chế độ xã hội chủ nghĩa nhằm phục vụ chiến tranh cứu nước và giữ nước, đồng thời vẫn tiếp tục phát triển công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội trên một số mặt.

Trong khi khẳng định thành tích là to lớn, chúng ta không xem nhẹ những mặt yếu kém và những khó khăn trong nền kinh tế miền Bắc. Tuy đã đi được một chặng trên con đường tiến lên sản xuất lớn xã hội chủ nghĩa, nhưng nhìn chung, nền kinh tế miền Bắc còn mang nặng tính chất sản xuất nhỏ, cơ sở vật chất - kỹ thuật còn thấp kém. Những ngành công nghiệp then chốt còn bé và chưa được xây dựng đồng bộ, chưa đủ sức làm nền tảng vững chắc cho nền kinh tế quốc dân. Lực lượng sản xuất trong nông nghiệp mới bắt đầu phát triển; hợp tác xã chưa được củng cố thật vững chắc; cấp huyện chậm được tăng cường. Nông nghiệp chưa đáp ứng được nhu cầu về lương thực, thực phẩm cho nhân dân, nguyên liệu cho công nghiệp, nông sản cho xuất khẩu. 80% lực lượng lao động còn là lao động thủ công, năng suất lao động xã hội rất thấp. Lực lượng lao động xã hội còn rất lớn, nhưng chưa được dùng hết trong khi tài nguyên, đất đai, rừng, biển chưa được khai thác tốt. Tổng sản phẩm xã hội và thu nhập quốc dân chưa bảo đảm được các nhu cầu cơ bản của đời sống nhân dân và nhu cầu tích luỹ để xây dựng cơ sở vật chất - kỹ thuật mới. Tình hình đó cộng thêm tốc độ dân số tăng nhanh đã gây ra căng thẳng trong đời sống kinh tế và xã hội.

Với tinh thần nghiêm túc tự phê bình, các cuộc hội nghị Ban Chấp hành Trung ương Đảng gần đây3 đã vạch ra một cách cặn kẽ và toàn diện những thiếu sót, khuyết điểm của Đảng và Nhà nước ta trong lãnh đạo, chỉ đạo và quản lý kinh tế.

Đường lối cách mạng xã hội chủ nghĩa do Đảng đề ra về cơ bản là đúng. Tuy nhiên, về nhiều mặt đường lối của Đảng chưa được kịp thời cụ thể hoá và vận dụng thật tốt vào các kế hoạch phát triển kinh tế, văn hoá, vào phương hướng, nhiệm vụ và bước đi của từng ngành, từng địa phương và cơ sở. Những nguyên tắc cơ bản của cách mạng xã hội chủ nghĩa, nhất là những vấn đề có tính quy luật của quá trình tiến từ sản xuất nhỏ lên sản xuất lớn xã hội chủ nghĩa, nói chung chưa được nhận thức một cách sâu sắc. Do chưa hiểu rõ sự gắn bó chặt chẽ giữa cải tạo quan hệ sản xuất và phát triển lực lượng sản xuất trong điều kiện đưa sản xuất nhỏ lên sản xuất lớn xã hội chủ nghĩa, cho nên đã chậm đề ra hướng đi lên của hợp tác xã nông nghiệp và sản xuất nông nghiệp. Quan điểm "công nghiệp hoá xã hội chủ nghĩa là nhiệm vụ trung tâm của cả thời kỳ quá độ", "ưu tiên phát triển công nghiệp nặng một cách hợp lý trên cơ sở phát triển nông nghiệp và công nghiệp nhẹ", chưa được thấu suốt và cụ thể hoá, để từng bước tạo ra một cơ cấu kinh tế kết hợp chặt chẽ công nghiệp với nông nghiệp. Nông nghiệp và công nghiệp nhẹ chưa được coi trọng đúng mức, nhiều phương hướng và biện pháp lớn đề ra để phát triển nông nghiệp chưa được thi hành tích cực, khẩn trương. Năng lực công nghiệp nặng hiện có chưa phục vụ tốt cho nông nghiệp và công nghiệp nhẹ. Mối quan hệ giữa kinh tế trung ương và kinh tế địa phương chưa được giải quyết đúng đắn; kinh tế địa phương chưa được chú ý đúng mức.

Hệ thống quản lý kinh tế, tổ chức sản xuất chưa phát huy đầy đủ vai trò của ngành và chưa kết hợp đúng đắn quản lý theo ngành với quản lý theo địa phương và vùng lãnh thổ. Kế hoạch hoá, một nhiệm vụ quan trọng của công tác quản lý kinh tế, làm chưa tốt; các cơ quan kế hoạch chưa nắm chắc khả năng và chưa hiểu hết nhu cầu. Cần nhấn mạnh một khuyết điểm nặng trong quản lý kinh tế là lối quản lý quan liêu, hành chính, xem nhẹ hiệu quả, năng suất và chất lượng; là cách tổ chức thủ công, phân tán, chia cắt; là cách làm việc chưa sát thực tế, chưa sát quần chúng, còn hình thức, giấy tờ, có nơi, có lúc thiếu tính chiến đấu cách mạng, thiếu tinh thần trách nhiệm. Trên các vấn đề về lưu thông, phân phối như tài chính, ngân hàng, giá cả, tiền lương... còn có những nhận thức không đúng, những quan điểm kinh doanh, thu chi, lời lỗ đơn thuần, do đó trong thực tế đã có những khuyết điểm làm trở ngại cho việc đẩy mạnh sản xuất và phục vụ đời sống nhân dân, nhất là cho việc sử dụng hợp lý lực lượng lao động xã hội.

Một khuyết điểm đồng thời cũng là một nguyên nhân của tình trạng nói trên là bộ máy quản lý và tổ chức thực hiện kém hiệu lực. Mối quan hệ giữa Đảng, Nhà nước và nhân dân ở từng cấp, từng đơn vị chưa được xác định rõ; mỗi bộ phận, mỗi tổ chức trong hệ thống chuyên chính vô sản chưa làm tốt chức năng của mình. Chế độ trách nhiệm không nghiêm; pháp chế xã hội chủ nghĩa còn nhiều thiếu sót. Công tác xây dựng Đảng, công tác cán bộ, công tác tư tưởng chưa gắn chặt với công tác kinh tế và chưa theo kịp yêu cầu ngày càng cao của nhiệm vụ cách mạng. Tổ chức của Đảng còn những mặt chưa hợp lý và thiếu năng động. Phương pháp lãnh đạo, phương pháp công tác ít được cải tiến. Công tác tư tưởng thiếu sắc bén, chưa phê phán kịp thời những biểu hiện tiêu cực. Công tác của các đoàn thể quần chúng chưa thật sát với sản xuất và đời sống.

Tất nhiên sẽ không thực tế nếu nghĩ rằng những khó khăn trong kinh tế và đời sống hiện nay ở miền Bắc có thể hoàn toàn tránh khỏi nếu ta không phạm khuyết điểm. Bởi vì, ngoài những nguyên nhân chủ quan, những khó khăn nói trên còn bắt nguồn từ một nguyên nhân sâu xa, đó là tình trạng nền kinh tế vốn là sản xuất nhỏ, lạc hậu lại bị chiến tranh tàn phá rất nặng nề. Miền Bắc bước vào cách mạng xã hội chủ nghĩa tuy đã hơn hai mươi năm, song thời gian thật sự xây dựng chỉ có bảy năm4. Sau khi hoàn thành cải tạo xã hội chủ nghĩa một thời gian ngắn, miền Bắc phải trực tiếp đánh trả chiến tranh phá hoại của giặc Mỹ, và đặt lên hàng đầu nghĩa vụ đánh giặc, cứu nước ở miền Nam, thực hiện khẩu hiệu "Tất cả cho tiền tuyến, tất cả để chiến thắng!", đồng thời ra sức làm tròn nghĩa vụ quốc tế. Hơn nữa, chiến tranh đã phá huỷ hầu hết những cái mà nhân dân đã tốn biết bao công sức để xây dựng nên, làm cho quá trình tiến lên sản xuất lớn bị chậm lại đến vài ba kế hoạch 5 năm và làm đảo lộn cả nền nếp quản lý kinh tế5.

Vì vậy, mặc dù chúng ta đã đạt được những thành tựu trên nhiều mặt, nền sản xuất xã hội vẫn chưa ra khỏi tình trạng sản xuất nhỏ, và chế độ xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc vẫn chưa được xây dựng trên cơ sở đại công nghiệp. Vấn đề mấu chốt hiện nay là phải mau chóng tạo ra cơ sở vật chất - kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội và tổ chức lại sản xuất xã hội theo hướng tiến lên sản xuất lớn xã hội chủ nghĩa.

Thưa các đồng chí,

"Nước Việt Nam là một, dân tộc Việt Nam là một!" Lịch sử Việt Nam mấy nghìn năm nay là lịch sử của một nước thống nhất, một đại gia đình dân tộc thống nhất, là lịch sử không ngừng đấu tranh đánh bại mọi thế lực xâm lược và chia cắt.

Từ ngày đế quốc Mỹ áp đặt chủ nghĩa thực dân mới ở miền Nam, độc lập và thống nhất trở thành ý chí sắt đá, thành nguyện vọng thiêng liêng của đồng bào và chiến sĩ ta trong cuộc chiến đấu chống Mỹ, cứu nước. Thắng lợi vĩ đại mùa Xuân năm 1975 giành lại độc lập hoàn toàn cho Tổ quốc cũng đương nhiên khôi phục lại sự thống nhất nước nhà.

Hơn nữa, trong thời đại ngày nay, khi độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội không thể tách rời nhau, và ở nước ta, khi giai cấp công nhân giữ vai trò lãnh đạo cách mạng thì thắng lợi của cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân cũng là sự bắt đầu của cách mạng xã hội chủ nghĩa, sự bắt đầu của thời kỳ quá độ tiến lên chủ nghĩa xã hội, sự bắt đầu của thời kỳ thực hiện nhiệm vụ lịch sử của chuyên chính vô sản. Bước ngoặt lịch sử ấy đã diễn ra trên miền Bắc cách đây hơn hai mươi năm và từ sau ngày 30 tháng 4 năm ngoái, diễn ra trong phạm vi cả nước. Như vậy, độc lập và thống nhất không những gắn liền với nhau, mà còn tạo tiền đề cho chủ nghĩa xã hội.

Với thắng lợi hoàn toàn và triệt để của cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước cách mạng Việt Nam đã chuyển sang giai đoạn mới, giai đoạn cả nước độc lập, thống nhất làm nhiệm vụ chiến lược duy nhất là tiến hành cách mạng xã hội chủ nghĩa, tiến nhanh, tiến mạnh, tiến vững chắc lên chủ nghĩa xã hội.

Chủ nghĩa xã hội là mục đích trước mắt của cách mạng Việt Nam, đồng thời là con đường tiến hoá tất yếu của xã hội Việt Nam, phù hợp với quy luật phát triển của xã hội loài người đang ở trong thời đại quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội trên phạm vi toàn thế giới. Hồ Chủ tịch, tinh hoa của dân tộc, do ý thức được tính chất của thời đại, đã kết hợp chủ nghĩa yêu nước với chủ nghĩa xã hội. Người nói: "Muốn cứu nước và giải phóng dân tộc không có con đường nào khác con đường cách mạng vô sản"6; "chỉ có chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa cộng sản mới giải phóng được các dân tộc bị áp bức và những người lao động trên thế giới khỏi ách nô lệ"7. Thấm nhuần tư tưởng vĩ đại ấy, Đảng ta đã vạch rõ trong Cương lĩnh đầu tiên rằng cách mạng Việt Nam là một quá trình cách mạng không ngừng từ cách mạng dân tộc dân chủ tiến lên cách mạng xã hội chủ nghĩa. Và trong quá trình cách mạng, khi cả nước làm một nhiệm vụ chiến lược hoặc làm hai nhiệm vụ chiến lược, Đảng ta, từ khi ra đời đến nay, vẫn luôn luôn giương cao hai ngọn cờ độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội. Đó là đường lối, là sức mạnh, là nguồn gốc thắng lợi của cách mạng nước ta.

Ngày nay, Tổ quốc ta đã hoàn toàn độc lập thì dân tộc và chủ nghĩa xã hội là một. Chỉ có chủ nghĩa xã hội mới thực hiện được ước mơ lâu đời của nhân dân lao động là vĩnh viễn thoát khỏi cảnh bị áp bức, bóc lột, nghèo nàn, lạc hậu, để sống một cuộc đời no cơm, ấm áo, ngày mai được bảo đảm, một cuộc đời văn minh, hạnh phúc. Chỉ có chủ nghĩa xã hội mới đem lại cho nhân dân lao động quyền làm chủ đầy đủ, mới trả lại giá trị chân chính cho con người, khiến cho con người thật sự làm chủ xã hội, làm chủ thiên nhiên và làm chủ bản thân. Có chủ nghĩa xã hội, Tổ quốc ta mới có kinh tế hiện đại, văn hoá, khoa học tiên tiến, quốc phòng vững mạnh; do đó bảo đảm cho đất nước ta vĩnh viễn độc lập, tự do và ngày càng phát triển phồn vinh. Chỉ có chủ nghĩa xã hội mới làm cho Tổ quốc ta thống nhất ở trình độ cao nhất và đầy đủ nhất, thống nhất về lãnh thổ, về chính trị và tinh thần, về kinh tế, văn hoá, xã hội, thống nhất về quyền lợi và nghĩa vụ, mọi người đoàn kết, thương yêu nhau một cách chân thành và thắm thiết.

Nhận thức được sâu sắc nhiệm vụ chính trị của giai đoạn mới và đại biểu đầy đủ tình cảm, ý chí và nguyện vọng của toàn dân từ Nam đến Bắc, từ cuối năm 1975, Đảng và Nhà nước ta đã khẩn trương thực hiện những hoạt động cần thiết để hoàn thành thống nhất nước nhà về mặt nhà nước. Cuộc tổng tuyển cử tiến hành ngày 25 tháng 4 năm 1976 là sự biểu thị hùng hồn ý chí của toàn dân ta đối với việc xây dựng một nước Việt Nam độc lập, thống nhất và xã hội chủ nghĩa. Và kỳ họp lịch sử của Quốc hội chung của cả nước, Quốc hội khoá VI, đã long trọng tuyên bố thống nhất nước nhà và lấy tên nước là Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam.

Từ ngày miền Nam được hoàn toàn giải phóng, trên đất nước ta đã diễn ra một cuộc phấn đấu mới rất khẩn trương của toàn dân nhằm hàn gắn các vết thương chiến tranh và tạo ra những biến đổi cách mạng trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội. Việc thực hiện kế hoạch nhà nước năm 1976, năm đầu tiên của thời kỳ phát triển kinh tế và văn hoá sau chiến tranh, đã thu được những thành tựu đáng phấn khởi ở cả hai miền của đất nước. Phong trào lực lượng vũ trang nhân dân làm nhiệm vụ xây dựng kinh tế đã được triển khai mạnh mẽ, rộng khắp. Trên miền Bắc, công cuộc khôi phục kinh tế đã hoàn thành về cơ bản. Hầu hết các nhà máy, công trình bị đánh phá đã được xây dựng lại; nhiều cái được cải tạo và mở rộng. Năng lực của các ngành công nghiệp, nông nghiệp tăng lên đáng kể. Nhiều sản phẩm quan trọng đã đạt và vượt mức trước chiến tranh. ở miền Nam, chính quyền cách mạng được xây dựng ở tất cả các cấp và đang được củng cố. Mặc dù bọn phản động còn hoạt động phá hoại, trật tự trị an vẫn được giữ vững. Các tầng lớp nhân dân đông đảo được giáo dục, giác ngộ về chính trị, bước đầu thấy được vai trò làm chủ của mình trong chế độ mới, đang phát huy tinh thần đoàn kết, yêu nước, dấy lên những phong trào cách mạng sôi nổi cả ở thành thị và nông thôn, nhất là trên mặt trận thuỷ lợi, trong công tác phục hoá, khai hoang, thâm canh, tăng vụ. Công tác giáo dục, văn hoá phát triển nhanh. Đời sống tuy còn khó khăn, song đang được ổn định từng bước. Đi đôi với việc hoàn thành những nhiệm vụ còn lại của cách mạng dân tộc dân chủ, sự nghiệp cải tạo xã hội chủ nghĩa đang được đẩy mạnh và đã thu được những kết quả đáng kể trong lĩnh vực quan hệ sản xuất cũng như trong lĩnh vực văn hoá, tư tưởng.

Mấy tháng nay, phong trào thi đua lao động, sản xuất chào mừng Đại hội lần thứ IV của Đảng đã được phát động rầm rộ trong cả nước. Nhiều công trình xây dựng về công nghiệp, nông nghiệp, giao thông, văn hoá, nhiều chỉ tiêu kế hoạch của các ngành, đã được hoàn thành trước thời hạn. Một trong những bông hoa dâng lên Đại hội chúng ta là đường sắt Thống nhất từ Thủ đô Hà Nội đến Thành phố Hồ Chí Minh hơn ba mươi năm bị gián đoạn, nay đã khôi phục xong sớm hơn kế hoạch dự kiến. Những nhân tố mới nói trên chắc chắn sẽ dẫn tới những biến đổi sâu sắc hơn, những thắng lợi to lớn hơn trong thời gian sắp tới.

Nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành quả vĩ đại của cuộc đấu tranh cách mạng lâu dài, gian khổ, của cuộc chiến đấu kiên cường, bất khuất và vô cùng oanh liệt của nhân dân ta ngót nửa thế kỷ qua. Đó là một nước Việt Nam có lịch sử hết sức vẻ vang, có nền móng vững chắc, có tiềm lực dồi dào, có tiền đồ xán lạn. Đó là một tiền đồn bất khả xâm phạm của hệ thống xã hội chủ nghĩa, một nhân tố quan trọng của hoà bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội ở Đông Nam châu á và trên thế giới.

Ngày nay, cả nước đi lên chủ nghĩa xã hội không phải với hai bàn tay trắng. Chúng ta đã có được những cơ sở vật chất - kỹ thuật ban đầu, nhất là có kinh nghiệm của hai mươi năm xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc; kinh nghiệm thành công và cả kinh nghiệm không thành công đều là những vốn quý của chúng ta.

Trên đà phấn khởi cách mạng chưa từng có hiện nay, nhân dân ta, dưới sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng, nhất định sẽ anh dũng phấn đấu, phát huy những thuận lợi sẵn có, khắc phục những khó khăn và hậu quả nặng nề do chiến tranh để lại, ra sức đẩy mạnh công cuộc cải tạo và phát triển kinh tế, văn hoá, xây dựng nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam thành một nước phồn thịnh, văn minh, góp phần xứng đáng hơn nữa vào sự nghiệp cách mạng của nhân dân thế giới.

II Đường lối cách mạng xã hội chủ nghĩa trong giai đoạn mới

Thưa các đồng chí,

Đại hội lần thứ III của Đảng đã vạch ra đường lối cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc nước ta. Các hội nghị của Ban Chấp hành Trung ương từ Đại hội lần thứ III đến nay đã từng bước tổng kết kinh nghiệm thực tiễn của cách mạng Việt Nam, cụ thể hoá và phát triển đường lối ấy.

Bước sang giai đoạn mới, cách mạng nước ta phát triển với những đặc điểm lớn như sau:

a) Trải qua hai mươi năm, miền Bắc đã đạt được nhiều thành tựu về cải tạo xã hội chủ nghĩa và xây dựng chủ nghĩa xã hội: xoá bỏ các giai cấp bóc lột, xác lập quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa, xây dựng những cơ sở bước đầu của nền sản xuất lớn xã hội chủ nghĩa, tiến hành cách mạng tư tưởng và văn hoá, cải thiện đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân. Tuy vậy, nền kinh tế nói chung, nhất là các mặt: cơ sở vật chất - kỹ thuật, cơ cấu kinh tế, chưa vượt khỏi tình trạng sản xuất nhỏ, đang còn ở bước đầu của quá trình tiến lên sản xuất lớn xã hội chủ nghĩa. Miền Nam vừa thoát ra từ một xã hội thuộc địa kiểu mới, tuy đã có sự phát triển nhất định của chủ nghĩa tư bản, song về cơ bản vẫn còn là sản xuất nhỏ. Vì vậy, nhìn chung cả nước, tuy ở mặt này mặt kia, đã xuất hiện những yếu tố của sản xuất lớn, song sản xuất nhỏ vẫn còn phổ biến. Tính chất sản xuất nhỏ thể hiện rõ nét trên mấy mặt chính sau đây: cơ sở vật chất - kỹ thuật còn nhỏ yếu; tuyệt đại bộ phận lao động là thủ công; năng suất lao động xã hội rất thấp; phân công lao động chưa phát triển; công nghiệp lớn, nhất là công nghiệp nặng, còn ít và rời rạc, chưa đủ sức cải tạo kỹ thuật đối với các ngành kinh tế quốc dân; phần lớn hàng tiêu dùng còn do thủ công nghiệp sản xuất; công nghiệp và nông nghiệp chưa kết hợp với nhau thành một cơ cấu; trong nông nghiệp chủ yếu vẫn là trồng lúa; ít có những vùng chuyên canh lớn về cây công nghiệp; trình độ thuỷ lợi hoá, cơ giới hoá và nói chung trình độ thâm canh còn thấp; chăn nuôi phát triển kém, chưa cân đối với trồng trọt. Tính chất sản xuất nhỏ còn thể hiện ở khối lượng sản phẩm còn ít, chưa bảo đảm được nhu cầu của tái sản xuất mở rộng và nhu cầu của đời sống nhân dân, ở tình trạng tổ chức và quản lý kinh tế còn phân tán và kém hiệu lực, tính kế hoạch của nền kinh tế chưa cao.

Rõ ràng là nước ta vẫn đang ở trong quá trình từ một xã hội mà nền kinh tế còn phổ biến là sản xuất nhỏ tiến thẳng lên chủ nghĩa xã hội, bỏ qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa. Đây là đặc điểm lớn nhất nói lên thực chất của quá trình cách mạng xã hội chủ nghĩa ở nước ta và quy định nội dung chủ yếu của quá trình đó.

b) Cả nước hoà bình, độc lập và thống nhất, đang tiến lên chủ nghĩa xã hội trong khí thế cách mạng bừng bừng của một dân tộc vừa giành được thắng lợi vĩ đại. Chúng ta có nền chuyên chính vô sản vững mạnh đã qua thử thách. Nhân dân ta rất cách mạng, thiết tha với độc lập và chủ nghĩa xã hội, lại rất cần cù, thông minh và sáng tạo. Đảng ta là một đảng Mác - Lênin dày dạn, được nhân dân yêu mến và tin tưởng. Chúng ta có một lực lượng lao động dồi dào, có đất đai và tài nguyên thiên nhiên phong phú. Chúng ta có miền Bắc xã hội chủ nghĩa, một lực lượng vật chất và tinh thần to lớn, đã tích luỹ được một số kinh nghiệm quý báu về cách mạng xã hội chủ nghĩa. Nhìn chung cả nước, sức mạnh của chủ nghĩa xã hội chiếm ưu thế áp đảo. Đó là những điều kiện bên trong rất thuận lợi cho cách mạng xã hội chủ nghĩa trong cả nước. Mặt khác, ba mươi năm chiến tranh liên miên và vô cùng ác liệt đã để lại cho nước ta những hậu quả hết sức nặng nề về nhiều mặt. Về cơ cấu kinh tế, giữa hai miền vẫn còn có những chỗ chưa đồng nhất đáng kể. ở miền Nam, công cuộc cải tạo xã hội chủ nghĩa mới bắt đầu; giai cấp bóc lột đang còn; những nọc độc của văn hoá nô dịch, các tệ nạn xã hội do chủ nghĩa thực dân mới kiểu Mỹ gây ra cũng như ảnh hưởng của tư tưởng tư sản trong xã hội còn nặng; bọn phản động còn hoạt động chống phá cách mạng; những mặt tiêu cực của thành phần tư bản chủ nghĩa và tính tự phát của sản xuất nhỏ chưa khắc phục được. Tình hình ấy làm cho công cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa, nhất là trong buổi đầu, đứng trước nhiều khó khăn và cuộc đấu tranh giai cấp để giải quyết vấn đề "ai thắng ai" rất gay go và phức tạp.

c) Nước ta tiến hành cách mạng xã hội chủ nghĩa trong một hoàn cảnh quốc tế thuận lợi. Hệ thống các nước xã hội chủ nghĩa đã và đang lớn mạnh không ngừng; phong trào độc lập dân tộc và phong trào cách mạng của giai cấp công nhân đang trên đà phát triển mãnh liệt. Chủ nghĩa đế quốc đang lún sâu vào tổng khủng hoảng và ngày càng suy yếu. Trên thế giới đang diễn ra cuộc cách mạng mới về khoa học - kỹ thuật. Quan hệ về kinh tế và khoa học, kỹ thuật giữa các nước ngày càng mở rộng. Cùng với cách mạng nước ta, cách mạng Lào và cách mạng Campuchia cũng giành được thắng lợi vĩ đại. Do cuộc chiến đấu anh dũng chống đế quốc Mỹ thắng lợi, nước ta đã giành được uy tín lớn và cảm tình sâu rộng của nhân dân và chính phủ nhiều nước. Mặt khác, trên thế giới cuộc đấu tranh để giải quyết vấn đề "ai thắng ai" giữa một bên là chủ nghĩa xã hội, độc lập dân tộc, dân chủ và hoà bình với một bên là chủ nghĩa đế quốc và các thế lực phản động, hiếu chiến đang diễn ra quyết liệt và phức tạp.

Những đặc điểm trên đây, nhất là đặc điểm từ sản xuất nhỏ tiến thẳng lên chủ nghĩa xã hội, bỏ qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa, đòi hỏi nhân dân ta phải phát huy rất cao tính chủ động, sáng tạo và tự giác trong quá trình cách mạng xã hội chủ nghĩa. Muốn đưa sự nghiệp cách mạng ấy đến toàn thắng, điều kiện quyết định trước tiên là phải thiết lập và không ngừng tăng cường chuyên chính vô sản, thực hiện và không ngừng phát huy quyền làm chủ tập thể của nhân dân lao động.

Những đặc điểm đó còn quy định rằng cách mạng xã hội chủ nghĩa ở nước ta là một quá trình biến đổi cách mạng toàn diện, liên tục, vô cùng sâu sắc và triệt để. Đó là quá trình kết hợp cải tạo với xây dựng, cải tạo để xây dựng, xây dựng để cải tạo, trong cải tạo có xây dựng, trong xây dựng có cải tạo, mà xây dựng là chủ yếu. Đó là quá trình vừa xoá bỏ cái cũ, vừa xây dựng cái mới từ gốc đến ngọn. Phải tạo ra cả lực lượng sản xuất mới lẫn quan hệ sản xuất mới; tạo ra cả cơ sở kinh tế mới lẫn kiến trúc thượng tầng mới; tạo ra cả đời sống vật chất mới lẫn đời sống tinh thần và văn hoá mới. Đó là quá trình đấu tranh giai cấp gay go, phức tạp giữa hai giai cấp tư sản và vô sản, giữa hai con đường tư bản chủ nghĩa và xã hội chủ nghĩa. Quá trình đó là quá trình thực hiện ba cuộc cách mạng: cách mạng về quan hệ sản xuất, cách mạng khoa học - kỹ thuật và cách mạng tư tưởng và văn hoá, trong đó cách mạng khoa học - kỹ thuật là then chốt. Quá trình thực hiện ba cuộc cách mạng ấy cũng là quá trình hình thành từng bước chế độ làm chủ tập thể xã hội chủ nghĩa, nền sản xuất lớn xã hội chủ nghĩa, nền văn hoá mới và con người mới xã hội chủ nghĩa. Ba cuộc cách mạng ấy phải được tiến hành đồng thời, gắn bó chặt chẽ với nhau, tác động qua lại lẫn nhau. Chế độ làm chủ tập thể xã hội chủ nghĩa, nền sản xuất lớn xã hội chủ nghĩa, nền văn hoá mới, con người mới xã hội chủ nghĩa, toàn bộ chủ nghĩa xã hội cũng như từng bộ phận của chủ nghĩa xã hội chỉ có thể ra đời bằng kết quả tổng hợp của cả ba cuộc cách mạng, của toàn bộ sự nghiệp cách mạng xã hội chủ nghĩa.

Nắm vững chuyên chính vô sản là nắm vững đường lối của Đảng, tăng cường sự lãnh đạo của giai cấp công nhân, thực hiện và phát huy quyền làm chủ tập thể của nhân dân lao động, xây dựng Nhà nước vững mạnh; tập hợp các tầng lớp nhân dân đông đảo chung quanh giai cấp công nhân để tiến hành ba cuộc cách mạng, xoá bỏ chế độ người bóc lột người, xoá bỏ nghèo nàn lạc hậu, xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội; củng cố và tăng cường lực lượng quốc phòng, giữ vững an ninh chính trị và trật tự xã hội, đập tan mọi sự phản kháng và mọi hành động xâm lược của kẻ thù; củng cố và phát triển quan hệ hợp tác tương trợ với các nước xã hội chủ nghĩa anh em, tích cực cùng nhân dân thế giới đấu tranh vì hoà bình, độc lập dân tộc, dân chủ và chủ nghĩa xã hội.

Xây dựng chế độ làm chủ tập thể xã hội chủ nghĩa là xây dựng xã hội nước ta thành một xã hội, trong đó, người làm chủ chân chính là cộng đồng xã hội, là tập thể nhân dân lao động có tổ chức, mà nòng cốt là liên minh công nông, và do giai cấp công nhân lãnh đạo.

Nội dung của làm chủ tập thể xã hội chủ nghĩa bao gồm nhiều mặt: làm chủ về chính trị, kinh tế, văn hoá, xã hội; làm chủ xã hội, làm chủ thiên nhiên, làm chủ bản thân; làm chủ trong phạm vi cả nước, trong mỗi địa phương, mỗi cơ sở; là kết hợp hữu cơ quyền làm chủ tập thể với quyền tự do chân chính của từng cá nhân. Đó là làm chủ thật sự, làm chủ đầy đủ nhất.

Xây dựng chế độ làm chủ tập thể xã hội chủ nghĩa chính là xây dựng một hệ thống hoàn chỉnh các quan hệ xã hội thể hiện ngày càng đầy đủ sự làm chủ của nhân dân lao động về tất cả các mặt nói trên. Đó là một quá trình tiến hoá không ngừng từ thấp đến cao, từ chưa hoàn thiện đến hoàn thiện.

Chế độ làm chủ tập thể xã hội chủ nghĩa thể hiện một cách tập trung ở sự làm chủ tập thể của nhân dân lao động (mà nòng cốt là liên minh công nông), chủ yếu bằng Nhà nước xã hội chủ nghĩa dưới sự lãnh đạo của Đảng tiên phong của giai cấp công nhân. Vì vậy, việc tạo lập chế độ làm chủ tập thể đòi hỏi trước hết phải xây dựng ở các ngành, các cấp từ trung ương đến cơ sở, bao trùm tất cả mọi hoạt động, mọi mặt của đời sống xã hội, một hệ thống các quan hệ đúng đắn giữa Đảng, Nhà nước và nhân dân. Phải ra sức xây dựng một Nhà nước kiểu mới, Nhà nước do chính giai cấp công nhân và nhân dân lao động tự tổ chức để thực hiện quyền làm chủ tập thể của mình, Nhà nước thật sự của dân, do dân, vì dân, thông qua đó, Đảng thực hiện sự lãnh đạo của mình đối với xã hội. Nhà nước ấy vừa là một tổ chức hành chính, một cơ quan cưỡng chế, vừa là một tổ chức kinh tế và văn hoá, giáo dục, Nhà nước ấy phải đủ tư cách và năng lực để tổ chức và quản lý mọi mặt hoạt động của đời sống xã hội: giữ gìn an ninh chính trị và trật tự xã hội, củng cố quốc phòng; tổ chức, xây dựng và quản lý kinh tế, văn hoá; bảo vệ quyền lợi chính đáng của tập thể và cá nhân. Phải ra sức xây dựng Đảng thật vững mạnh, đủ năng lực lãnh đạo toàn bộ sự nghiệp cách mạng xã hội chủ nghĩa. Đảng lãnh đạo cách mạng bằng đường lối, chính sách của mình và chủ yếu thông qua Nhà nước. Mọi hoạt động của Nhà nước đều tiến hành dưới sự lãnh đạo của Đảng. Đảng lãnh đạo Nhà nước nhưng không làm thay Nhà nước.

Phải thông qua hoạt động của Nhà nước dưới sự lãnh đạo của Đảng mà phát huy vai trò chủ động và trí sáng tạo của nhân dân, dấy lên những phong trào thi đua xã hội chủ nghĩa nối tiếp nhau, khiến mọi hoạt động của quần chúng đều trở thành hoạt động có tổ chức trên quy mô lớn, phù hợp với quy luật khách quan, kết hợp chặt chẽ tính cách mạng với tính khoa học, tạo nên sức mạnh tổng hợp to lớn, xoá bỏ cái cũ, sáng tạo cái mới, đưa lịch sử nước ta phát triển với nhịp điệu xưa nay chưa từng thấy.

Xây dựng chế độ làm chủ tập thể về chính trị là thiết lập quyền lực của nhân dân lao động lấy liên minh công nông làm nòng cốt và do giai cấp công nhân lãnh đạo sau khi lật đổ ách thống trị của bọn áp bức, bóc lột; là xây dựng các mối quan hệ đúng đắn giữa Đảng, Nhà nước và nhân dân để bảo đảm cho nhân dân lao động thật sự làm chủ xã hội, hiểu rõ và biết sử dụng quyền lực chính trị của mình.

Làm chủ về chính trị đòi hỏi phải bảo vệ vững chắc chủ nghĩa xã hội, bảo vệ vững chắc Tổ quốc xã hội chủ nghĩa đi đôi với xây dựng chủ nghĩa xã hội. Chừng nào còn chủ nghĩa đế quốc thì nhân dân ta còn phải cảnh giác, phải sẵn sàng đập tan mọi âm mưu và hành động phá hoại và xâm lược của bất cứ kẻ thù nào.

Làm chủ tập thể về chính trị bao gồm cả nghĩa vụ và quyền lợi; nghĩa vụ đi đôi với quyền lợi. Phải bảo đảm quyền công dân và quyền tự do cá nhân, đi đôi với việc đòi hỏi mỗi công dân, mỗi cá nhân phải làm đầy đủ nghĩa vụ đối với xã hội, đối với Nhà nước, đối với tập thể như: nghĩa vụ lao động, nghĩa vụ bảo vệ Tổ quốc, nghĩa vụ tôn trọng và bảo vệ tài sản xã hội chủ nghĩa, tôn trọng các quy tắc của đời sống tập thể, v.v.. Phải bảo đảm quyền bình đẳng nam nữ, quyền bình đẳng giữa các dân tộc.

Làm chủ tập thể về kinh tế bao gồm làm chủ tập thể những tư liệu sản xuất chủ yếu trong xã hội, làm chủ tập thể lực lượng lao động, làm chủ tập thể trong việc tổ chức và quản lý sản xuất, và trong lĩnh vực phân phối.

Để xây dựng làm chủ tập thể về kinh tế, phải xoá bỏ chế độ sở hữu tư bản chủ nghĩa và cải tạo chế độ sở hữu cá thể của nông dân và thợ thủ công, xác lập chế độ sở hữu xã hội chủ nghĩa dưới hai hình thức: sở hữu toàn dân và sở hữu tập thể bằng những phương pháp và bước đi thích hợp; phải ra sức phát triển thành phần kinh tế quốc doanh ngày càng lớn mạnh; xây dựng nhanh chóng thành phần kinh tế tập thể, tiến hành hợp tác hoá nông nghiệp và đưa nông nghiệp lên sản xuất lớn xã hội chủ nghĩa. Mọi tư liệu sản xuất chủ yếu trong xã hội đều phải được sử dụng theo phương hướng và nhiệm vụ của kế hoạch nhà nước, nhằm phục vụ lợi ích của toàn xã hội.

Đối với các nguồn lao động xã hội, phải có phương hướng tổ chức và phân công hợp lý, có kế hoạch và biện pháp động viên thích hợp để sử dụng có hiệu quả cao nhất trên quy mô cả nước, cũng như trên quy mô từng địa phương và từng cơ sở.

Cần gấp rút tổ chức lại nền sản xuất xã hội trong phạm vi cả nước, ra sức xây dựng một hệ thống quản lý và kế hoạch hoá có hiệu lực nhằm sử dụng hợp lý và phát huy tốt mọi năng lực sản xuất của cả nước, làm cho các quá trình sản xuất và tái sản xuất đều diễn ra một cách có kế hoạch, với năng suất ngày càng cao, với chất lượng ngày càng tốt, với hiệu quả ngày càng lớn.

Phải xây dựng một chế độ phân phối trong đó các nhu cầu vật chất và văn hoá ngày càng tăng của toàn xã hội được thoả mãn một cách công bằng, hợp lý, có tổ chức, có kế hoạch và ngày càng đầy đủ, phù hợp với trình độ phát triển sản xuất. Mỗi người phải làm đầy đủ nghĩa vụ đối với xã hội; xã hội có trách nhiệm chăm lo tổ chức đời sống cho mỗi người; xã hội hôm nay có trách nhiệm đối với xã hội ngày mai. Chế độ phân phối ấy phải thực hiện đúng nguyên tắc: "làm theo năng lực, hưởng theo lao động, có sức lao động mà không làm thì không hưởng", đồng thời đặc biệt chú trọng tăng dần phúc lợi tập thể, phúc lợi xã hội, tuỳ theo trình độ phát triển sản xuất.

Theo tinh thần và phương hướng đó, cần mở rộng dần việc xã hội đảm nhận chăm sóc, nuôi dạy trẻ em, từng bước làm cho sinh hoạt, học tập, sự phát triển và trưởng thành của mọi trẻ em đều được bảo đảm một cách bình đẳng, không để một trẻ em nào bị thiệt thòi vì mất cha mẹ hoặc vì cha mẹ bị tàn tật, ốm đau. Xã hội phải bảo đảm từng bước các điều kiện cần thiết cho chị em phụ nữ làm tròn chức trách người mẹ cao quý của mình; phải đảm nhận tổ chức trên quy mô ngày càng lớn việc chữa bệnh, nghỉ ngơi, học tập, giải trí cho mọi người; chăm lo tổ chức tốt đời sống cho những người già yếu, tàn tật, mất sức lao động.

Xây dựng chế độ làm chủ tập thể về văn hoá là tạo ra cho mọi người một cuộc sống tinh thần phong phú, phù hợp với mục đích cao quý của chủ nghĩa xã hội là thoả mãn ngày càng đầy đủ không những nhu cầu vật chất mà cả nhu cầu văn hoá của toàn xã hội; là biến mọi giá trị văn hoá thành tài sản của nhân dân và tạo mọi điều kiện để nhân dân trực tiếp sáng tạo ra mọi giá trị văn hoá; là làm cho các quan hệ đối xử giữa người và người thể hiện lẽ sống tốt đẹp: "mỗi người vì mọi người, mọi người vì mỗi người". Nhằm mục đích ấy, cần ra sức xây dựng nền văn hoá mới, từng bước xây dựng nước ta thành một xã hội văn hoá cao.

Xây dựng mối quan hệ đúng đắn giữa tập thể và cá nhân là một nội dung rất quan trọng của việc xây dựng chế độ làm chủ tập thể xã hội chủ nghĩa. Xuất phát từ nguyên lý của chủ nghĩa Mác - Lênin nói rằng chỉ có thể giải phóng cá nhân thông qua giải phóng xã hội, và "sự phát triển tự do của mỗi người là điều kiện của sự phát triển tự do của tất cả mọi người"8, chúng ta phải kết hợp hài hoà sự làm chủ của cộng đồng xã hội với quyền tự do chân chính của cá nhân, tạo ra sự nhất trí giữa tập thể và cá nhân. Trên cơ sở những đòi hỏi tất yếu của cuộc sống cộng đồng, của quyền làm chủ tập thể, phải tôn trọng và bảo đảm các quyền của công dân, bảo đảm sự phát triển phong phú của nhân cách, bồi dưỡng và phát huy sở trường và năng khiếu cá nhân, tạo điều kiện cho mọi người tự do tìm tòi và sáng tạo trên các lĩnh vực sản xuất, hoạt động khoa học, kỹ thuật, văn hoá, văn học, nghệ thuật...

Chế độ làm chủ tập thể xã hội chủ nghĩa có cơ sở kinh tế của nó là nền sản xuất lớn xã hội chủ nghĩa. Việc xây dựng và phát triển nền sản xuất lớn xã hội chủ nghĩa nhằm mục đích thoả mãn ngày càng tốt hơn nhu cầu vật chất và văn hoá ngày càng tăng của toàn xã hội bằng cách không ngừng phát triển và hoàn thiện sản xuất, trên cơ sở chế độ làm chủ tập thể và một nền kỹ thuật hiện đại.

Muốn thế, điều có ý nghĩa quyết định là phải thực hiện công nghiệp hoá xã hội chủ nghĩa, nhiệm vụ trung tâm của cả thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, tạo ra một cơ cấu kinh tế công - nông nghiệp hiện đại. Con đường cơ bản để tạo ra cơ cấu ấy là "ưu tiên phát triển công nghiệp nặng một cách hợp lý trên cơ sở phát triển nông nghiệp và công nghiệp nhẹ", làm cho nông nghiệp và công nghiệp kết hợp chặt chẽ với nhau thành một thể thống nhất, cùng phát triển nhịp nhàng lên sản xuất lớn xã hội chủ nghĩa, mỗi bước phát triển luôn luôn gắn bó với nhau, thúc đẩy lẫn nhau, phục vụ cho nhau.

Cơ cấu kinh tế ấy là cơ cấu thống nhất cả nước bao gồm kinh tế trung ương và kinh tế địa phương. Phải tập trung cao độ năng lực của cả nước để xây dựng kinh tế trung ương bao gồm những ngành và những cơ sở kinh tế then chốt có tác dụng quyết định nhất đối với sự phát triển của toàn bộ nền kinh tế quốc dân, đồng thời phát triển mạnh kinh tế địa phương (tỉnh, thành phố), làm cho mỗi tỉnh, thành phố có một cơ cấu kinh tế hợp lý, một bộ phận cấu thành của nền kinh tế cả nước, làm cho mỗi huyện trở thành một đơn vị kinh tế nông - công nghiệp. Kinh tế địa phương phải được xây dựng và phát triển dựa trên quy hoạch và kế hoạch của cả nước, dựa trên khả năng lao động, kỹ thuật, tài nguyên của địa phương và với sự giúp đỡ của kinh tế trung ương, nhằm vừa bảo đảm nhu cầu của nhân dân địa phương, vừa làm tốt nghĩa vụ đối với Nhà nước, góp phần tích cực phát triển nền kinh tế quốc dân. Vừa xây dựng kinh tế trung ương, vừa phát triển kinh tế địa phương là cách đi tốt nhất cho phép khai thác tốt mọi khả năng của đất nước để tăng nhanh sản xuất, đẩy mạnh phân công lao động, mở mang ngành nghề, tạo thêm của cải. Trên cơ sở đó, có thể vừa bảo đảm được tích luỹ để xây dựng cơ sở vật chất - kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội, vừa thoả mãn được nhu cầu đa dạng về đời sống của nhân dân các địa phương; vừa thực hiện được làm chủ trong phạm vi cả nước, vừa thực hiện được làm chủ trong từng địa phương, từng cơ sở.

Cơ cấu kinh tế ấy còn là sự kết hợp đúng đắn kinh tế với quốc phòng. Xây dựng đất nước phải đi đôi với bảo vệ đất nước, đó là yêu cầu sống còn của dân tộc ta. Ra sức phát triển kinh tế, tích cực xây dựng cơ sở vật chất - kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội là điều kiện cơ bản để xây dựng nền quốc phòng toàn dân vững mạnh. Đi đôi với đẩy mạnh công việc xây dựng đất nước về mọi mặt, phải ra sức xây dựng nền quốc phòng toàn dân vững mạnh, xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân, xây dựng công nghiệp quốc phòng bảo đảm cho đất nước có lực lượng ngày càng mạnh, sẵn sàng đánh bại mọi cuộc tiến công của bọn xâm lược. Phải kết hợp chặt chẽ nghĩa vụ lao động với nghĩa vụ quân sự để vừa đẩy mạnh công cuộc xây dựng kinh tế, vừa bảo đảm củng cố quốc phòng một cách vững chắc, nhất là trong khi nền sản xuất xã hội còn chưa phát triển.

Cuối cùng, cơ cấu kinh tế ấy là sự kết hợp tốt việc phân công lao động và cân đối trong nước là chính với việc tăng cường quan hệ kinh tế với các nước xã hội chủ nghĩa anh em, thực hiện sự phân công, hợp tác, tương trợ trên tinh thần quốc tế xã hội chủ nghĩa; đồng thời phát triển quan hệ kinh tế với các nước khác trên cơ sở giữ vững độc lập, chủ quyền và các bên cùng có lợi. Phải thông qua các quan hệ quốc tế mà tranh thủ kỹ thuật tiên tiến, thực hiện phân công lao động hợp lý hơn và nâng cao hiệu quả của lao động trong nước, phục vụ tốt công cuộc xây dựng cơ sở vật chất - kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội và cải thiện từng bước đời sống nhân dân.

Phải luôn luôn thấu suốt đặc điểm của quá trình tiến từ sản xuất nhỏ lên sản xuất lớn xã hội chủ nghĩa là quan hệ sản xuất và lực lượng sản xuất luôn luôn gắn bó với nhau, thúc đẩy nhau cùng phát triển, mỗi bước cải tạo quan hệ sản xuất cũ, xây dựng quan hệ sản xuất mới đều thúc đẩy sự ra đời và lớn mạnh của lực lượng sản xuất mới; ngược lại, mỗi bước tạo ra lực lượng sản xuất mới đều có tác dụng củng cố và hoàn thiện quan hệ sản xuất mới. Trong cách mạng về quan hệ sản xuất, phải gắn liền sự biến đổi của chế độ sở hữu với sự biến đổi của chế độ phân phối, của tổ chức sản xuất, kinh doanh, của hệ thống quản lý. Kết hợp chặt chẽ thành phần quốc doanh với thành phần tập thể và thành phần cá thể theo hướng ra sức phát triển thành phần quốc doanh, tăng cường thành phần tập thể, hướng dẫn tốt thành phần cá thể, lấy thành phần quốc doanh làm lực lượng nòng cốt và lãnh đạo. Trong cách mạng khoa học - kỹ thuật, cần nắm vững khâu trung tâm là cơ khí hoá; kết hợp tốt cơ khí, nửa cơ khí với thủ công; kết hợp quy mô to với quy mô vừa và quy mô nhỏ theo hướng tích cực xây dựng quy mô to và lấy quy mô to làm nòng cốt. Ra sức xây dựng đội ngũ công nhân lành nghề, tích cực đào tạo cán bộ quản lý kinh tế và cán bộ khoa học, kỹ thuật.

Nền sản xuất lớn xã hội chủ nghĩa chỉ có thể hình thành thông qua công cuộc xây dựng có ý thức, có kế hoạch. Vì vậy, kế hoạch là công cụ chính để quản lý và điều khiển quá trình tiến từ sản xuất nhỏ lên sản xuất lớn xã hội chủ nghĩa. Và khi hoạt động kinh tế được tiến hành theo kế hoạch, khi mục đích cao nhất của việc phát triển sản xuất không phải là để buôn bán nhằm thu lợi nhuận mà là để thoả mãn ngày càng tốt hơn nhu cầu vật chất và văn hoá của nhân dân, thì điều mà chúng ta phải quan tâm và coi trọng trước hết là giá trị sử dụng của sản phẩm. Đứng trên quan điểm toàn cục của người làm chủ tập thể, xuất phát từ những nhu cầu thực tế của xã hội cần được thoả mãn, dựa vào các khả năng lao động, thiết bị, tài nguyên, khoa học, kỹ thuật sẵn có, chúng ta phải bằng mọi cách tạo ra cho được một khối lượng giá trị sử dụng ngày càng lớn, có chất lượng ngày càng cao. Nhất là phải có kế hoạch thật tốt về mọi mặt để động viên cho được cái vốn quý nhất, dồi dào nhất hiện nay là lực lượng lao động, tổ chức cả nước thành một công trường, mỗi địa phương thành một công trường, mỗi huyện thành một công trường. Mặt khác, chúng ta phải coi trọng giá trị và quy luật giá trị đang tồn tại một cách khách quan trong xã hội xã hội chủ nghĩa; phải vận dụng linh hoạt quy luật giá trị cùng nhiều đòn bẩy kinh tế khác để tăng cường quản lý kinh tế tài chính, khuyến khích lao động và thúc đẩy tăng năng suất lao động, giảm mức hao phí lao động, vật tư, máy móc trong từng đơn vị sản phẩm, bảo đảm làm ra được giá trị sử dụng nhiều nhất với mức chi phí ít nhất. Trong tinh thần ấy, chúng ta cần sử dụng một cách chủ động, thích đáng thị trường, giá cả, tiền lương, tín dụng để nâng cao chất lượng của kế hoạch, làm cho việc xây dựng và thực hiện kế hoạch được tốt hơn, và để - trong một chừng mực nhất định - bổ sung cho kế hoạch.

Phải giải quyết đúng đắn mối quan hệ giữa tích luỹ và tiêu dùng, để vừa bảo đảm xây dựng nhanh chóng cơ sở vật chất - kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội, vừa cải thiện từng bước đời sống của nhân dân. Đẩy mạnh sản xuất, không ngừng tăng năng suất lao động, đó là con đường cơ bản để mở rộng tích luỹ và tiêu dùng. Song, tiết kiệm phải trở thành một chính sách lớn của Đảng và Nhà nước ta, phải trở thành hành động cách mạng của đông đảo quần chúng. Phải tiết kiệm lao động, vật tư, tiền vốn, thiết bị, máy móc; phải tiết kiệm trong sản xuất và trong tiêu dùng; thi hành chính sách tiêu dùng hợp lý; nêu cao tinh thần cần kiệm xây dựng chủ nghĩa xã hội.

Suy cho cùng thì nhân tố quyết định sự thành công của quá trình tiến lên sản xuất lớn xã hội chủ nghĩa là nâng cao không ngừng năng suất lao động xã hội, hiệu quả kinh tế và chất lượng sản xuất. Đi đôi với việc vận dụng đúng đắn các quy luật kinh tế và khoa học, kỹ thuật, chúng ta phải có kế hoạch và biện pháp thích hợp để dấy lên cho được một phong trào thi đua xã hội chủ nghĩa, biến nó thành phong trào cách mạng thật sự của quần chúng, coi đó là một vấn đề có tính quy luật trong công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội. Đặc biệt phải coi trọng công tác tổ chức và quản lý lao động, nhất là khi phần lớn lao động còn là thủ công.

Nền văn hoá mới là nền văn hoá có nội dung xã hội chủ nghĩa và tính chất dân tộc. Đó là một nền văn hoá có tính Đảng và tính nhân dân. Nền văn hoá ấy được xây dựng trên cơ sở chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng làm chủ tập thể xã hội chủ nghĩa. Nó vừa hấp thụ có chọn lọc những thành quả của văn minh loài người, những thành tựu văn hoá, khoa học hiện đại, vừa là sự kết tinh và nâng lên một tầm cao mới những gì đẹp nhất trong truyền thống bốn nghìn năm của tâm hồn Việt Nam, của văn hoá Việt Nam. Đó là truyền thống yêu nước, bất khuất, kiên cường và mưu trí trong đấu tranh cho độc lập và tự do; là tình thương giữa những người lao động; là đức tính cần cù, sáng tạo và tinh thần lạc quan yêu đời. Đó còn là chủ nghĩa quốc tế vô sản đã bắt rễ vào đời sống tinh thần của nhân dân ta từ ngày có Đảng đến nay. Nền văn hoá ấy là sự kết hợp hài hoà những tinh hoa văn hoá có phong cách riêng của các dân tộc anh em trong đại gia đình dân tộc Việt Nam. Xây dựng nền văn hoá mới là quá trình xây dựng, vun đắp những tư tưởng đúng, những tình cảm lành mạnh, những phong tục, tập quán tốt đẹp; đồng thời là quá trình đấu tranh không khoan nhượng chống tư tưởng tư sản, phê phán tư tưởng tiểu tư sản, quét sạch ảnh hưởng của văn hoá thực dân, phong kiến, những nhân tố lạc hậu trong đời sống văn hoá của xã hội ta.

Chế độ làm chủ tập thể xã hội chủ nghĩa đòi hỏi phải có những con người mới phù hợp với nó. Vả chăng, "Muốn xây dựng chủ nghĩa xã hội, trước hết cần có những con người xã hội chủ nghĩa"9. Con người mới vừa là sản phẩm của xã hội mới vừa là chủ thể có ý thức xây dựng nên xã hội mới. Tiến hành ba cuộc cách mạng, xây dựng chế độ làm chủ tập thể xã hội chủ nghĩa và nền sản xuất lớn xã hội chủ nghĩa là tạo ra những điều kiện xã hội hết sức quan trọng để có con người mới. Song, con người mới không thể hình thành một cách tự phát, mà phải trải qua quá trình xây dựng một cách tích cực và chủ động. Hơn nữa, hoàn cảnh nước ta đòi hỏi chúng ta và cho phép chúng ta xây dựng sớm, xây dựng từng bước con người mới, không phải chờ đến sau khi đã có sự phát triển cao của nền sản xuất lớn xã hội chủ nghĩa. Làm như thế thì ba cuộc cách mạng sẽ được đẩy mạnh hơn, chế độ làm chủ tập thể, nền sản xuất lớn xã hội chủ nghĩa và nền văn hoá mới sẽ được xây dựng một cách nhanh chóng hơn.

Con người mới xã hội chủ nghĩa là con người Việt Nam mới mà những đặc trưng nổi bật là: làm chủ tập thể, lao động, yêu nước xã hội chủ nghĩa và tinh thần quốc tế vô sản. Đó cũng là sự kết tinh và phát triển những gì cao đẹp nhất trong tâm hồn và cốt cách Việt Nam hun đúc qua bốn nghìn năm lịch sử.

Con người mới là con người có tư tưởng đúng và tình cảm đẹp, có tri thức và năng lực để làm chủ xã hội, làm chủ thiên nhiên, làm chủ bản thân.

Con người mới tất yếu phải là con người lao động, biết phát huy truyền thống lao động cần cù và đấu tranh anh dũng của dân tộc, lao động với tinh thần tự nguyện, tự giác cao, với đầy đủ nhiệt tình, tận tuỵ, sẵn sàng cống hiến mọi sức lực và trí tuệ cho sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội; là con người có tinh thần cách mạng tiến công, không lùi bước trước bất kỳ khó khăn nào, coi lao động là vinh dự, là hạnh phúc, là lẽ sống; là con người lao động thật thà, kiên quyết đoạn tuyệt với thái độ chây lười, khinh lao động, thích sống ăn bám, coi thường kỷ luật lao động, nói dối, làm dối; là con người biết quý trọng và bảo vệ của công, lao động một cách có kỷ luật, có kỹ thuật, có sáng tạo và đạt năng suất cao.

Con người mới là con người có lòng yêu nước xã hội chủ nghĩa nồng nàn kết hợp nhuần nhuyễn với tinh thần quốc tế vô sản trong sáng.

Con người mới là con người có tình thương yêu sâu sắc đối với nhân dân lao động, biết đoàn kết, hợp tác, giúp đỡ nhau trong lao động, chiến đấu và xây dựng cuộc sống mới, lấy việc xây dựng cuộc sống tự do, hạnh phúc cho tất cả mọi người làm lý tưởng cao đẹp, làm hạnh phúc lớn của mình.

Con người mới là con người biết xây dựng gia đình hạnh phúc trên cơ sở của một xã hội hạnh phúc, có trách nhiệm đầy đủ và tình yêu chân thật trong quan hệ vợ chồng, có trách nhiệm cao đối với việc xây dựng con cái thành những con người mới.

Xây dựng con người mới Việt Nam như vậy là xây dựng con người phát triển toàn diện, có cuộc sống tập thể và cuộc sống cá nhân hài hoà, phong phú.

Con người là sản phẩm của các quan hệ xã hội. Phải bằng kết quả tổng hợp của cả ba cuộc cách mạng, phải thông qua hoạt động thực tiễn, thông qua lao động và đấu tranh thì những thành viên trong xã hội mới cải tạo được mình và dần dần trở thành con người mới. Việc tiến hành ba cuộc cách mạng, xây dựng chế độ mới, nền kinh tế mới, nền văn hoá mới phải xuất phát từ yêu cầu xây dựng con người mới, phải nhằm bảo đảm những điều kiện cần thiết để đẩy mạnh việc xây dựng con người mới.

Phải xây dựng con người mới từ lúc mới lọt lòng và ở tất cả mọi lứa tuổi, trong tất cả các tổ chức quần chúng, các cơ sở kinh tế, văn hoá, các hoạt động xã hội, ở mọi ngành, mọi cấp, trong từng khu phố, thôn xóm và gia đình. Phải xây dựng con người mới từ những con người ra đời trong chế độ mới và những con người do chế độ cũ để lại.

Xây dựng con người mới là một công việc rất công phu. Nó phải được tiến hành một cách có tổ chức, có kế hoạch trên quy mô toàn xã hội và đối với từng người. Phải có nhiều biện pháp về các mặt: tư tưởng và tổ chức, giáo dục và hành chính, chính trị và văn hoá, pháp chế và kinh tế... Trong các biện pháp ấy, tiến hành cách mạng tư tưởng và văn hoá, áp dụng phổ biến phương pháp tự phê bình và phê bình, là biện pháp có tầm quan trọng đặc biệt. Việc xây dựng con người mới phải được tiến hành thường xuyên, liên tục, kiên trì, bền bỉ; đồng thời phải có những đợt vận động tập trung, phải qua nhiều phong trào: phong trào của nhân dân nói chung, phong trào của từng đoàn thể, từng giới, từng lứa tuổi nói riêng, nhất là phong trào lao động sản xuất.

Thưa các đồng chí,

Với nội dung trình bày ở trên, chúng ta có thể nêu lên đường lối chung của cách mạng xã hội chủ nghĩa trong giai đoạn mới ở nước ta là:

Nắm vững chuyên chính vô sản, phát huy quyền làm chủ tập thể của nhân dân lao động; tiến hành đồng thời ba cuộc cách mạng: cách mạng về quan hệ sản xuất, cách mạng khoa học - kỹ thuật, cách mạng tư tưởng và văn hoá, trong đó cách mạng khoa học - kỹ thuật là then chốt; đẩy mạnh công nghiệp hoá xã hội chủ nghĩa là nhiệm vụ trung tâm của cả thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội; xây dựng chế độ làm chủ tập thể xã hội chủ nghĩa, xây dựng nền sản xuất lớn xã hội chủ nghĩa, xây dựng nền văn hoá mới, xây dựng con người mới xã hội chủ nghĩa; xoá bỏ chế độ người bóc lột người, xoá bỏ nghèo nàn và lạc hậu; không ngừng đề cao cảnh giác, thường xuyên củng cố quốc phòng, giữ gìn an ninh chính trị và trật tự xã hội; xây dựng thành công Tổ quốc Việt Nam hoà bình, độc lập, thống nhất và xã hội chủ nghĩa; góp phần tích cực vào cuộc đấu tranh của nhân dân thế giới vì hoà bình, độc lập dân tộc, dân chủ và chủ nghĩa xã hội.

Đường lối xây dựng nền kinh tế xã hội chủ nghĩa trong giai đoạn mới ở nước ta là:

Đẩy mạnh công nghiệp hoá xã hội chủ nghĩa, xây dựng cơ sở vật chất - kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội, đưa nền kinh tế nước ta từ sản xuất nhỏ lên sản xuất lớn xã hội chủ nghĩa. Ưu tiên phát triển công nghiệp nặng một cách hợp lý trên cơ sở phát triển nông nghiệp và công nghiệp nhẹ, kết hợp xây dựng công nghiệp và nông nghiệp cả nước thành một cơ cấu kinh tế công - nông nghiệp; vừa xây dựng kinh tế trung ương vừa phát triển kinh tế địa phương, kết hợp kinh tế trung ương với kinh tế địa phương trong một cơ cấu kinh tế quốc dân thống nhất; kết hợp phát triển lực lượng sản xuất với xác lập và hoàn thiện quan hệ sản xuất mới; kết hợp kinh tế với quốc phòng; tăng cường quan hệ phân công, hợp tác, tương trợ với các nước xã hội chủ nghĩa anh em trên cơ sở chủ nghĩa quốc tế xã hội chủ nghĩa, đồng thời phát triển quan hệ kinh tế với các nước khác trên cơ sở giữ vững độc lập, chủ quyền và các bên cùng có lợi; làm cho nước Việt Nam trở thành một nước xã hội chủ nghĩa có kinh tế công - nông nghiệp hiện đại, văn hoá và khoa học, kỹ thuật tiên tiến, quốc phòng vững mạnh, có đời sống văn minh, hạnh phúc.

Chúng ta phấn đấu hoàn thành về cơ bản quá trình đưa nền kinh tế nước ta từ sản xuất nhỏ lên sản xuất lớn xã hội chủ nghĩa trong khoảng thời gian hai mươi năm.

Đó là nội dung cơ bản của cuộc đấu tranh giai cấp gay go, phức tạp nhằm giải quyết vấn đề "ai thắng ai" giữa giai cấp vô sản và giai cấp tư sản, giữa con đường xã hội chủ nghĩa và con đường tư bản chủ nghĩa.

Đặc điểm của cuộc đấu tranh giai cấp ấy là kết hợp cải tạo với xây dựng, chính trị với kinh tế, hoà bình với bạo lực, thuyết phục với cưỡng bách, giáo dục với hành chính..., trong đó đưa sản xuất nhỏ lên sản xuất lớn xã hội chủ nghĩa là sự nghiệp lâu dài, phức tạp và có ý nghĩa quyết định đối với sự toàn thắng của chủ nghĩa xã hội ở nước ta.

Căn cứ vào đường lối chung và đường lối phát triển kinh tế trên đây, từ nay đến năm 1980 phải ra sức phấn đấu tăng cường sự lãnh đạo và nâng cao sức chiến đấu của Đảng, kiện toàn Nhà nước chuyên chính vô sản, phát động phong trào cách mạng của quần chúng, chủ yếu là phong trào thi đua lao động, sản xuất, cần kiệm xây dựng chủ nghĩa xã hội, tiếp tục hoàn chỉnh việc thống nhất nước nhà về mọi mặt, tạo ra một chuyển biến mới trong việc tiến hành ba cuộc cách mạng, xây dựng một bước chế độ mới, nền kinh tế mới, nền văn hoá mới và con người mới, nhất là đẩy mạnh khôi phục, hoàn thành cải tạo, phát triển kinh tế, văn hoá, đưa việc xây dựng cơ sở vật chất - kỹ thuậtcủa chủ nghĩa xã hội tiến lên một bước mới, cố gắng cải thiện một bước đời sống nhân dân sau chiến tranh, ra sức bồi dưỡng và xây dựng đội ngũ cán bộ.

III - Phương hướng và nhiệm vụ của kế hoạch 5 năm 1976-1980 phát triển

và cải tạo kinh tế, văn hoá, phát triển khoa học, kỹ thuật

Thưa các đồng chí,

Mở đầu giai đoạn mới của cách mạng Việt Nam, kế hoạch 5 năm 1976-1980 có một vị trí hết sức quan trọng. Nó vừa phải giải quyết những hậu quả nặng nề của ba mươi năm chiến tranh và của chủ nghĩa thực dân mới, vừa phải tổ chức lại nền kinh tế vốn nghèo nàn, lạc hậu, xây dựng một bước nền sản xuất lớn xã hội chủ nghĩa trong cả nước, đặt nền móng cho sự nghiệp công nghiệp hoá nước nhà.

Nước ta bước vào kế hoạch 5 năm này với rất nhiều khó khăn. Khó khăn lớn nhất là, trong khi nền kinh tế còn phổ biến là sản xuất nhỏ, năng suất lao động và thu nhập quốc dân rất thấp, lương thực, thực phẩm cho người, nguyên liệu, nhiên liệu, phụ tùng cho công nghiệp còn thiếu, xuất không đủ nhập, thì chúng ta lại phải giải quyết cùng một lúc hai nhiệm vụ vừa cơ bản vừa cấp bách: bảo đảm nhu cầu của đời sống nhân dân, tích luỹ để xây dựng cơ sở vật chất - kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội.

Song, chúng ta có nhiều thuận lợi rất cơ bản cần ra sức phát huy. Đó là tiềm lực khá lớn của nền nông nghiệp nhiệt đới. Chúng ta có thể mở thêm đất canh tác, trồng trọt nhiều vụ trong năm, phát triển sản xuất toàn diện và thực hiện chuyên canh trên quy mô lớn. Nước ta có một nguồn lợi lớn là hàng chục triệu hécta rừng và đất rừng, hơn 3.200 kilômét bờ biển và vùng biển rộng lớn với nguồn hải sản dồi dào có thể khai thác quanh năm.

Nước ta đã có một số cơ sở đầu tiên về công nghiệp nặng, một hệ thống công nghiệp nhẹ và công nghiệp thực phẩm bước đầu phát triển. Nước ta lại có nguồn năng lượng và nhiều loại khoáng sản có thể làm cơ sở cho một nền công nghiệp hiện đại. Với địa thế của đất nước, chúng ta có điều kiện phát triển thuận lợi các ngành giao thông vận tải, mở rộng giao lưu trong nước và với nước ngoài.

Quý hơn tất cả là nước ta có một lực lượng lao động 22 triệu người, một đội ngũ cán bộ, công nhân kỹ thuật hơn một triệu người và một lực lượng đáng kể bộ đội làm nhiệm vụ xây dựng kinh tế. Chúng ta đã tích luỹ được một số kinh nghiệm về cách mạng xã hội chủ nghĩa, lại được sự giúp đỡ quý báu và hợp tác to lớn về kinh tế và kỹ thuật của các nước anh em.

Trong kế hoạch 5 năm 1976-1980, phải động viên toàn Đảng, toàn dân, toàn quân nêu cao tinh thần làm chủ tập thể và ý chí tự lực tự cường, hăng hái vươn lên phát huy thuận lợi, khắc phục khó khăn, hoàn thành thắng lợi những nhiệm vụ cơ bản sau đây:

- Tập trung cao độ sức của cả nước, của các ngành, các cấp tạo ra một bước phát triển vượt bậc về nông nghiệp; ra sức đẩy mạnh lâm nghiệp, ngư nghiệp; phát triển công nghiệp nhẹ và công nghiệp thực phẩm (bao gồm cả thủ công nghiệp và tiểu công nghiệp) nhằm giải quyết vững chắc nhu cầu của cả nước về lương thực, thực phẩm và một phần quan trọng hàng tiêu dùng thông dụng; cải thiện một bướcđời sống vật chất và văn hoá của nhân dân, tạo tích luỹ cho công nghiệp hoá xã hội chủ nghĩa.

- Phát huy năng lực sẵn có và xây dựng thêm nhiều cơ sở mới về công nghiệp nặng, đặc biệt là cơ khí, nhằm phục vụ trước hết cho nông nghiệp, lâm nghiệp, ngư nghiệp và công nghiệp nhẹ, chuẩn bị cho bước trang bị kỹ thuật trong thời kỳ tiếp theo. Tích cực mở mang giao thông vận tải; tăng nhanh năng lực xây dựng cơ bản; đẩy mạnh công tác khoa học, kỹ thuật. Chuẩn bị về mọi mặt, để triển khai xây dựng lớn trong những kế hoạch dài hạn sau này.

- Sử dụng hết mọi lực lượng lao động xã hội; tổ chức và quản lý tốt lao động; phân bố lại lao động giữa các vùng và các ngành nhằm tăng rõ rệt năng suất lao động xã hội. Hình thành bước đầu cơ cấu kinh tế mới công - nông nghiệp, kết hợp kinh tế trung ương với kinh tế địa phương, từng bước xây dựng huyện thành đơn vị kinh tế nông - công nghiệp; kết hợp kinh tế với quốc phòng, xây dựng nền quốc phòng toàn dân.

- Hoàn thành về cơ bản cải tạo xã hội chủ nghĩa ở miền Nam, củng cố và hoàn thiện quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc; cải tiến mạnh mẽ công tác thương nghiệp, giá cả, tài chính, ngân hàng.

- Tăng nhanh nguồn hàng xuất khẩu, trước hết là sản phẩm nông nghiệp và công nghiệp nhẹ; mở rộng quan hệ kinh tế với nước ngoài.

- Ra sức phát triển sự nghiệp giáo dục, văn hoá, y tế, tiến hành cải cách giáo dục, đẩy mạnh đào tạo cán bộ và công nhân; thanh toán hậu quả của chiến tranh và chủ nghĩa thực dân mới về mặt xã hội.

- Thực hiện một sự chuyển biến sâu sắc trong tổ chức và quản lý kinh tế, xây dựng hệ thống mới về quản lý kinh tế trong cả nước.

Phấn đấu đến năm 1980, đạt mấy mục tiêu chủ yếu sau đây: 21 triệu tấn lương thực, 1 triệu tấn cá biển, 1 triệu hécta khai hoang, 1 triệu 200 nghìn hécta rừng mới trồng, 16 triệu 500 nghìn con lợn, sản lượng cơ khí tăng hai lần rưỡi so với năm 1975, 10 triệu tấn than sạch, 5 tỷ kilôóat/giờ điện, 2 triệu tấn ximăng, 1 triệu 300 nghìn tấn phân hoá học, 300 nghìn tấn thép, 450 triệu mét vải, 130 nghìn tấn giấy, 14 triệu mét vuông nhà ở (không kể phần nhân dân tự làm).

A- Phương hướng phát triển của các ngành kinh tế quốc dân

1. Nông nghiệp, lâm nghiệp, ngư nghiệp

Phát triển toàn diện cả trồng trọt và chăn nuôi, đẩy mạnh lâm nghiệp, ngư nghiệp theo hướng sản xuất lớn xã hội chủ nghĩa, nhằm sớm bảo đảm đủ lương thực, thực phẩm cho toàn xã hội và có lương thực dự trữ, cung cấp nguyên liệu cho công nghiệp, tăng nhanh nguồn hàng xuất khẩu. Tiến hành phân vùng, quy hoạch sản xuất nhằm phát triển tất cả các vùng: đồng bằng, trung du, miền núi và miền biển, phát huy thế mạnh của mỗi vùng, sớm hình thành những khu vực lớn sản xuất tập trung, chuyên canh. Coi trọng cả ba mặt: thâm canh, tăng vụ và mở rộng diện tích. Tiếp tục đầu tư lớn và phát động phong trào quần chúng để đẩy mạnh thuỷ lợi hoá, hoàn chỉnh thuỷ nông trên từng vùng lớn, bảo đảm tưới tiêu chủ động; làm tốt việc cải tạo đất, khắc phục bạc màu, chua mặn, chống xói mòn. Xây dựng hệ thống giống quốc gia, cung cấp các loại giống mới có năng suất cao. áp dụng những thành tựu mới của khoa học, kỹ thuật nông nghiệp, phát huy ưu thế của nông nghiệp nhiệt đới, đuổi kịp năng suất tiên tiến của thế giới. Đẩy mạnh cơ khí hoá những vùng lúa trọng điểm và tiến hành từng bước cơ khí hoá các vùng khai hoang. Phân bố lại một khối lượng lớn lao động nông nghiệp trên các vùng của đất nước. Từng bước xây dựng huyện thành đơn vị kinh tế nông - công nghiệp; các ngành ở trung ương và cấp tỉnh phải tạo cho các huyện có đủ cán bộ và những phương tiện cần thiết.

Về lương thực, đẩy mạnh thâm canh đi đôi với mở rộng diện tích trồng lúa bằng tăng vụ và khai hoang, xây dựng những vùng lúa trọng điểm tạo ra nguồn lương thực hàng hoá chủ yếu của Nhà nước. Đối với hoa màu (ngô, khoai, sắn, cao lương), phải phát triển mạnh, hình thành những vùng tập trung, sản xuất đi đôi với chế biến, cơ khí hoá đồng bộ, bảo đảm thâm canh cao, nhất là đối với ngô.

Đối với cây thực phẩm, phát triển sản xuất tập trung thành những vùng chuyên canh, những vành đai lớn quanh thành phố và khu công nghiệp, đồng thời phát triển rộng rãi trong các gia đình. Phải sớm giải quyết cho được nhu cầu của nhân dân về rau, đậu và một số thực phẩm khác, đặc biệt chú ý đáp ứng nhu cầu của các thành phố và khu công nghiệp.

Phát triển cây công nghiệp là một nhiệm vụ hết sức quan trọng. Cần có kế hoạch đầu tư lâu dài về lao động, lương thực, kỹ thuật để xây dựng những vùng cây công nghiệp tập trung ở trung du và miền núi. Làm tốt công tác phân vùng đất đai, tổ chức nghiên cứu khoa học, kỹ thuật và xây dựng kịp thời công nghiệp chế biến, để phát triển toàn diện với quy mô lớn các cây có sợi (bông, đay, dâu tằm...), mía và các cây có dầu (đậu tương, lạc, dừa, sở...), các cây cao su, chè, cà phê, dứa, chuối và các cây ăn quả khác, các cây hương liệu, dược liệu...

Từ nghề phụ của nông dân, chăn nuôi phải nhanh chóng trở thành ngành sản xuất chính nhằm cung cấp thịt, trứng và tiến tới cung cấp sữa để cải tiến bữa ăn của nhân dân; cung cấp sức kéo trong khi chưa hoàn thành cơ khí hoá toàn bộ; cung cấp phân chuồng cho nhu cầu thâm canh, tăng vụ và mở rộng diện tích; sử dụng hợp lý lao động nông thôn và tạo nguồn xuất khẩu quan trọng. Ra sức phát triển đàn lợn, trâu, bò, đẩy mạnh chăn nuôi gia cầm, chú ý đúng mức chăn nuôi ngựa, dê, thỏ, ong. Theo đà cơ khí hoá nông nghiệp, chuyển dần đàn bò cày kéo thành đàn trâu bò thịt, sữa. Giải quyết chu đáo và theo quy mô lớn cả ba vấn đề: giống, thức ăn và thú y. Quy hoạch lại đất đai và các vụ gieo trồng trong năm đi đôi với xây dựng các cơ sở chế biến trong từng huyện nhằm tạo cho chăn nuôi một nguồn thức ăn ổn định. Đẩy mạnh công tác chọn giống, lai giống, xây dựng nhiều cơ sở sản xuất giống, để bảo đảm có đủ giống tốt. Mở rộng mạng lưới thú y và sản xuất đủ thuốc nhằm ngăn ngừa và dập tắt dịch bệnh. Kết hợp tốt chăn nuôi quốc doanh với chăn nuôi tập thể và chăn nuôi gia đình thành một hệ thống chăn nuôi chung có sự phân công, hiệp tác theo phương thức sản xuất lớn.

Phát triển mạnh công nghiệp chế biến lương thực, thực phẩm và các nông sản khác để biến hoa màu thành lương thực chính, hấp dẫn, tạo ra các bữa ăn có chất dinh dưỡng cao, tiết kiệm được lao động nấu nướng và thuận tiện cho sinh hoạt gia đình. Công nghiệp thực phẩm phải được xây dựng phổ biến khắp các địa phương, gần nguồn nguyên liệu, gắn chặt với sản xuất nông nghiệp.

Rừng là nguồn lợi lớn đối với nước ta; nhờ có khí hậu nhiệt đới, cây cối mọc nhanh. Nghề rừng cần được phát triển mạnh theo hướng sản xuất lớn xã hội chủ nghĩa để trở thành ngành kinh tế quan trọng. Coi trọng tất cả các khâu: trồng, tu bổ, bảo vệ rừng và khai thác rừng. Bằng mọi cách, phủ kín xong đồi trọc trong khoảng vài ba kế hoạch 5 năm. Đầu tư lâu dài để xây dựng những khu rừng trồng tập trung theo hướng chuyên canh và thâm canh, từ Việt Bắc đến Tây Nguyên, Minh Hải. Phát động liên tục phong trào "trồng cây, gây rừng và bảo vệ rừng", phong trào "Tết trồng cây đời đời nhớ ơn Bác". Làm tốt cuộc vận động định canh, định cư, bảo đảm lương thực cho đồng bào miền núi, chấm dứt nạn đốt phá rừng bừa bãi. Phát triển mạnh lâm nghiệp quốc doanh, đồng thời giao rừng cho hợp tác xã quản lý. Xây dựng các huyện miền núi thành những đơn vị sản xuất lớn, kết hợp lâm nghiệp, nông nghiệp với công nghiệp, kinh doanh tổng hợp nghề rừng, trồng cây công nghiệp và chăn nuôi. Cơ khí hoá từng bước sản xuất lâm nghiệp từ trồng cây cho đến khai thác, vận chuyển gỗ. Phát triển công nghiệp chế biến gỗ, tận dụng cành, ngọn, đẩy mạnh ngâm tẩm; sử dụng hợp lý và tiết kiệm gỗ.

Tăng cường đầu tư và kiện toàn tổ chức quản lý để khôi phục và phát triển ngư nghiệp, nhằm đáp ứng nhu cầu bức thiết của trong nước và xuất khẩu. Đẩy mạnh đánh bắt và nuôi ở nước mặn, nước lợ và nước ngọt. Xây dựng công nghiệp tàu đánh cá, trang bị phương tiện đánh bắt cho ngư dân; phát triển song song lực lượng đánh cá biển của trung ương và của địa phương. Trong một thời gian ngắn, phải sử dụng hết các mặt nước ao hồ, sông ngòi, đầm lạch. Phát triển kịp thời công nghiệp bảo quản và chế biến thuỷ sản. Đi đôi với khai thác, phải có kế hoạch bảo vệ nguồn lợi, xúc tiến công tác điều tra và nghiên cứu khoa học, để nắm chắc các nguồn thuỷ sản.

Phát triển nghề muối, từng bước cơ khí hoá việc làm muối, bảo đảm cung cấp muối cho sản xuất công nghiệp và tiêu dùng.

2. Công nghiệp nhẹ

Nhiệm vụ cơ bản của công nghiệp nhẹ (bao gồm cả thủ công nghiệp và tiểu công nghiệp) là sản xuất hàng tiêu dùng phục vụ đời sống vật chất và văn hoá của nhân dân; bảo đảm và nâng cao thu nhập thực tế của người lao động; tạo điều kiện cho Nhà nước đẩy mạnh phân công lao động xã hội; cung cấp nhiều hàng hoá cho xuất khẩu. Phải biết tận dụng mọi năng lực sản xuất, mọi hình thức tổ chức, để sản xuất được ngày càng nhiều sản phẩm với giá thành ngày càng hạ, thể loại ngày càng phong phú, chất lượng ngày càng cao, sớm chấm dứt tình trạng thiếu hàng tiêu dùng thiết yếu.

Trước hết, cần tập trung sức phát triển những ngành thuộc nhu cầu đời sống cơ bản: dệt, da, may mặc, giấy, đồ gỗ, đồ dùng gia đình, đồ dùng học sinh, dụng cụ y tế, dụng cụ nhà trẻ, thể dục thể thao, văn hoá phẩm. Trong 5 năm tới, cố gắng bảo đảm cho mọi gia đình đều có mức vải mặc vừa phải, đều có hàng tiêu dùng thông dụng. Cần liệt kê danh mục và khối lượng từng mặt hàng cần thiết, có sự phân công sản xuất giữa công nghiệp trung ương và công nghiệp địa phương, có kế hoạch giải quyết tốt nguyên liệu, thiết bị, kỹ thuật, quy định rõ thời hạn sản xuất.

Đối với những cơ sở sản xuất hàng xuất khẩu, cần trang bị hiện đại, cung cấp đủ nguyên liệu, tăng cường quản lý kinh tế, kỹ thuật, bảo đảm làm ra sản phẩm đạt trình độ quốc tế.

Trước mắt, cần nhanh chóng nắm chắc lực lượng công nghiệp nhẹ trong cả nước, tổ chức lại, phân công phối hợp theo hướng sản xuất lớn xã hội chủ nghĩa, kết hợp quy mô lớn với quy mô vừa và nhỏ, trung ương với địa phương, quốc doanh với tập thể và cá thể. Cải tiến kỹ thuật và mở rộng năng lực sản xuất của những cơ sở sẵn có, đồng thời cố gắng xây dựng thêm một số cơ sở mới.

Thủ công nghiệp và tiểu công nghiệp có vị trí quan trọng lâu dài trong nền kinh tế quốc dân, nhất là trong kinh tế địa phương. Thủ công nghiệp và tiểu công nghiệp có nhiệm vụ góp phần thoả mãn nhu cầu đời sống của nhân dân địa phương và nhân dân cả nước, đồng thời có vai trò quan trọng trong việc sản xuất hàng xuất khẩu. Cần ra sức phục hồi và phát triển thủ công nghiệp và tiểu công nghiệp, chú ý những nghề thủ công cổ truyền và mỹ nghệ.

Vấn đề quan trọng nhất hiện nay là bằng mọi cách phải sớm tạo ra nguồn nguyên liệu vững chắc trong nước, đồng thời có kế hoạch nhập khẩu một số nguyên liệu cần thiết để tận dụng lực lượng lao động và công suất thiết bị, bảo đảm nhu cầu thiết yếu của nhân dân và tạo thêm hàng xuất khẩu.

3. Công nghiệp nặng

Với vị trí then chốt trong hệ thống công nghiệp, cơ khí phải trở thành mối quan tâm hàng đầu trong toàn bộ kế hoạch phát triển kinh tế. Ngành cơ khí phải được nhanh chóng xây dựng lớn mạnh, để từng bước cung cấp máy móc, công cụ, phụ tùng, thiết bị lẻ và thiết bị toàn bộ cho các ngành kinh tế quốc dân.

Trong kế hoạch 5 năm này, cần hoàn thành sớm quy hoạch cơ khí trong cả nước, ổn định phương hướng sản xuất cho từng xí nghiệp, trên cơ sở thực hiện chuyên môn hoá mà đẩy mạnh hiệp tác hoá giữa cơ khí chung và cơ khí chuyên ngành, cơ khí quốc phòng và cơ khí dân dụng, cơ khí quốc doanh và cơ khí hợp tác xã, cơ khí chế tạo và cơ khí sửa chữa. Sắp xếp, cải tạo và mở rộng những xí nghiệp hiện có để khai thác hết tiềm lực, đồng thời tập trung sức xây dựng cho được một số xí nghiệp mới quan trọng nhằm hoàn chỉnh từng bước ngành cơ khí. Cùng với việc xây dựng lực lượng cơ khí chung của Bộ Cơ khí luyện kim, phải xây dựng lực lượng cơ khí cho các ngành quan trọng và các địa phương. Cố gắng cung cấp đủ công cụ thường và công cụ cải tiến với chất lượng tốt; bảo đảm phần lớn nhu cầu sửa chữa và phụ tùng; sản xuất nhiều máy móc, thiết bị đáp ứng từng phần nhu cầu của các ngành kinh tế.

Xây dựng công nghiệp điện tử, sản xuất các loại linh kiện, chế tạo và lắp ráp các máy móc điện tử.

Phát triển sớm năng lượng, đón trước được nhu cầu; xúc tiến nghiên cứu để khai thác và sử dụng được nhiều dạng năng lượng.

Về điện lực, phương hướng cơ bản là kết hợp thuỷ điện với nhiệt điện; hết sức coi trọng thủy điện, kết hợp quy mô lớn với quy mô vừa và nhỏ. Xây dựng lưới điện cân đối với nguồn điện. Trong kế hoạch 5 năm này, sẽ mở rộng một số nhà máy điện cũ và xây dựng một số nhà máy mới, chú trọng xây dựng nhiều trạm thuỷ điện nhỏ ở trung du và miền núi, nhất là ở Tây Nguyên.

Đẩy mạnh sản xuất than để đáp ứng nhu cầu trước mắt và tăng nhanh sản lượng trong kế hoạch sau. Triệt để phát huy các mỏ cũ, xây dựng nhanh nhiều mỏ mới. Chú trọng phát triển công nghiệp chế biến than; tăng cường lực lượng cơ khí để chế tạo được từng phần thiết bị và phụ tùng khai thác hầm lò và lộ thiên.

Triển khai mạnh việc tìm kiếm, thăm dò dầu mỏ và khí đốt trên đất liền và ngoài biển; tạo điều kiện xây dựng nhanh công nghiệp dầu khí. Khẩn trương chuẩn bị để sớm khởi công xây dựng cơ sở lọc dầu và chế biến dầu.

Luyện kim phải phát triển cân đối từng bước với sản xuất cơ khí, bảo đảm được yêu cầu xây dựng cơ bản. Nước ta phải tiến lên sản xuất cho được một khối lượng lớn kim loại đen, kim loại màu và một phần kim loại quý, hiếm. Trong kế hoạch này, hoàn thành xây dựng và mở rộng các cơ sở luyện thép hiện có, xây dựng nhiều lò thép điện trong các nhà máy cơ khí, chuẩn bị xây dựng cơ sở luyện thép cỡ lớn. Mở rộng sản xuất thiếc, tạo điều kiện khởi công các cơ sở luyện kim màu khác. Tập trung sức làm tốt công tác tìm kiếm những nguồn quặng mới.

Đẩy mạnh công nghiệp hoá chất phát triển toàn diện, bao gồm hoá chất vô cơ và hoá chất hữu cơ. Kết hợp quy mô to với quy mô vừa và nhỏ; chú trọng liên hợp sản xuất, hình thành những khu công nghiệp hoá chất hợp lý, vừa đạt hiệu quả kinh tế cao, vừa bảo vệ được môi trường. Trong 5 năm này, ra sức phát triển phân bón hoá học và các hoá chất khác phục vụ sản xuất nông nghiệp. Sớm khởi công xây dựng cơ sở sợi nhân tạo, các nhà máy xút và một số nhà máy hoá chất cơ bản. Phát triển hoá dược đáp ứng nhu cầu về thuốc chữa bệnh của nhân dân; tích cực chế biến các sản phẩm từ cao su, hương liệu, tinh dầu...

Để phục vụ các kế hoạch phát triển kinh tế, nhất là kế hoạch xây dựng công nghiệp nặng, cần đẩy mạnh công tác điều tra cơ bản, nghiên cứu địa chất và tìm kiếm, thăm dò tài nguyên. Công tác địa chất cần phát triển nhanh, bảo đảm kịp thời nhu cầu của các ngành. Tăng cường cán bộ và máy móc, phương tiện cần thiết cho ngành địa chất, đẩy mạnh công tác nghiên cứu khoa học về địa chất.

4. Xây dựng

Bước sang giai đoạn mới, nhiệm vụ xây dựng hết sức to lớn và nặng nề, vừa phải khắc phục những hậu quả nghiêm trọng của chiến tranh tàn phá, vừa phải xây dựng cơ sở vật chất - kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội. Phải khôi phục và xây dựng mới nhiều công trình kinh tế, văn hoá, phúc lợi công cộng và nhà ở, xây dựng lại Thủ đô Hà Nội "đàng hoàng hơn, to đẹp hơn". Để hoàn thành nhiệm vụ đó, cần phải:

- Tăng cường cơ sở vật chất - kỹ thuật cho ngành xây dựng, làm cho ngành xây dựng từng bước trở thành một ngành công nghiệp hiện đại. Trước mắt, cố gắng trang bị cho công nhân xây dựng có đủ các loại công cụ; cơ khí hoá các khâu nặng nhọc, có khối lượng lớn; thực hiện một bước công xưởng hoá xây dựng. Tổ chức lao động một cách khoa học; áp dụng các phương pháp xây dựng tiên tiến; quản lý chặt chẽ các tiêu chuẩn, định mức kinh tế - kỹ thuật nhằm bảo đảm chất lượng công trình, nâng cao năng suất lao động, hạ giá thành công trình và đưa nhanh công trình vào sử dụng.

- Phát triển mạnh công nghiệp vật liệu xây dựng bằng cách vừa xây dựng những xí nghiệp lớn hiện đại, vừa phát triển rộng rãi những xí nghiệp quy mô vừa và nhỏ ở các địa phương. Tăng thêm các mặt hàng vật liệu xây dựng cả về số lượng và chất lượng, tiến tới bảo đảm đủ vật liệu xây dựng cho mọi nhu cầu. Tích cực phát triển xi măng, gạch ngói và các vật liệu cơ bản khác; tăng nhanh vật liệu trang trí, vật liệu cách âm, cách ẩm, cách nhiệt.

- Đẩy mạnh công tác quy hoạch xây dựng và tăng nhanh năng lực khảo sát, thiết kế. Tiếp thụ những tiến bộ của thế giới về quy hoạch, thiết kế, áp dụng sáng tạo vào điều kiện cụ thể nước ta. Động viên mọi khả năng sáng tạo của cán bộ thiết kế, phát huy trí tuệ và tài năng của đông đảo những người làm công tác xây dựng. Phát triển nghệ thuật kiến trúc xã hội chủ nghĩa có tính hiện đại và tính dân tộc.

- Tăng cường lực lượng của Bộ Xây dựng trở thành lực lượng nòng cốt của toàn ngành xây dựng, đồng thời phát triển đúng mức lực lượng xây dựng của các ngành, nhất là của các địa phương. Phát triển các đội xây dựng của hợp tác xã, các đội sửa chữa và bảo quản nhà cửa. Sử dụng tốt lực lượng bộ đội tham gia xây dựng cơ bản. Cải tạo và sử dụng hợp lý các hãng thầu xây dựng tư nhân ở miền Nam.

5. Giao thông vận tải và bưu điện

Nhiệm vụ cơ bản của giao thông vận tải là thoả mãn nhu cầu vận chuyển hàng hoá và đi lại của nhân dân, bảo đảm các mối liên hệ kinh tế, phục vụ sản xuất kịp thời, góp phần nâng cao năng suất lao động xã hội. Phải phát triển tất cả các hình thức giao thông vận tải; sớm hoàn thành việc khôi phục và cải tạo hệ thống giao thông cũ, đồng thời xây dựng mạng lưới mới, chủ yếu ở miền núi và các vùng kinh tế mới. Bảo đảm một tỷ lệ hợp lý giữa xây dựng đường sá, bến cảng, kho bãi với sản xuất phương tiện vận tải. Tăng cường cơ khí để tăng nhanh năng lực sản xuất phương tiện, phụ tùng và năng lực sửa chữa. Đẩy mạnh cơ khí hoá bến cảng và khâu bốc dỡ; phân công hợp lý giữa đường biển, đường sông, đường sắt và đường bộ, giữa giao thông vận tải trung ương và giao thông vận tải địa phương.

Đường biển là một phương tiện vận chuyển đường dài rất tiện lợi giữa các địa phương trong nước, giữa nước ta với các nước trên thế giới, chúng ta phải biết tận dụng khả năng đó. Tập trung sức xây dựng, mở rộng và quản lý tốt hệ thống cảng biển, phát triển mạnh công nghiệp đóng tàu, xây dựng nhanh đội tàu biển và tàu pha sông pha biển.

Đường sông phải được sử dụng rộng rãi phù hợp với điều kiện sông ngòi của ta. Cố gắng cơ khí hoá nhanh vận tải đường sông, đẩy mạnh sản xuất nhiều loại phương tiện vận tải, chú trọng xây dựng các cảng sông có trình độ cơ khí hoá cao, có mức bốc dỡ lớn.

Về đường sắt, cần có kế hoạch hiện đại hoá một bước tuyến Hà Nội - Thành phố Hồ Chí Minh; nghiên cứu xây dựng thêm một số tuyến mới. Tích cực cải tiến tổ chức và quản lý để tăng nhanh tốc độ chạy tàu, phấn đấu đưa đường sắt tiến dần lên chính quy và hiện đại.

Đường bộ cần được mở mang nhiều hơn nữa. Phải bảo dưỡng và nâng cấp các tuyến chính; xây dựng nhiều tuyến mới, chủ yếu ở miền núi và vùng kinh tế mới. Tiến hành cải cách giao thông vận tải thành phố theo hướng tăng nhanh phương tiện vận tải công cộng. Phát triển mạnh giao thông vận tải nông thôn kết hợp với thuỷ lợi để phục vụ sản xuất nông nghiệp.

Cải tạo và mở rộng hệ thống đường ống; xây dựng hàng không dân dụng thành ngành vận tải ngày càng quan trọng.

Phát triển nhanh bưu điện đáp ứng yêu cầu thông tin trong cả nước và giữa nước ta với các nước trên thế giới. Phải phát huy mọi năng lực thông tin và cơ sở vật chất - kỹ thuật sẵn có, đồng thời ra sức xây dựng công nghiệp sản xuất thiết bị thông tin, hiện đại hoá từng bước và có trọng điểm mạng lưới thông tin bưu điện, làm cho công tác bưu điện được nhanh chóng, chính xác, an toàn và tiện lợi.

6. Lưu thông, phân phối, xuất khẩu và nhập khẩu

Thương nghiệp xã hội chủ nghĩa không phải là một hoạt động kinh doanh đơn thuần vì mục đích lợi nhuận, mà là một công cụ quan trọng bảo đảm quyền làm chủ tập thể của nhân dân trong lĩnh vực phân phối; nhiệm vụ chủ yếu của nó là tổ chức hợp lý và có kế hoạch việc lưu thông và phân phối hàng hoá nhằm phục vụ tốt đời sống, thúc đẩy phát triển sản xuất, mở rộng phân công lao động.

Để thực hiện nhiệm vụ trên, ngành thương nghiệp xã hội chủ nghĩa cần làm tốt những công tác chủ yếu sau đây:

- Ra sức phục vụ sản xuất và tích cực tác động vào sản xuất, làm cho sản xuất ngày càng đáp ứng được nhu cầu tiêu dùng, cả về số lượng, chất lượng và quy cách hàng hoá.

- Tổ chức tốt việc thu mua, nắm nguồn hàng, nhất là những hàng hoá thiết yếu bằng hợp đồng hai chiều và giá cả hợp lý; phải làm cho việc thu mua trở thành công cụ khuyến khích mở rộng sản xuất, đẩy nhanh quá trình tái sản xuất; chống thái độ cửa quyền, ép cấp, ép giá.

- Tổ chức tốt việc phân phối hàng hoá đến tận tay người tiêu thụ, bảo đảm phân phối công bằng, đúng đối tượng, vừa thể hiện nguyên tắc phân phối theo lao động, vừa chú ý thích đáng nhu cầu cơ bản của mỗi vùng, mỗi tầng lớp nhân dân. Khi sản xuất chưa đáp ứng kịp nhu cầu, thì tạm thời áp dụng phương thức phân phối theo định lượng đối với một số nhu yếu phẩm. Phải hoàn thiện không ngừng công tác kế hoạch hoá việc cung ứng và dự trữ hàng hoá, góp phần bảo đảm cân đối giữa tiền và hàng, giữa cung và cầu. Mạng lưới bán lẻ phải được tổ chức hợp lý, rộng khắp, thuận tiện cho người mua. Phấn đấu trong thời gian ngắn, xoá bỏ tình trạng xếp hàng quá dài trước các quầy hàng; xoá bỏ tình trạng cân, đong, đo, đếm tuỳ tiện, từng bước thực hiện văn minh thương nghiệp. Xây dựng một đội ngũ cán bộ và nhân viên thương nghiệp giỏi nghiệp vụ, có thái độ phục vụ tốt khách hàng, xứng đáng là người hậu cần đảm đang của xã hội, người nội trợ tận tuỵ của nhân dân, kiên quyết đấu tranh chống tham ô, cửa quyền.

- Mở rộng các hoạt động dịch vụ, nhất là ở thành phố, thị trấn và khu công nghiệp; chuyển dần những công việc nội trợ của từng gia đình thành những hoạt động xã hội được tổ chức hợp lý, thuận tiện cho người tiêu dùng. Trước mắt, cần chăm lo tổ chức tốt các nhà ăn tập thể của công nhân, học sinh và cán bộ, nhân viên; tổ chức tốt những nơi ăn, nghỉ trên những trục giao thông chính.

- ở miền Nam, đi đôi với cải tạo xã hội chủ nghĩa đối với thương nghiệp tư doanh, phải phát triển nhanh thương nghiệp quốc doanh và hợp tác xã mua bán, sắp xếp hợp lý mạng lưới bán buôn và bán lẻ, bảo đảm cho thương nghiệp quốc doanh chẳng những nắm trọn khâu bán buôn mà còn chi phối được khâu bán lẻ, quản lý được thị trường và giá cả, tạo điều kiện cơ bản để thống nhất thị trường trong phạm vi cả nước.

- Về hệ thống tổ chức thương nghiệp, ở nông thôn, lấy huyện làm đơn vị kinh tế, thông qua đó, Nhà nước thực hiện hợp đồng hai chiều với nông dân, kế hoạch hoá việc lưu thông hàng hoá và cân đối tiền - hàng trên phạm vi lãnh thổ. Trong phạm vi toàn quốc và ở các thành phố, khu công nghiệp thì các công ty (hoặc tổng công ty) chuyên doanh là hình thức tổ chức thích hợp. Ra sức cải tiến quản lý, phấn đấu tiết kiệm chi phí lưu thông.

Công tác cung ứng vật tư phải nhằm phục vụ đắc lực cho sản xuất, thúc đẩy tiến bộ kỹ thuật. Trước mắt, phải cố gắng tạo đủ vật tư cho kế hoạch 5 năm phát triển và cải tạo kinh tế; phải cải tiến tất cả các khâu công tác từ xây dựng kế hoạch, tạo nguồn hàng đến tổ chức cung ứng và quản lý sử dụng vật tư.

Trước hết, phải nắm chắc các khả năng vật tư và nhu cầu vật tư của cả nước, của từng ngành, từng đơn vị, nắm cụ thể từng chủng loại, từng thời gian cần vật tư. Trên cơ sở đó, ra sức cải tiến phương thức và tổ chức cung ứng, bảo đảm đưa vật tư đến tận đơn vị sản xuất một cách kịp thời, đầy đủ và đồng bộ với tiêu hao và chi phí ít nhất, khắc phục tình trạng ứ đọng hoặc thiếu hụt vật tư một cách vô lý. Coi trọng việc dự trữ vật tư để bảo đảm cho sản xuất được tiến hành liên tục. Có chính sách cụ thể khuyến khích đẩy mạnh sản xuất vật tư trong nước, từng bước tiến tới thoả mãn hầu hết nhu cầu vật tư; tận dụng mọi vật tư hiện có, tăng cường thu nhặt, thu mua các vật tư cũ. Cải tiến và tăng cường công tác quản lý việc sử dụng vật tư nhằm bảo đảm sử dụng vật tư đúng phương hướng, đúng định mức; phấn đấu hạ thấp mức tiêu hao vật tư, hết sức khuyến khích tiết kiệm vật tư, đồng thời có kỷ luật nghiêm khắc đối với những hành động sử dụng vật tư không đúng kế hoạch, tiêu hao vật tư bừa bãi, để vật tư mất mát, hư hỏng.

Chính sách giá cả phải nhằm phục vụ tốt sản xuất và đời sống nhân dân, bảo đảm thực hiện các nhiệm vụ của kế hoạch nhà nước. Đối với sản xuất, giá cả phải được xác định đúng nhằm bù đắp được hao phí lao động, thực hiện được tái sản xuất mở rộng, đẩy mạnh tiến bộ khoa học - kỹ thuật và phân công lao động mới, thúc đẩy tăng năng suất lao động và nâng cao chất lượng sản phẩm, tạo điều kiện thuận lợi cho Nhà nước thu mua, nắm nguồn hàng. Để phục vụ đời sống, giá cả phải gắn liền hữu cơ với tiền lương và các thu nhập bằng tiền khác của nhân dân lao động, bảo đảm thu nhập thực tế tăng lên một cách có kế hoạch cùng với sự phát triển của sản xuất và năng suất lao động. Giá cả phải trở thành công cụ điều tiết cung cầu, tham gia phân phối và phân phối lại thu nhập quốc dân một cách đúng đắn.

Trước mắt, cần nghiên cứu xây dựng một hệ thống giá hợp lý hơn, nhất là giá thu mua nông sản, lâm sản và hải sản, giá hàng tiêu dùng và giá bán tư liệu sản xuất cho khu vực kinh tế tập thể. Nhằm củng cố chế độ hạch toán kinh tế trong các xí nghiệp quốc doanh, cần nhanh chóng xây dựng hệ thống giá bán buôn xí nghiệp và giá bán buôn công nghiệp dựa trên các tiêu chuẩn, định mức đúng đắn, phù hợp với thực tiễn sản xuất.

Trong điều kiện kinh tế hiện nay, đấu tranh để ổn định giá cả là một cuộc đấu tranh phức tạp, lâu dài, một nhiệm vụ hết sức quan trọng góp phần ổn định sản xuất và đời sống. Ngành thương nghiệp phải cùng với các ngành có liên quan vận dụng linh hoạt các biện pháp mua, bán, giá cả, tài chính... nhằm quản lý tốt thị trường, từng bước ổn định giá cả, tiến tới giảm giá trên cơ sở phát triển sản xuất, nâng cao năng suất lao động và hạ giá thành. Việc thống nhất giá cả ở hai miền cần được tiến hành khẩn trương, có tính đến những điều kiện sản xuất đặc thù của mỗi miền, mỗi vùng kinh tế trong nước.

Cần tổ chức hợp lý việc quản lý giá cả, trong đó các ngành sản xuất và các địa phương có vai trò quan trọng.

Trong nền kinh tế xã hội chủ nghĩa, tài chính là tượng trưng cho của cải xã hội, là tiêu biểu cho các nguồn vốn: vốn cố định và vốn lưu động. Do đó, hoạt động tài chính không thể chỉ đóng khung ở thu chi cho ngân sách nhà nước, "tăng thu, giảm chi, thăng bằng ngân sách". Nhiệm vụ cơ bản của tài chính là làm chủ các nguồn vốn để bảo đảm thực hiện đường lối phát triển kinh tế, và trên cơ sở phát triển kinh tế, xây dựng một quan hệ hợp lý giữa quỹ tiêu dùng và quỹ tích luỹ nhằm thoả mãn nhu cầu đời sống của nhân dân, bảo đảm các chi tiêu về giữ gìn an ninh và củng cố quốc phòng, bảo đảm tái sản xuất mở rộng không ngừng. Sự tăng lên của các nguồn tài chính chỉ có thể là kết quả của việc mở rộng sản xuất, tăng năng suất lao động xã hội, sử dụng đầy đủ và triệt để mọi nguồn lao động và tài nguyên của đất nước trên cơ sở kỹ thuật ngày càng cao. Tuy hiện nay thuế còn đóng góp một phần đáng kể vào nguồn thu tài chính, song nguồn thu cơ bản là sự đóng góp bằng lao động của mọi người vào sự nghiệp chung. Tài chính phải làm tốt vai trò giám sát, kiểm tra có hiệu lực mọi hoạt động sản xuất và kinh doanh, nhằm bảo đảm sản xuất được nhiều nhất với chi phí ít nhất, tăng nhanh năng suất lao động, nâng cao hiệu quả của vốn đầu tư, không để một tấc đất hoang, không để một cỗ máy nằm im, không để một người lao động không có việc làm.

Trước mắt, tài chính phải làm tốt mấy công tác lớn sau đây:

- Xây dựng một ngân sách tích cực (ngân sách toàn quốc và ngân sách địa phương) nhằm bảo đảm tốt kế hoạch phát triển kinh tế và mở mang các hoạt động văn hoá, xã hội. ở miền Nam, cần có chính sách thuế đúng đắn, góp phần điều tiết các nguồn thu nhập.

- Tiến hành kiểm kê nắm vững các nguồn tài sản, hiểu rõ năng lực sản xuất, cùng với các ngành, các cấp đề ra kế hoạch cụ thể nhằm khai thác, sử dụng các khả năng đó đến mức cao nhất để phát triển sản xuất và phục vụ đời sống.

- Cùng với việc thống nhất thị trường, giá cả, phải thống nhất chế độ tài chính trong cả nước.

Nhiệm vụ cơ bản của ngân hàng là tham gia xây dựng kế hoạch phát triển kinh tế, cung cấp vốn tín dụng cho các hoạt động sản xuất, kinh doanh và giám sát bằng đồng tiền năng suất, hiệu quả và chất lượng của các hoạt động ấy.

Phát triển tín dụng một cách rộng rãi để bảo đảm vốn sản xuất, kinh doanh, hạn chế việc cấp phát tài chính, nhằm vừa khuyến khích các ngành, các cấp mở rộng sản xuất và kinh doanh, vừa buộc các ngành, các cấp phải tăng cường quản lý kinh tế tài chính, nghiêm chỉnh tuân thủ các định mức về sử dụng lao động, thiết bị, vật tư, tiền vốn, phấn đấu đạt và vượt kế hoạch sản xuất không những về số lượng mà cả về chất lượng. Làm tốt công tác tín dụng sẽ góp phần đẩy mạnh sản xuất, tạo ra sự cân đối tiền - hàng trên cơ sở mới, ngày càng cao hơn.

Cùng với việc đẩy mạnh tín dụng, hệ thống ngân hàng phải thật sự trở thành những trung tâm thanh toán của các hoạt động sản xuất và kinh doanh, phải làm tốt công tác quản lý tiền mặt, điều hoà kịp thời khối lượng tiền tệ lưu thông trong xã hội.

Không ngừng mở rộng sự phân công và hợp tác quốc tế trên các lĩnh vực kinh tế, khoa học, kỹ thuật, đẩy mạnh các hoạt động ngoại thương, đó là những đòi hỏi khách quan của thời đại. Đặc biệt đối với nước ta, từ sản xuất nhỏ tiến thẳng lên sản xuất lớn xã hội chủ nghĩa, việc tăng cường quan hệ phân công hợp tác, tương trợ về kinh tế, kỹ thuật với các nước xã hội chủ nghĩa anh em và phát triển quan hệ kinh tế với các nước khác có tầm quan trọng rất lớn. Công tác xuất khẩu và nhập khẩu, vì vậy, là một bộ phận rất quan trọng trong toàn bộ hoạt động kinh tế của nước ta. Mục đích của xuất khẩu và nhập khẩu là tranh thủ kỹ thuật tiên tiến của thế giới, là làm cho sản xuất và lao động trong nước đạt được hiệu quả kinh tế cao hơn, góp phần tăng tích luỹ và cải thiện đời sống nhân dân. Xuất khẩu cần được đẩy mạnh, để kích thích sản xuất, nâng cao trình độ kỹ thuật, thúc đẩy phân công lao động, tạo điều kiện mở rộng nhập khẩu. Việc nhập khẩu phải bảo đảm yêu cầu của cách mạng khoa học - kỹ thuật, của việc xây dựng cơ sở vật chất - kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội, phải có tác dụng nâng cao năng suất lao động trong nước.

Để đẩy mạnh xuất khẩu, phương hướng chủ yếu ở nước ta hiện nay là ra sức phát huy khả năng tiềm tàng của nông nghiệp, lâm nghiệp nhiệt đới, và tiềm lực lao động dồi dào của nước ta, tận dụng khả năng của công nghiệp nhẹ, đẩy mạnh khai thác một số hải sản và tài nguyên khoáng sản có trữ lượng khá, tiến tới xuất khẩu một số mặt hàng công nghiệp nặng. Cần đầu tư đúng mức để mở rộng sản xuất cho xuất khẩu; có chính sách thoả đáng khuyến khích các ngành, các địa phương, các cơ sở ra sức đẩy mạnh xuất khẩu; cố gắng mở rộng du lịch.

Tham gia trực tiếp vào hoạt động xuất khẩu và nhập khẩu là trách nhiệm chung của các ngành, các cấp, của mọi người sản xuất. Nhưng mọi hoạt động xuất khẩu và nhập khẩu đều do Nhà nước thống nhất quản lý, thông qua cơ quan chuyên trách là Bộ Ngoại thương. Nắm vững đường lối phát triển kinh tế và đường lối đối ngoại của Đảng; hiểu biết khả năng và nhu cầu của từng nước, từng khu vực thị trường, biết cách hoạt động để mở ra những thị trường ổn định và có lợi, nắm vững khả năng và nhu cầu trong nước, ra sức giúp đỡ, hướng dẫn các ngành, các cấp mở rộng xuất khẩu và nhập khẩu; tạo ra những nguồn hàng xuất khẩu chủ lực có chất lượng tốt; tiến hành nhập khẩu đúng yêu cầu, đúng tiêu chuẩn và kịp thời. Đó là những nhiệm vụ chủ yếu của ngành ngoại thương.

7. Lao động, tiền lương

Từ sản xuất nhỏ tiến lên sản xuất lớn xã hội chủ nghĩa, tất yếu phải tiến hành một cuộc cách mạng toàn diện trong lĩnh vực lao động: tổ chức và phân công lại lao động giữa các vùng và các ngành, cơ khí hoá lao động, nâng cao ý thức giác ngộ và bồi dưỡng tay nghề cho người lao động, chăm lo đời sống của họ. Chỉ có trên cơ sở đó mới tạo ra được một năng suất lao động xã hội cao, nhân tố quyết định cuối cùng sự toàn thắng của chế độ xã hội mới.

Trước hết, phải nhằm vào yêu cầu của công nghiệp hoá xã hội chủ nghĩa, của việc xây dựng cơ cấu sản xuất mới mà tổ chức và phân công lại lao động trong phạm vi cả nước, trong từng ngành cũng như trên từng địa phương và cơ sở. Trước mắt, phải tổ chức lại lao động nông nghiệp, để vừa bảo đảm đủ lao động cho phát triển nông nghiệp, vừa chuyển được một khối lượng lớn lao động nông nghiệp sang các ngành khác, và từ những vùng đông dân tới những vùng thưa dân để mở thêm đất canh tác. Cần có kế hoạch mở mang sản xuất để xoá bỏ nạn thất nghiệp ở vùng mới giải phóng, bảo đảm cho mọi người đến tuổi lao động đều có việc làm. Để làm chủ được mọi lực lượng lao động trong xã hội, cần căn cứ vào nhu cầu và khả năng các mặt, chủ động dùng mọi hình thức tổ chức (quy mô lớn, quy mô vừa và nhỏ), mọi phương pháp lao động (cơ khí, nửa cơ khí và thủ công) để sử dụng hết các nguồn lao động phát triển ngành nghề, đẩy mạnh sản xuất, tạo thêm của cải.

Coi trọng công tác tổ chức và quản lý lao động. Thi hành chế độ nghĩa vụ lao động, buộc mọi người có sức lao động đều phải lao động. Kết quả của lao động phải được tính từng giờ, từng phút, kiên quyết đấu tranh chống lãng phí lao động là thứ lãng phí lớn nhất hiện nay. Gắn chặt nghĩa vụ với quyền lợi, quyền lợi với trách nhiệm; kết hợp kỷ luật nghiêm minh của tổ chức với tinh thần tự giác của từng người. Cố gắng làm tốt công tác tiêu chuẩn, định mức; áp dụng những phương pháp tiên tiến về tổ chức và quản lý lao động; đẩy mạnh giáo dục tư tưởng, phát động liên tục các phong trào thi đua xã hội chủ nghĩa đi đôi với vận dụng đúng đắn tiền lương, tiền thưởng, phúc lợi; coi trọng việc cải thiện điều kiện lao động, bảo đảm an toàn lao động, bảo vệ sức khỏe của người lao động. Đối với lao động nữ, cần sắp xếp vào những ngành nghề thích hợp, tạo mọi điều kiện cần thiết như nhà trẻ, nhà ăn công cộng... để chị em tham gia lao động một cách thuận lợi. Nâng cao không ngừng năng lực tổ chức và điều khiển lao động của cán bộ quản lý. Trang bị đủ công cụ lao động, đẩy mạnh cơ khí hoá lao động, trước hết ở những khâu nặng nhọc.

Làm cho mọi người yêu quý lao động, yêu quý nghề nghiệp, chống tâm lý lười biếng, ỷ lại. Xây dựng cho người lao động tác phong đại công nghiệp: có kỷ luật, có tổ chức, khẩn trương, hoạt bát. Mở nhiều trường học nghề chính quy và nhiều lớp dạy nghề ở xí nghiệp để đào tạo công nhân và cán bộ kỹ thuật, nâng cao tay nghề cho số đông công nhân; có chính sách thoả đáng khuyến khích công nhân yêu nghề và phấn khởi đi sâu vào nghề nghiệp. Việc đào tạo công nhân kỹ thuật phải cân đối với việc đào tạo kỹ sư, kỹ thuật viên tuỳ theo đặc điểm sản xuất và công nghệ của từng ngành nghề. Việc bồi dưỡng kiến thức lao động, tác phong lao động mới cho các thế hệ thanh niên nhằm tạo ra lớp người lao động mới, phải được tiến hành từ trong các trường phổ thông.

Thi hành chế độ tiền lương theo nguyên tắc "phân phối theo lao động" đi đôi với mở rộng phúc lợi tập thể. Tiền lương phải bảo đảm tái sản xuất sức lao động, bảo đảm đời sống của người lao động và gia đình họ. Tiền lương phải gắn chặt với năng suất lao động, phải có tác dụng kích thích sản xuất và tiến bộ kỹ thuật phù hợp với đặc điểm của từng ngành nghề. Phải xây dựng một quan hệ hợp lý giữa tiền lương, phúc lợi tập thể và tích luỹ cho tái sản xuất mở rộng. Hiện nay, cần ra sức cải tiến chế độ tiền lương nhằm thể hiện đầy đủ hơn nguyên tắc phân phối theo lao động là: làm nhiều hưởng nhiều, làm ít hưởng ít, có sức lao động mà không làm thì không hưởng; lao động có kỹ thuật, lao động ở những ngành nghề nặng nhọc, độc hại, ở những vùng có nhiều khó khăn cần được đãi ngộ thích đáng. Đi đôi với cải tiến chế độ tiền lương và tăng lương, Nhà nước cần có kế hoạch đẩy mạnh sản xuất hàng tiêu dùng với giá thành ngày càng hạ, để bảo đảm tăng dần tiền lương thực tế.

8. Cải thiện đời sống nhân dân

Cải thiện đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân là nhiệm vụ hàng đầu của Đảng và Nhà nước, là mục đích cao nhất của các kế hoạch phát triển kinh tế. Là người làm chủ, chúng ta hiểu rõ với một nền kinh tế phổ biến là sản xuất nhỏ vừa ra khỏi chiến tranh tàn phá, những khó khăn và thiếu thốn trong đời sống không thể một sớm một chiều mà khắc phục hết được. Chúng ta phải nêu cao tinh thần phấn đấu hy sinh, không sợ khó khăn, gian khổ, thực hiện một chính sách tiêu dùng hợp lý, dành một phần sức người, sức của cho tích luỹ để xây dựng cơ sở vật chất - kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội. Đồng thời, trên cơ sở những khả năng hiện có, chúng ta phải hết sức quan tâm đến đời sống nhân dân, tìm mọi cách giảm dần những khó khăn trong đời sống, chú trọng trước hết đến nhân dân lao động ở thành thị và nông thôn, ở các vùng bị chiến tranh tàn phá, các vùng dân tộc ít người, các vùng kinh tế mới.

Một mặt, phải ra sức phát triển sản xuất, bảo đảm cho xã hội có đủ mọi nhu yếu phẩm; mặt khác, phải coi trọng công tác tổ chức đời sống. Từ đời sống tập thể, nhà ăn công cộng cho đến đời sống của từng gia đình; từ việc cung cấp, phân phối hàng hoá cho đến việc nghỉ ngơi, giải trí, du lịch; từ ăn, mặc, ở, đi lại cho đến học hành, y tế, thể dục thể thao, v.v. tất cả mọi lĩnh vực đều đòi hỏi ở các cấp đảng và chính quyền, các cơ quan thương nghiệp, các tổ chức kinh tế, văn hoá, và các đoàn thể quần chúng, một nhận thức sâu sắc về quyền làm chủ tập thể của nhân dân, một ý thức trách nhiệm cao và năng lực tổ chức đầy đủ.

Trong 5 năm tới, phải bảo đảm cho mỗi người đều có đủ lương thực, rau đậu, nước chấm, có cá và một phần thịt, ngoài ra có đường, trứng, trái cây... Cố gắng bảo đảm mặc lành và đủ ấm; tổ chức tốt việc đi lại; cung cấp cho các gia đình những hàng hoá thông dụng như xoong nồi, bát đĩa, ấm chén, chăn màn, tủ, giường, bàn ghế, dụng cụ học tập, đồ chơi trẻ em, v.v.. Đáp ứng từng bước nhu cầu của nhân dân về quạt điện, đồng hồ, máy thu thanh, máy thu hình, máy khâu. Hết sức chú ý tăng cường các cơ sở phúc lợi tập thể.

Nhà ở là vấn đề lớn nhất trong đời sống của công nhân, nhân dân thành thị và các khu vực bị chiến tranh tàn phá. Nhà nước phải có kế hoạch đầu tư thích đáng về lao động, vật tư, phải có những biện pháp tích cực để tăng sản xuất vật liệu và phát triển nhanh lực lượng xây dựng nhà ở. Bằng nhiều hình thức, động viên khả năng của cán bộ, công nhân và nhân dân tham gia xây dựng nhà ở. ở nông thôn, cần có thiết kế mẫu các khu dân cư và các kiểu nhà ở; cố gắng cung cấp một phần vật liệu xây dựng cho nông dân.

B- Phát triển khoa học, kỹ thuật

Phát triển khoa học (khoa học tự nhiên và khoa học xã hội), xây dựng một nền khoa học tiên tiến, góp phần bảo đảm cho nhân dân làm chủ xã hội, làm chủ thiên nhiên và xây dựng con người mới Việt Nam, đó là một nhiệm vụ cao quý của cách mạng xã hội chủ nghĩa, một bộ phận quan trọng của cách mạng tư tưởng, văn hoá và cách mạng khoa học - kỹ thuật. Đẩy mạnh công tác khoa học, kỹ thuật sẽ giúp chúng ta xoá bỏ nhanh tình trạng nghèo nàn, lạc hậu, rút ngắn thời gian xây dựng chủ nghĩa xã hội.

Mọi hoạt động khoa học, kỹ thuật đều phải nhằm thực hiện đường lối, chính sách của Đảng, phục vụ sản xuất, đời sống và quốc phòng. Để phục vụ tốt, khoa học, kỹ thuật không chỉ nhằm vào những yêu cầu đã đề ra, mà còn phải đón trước những yêu cầu mới sẽ xuất hiện; không chỉ hướng vào những vấn đề do sản xuất đòi hỏi phải giải quyết, mà còn phải mở cho sản xuất những hướng mới; không chỉ chú ý những kiến thức có quan hệ trực tiếp đến sản xuất, mà còn phải chú ý thích đáng đến những kiến thức có quan hệ gián tiếp, nhưng rất cần thiết; phải chú ý đến tính chất liên hợp và tác dụng tổng hợp của khoa học, kỹ thuật và mối quan hệ giữa khoa học tự nhiên và khoa học xã hội. Nêu cao tinh thần cách mạng tiến công, tự lực tự cường, phát huy mọi trí tuệ và tài năng trong nước, mạnh dạn tự làm, khó đến đâu mà nước nhà cần cũng phải làm cho được, chống tư tưởng ỷ lại. Đồng thời, phải ra sức tranh thủ những thành tựu của thế giới, không phí công mò mẫm những gì mà thế giới đã giải quyết tốt. Trong từng thời kỳ, phải biết tập trung lực lượng và phương tiện để giải quyết dứt điểm những vấn đề quan trọng nhất. Đề cao tinh thần hợp tác xã hội chủ nghĩa, kiên quyết chống chủ nghĩa cá nhân, cục bộ, bản vị. Kết hợp tốt nhà trường, viện nghiên cứu với cơ sở sản xuất; kết hợp tốt việc giảng dạy, nghiên cứu khoa học với hoạt động sản xuất. Đào tạo và sử dụng tốt cán bộ khoa học, kỹ thuật; đẩy mạnh phong trào quần chúng tiến quân vào khoa học, kỹ thuật. Xây dựng và củng cố các tổ chức khoa học, kỹ thuật, cải tiến chế độ quản lý và lề lối làm việc nhằm phát huy hết mọi khả năng.

Về khoa học tự nhiên và kỹ thuật, chúng ta phấn đấu để sau khoảng ba, bốn kế hoạch 5 năm, tạo ra được một nền khoa học, kỹ thuật hiện đại với một cơ cấu phù hợp với tình hình nước ta, bao gồm khoa học cơ bản và khoa học ứng dụng, đặc biệt chú ý phát triển khoa học, kỹ thuật nhiệt đới hoá. Trong những năm tới, hoạt động của khoa học, kỹ thuật phải hướng vào các mục tiêu chủ yếu sau đây:

Bảo đảm yêu cầu phát triển nông nghiệp bằng cách tạo ra các giống tốt có năng suất cao, ngắn ngày, chịu sâu bệnh; xây dựng các phương án thuỷ lợi, phòng trừ sâu bệnh, cải tạo đất, khắc phục chua mặn, chống xói mòn, cơ khí hoá trên những địa bàn lớn.

Để phục vụ thuỷ sản, cần điều tra nắm vững quy luật di thực của cá, tôm ở vùng biển nước ta; nắm vững các kỹ thuật đánh, bắt tiên tiến; nghiên cứu kỹ thuật nuôi cá, tôm và những hải sản khác.

Đối với những cơ sở công nghiệp đã có và sẽ xây dựng, phải sớm làm chủ được kỹ thuật sản xuất. Phải tinh thông những công nghệ cơ bản trong cơ khí chế tạo; nhanh chóng nắm vững kỹ thuật luyện kim phù hợp với điều kiện nguyên liệu nước ta; phấn đấu tự xây dựng được thủy điện; sớm nắm vững kỹ thuật thăm dò dầu khí và kỹ thuật lọc dầu, hoá dầu; giải quyết tốt các vấn đề kỹ thuật về chế biến và bảo quản nông sản, thuỷ sản. Vươn lên làm chủ cho được các vấn đề khoa học, kỹ thuật trong xây dựng cơ bản và giao thông vận tải, trong thông tin, bưu điện, phát thanh và vô tuyến truyền hình.

Đưa công tác quản lý kỹ thuật vào nền nếp; trang bị đủ dụng cụ đo lường và kiểm tra; làm tốt công tác tiêu chuẩn hoá, công tác đo lường, kiểm tra kỹ thuật, kiểm tra chất lượng sản phẩm.

Phát triển thích đáng các ngành khoa học cơ bản: toán học, sinh vật học, hoá học, vật lý học; nghiên cứu áp dụng toán kinh tế, khoa học tổ chức, điều khiển học, v.v. vào trong công tác lãnh đạo và quản lý kinh tế.

Để đạt được những mục tiêu trên đây, cần xác định các đề tài trọng điểm của cả nước, của từng ngành và từng địa phương. Tích cực xây dựng hệ thống các cơ quan nghiên cứu, thí nghiệm và thiết kế, bao gồm cả trường đại học, trang bị đủ dụng cụ và máy móc cần thiết. Đưa chỉ tiêu tiến bộ kỹ thuật vào các kế hoạch phát triển kinh tế; đẩy mạnh công tác thông tin và phổ biến khoa học, kỹ thuật; ra sức mở rộng hợp tác khoa học, kỹ thuật với các nước xã hội chủ nghĩa anh em và các nước khác.

Nhiệm vụ hàng đầu của các ngành khoa học xã hội, trước hết là triết học, chính trị kinh tế học, chủ nghĩa xã hội khoa học là tiếp tục làm sáng tỏ những vấn đề lớn trong đường lối, chính sách của cách mạng Việt Nam dưới ánh sáng của chủ nghĩa Mác - Lênin và trên cơ sở tổng kết những kinh nghiệm cách mạng đã tích luỹ được. Trước mắt, tập trung vào những vấn đề chủ yếu sau đây: các quy luật của chủ nghĩa xã hội; con đường đi từ sản xuất nhỏ lên sản xuất lớn xã hội chủ nghĩa; chuyên chính vô sản và quyền làm chủ tập thể của nhân dân lao động; ba cuộc cách mạng và vấn đề xây dựng chế độ mới, nền kinh tế mới, nền văn hoá mới và con người mới; công nghiệp hoá xã hội chủ nghĩa, nhiệm vụ trung tâm của thời kỳ quá độ ở nước ta; tổ chức và quản lý kinh tế; xây dựng Đảng trong điều kiện Đảng lãnh đạo chính quyền, v.v.. Đẩy mạnh công tác tuyên truyền, giáo dục chủ nghĩa Mác - Lênin, làm cho chủ nghĩa Mác - Lênin chiếm địa vị thống trị trong đời sống tinh thần của xã hội; đấu tranh chống mọi tư tưởng sai lầm và thù địch, những tàn dư tư tưởng và văn hoá lạc hậu.

Mở rộng và nâng cao chất lượng nghiên cứu trên các lĩnh vực sử học, khảo cổ học, dân tộc học, ngôn ngữ học, văn học, nghệ thuật, v.v..

C- Cải tạo quan hệ sản xuất cũ, củng cố và hoàn thiện quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa

 miền Bắc, vấn đề củng cố và hoàn thiện quan hệ sản xuất mới phải được đặt ra với những nội dung chủ yếu sau đây:

- Đẩy mạnh công nghiệp hoá xã hội chủ nghĩa để tăng cường "cơ sở vật chất" cho quan hệ sản xuất mới; củng cố và mở rộng nhanh chóng thành phần quốc doanh, tăng cường hơn nữa vai trò chủ đạo của nó trong toàn bộ nền kinh tế quốc dân. Xây dựng và cải tiến chế độ quản lý và phân phối mới nhằm thể hiện đầy đủ hơn chế độ làm chủ tập thể xã hội chủ nghĩa, thúc đẩy sản xuất phát triển không ngừng.

- Đẩy mạnh cuộc vận động tổ chức lại sản xuất nông nghiệp theo hướng sản xuất lớn xã hội chủ nghĩa, kết hợp củng cố hợp tác xã vớixây dựng huyện thành đơn vị kinh tế nông - công nghiệp, ở miền núi là nông - lâm - công nghiệp. Xây dựng huyện và kiện toàn cấp huyện là vấn đề then chốt hiện nay, cần được đặc biệt chú ý làm tốt. Ra sức củng cố và phát triển nông trường quốc doanh. Đối với hợp tác xã, cùng với việc mở rộng quy mô hợp lý, phải dựa theo Điều lệ đã ban hành và qua thực tế của phong trào hợp tác hoá mà nghiên cứu để hoàn thiện hơn nữa chế độ quản lý. Ruộng đất và tài sản tập thể phải được bảo vệ, chống những hành động lạm dụng, lấn chiếm; lao động phải được quản lý theo định mức và được tổ chức theo hướng chuyên môn hoá từng bước; sản xuất phải được tiến hành theo quy tắc và quy trình kỹ thuật đã được xác định; quyền làm chủ tập thể của xã viên phải được bảo đảm, chống những hành động chuyên quyền, độc đoán, đồng thời chống tính tản nạn, tự do chủ nghĩa của sản xuất nhỏ; nguyên tắc phân phối xã hội chủ nghĩa phải được tuân thủ, chống tệ tham ô, tư lợi, chống thói lười biếng.

Phải lựa chọn và cất nhắc những người lao động ưu tú vào các cương vị quản lý, chú trọng đào tạo, bồi dưỡng họ về kinh tế, khoa học, kỹ thuật và về công tác quản lý; đưa hàng loạt kỹ sư, kỹ thuật viên và cán bộ có năng lực về tăng cường cho bộ máy quản lý của huyện và hợp tác xã.

- Gắn liền với phát triển sản xuất mà củng cố và tăng cường các hợp tác xã thủ công nghiệp và tiểu công nghiệp. Trên cơ sở xác định vị trí của từng ngành nghề mà sắp xếp, ổn định các hợp tác xã về các mặt: phương hướng sản xuất và tiêu thụ, nguồn nguyên liệu, phương hướng tiến bộ kỹ thuật. Tăng cường quản lý, sửa đổi những thể lệ không hợp lý, làm cho sản xuất thủ công nghiệp và tiểu công nghiệp phát triển thuận lợi theo phương hướng của kế hoạch nhà nước, thực hiện đúng các hợp đồng ký kết, tuân thủ các chính sách của Nhà nước về quản lý kinh doanh, chống những tàn dư của lề lối thói cũ: làm hàng gian dối, bớt xén nguyên liệu.

- Đối với bộ phận kinh tế cá thể còn tồn tại trong một số ngành nghề, cần hướng dẫn phát triển đúng hướng, không để nó lấn chiếm trận địa của kinh tế tập thể và kinh tế quốc doanh, phá rối giá cả và thị trường xã hội chủ nghĩa.

 miền Nam, nhiệm vụ cải tạo quan hệ sản xuất mới bắt đầu, còn là một nhiệm vụ rất nặng nề và phức tạp. Xoá bỏ triệt để quyền chiếm hữu phong kiến về ruộng đất và những tàn tích bóc lột phong kiến, quốc hữu hóa những cơ sở công thương nghiệp của tư sản mại bản, của bọn phản quốc và bọn tư sản chạy ra nước ngoài; tiến hành cải tạo xã hội chủ nghĩa đối với tư bản tư doanh, đối với nông nghiệp, thủ công nghiệp, tiểu công nghiệp và thương nghiệp nhỏ. Chính sách cải tạo xã hội chủ nghĩa đối với những thành phần này là: sử dụng, hạn chế và cải tạo công nghiệp tư bản tư doanh chủ yếu bằng hình thức công tư hợp doanh; hợp tác hoá nông nghiệp đi đôi với xây dựng huyện, đưa nông nghiệp lên sản xuất lớn xã hội chủ nghĩa; cải tạo thủ công nghiệp và tiểu công nghiệp bằng con đường hợp tác hoá là chủ yếu và bằng các hình thức khác; cải tạo thương nghiệp nhỏ chủ yếu bằng cách chuyển dần tiểu thương sang sản xuất. Kết hợp cách mạng về quan hệ sản xuất với cách mạng khoa học - kỹ thuật và cách mạng tư tưởng, văn hoá, gắn chặt với quá trình tổ chức lại sản xuất và lưu thông trong cả nước, đưa miền Nam tiến lên sản xuất lớn xã hội chủ nghĩa, làm cho kinh tế hai miền sớm đồng nhất với nhau. Trong một thời gian nhất định, trong một số lĩnh vực sản xuất nhất định, kinh tế miền Nam còn có nhiều thành phần. Trên cơ sở phát triển thành phần kinh tế xã hội chủ nghĩa là nòng cốt của nền kinh tế quốc dân, cần tận dụng mọi khả năng khác để phát triển sản xuất, bảo đảm tốt hơn nhu cầu của nhân dân, phục vụ tốt cho chủ nghĩa xã hội, hạn chế và loại trừ những biểu hiện tiêu cực của thành phần tư bản chủ nghĩa và tính tự phát của sản xuất nhỏ, cá thể.

Kinh tế quốc doanh ở miền Nam bao gồm những xí nghiệp quan trọng nhất trong công nghiệp, nông nghiệp, thương nghiệp, vận tải, xây dựng cơ bản, ngân hàng, ngoại thương. Khu vực kinh tế quốc doanh này là một bộ phận hữu cơ của hệ thống kinh tế quốc doanh xã hội chủ nghĩa thống nhất cả nước. Phải bằng mọi cách làm cho kinh tế quốc doanh trung ương và địa phương ở miền Nam lớn mạnh mau chóng, chiếm ưu thế trong sản xuất và lưu thông, phân phối.

Đối với các xí nghiệp tư bản tư doanh, tiến hành sớm cải tạo xã hội chủ nghĩa bằng con đường công tư hợp doanh hoặc bằng cách hướng dẫn, quản lý sản xuất theo phương hướng của kế hoạch nhà nước. Đi đôi với cải tạo quan hệ sản xuất, cần sắp xếp lại lực lượng sản xuất cho hợp lý trong phạm vi toàn ngành; tăng cường quản lý, bổ sung máy móc thiết bị để mở rộng sản xuất. Xoá bỏ ngay thương nghiệp tư bản chủ nghĩa trên cơ sở phát triển mậu dịch quốc doanh, hợp tác xã mua bán và hợp tác xã tiêu thụ.

Những xí nghiệp tư nhân còn được phép tiến hành sản xuất dưới sự quản lý của Nhà nước xã hội chủ nghĩa và kinh tế quốc doanh, bị cắt đứt quan hệ với kinh tế cá thể, thì về thực chất, không hoàn toàn là sản xuất tư bản chủ nghĩa nữa. Nó biến thành một hình thức của chủ nghĩa tư bản nhà nước, hoạt động trong khuôn khổ của nền kinh tế có kế hoạch và phục vụ lợi ích của chủ nghĩa xã hội.

Đối với nông nghiệp miền Nam, con đường tốt nhất để tiến nhanh lên sản xuất lớn xã hội chủ nghĩa là kết hợp chặt chẽ cải tạo với xây dựng, tiến hành hợp tác hoá đi đôi với thuỷ lợi hoá và cơ khí hoá; coi trọng cả xây dựng hợp tác xã với xây dựng nông trường quốc doanh; gắn liền xây dựng hợp tác xã với xây dựng huyện thành đơn vị kinh tế nông - công nghiệp. Trước mắt, phải quy hoạch, phân vùng sản xuất, củng cố nông hội, phát triển tổ đổi công, tổ đoàn kết sản xuất, xây dựng hợp tác xã thí điểm; kiện toàn ngay cấp huyện đủ sức lãnh đạo ba cuộc cách mạng ở nông thôn, thắt chặt quan hệ giữa Nhà nước với nông dân, cắt đứt quan hệ giữa nông dân với bọn đầu cơ; chuẩn bị những điều kiện cần thiết để tiến hành hợp tác hoá trên phạm vi lớn một cách vững chắc và nhanh gọn.

Trong ngư nghiệp, cùng với việc tích cực phát triển thành phần quốc doanh, cần xác lập mối liên hệ trực tiếp giữa Nhà nước với ngư dân. Nhà nước giúp đỡ ngư dân thoát khỏi mọi sự bóc lột bằng cách cung cấp cho họ tín dụng, tư liệu sản xuất và tư liệu sinh hoạt, bảo đảm tiêu thụ sản phẩm của họ, dần dần đưa họ vào con đường sản xuất lớn xã hội chủ nghĩa phù hợp với đặc điểm của ngành ngư nghiệp.

Đối với thủ công nghiệp, tiểu công nghiệp và những ngành dịch vụ cần thiết cho xã hội, phải sắp xếp lại theo ngành dưới sự quản lý của Nhà nước. Tuỳ theo đặc điểm của từng ngành nghề mà áp dụng những hình thức tổ chức và cải tạo thích hợp: xây dựng thành các hợp tác xã thủ công nghiệp và tiểu công nghiệp để cải tiến kỹ thuật, mở rộng sản xuất; cải tạo thành các cơ sở gia công, chế biến hoặc sản xuất theo đơn đặt hàng cho xí nghiệp quốc doanh. Đối với một số trường hợp nhất định thì duy trì hình thức kinh doanh cá thể. Việc cải tạo xã hội chủ nghĩa đối với thủ công nghiệp và tiểu công nghiệp phải đưa đến kết quả phát triển sản xuất, giữ gìn và nâng cao kỹ thuật sản xuất, làm phong phú mặt hàng và bảo đảm chất lượng sản phẩm.

Chuyển phần lớn tiểu thương sang sản xuất, tạo thêm của cải vật chất cho xã hội. Đối với số còn được phép kinh doanh, Nhà nước phải tăng cường quản lý bằng những chính sách và biện pháp thích hợp.

IV - Đẩy mạnh cách mạng tư tưởng và văn hoá, xây dựng và phát triển nền văn hoá mới

Thưa các đồng chí,

Trong thời gian qua, công tác tư tưởng và văn hoá đã đạt được những thành tựu to lớn, góp phần xứng đáng vào sự nghiệp cách mạng cả nước. Thắng lợi vĩ đại của dân tộc ta trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước không chỉ là thắng lợi của đường lối chính trị, đường lối quân sự đúng đắn, mà còn là thắng lợi của chính sách văn hoá của Đảng. Đó là thắng lợi của chủ nghĩa Mác - Lênin, của tư tưởng xã hội chủ nghĩa ngày càng thấm sâu vào đông đảo quần chúng; thắng lợi của ý chí độc lập, tự do, của chủ nghĩa yêu nước truyền thống được phát huy mạnh mẽ hơn bất cứ thời đại nào trong lịch sử dân tộc; thắng lợi của nhân phẩm Việt Nam, của những giá trị tinh thần cao quý của con người Việt Nam.

Trên miền Bắc, tư tưởng làm chủ tập thể đã bắt đầu thể hiện trong đời sống xã hội, con người mới đang từng bước hình thành. Những thành tựu về phát triển giáo dục quốc dân rất to lớn. Các mặt hoạt động văn hoá, thông tin, văn học, nghệ thuật, y tế, thể dục thể thao và bảo vệ bà mẹ, trẻ em đều đạt được những thành tích đáng tự hào. Bộ mặt văn hoá và tinh thần của nhân dân ta đã có những biến đổi to lớn và sâu sắc. Tuy nhiên, cũng còn nhiều vấn đề quan trọng cần được giải quyết, nhiều nhược điểm và khuyết điểm cần phải khắc phục.

 miền Nam, chủ nghĩa thực dân cũ và mới, cùng với ba mươi năm chiến tranh, đã để lại những hậu quả nặng nề trên lĩnh vực văn hoá và tư tưởng. Bằng nhiều thủ đoạn thâm độc, bọn Mỹ - nguỵ cố tạo ra một thứ "văn hoá" nô dịch, đồi trụy, lai căng, cực kỳ phản động, xô đẩy một số khá đông thanh niên trong các thành thị chạy theo lối sống gấp, vị kỷ, sa đoạ và ăn bám, hòng huỷ hoại những giá trị văn hoá dân tộc và nếp sống lành mạnh của nhân dân ta. Đồng bào miền Nam đã kiên trì chống lại thứ "văn hoá" thực dân mới đó, giữ vững và phát huy mạnh mẽ truyền thống yêu nước, thương nòi, kiên cường, bất khuất của dân tộc, bảo vệ và phát triển những yếu tố dân tộc và dân chủ trong văn hoá, ngay cả ở những vùng bị địch chiếm đóng lâu năm. Từ sau ngày giải phóng, dưới sự lãnh đạo của Đảng, nhân dân ta đã hăng hái vùng lên, làm nhiều việc nhằm xoá bỏ những hậu quả của "văn hoá" thực dân mới. Song, đấu tranh để triệt để xoá sạch những tàn tích và di hại của nó vẫn còn là một nhiệm vụ nặng nề.

Giai đoạn mới của cách mạng đòi hỏi phải đẩy mạnh hơn nữa cách mạng tư tưởng và văn hoá. Nhiệm vụ trung tâm của cuộc cách mạng này là xây dựng con người mới, xây dựng nền văn hoá mới; là tuyên truyền, giáo dục chủ nghĩa Mác - Lênin và đường lối, chính sách của Đảng, làm cho chủ nghĩa Mác - Lênin chiếm ưu thế tuyệt đối trong đời sống chính trị và tinh thần của toàn dân, làm cho đường lối, chính sách của Đảng thấu suốt trong cán bộ, đảng viên và quần chúng; là tiến hành đấu tranh chống tư tưởng và văn hoá phản động của chủ nghĩa đế quốc, chủ nghĩa thực dân, và nói chung của giai cấp bóc lột. Trước mắt, cần phổ biến sâu rộng các Nghị quyết của Đại hội lần thứ IV của Đảng, làm dấy lên phong trào cách mạng mạnh mẽ thi đua thực hiện thắng lợi kế hoạch 5 năm 1976-1980; tiến hành cải cách giáo dục trong cả nước; đẩy mạnh sự nghiệp phát triển khoa học, văn học, nghệ thuật lên một bước mới; giáo dục tư tưởng xã hội chủ nghĩa và ý thức làm chủ tập thể, chống tư tưởng tư sản và tàn dư của tư tưởng phong kiến, phê phán tư tưởng tiểu tư sản, quét sạch ảnh hưởng của tư tưởng và "văn hoá" của chủ nghĩa thực dân mới ở miền Nam.

Trong toàn bộ công tác văn hoá, phải luôn luôn bảo đảm sự lãnh đạo của Đảng; làm cho đường lối của Đảng được thực hiện thông qua phương thức lãnh đạo thích hợp với đặc điểm của các ngành văn hoá, để có thể phát huy cao độ những khả năng sáng tạo trong hoạt động văn hoá. Sự nghiệp văn hoá phải phục vụ lợi ích của nhân dân lao động, phục vụ Tổ quốc, phục vụ công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội; kế thừa có chọn lọc, có phê phán và có sáng tạo những giá trị tinh thần và văn hoá của dân tộc cũng như của văn minh loài người; kết hợp xây dựng với cải tạo, áp dụng rộng rãi phương pháp phê bình và tự phê bình.

Dưới đây, xin nêu một số nhiệm vụ cụ thể của các ngành trên lĩnh vực văn hoá.

Trong mười sáu năm qua, trên miền Bắc, mặc dù kinh tế còn thấp kém và cả nước có chiến tranh, nền giáo dục xã hội chủ nghĩa đã hình thành và đang trên đà phát triển mạnh mẽ. Những thành tựu to lớn trên lĩnh vực giáo dục đã góp phần quan trọng vào sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội và đánh thắng giặc Mỹ xâm lược. Nền giáo dục ấy đã tạo ra thế hệ thanh niên giàu lòng yêu nước và yêu chủ nghĩa xã hội, dũng cảm và thông minh trong lao động và chiến đấu. Nó cũng đã tạo ra một đội ngũ lao động trí óc đông đảo. Nhờ có văn hoá, nhân dân lao động đã bước đầu phát huy được năng lực làm chủ tập thể trong sản xuất và trong quản lý kinh tế, quản lý xã hội. Nhờ có văn hoá, các lực lượng vũ trang nhân dân đã nhanh chóng nắm được khoa học và kỹ thuật quân sự, tiến mạnh trên con đường chính quy hoá và hiện đại hoá. Trong phong trào thi đua "dạy tốt, học tốt" do Hồ Chủ tịch đề xướng từ năm 1961, đã xuất hiện nhiều điển hình tiên tiến, sáng tạo nhiều kinh nghiệm giáo dục quý báu.

ở vùng mới giải phóng, chỉ trong hơn một năm, chính quyền nhân dân đã căn bản xoá bỏ nền giáo dục phản động của Mỹ - nguỵ, thiết lập chế độ giáo dục mới bước đầu có tính chất xã hội chủ nghĩa, từ phổ thông đến đại học. Phong trào xoá nạn mù chữ và bổ túc văn hoá phát triển rộng rãi. Đông đảo con em nhân dân lao động, lâu nay bị giam hãm trong vòng dốt nát, đã được cắp sách đến trường. Công tác giáo dục lại và bồi dưỡng giáo viên cũ về chính trị và nghiệp vụ đã đạt kết quả bước đầu; công tác đào tạo giáo viên mới đang được đẩy mạnh.

Ngày nay, để phục vụ đắc lực việc xây dựng chế độ làm chủ tập thể xã hội chủ nghĩa, nền sản xuất lớn xã hội chủ nghĩa, nền văn hoá mới và con người mới xã hội chủ nghĩa, hơn bao giờ hết, chúng ta phải đẩy mạnh sự nghiệp giáo dục. Nhiệm vụ đặc biệt quan trọng là tiến hành một cuộc cải cách giáo dục rộng lớn trong cả nước, làm cho giáo dục quốc dân gắn chặt hơn nữa với sự nghiệp cách mạng xã hội chủ nghĩa.

Mục tiêu của cải cách giáo dục là đào tạo có chất lượng những người lao động mới có ý thức và đạo đức xã hội chủ nghĩa, có trình độ văn hoá phổ thông và hiểu biết kỹ thuật, có kỹ năng lao động cần thiết, có óc thẩm mỹ, có sức khoẻ tốt; trên cơ sở đó, đào tạo và bồi dưỡng với quy mô ngày càng lớn đội ngũ công nhân kỹ thuật và cán bộ quản lý, cán bộ khoa học, kỹ thuật và nghiệp vụ, cân đối và đồng bộ về ngành nghề và về trình độ, đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế và văn hoá của nước nhà.

Cải cách giáo dục phải làm cho giáo dục thấu suốt hơn nữa nguyên lý học đi đôi với hành, giáo dục kết hợp với lao động sản xuất, nhà trường gắn với xã hội. Cần nâng cao chất lượng toàn diện của nội dung giáo dục: hiện đại hoá chương trình học tập khoa học và kỹ thuật, mở rộng kiến thức quản lý kinh tế; tăng cường giáo dục chủ nghĩa Mác - Lênin, đường lối, chính sách của Đảng và đạo đức cách mạng, bồi dưỡng kỹ năng lao động sản xuất và năng lực nghiên cứu khoa học, kỹ thuật; coi trọng đúng mức giáo dục thẩm mỹ, thể dục thể thao và luyện tập quân sự. Để triển khai và bảo đảm cuộc cải cách giáo dục này, cần làm tốt các mặt: cải cách hệ thống sư phạm, đẩy mạnh việc đào tạo, bồi dưỡng cũng như sử dụng hợp lý đội ngũ giáo viên và cán bộ quản lý giáo dục, biên soạn tài liệu giáo khoa, xây dựng trường sở, sản xuất thiết bị giảng dạy và nghiên cứu khoa học, cải tiến tổ chức quản lý từ cấp bộ đến trường học, v.v..

Cải cách giáo dục phải hoàn chỉnh hệ thống giáo dục quốc dân thống nhất bao gồm các loại trường và hình thức học gắn bó với nhau một cách hợp lý, tạo cho mọi người những con đường học tập thích hợp.

Giáo dục phổ thông là nền tảng văn hoá của một nước, là sức mạnh tương lai của một dân tộc; nó đặt những cơ sở ban đầu rất quan trọng cho sự phát triển toàn diện con người Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Cần sớm xoá nạn mù chữ ở vùng mới giải phóng, ở miền núi và các miền dân tộc ít người. Bảo đảm cho tất cả thanh niên, thiếu niên được học đầy đủ bậc phổ thông cơ sở, từng bước đạt bậc phổ thông trung học, được hưởng những điều kiện bình đẳng trong học tập và phát huy năng khiếu. Mở các loại trường vừa học vừa làm; tăng cường công tác bổ túc văn hoá cho những người lao động, có chương trình và chế độ học tập thích hợp với từng đối tượng, kết hợp học văn hoá phổ thông với học kiến thức kỹ thuật và quản lý. Đặc biệt coi trọng việc bổ túc văn hoá cho những cán bộ và thanh niên ở miền Nam đã trải qua đấu tranh cách mạng, cán bộ và thanh niên các vùng cao, vùng dân tộc, coi đó là một biện pháp rất quan trọng để xây dựng đội ngũ cốt cán cách mạng.

Phát triển có kế hoạch mạng lưới mẫu giáo, từng bước thu hút tất cả trẻ em trong lứa tuổi; phấn đấu nâng cao chất lượng mẫu giáo, chuẩn bị tốt cho các cháu vào trường phổ thông.

Hệ thống giáo dục đại học và trung học chuyên nghiệp có nhiệm vụ đào tạo và bồi dưỡng đội ngũ trí thức xã hội chủ nghĩa, đội ngũ cán bộ khoa học, kỹ thuật, nghiệp vụ và quản lý phù hợp với quy hoạch phát triển kinh tế và văn hoá của đất nước, vừa có phẩm chất chính trị tốt, vừa có trình độ chuyên môn giỏi, đủ sức giải quyết những vấn đề khoa học, kỹ thuật và quản lý kinh tế, quản lý nhà nước do thực tiễn nước ta đề ra.

Cần sắp xếp lại, từng bước mở rộng và hoàn chỉnh mạng lưới các trường đại học, cao đẳng và trung học chuyên nghiệp trong cả nước. Tích cực xây dựng hệ thống đào tạo và bồi dưỡng tại chức với nhiều hình thức học tập, bảo đảm cho mọi người lao động đều có thể suốt đời học tập, trau dồi nghề nghiệp, mở rộng kiến thức. Kết hợp tốt giảng dạy, học tập với lao động sản xuất và nghiên cứu, thực nghiệm khoa học, kỹ thuật.

Các trường dạy nghề có nhiệm vụ đào tạo và bồi dưỡng một đội ngũ công nhân kỹ thuật và lao động đông đảo, đồng bộ về ngành nghề, có phẩm chất chính trị tốt, có trình độ tay nghề giỏi, có sức khoẻ. Các trường dạy nghề cần được phát triển theo quy mô lớn, ở trung ương và ở các địa phương. Sớm xây dựng quy hoạch dài hạn về đào tạo công nhân, tích cực nâng cao chất lượng đào tạo, mở rộng việc đào tạo và bồi dưỡng giáo viên dạy nghề. Đẩy mạnh xây dựng cơ sở vật chất - kỹ thuật cần thiết cho các trường dạy nghề, tranh thủ sử dụng hợp lý những thiết bị sẵn có của các cơ sở sản xuất vào công tác đào tạo.

Để thực hiện tốt những nhiệm vụ trên đây, các ngành giáo dục phổ thông, giáo dục đại học và giáo dục chuyên nghiệp cần tiếp tục đẩy mạnh phong trào thi đua "dạy tốt, học tốt" theo gương các điển hình tiên tiến. Mỗi ngành phải ra sức xây dựng và phát triển những điển hình tiên tiến của ngành mình, phát động và tổ chức giáo viên, học sinh và nhân viên phục vụ tự giác làm chủ tập thể sự nghiệp giáo dục ở từng đơn vị, và tạo điều kiện cho các đoàn thể quần chúng trong đơn vị thật sự tham gia quản lý nhà trường.

Hoạt động của các ngành báo chí, thông tấn, xuất bản, thông tin, vô tuyến truyền thanh, vô tuyến truyền hình, điện ảnh, nhiếp ảnh,v.v. giữ vai trò hết sức to lớn trên mặt trận văn hoá và tư tưởng.

Theo sát đường lối, chính sách của Đảng và gắn chặt với thực tiễn đấu tranh cách mạng, các ngành trên đây phải kịp thời làm sáng tỏ quan điểm của Đảng ta về những sự kiện quan trọng trong đời sống chính trị, kinh tế, văn hoá của nước ta và trên thế giới; góp phần nâng cao ý thức xã hội chủ nghĩa và nhiệt tình lao động sáng tạo của quần chúng nhân dân, hướng dẫn kịp thời và đúng đắn dư luận xã hội. Các phương tiện thông tin đại chúng phải là những công cụ nhạy bén cung cấp kịp thời cho nhân dân những món ăn tinh thần về nhiều mặt, góp phần làm phong phú đời sống văn hoá của nhân dân ta.

Cần mở rộng và nâng cao hơn nữa nội dung và phương pháp thể hiện của các báo, đài, phim ảnh và các xuất bản phẩm. Cần làm cho các cơ quan ngôn luận phản ánh đúng đắn và sinh động hiện thực trên các lĩnh vực của đời sống. Tăng cường cán bộ có trình độ chính trị vững vàng và năng lực nghiệp vụ giỏi cho các cơ quan báo, thông tấn, đài, thông tin, xuất bản. Trang bị phương tiện và cung cấp vật tư cần thiết cho các ngành đó, cung cấp ngày càng nhiều cho nhân dân các loại máy thu thanh, thu hình, v.v..

Mấy chục năm qua, về cơ bản chúng ta đã xây dựng được một nền văn học, nghệ thuật xã hội chủ nghĩa bao gồm các ngành: văn học, sân khấu, điện ảnh, mỹ thuật, âm nhạc, múa, xiếc, kiến trúc, v.v. mang bản sắc dân tộc khá phong phú, tác động khá sâu sắc vào đời sống tinh thần và tình cảm của nhân dân. Với những thành tựu đã đạt được chủ yếu trong việc phản ánh hai cuộc kháng chiến vĩ đại của dân tộc, văn học, nghệ thuật nước ta xứng đáng đứng vào hàng ngũ tiên phong của những nền văn học, nghệ thuật chống đế quốc trong thời đại ngày nay.

Cách mạng cả nước đang đặt ra những vấn đề mới, cuộc sống đang có những đòi hỏi mới đối với văn học, nghệ thuật. Nền văn học, nghệ thuật xã hội chủ nghĩa của ta cần ra sức phấn đấu nhằm sáng tạo những hình tượng nghệ thuật cao đẹp và phong phú về xã hội mới và con người mới, về giai cấp công nhân và giai cấp nông dân tập thể, về tầng lớp trí thức xã hội chủ nghĩa, về cán bộ và chiến sĩ của các lực lượng vũ trang nhân dân, phản ánh chủ nghĩa anh hùng cách mạng và những phẩm chất cao quý của nhân dân ta. Phải khẳng định mạnh mẽ chế độ mới, lối sống mới và đạo đức mới, phát huy những truyền thống dân tộc tốt đẹp và những truyền thống cách mạng của nhân dân ta. Phấn đấu để có được những công trình và tác phẩm nghệ thuật có tầm vóc lớn, có trình độ khái quát cao về chiến công và kỳ tích của những con người Việt Nam đánh thắng bọn đế quốc Pháp, Mỹ, làm nổi bật sức mạnh phi thường của chủ nghĩa yêu nước và chủ nghĩa xã hội, nhằm cổ vũ, thúc đẩy công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, mãi mãi nêu gương cho những thế hệ mai sau. Cần đặc biệt chú trọng miêu tả những tập thể và cá nhân lao động ưu tú trên con đường tiến lên sản xuất lớn xã hội chủ nghĩa, những chiến sĩ thi đua đang chiến thắng nghèo nàn và lạc hậu. Cần dành vị trí xứng đáng cho những bà mẹ, những chị em phụ nữ trung hậu, đảm đang và vô cùng dũng cảm, những đồng bào dân tộc ít người chung sức, chung lòng cùng cả nước đánh giặc và xây dựng cuộc sống mới. Hết sức coi trọng thiếu nhi, tương lai của dân tộc, và thanh niên, lực lượng xung kích hiện nay trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ đất nước.

Độc lập, tự do và chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa cộng sản là lý tưởng cao đẹp, là nguyện vọng tha thiết nhất của nhân dân ta. Cả nước tiến lên chủ nghĩa xã hội trong khí thế hào hùng là hiện thực vĩ đại trước mắt chúng ta. Phản ánh trong văn học, nghệ thuật cuộc đấu tranh vì thắng lợi hoàn toàn của chủ nghĩa xã hội, đó là nhiệm vụ vẻ vang của nền văn nghệ xã hội chủ nghĩa, là trách nhiệm cao quý của văn nghệ sĩ xã hội chủ nghĩa nước ta. Văn nghệ của ta không chỉ ca ngợi những con người mới, những việc làm tốt đẹp trong xã hội, mà còn phê phán nghiêm khắc và có hệ thống những hiện tượng tiêu cực trong đời sống, những tàn dư của xã hội cũ, những di hại của "văn hoá" thực dân cũ và mới. Cần đứng trên lập trường cách mạng và dùng phương pháp hiện thực xã hội chủ nghĩa để vạch đúng nguồn gốc của cái xấu, đề ra cách giải quyết, cuối cùng đạt mục đích khẳng định cái tốt, bồi đắp thêm lòng tin tuyệt đối vào chủ nghĩa xã hội.

Phát triển mạnh mẽ phong trào văn hoá, văn nghệ quần chúng làm cơ sở cho nền văn hoá, văn nghệ mới. Những người làm văn hoá, văn nghệ chuyên nghiệp có trách nhiệm lớn đối với phong trào này, cần góp phần tích cực nâng cao năng lực sáng tạo và trình độ thưởng thức nghệ thuật của nhân dân lao động, nâng cao chất lượng và các hình thức hoạt động văn hoá, văn nghệ của quần chúng. Các cấp uỷ Đảng, các cơ quan chính quyền cũng như các đoàn thể công nhân, thanh niên, phụ nữ phải chăm sóc những hoạt động văn hoá, văn nghệ của quần chúng, coi đó là một công tác quan trọng của mình. Nhà nước cần có những chính sách và biện pháp tạo điều kiện thuận lợi cho mọi người tham gia hoạt động văn hoá, văn nghệ, và bảo đảm cho nhu cầu về thưởng thức và hoạt động văn hoá, văn nghệ của nhân dân từ thành thị đến nông thôn, từ nơi đông người đến những vùng xa xôi hẻo lánh, được đáp ứng ngày càng đầy đủ.

Để văn học, nghệ thuật đáp ứng được những yêu cầu mới của cách mạng, đội ngũ văn nghệ sĩ phải được bồi dưỡng về thế giới quan của chủ nghĩa Mác - Lênin, về đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước, phải gắn bó với nhân dân lao động, với thực tiễn cách mạng. Đội ngũ đó cần được mở rộng, không ngừng thu hút những lực lượng trẻ. Giúp đỡ văn nghệ sĩ ở những vùng mới giải phóng để anh chị em ngày càng tiến bộ về chính trị và tư tưởng, gắn bó với cách mạng, đem tài năng phục vụ Tổ quốc, phục vụ nhân dân.

Đảng ta khuyến khích văn nghệ sĩ tìm tòi và khám phá cái mới, đồng thời cũng đòi hỏi anh chị em có ý thức đầy đủ về sứ mạng cao cả của mình, kiên định lập trường xã hội chủ nghĩa trong sáng tạo nghệ thuật, trong cuộc đấu tranh bảo vệ đường lối văn nghệ cách mạng, chống mọi khuynh hướng tư sản và cơ hội chủ nghĩa trong văn nghệ, chống ảnh hưởng tai hại của văn nghệ hiện đại chủ nghĩa, chống các bệnh công thức, sơ lược, tự nhiên chủ nghĩa, góp phần xứng đáng vào thắng lợi chung của sự nghiệp cách mạng xã hội chủ nghĩa ở nước ta. Để cho sự nghiệp văn học, nghệ thuật phát triển tốt đẹp và vững vàng, cần tăng cường công tác phê bình và nghiên cứu văn học, nghệ thuật.

Công tác bảo tồn, bảo tàng có tác dụng giáo dục sâu sắc cho quần chúng, đặc biệt là thế hệ trẻ, về lòng yêu nước và những tình cảm cách mạng trong sáng. Cần tăng cường những viện bảo tàng hiện có, từng bước xây dựng những viện bảo tàng mới ở trung ương và các tỉnh; xây dựng những tượng đài kỷ niệm, các nhà lưu niệm hoặc nhà truyền thống ở các địa phương, các cơ sở; bảo vệ tốt các di tích lịch sử.

Để nâng cao kiến thức và trình độ giác ngộ cho nhân dân, phục vụ đắc lực cách mạng khoa học - kỹ thuật và cách mạng tư tưởng và văn hoá, phải phát triển hệ thống thư viện từ trung ương, tỉnh, thành đến huyện và cơ sở. Xây dựng thói quen đọc sách báo, làm cho việc đọc sách báo trở thành một nhu cầu không thể thiếu được của mỗi người dưới chế độ mới.

Vận động một cách kiên trì và sâu rộng để tạo ra nếp sống mới có văn hoá trong xã hội; đưa cái đẹp vào đời sống hàng ngày, vào lao động sản xuất. ở các thành phố, thị xã, thị trấn, cần có kế hoạch xây dựng công viên, cung văn hoá, cung thiếu nhi. ở các khu tập thể, xí nghiệp, hợp tác xã, trường học, chú ý xây dựng câu lạc bộ, nhà văn hoá. Hết sức quan tâm tổ chức tốt đời sống văn hoá ở các vùng kinh tế mới, các nông trường, lâm trường, công trường ở các vùng dân tộc, ở miền núi và các hải đảo. Ngoài những trung tâm và công trình văn hoá quy mô lớn cho cả nước, ở từng vùng, tỉnh, thành, huyện và xã ấp, làng bản, cần xây dựng những công trình văn hoá quy mô vừa và nhỏ mang màu sắc địa phương khác nhau, thể hiện tính phong phú của nền văn hoá chung của dân tộc ta. Đó là một phương hướng quan trọng nhằm xoá dần sự chênh lệch giữa thành thị và nông thôn, miền xuôi và miền núi.

Bảo vệ và tăng cường sức khoẻ của nhân dân là một vấn đề rất quan trọng, gắn liền với sự nghiệp xây dựng và bảo vệ chủ nghĩa xã hội, với hạnh phúc của nhân dân. Đó là một trong những mối quan tâm hàng đầu của chế độ ta, là trách nhiệm cao quý của Đảng và Nhà nước ta, trước hết là của các ngành y tế và thể dục thể thao.

Chúng ta phải ra sức phấn đấu nâng cao sức khỏe và bồi dưỡng thể lực của nhân dân, làm cho mọi người thích ứng với các điều kiện sống, lao động và học tập trong giai đoạn mới, với yêu cầu công nghiệp hoá xã hội chủ nghĩa, củng cố quốc phòng, bảo vệ đất nước; đồng thời nhằm khắc phục những hậu quả của chiến tranh, của chế độ thực dân cũ và mới về mặt xã hội.

Để đạt mục tiêu đó, ngành y tế phải kiên trì phương hướng y học dự phòng, phối hợp chặt chẽ với ngành thể dục thể thao phát động phong trào vệ sinh, thể dục sâu rộng trong cả nước, coi đó là một bộ phận không thể thiếu được của cuộc vận động xây dựng nếp sống mới. Trong công tác vệ sinh phòng bệnh, phải phấn đấu làm sạch môi trường sống, giải quyết dứt điểm vấn đề phân, nước, rác, tiêu diệt các vật trung gian truyền bệnh, thực hiện nghiêm ngặt vệ sinh thực phẩm, vệ sinh trường học và tổ chức tốt việc tiêm phòng, ngăn ngừa và kịp thời dập tắt các bệnh dịch. Thanh toán những bệnh xã hội, trước hết là sốt rét, lao và hoa liễu. Phải chủ động đề phòng nạn ô nhiễm môi trường trong quá trình phát triển công nghiệp. Thực hiện chu đáo công tác vệ sinh lao động, tích cực phòng và chống có hiệu quả những bệnh nghề nghiệp. Ra sức giải quyết tốt các di chứng vết thương chiến tranh, nhanh chóng phục hồi chức năng lao động cho những người bị thương tật.

Phải nâng cao chất lượng khám bệnh và chữa bệnh, sớm phát hiện bệnh, chữa bệnh tích cực và toàn diện, mở rộng công tác khám bệnh và chữa bệnh ngoại trú, đưa công tác y tế đến tận mỗi tổ chức sản xuất, mỗi gia đình và mỗi người dân. Tổ chức tốt việc quản lý sức khoẻ và bệnh tật của nhân dân, nhằm hạn chế đến mức thấp nhất các tỷ lệ mắc bệnh, tàn phế và tử vong, kéo dài tuổi lao động và tuổi thọ. Đặc biệt chú ý chăm sóc sức khoẻ của trẻ em, bà mẹ, đồng bào dân tộc ít người và người già.

Cần tận dụng những điều kiện thiên nhiên của nước ta và những thành quả từng bước của sự nghiệp phát triển kinh tế, văn hoá để tổ chức tốt việc nghỉ ngơi, giải trí và bồi dưỡng sức khoẻ cho nhân dân lao động. Vận động nhân dân bỏ những tập quán lạc hậu và có hại đến sức khoẻ, xây dựng nếp sống vệ sinh, lành mạnh.

Để không ngừng nâng cao khả năng và chất lượng phòng bệnh và chữa bệnh, phải kết hợp chặt chẽ y học hiện đại với y học cổ truyền dân tộc; vận dụng và phát triển những thành tựu tiên tiến của y học thế giới, đồng thời coi trọng đúng mức việc phát triển y học dân tộc, tích cực thừa kế, áp dụng và nâng cao những thành tựu và kinh nghiệm của y học dân tộc, từng bước xây dựng nền y học Việt Nam. Mở rộng một cách có kế hoạch nguồn dược liệu thiên nhiên phong phú trong nước, xây dựng nền dược học Việt Nam; nhanh chóng phát triển công nghiệp dược phẩm và đẩy mạnh sản xuất thiết bị y tế.

Trong sự nghiệp phát triển y tế, phải tăng cường và hoàn thiện mạng lưới y tế nhân dân ở các cấp, nhất là y tế cơ sở và y tế huyện, làm cho y tế cơ sở và y tế huyện gắn bó với nhau thành một tổ chức hữu cơ, bảo đảm giải quyết về cơ bản những nhu cầu về y tế của nhân dân cả nước.

Tiếp tục tăng cường và mở rộng các cơ sở nghiên cứu y học và dược học; đẩy mạnh công tác đào tạo và bồi dưỡng cán bộ y, dược, để nhanh chóng có một đội ngũ cán bộ y, dược đồng bộ, cân đối, có chất lượng, thấm nhuần lời dạy của Hồ Chủ tịch: "Thầy thuốc như mẹ hiền", giỏi về chuyên môn và kỹ thuật, thạo vận động quần chúng tham gia sự nghiệp bảo vệ và nâng cao sức khoẻ.

Cần đẩy mạnh phong trào thể dục thể thao có tính quần chúng rộng lớn trong cả nước, trước hết là ở cơ sở nhằm thiết thực phục vụ sản xuất, công tác và học tập, phục vụ quốc phòng, góp phần xây dựng con người mới và nếp sống mới. Mở rộng công tác đào tạo và bồi dưỡng đội ngũ hướng dẫn viên, huấn luyện viên, vận động viên và cán bộ quản lý, xúc tiến công tác nghiên cứu khoa học thể dục thể thao, bảo quản tốt và sử dụng hợp lý các cơ sở vật chất - kỹ thuật của thể dục thể thao, đi đôi với xây dựng những cơ sở mới, đưa sự nghiệp thể dục thể thao của nước ta tiến lên một cách mạnh mẽ, vững chắc và liên tục.

Công tác bảo vệ bà mẹ và trẻ em có ý nghĩa rất quan trọng đối với việc xây dựng con người mới, bảo vệ và phát triển giống nòi, thực hiện nam nữ bình đẳng, bảo vệ và phát huy lực lượng lao động nữ. Đó là một vấn đề xã hội to lớn, liên quan chặt chẽ đến sự nghiệp phát triển kinh tế và văn hoá của đất nước. Cần tiếp tục đẩy mạnh cuộc vận động sinh đẻ có kế hoạch nhằm đạt tỷ lệ hợp lý về phát triển số dân; ra sức phòng và chống các bệnh phụ khoa và các bệnh nghề nghiệp của phụ nữ. Phải tổ chức tốt việc nuôi dạy trẻ; phát triển rộng khắp mạng lưới nhà trẻ, vườn trẻ hợp quy cách; sản xuất và cung cấp đủ những phương tiện phục vụ và đồ chơi cho trẻ em. Các cô nuôi dạy trẻ cần được tuyển chọn chặt chẽ, huấn luyện kỹ về chuyên môn, bồi dưỡng thường xuyên về tình yêu trẻ, và phải được Nhà nước và nhân dân đãi ngộ thoả đáng.

Tổ chức việc săn sóc và giúp đỡ chu đáo anh chị em thương binh, gia đình liệt sĩ và gia đình có công với cách mạng là một nhiệm vụ lớn của Nhà nước, Mặt trận và các đoàn thể, của các ngành, các cấp và của toàn dân. Nhân dân ta bao giờ cũng trọn nghĩa vẹn tình đối với những người con đã cống hiến đời mình cho độc lập, tự do của Tổ quốc, cho hạnh phúc của đồng bào. Chăm lo tốt việc chữa bệnh và thương tật, bồi dưỡng sức khoẻ của thương binh, cung cấp đầy đủ những phương tiện và dụng cụ chuyên dùng cần thiết, tổ chức chu đáo việc dạy nghề và bố trí công việc thích hợp cho anh chị em. Tận tình săn sóc đời sống vật chất và tinh thần của thương binh và gia đình liệt sĩ; các chính sách, chế độ đối với thương binh và gia đình liệt sĩ phải được thực hiện đầy đủ. Những người và gia đình có công với cách mạng cần được nêu gương và khen thưởng thích đáng và được giúp đỡ chu đáo những khi gặp khó khăn.

Những trẻ em mồ côi, những người già neo đơn, những người tàn tật gặp nhiều khó khăn và những nạn nhân khác của chiến tranh xâm lược và của chủ nghĩa thực dân mới cần được quan tâm đầy đủ, làm cho ai nấy đều có cuộc sống ổn định, lành mạnh, yên vui.

Chúng ta phải dựa vào sức của toàn dân, phát động phong trào quần chúng rộng rãi đi đôi với phát huy vai trò tổ chức của Nhà nước, để hoàn thành tốt được những nhiệm vụ công tác xã hội nặng nề và to lớn trên đây.

V - Tăng cường Nhà nước xã hội chủ nghĩa, phát huy vai trò các đoàn thể, làm tốt công tác quần chúng

Thưa các đồng chí,

Cách mạng Tháng Tám thắng lợi, lần đầu tiên trong lịch sử dân tộc ta, một Nhà nước kiểu mới đã được thành lập, Nhà nước của nhân dân lao động dựa trên cơ sở liên minh công nông do đảng Mác - Lênin lãnh đạo. Ngày nay, với thắng lợi hoàn toàn của cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, nhân dân lao động nước ta đã làm chủ toàn bộ đất nước, có Nhà nước trong cả nước thực hiện quyền làm chủ tập thể của mình.

Nhiệm vụ cách mạng của giai đoạn mới đòi hỏi Đảng ta và nhân dân ta phải đặc biệt quan tâm nhanh chóng xây dựng và củng cố bộ máy chính quyền nhà nước các cấp ở miền Nam, tiếp tục hoàn thiện bộ máy chính quyền nhà nước các cấp ở miền Bắc, kiện toàn nhà nước của cả nước.

Nhà nước xã hội chủ nghĩa là Nhà nước chuyên chính vô sản, một tổ chức thực hiện quyền làm chủ tập thể của giai cấp công nhân và nhân dân lao động, một tổ chức thông qua đó Đảng thực hiện sự lãnh đạo của mình đối với tiến trình phát triển của xã hội. Giai cấp công nhân và nhân dân lao động phải được tổ chức lại một cách tập trung thành Nhà nước dưới sự lãnh đạo của Đảng thì mới có thể hoạt động một cách tự giác, có tổ chức, có kỷ luật và có kế hoạch trên quy mô toàn xã hội; mới cải tạo được xã hội cũ, xây dựng thành công xã hội mới, giành được thắng lợi hoàn toàn và triệt để cho chủ nghĩa xã hội trong cuộc đấu tranh nhằm giải quyết vấn đề "ai thắng ai" giữa chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa tư bản.

Để thực hiện quyền làm chủ tập thể của nhân dân lao động, Nhà nước ta phải là một thiết chế của dân, do dân và vì dân, là một tổ chức đủ năng lực tiến hành ba cuộc cách mạng, xây dựng chế độ mới, nền kinh tế mới, nền văn hoá mới và con người mới, đủ sức bảo vệ lợi ích của tập thể và của cá nhân, đủ sức giữ vững an ninh chính trị và trật tự xã hội, bảo vệ vững chắc Tổ quốc xã hội chủ nghĩa và những thành quả của cách mạng.

Tăng cường và hoàn thiện Nhà nước là tăng cường hiệu lực của bộ máy hành chính, của tổ chức quản lý kinh tế và văn hoá. Song, vì hoạt động kinh tế là hoạt động làm nền tảng cho những hoạt động xã hội khác, đồng thời là một nhiệm vụ tương đối mới mẻ và khó khăn đối với Nhà nước ta, cho nên trước hết phải đặc biệt chú ý tăng cường hiệu lực của Nhà nước về mặt tổ chức quản lý kinh tế.

Đặc điểm lớn nhất của quản lý kinh tế ở nước ta là chúng ta quản lý một nền kinh tế đang tiến từ sản xuất nhỏ lên sản xuất lớn xã hội chủ nghĩa. Quản lý kinh tế phải nhằm thúc đẩy, tạo điều kiện thuận lợi cho sự phát triển nhanh chóng của quá trình ấy, sớm tạo ra cơ cấu sản xuất lớn xã hội chủ nghĩa ở nước ta. Muốn thế, trước hết cần hiểu rõ và giải quyết đúng đắn những vấn đề có tính quy luật của quá trình tiến từ sản xuất nhỏ lên sản xuất lớn xã hội chủ nghĩa, và thể hiện những quy luật ấy thành chính sách, tổ chức, chế độ, thể lệ thích hợp, đồng thời phải dấy lên phong trào cách mạng sôi nổi và liên tục của đông đảo quần chúng nhân dân. Trong từng khâu quản lý, phải thể hiện ba cuộc cách mạng, phải thể hiện chế độ làm chủ tập thể, làm chủ trong phạm vi cả nước, trong mỗi ngành, mỗi cấp, trên cơ sở những mục tiêu và phương hướng kế hoạch kinh tế quốc dân thống nhất. Phải xây dựng một cơ chế có hiệu lực cho phép phát hiện và phổ biến kịp thời những nhân tố tích cực, tiến bộ; phát hiện và loại trừ kịp thời những nhân tố tiêu cực, lạc hậu, thực hiện sự sàng lọc tất yếu của mọi quá trình phát triển, để cho mọi công tác kinh tế đều mang lại kết quả là các nhân tố năng suất, chất lượng và hiệu quả ngày càng tăng lên không ngừng.

Trong tình hình hiện nay, tiếp tục xây dựng và hoàn thiện quản lý kinh tế phải nhằm vào những vấn đề quan trọng nhất là tổ chức lại nền sản xuất xã hội trong phạm vi cả nước, cải tiến hệ thống kế hoạch hoá và kiện toàn bộ máy quản lý kinh tế.

Phải dựa trên nguyên tắc tập trung, chuyên môn hoá, hợp tác hoá, liên hiệp hóa mà tổ chức lại tất cả các ngành sản xuất công nghiệp, nông nghiệp, giao thông vận tải, xây dựng... trong cả nước theo hướng sản xuất lớn xã hội chủ nghĩa, xoá bỏ tình trạng phân tán, cục bộ; hình thành những ngành kinh tế - kỹ thuật thống nhất toàn quốc, những vùng kinh tế và những cơ cấu kinh tế địa phương hợp lý. Tổ chức lại nền sản xuất xã hội chính là để phát huy hết mọi tiềm lực về lao động, đất đai, biển, rừng, máy móc, thiết bị, vật tư, làm cho sản xuất phát triển nhanh chóng và đạt sản lượng và chất lượng cao nhất với hao phí ít nhất. Đi đôi với việc tổ chức lại các ngành sản xuất, phải tổ chức lại cả các ngành lưu thông, phân phối nhằm phục vụ tốt hơn nữa sản xuất và đời sống nhân dân của cả nước.

Mọi hoạt động kinh tế trong chế độ ta đều diễn ra theo kế hoạch. Do đó, kế hoạch hoá nền kinh tế quốc dân là một nhiệm vụ cực kỳ quan trọng của công tác quản lý kinh tế. Kế hoạch nhà nước là công cụ chủ yếu để quản lý kinh tế, là động lực mạnh mẽ thúc đẩy sự phát triển của nền kinh tế quốc dân. Kế hoạch nhà nước cụ thể hoá đường lối phát triển kinh tế của Đảng; đó là sự vận dụng tổng hợp các quy luật khách quan của kinh tế và khoa học, kỹ thuật, nhằm phát triển kinh tế và văn hoá, bảo đảm nhu cầu đời sống của nhân dân, xây dựng và phát triển cơ sở vật chất - kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội, thực hiện tái sản xuất mở rộng với nhịp điệu ngày càng nhanh.

Công tác kế hoạch hoá cần được cải tiến theo phương hướng sau đây: cải tiến kế hoạch hoá thống nhất của Nhà nước trên cơ sở đề cao trách nhiệm và phát huy sáng tạo của các ngành, các địa phương và các cơ sở; kế hoạch chung của Nhà nước là sự tổng hợp kế hoạch của các ngành, các địa phương và các cơ sở. Kế hoạch của các ngành, các địa phương và các cơ sở phải kết hợp chặt chẽ nhiệm vụ chung với điều kiện và khả năng cụ thể của mình; coi trọng năng suất lao động, chất lượng và hiệu quả kinh tế; quan tâm đầy đủ cả sản xuất lẫn lưu thông, phân phối; coi trọng giá trị sử dụng, lấy năng lực sản xuất và nhu cầu về đời sống, về xây dựng cơ sở vật chất - kỹ thuật mới làm căn cứ chủ yếu để xây dựng các kế hoạch và phương án kinh tế; đồng thời coi trọng quy luật giá trị, coi trọng hạch toán kinh tế, làm cho hạch toán kinh tế thật sự trở thành một công cụ quản lý có hiệu lực; sử dụng tốt thị trường và những đòn bẩy kinh tế: giá cả, tín dụng, tiền lương... để bổ sung cho kế hoạch và bảo đảm hoàn thành kế hoạch; giải quyết đúng đắn mối quan hệ giữa khâu làm kế hoạch và khâu chỉ đạo thực hiện kế hoạch ở các cấp.

Bộ máy quản lý kinh tế cần được xây dựng phù hợp với quá trình tập trung hoá, chuyên môn hoá, hợp tác hoá và liên hiệp hoá của sản xuất và phải nhằm thúc đẩy nhanh quá trình đó. Nó phải dựa trên nguyên tắc kết hợp quản lý theo ngành với quản lý theo địa phương và vùng lãnh thổ, bảo đảm hình thành các ngành kinh tế - kỹ thuật, các tổ chức kinh tế liên hiệp, các vùng kinh tế và các cơ cấu kinh tế địa phương. Để thúc đẩy nhanh quá trình tái sản xuất và tạo điều kiện thuận tiện cho việc điều khiển sản xuất, cần làm cho các mối quan hệ trong sản xuất và giữa sản xuất với tiêu dùng diễn ra bằng những con đường ngắn nhất, hợp lý nhất. Cần thực hiện nguyên tắc: tất cả các vấn đề được quyết định ở những nơi nào mà các vấn đề đó có thể được giải quyết tốt nhất. Thi hành nhất quán chế độ thủ trưởng ở tất cả các cấp quản lý. Bộ máy quản lý nông nghiệp phải nhằm bảo đảm cho sản xuất nông nghiệp phát triển toàn diện đi đôi với thâm canh và chuyên canh trên cơ sở quy hoạch, phân vùng, bảo đảm đưa những thành tựu mới của khoa học, kỹ thuật vào trong sản xuất nông nghiệp, đưa nông nghiệp lên sản xuất lớn xã hội chủ nghĩa.

Chúng ta phải dựa trên những nguyên tắc trên đây mà kiện toàn bộ máy quản lý, xác định cơ cấu tổ chức, nhiệm vụ, quyền hạn cụ thể của từng bộ phận, từng người, quy định các mối quan hệ hợp lý trong bộ máy, làm cho bộ máy vừa tinh, vừa có hiệu lực. Đối với bộ máy hiện có, nói chung nên duy trì những bộ phận, những nhân tố hợp lý và mạnh dạn sửa đổi những cái không thích hợp. Tuỳ theo trình độ phát triển sản xuất và mức độ mở rộng chuyên môn hoá của nền kinh tế mà tăng thêm trong phạm vi cần thiết các bộ phụ trách ngành kinh tế - kỹ thuật. Cần thi hành đầy đủ bản điều lệ tổ chức của bộ máy nhà nước và một số quy định về lề lối làm việc của Hội đồng Chính phủ, theo dõi quá trình thực hiện để có những bổ sung và điều chỉnh cần thiết.

Trước mắt, để tăng cường hiệu lực của bộ máy nhà nước quản lý kinh tế, cần tiếp tục giải quyết mấy vấn đề sau đây:

Một là, bằng những quy định cụ thể, làm rõ hơn nữa chức năng, nhiệm vụ của các bộ quản lý ngành kinh tế - kỹ thuật, trong đó có trách nhiệm và quyền hạn của bộ trưởng là người thủ trưởng của toàn ngành trong cả nước, chịu trách nhiệm toàn diện về ngành đó trước Quốc hội, trước Hội đồng Chính phủ, trước nhân dân và trước Đảng; làm rõ hơn nữa mối quan hệ giữa bộ quản lý ngành với Hội đồng Chính phủ, Uỷ ban kế hoạch và các bộ tổng hợp.

Hai là, thấu suốt hơn và thể hiện tốt hơn nguyên tắc kết hợp quản lý theo ngành với quản lý theo địa phương và vùng lãnh thổ. Cần tích cực nghiên cứu để xây dựng các ngành kinh tế - kỹ thuật, mạnh dạn tổ chức những chuyên ngành mà trình độ tập trung hoá, chuyên môn hoá và liên hiệp hoá sản xuất đã chín muồi; xúc tiến công tác phân vùng kinh tế; tiến hành gấp việc phân cấp kinh tế giữa trung ương và địa phương; đồng thời phân định trách nhiệm quản lý cụ thể giữa các bộ, tổng cục với các cấp chính quyền địa phương.

Ba là, tích cực xây dựng cấp huyện và phân định trách nhiệm giữa huyện và tỉnh, thành phố. Chính quyền cấp tỉnh, thành phố là một cấp chính quyền địa phương, chịu trách nhiệm trước nhân dân tỉnh, thành phố; đồng thời nó là một cấp của chính quyền nhà nước trung ương, chịu trách nhiệm trước Trung ương. Cấp tỉnh, thành phố có trách nhiệm bảo đảm đời sống vật chất và văn hoá của nhân dân địa phương, kể cả công nhân, viên chức của các xí nghiệp, cơ quan trung ương đóng ở địa phương. Song, trách nhiệm ấy cũng là trách nhiệm của Trung ương, vì Trung ương chịu trách nhiệm về đời sống của nhân dân trong cả nước, tức là trong tất cả các địa phương. Vì vậy, khi uỷ thác trách nhiệm chăm lo trực tiếp đời sống nhân dân địa phương cho tỉnh, thành phố, Trung ương phải có kế hoạch trao cho tỉnh, thành phố những quyền hạn và phương tiện cần thiết để tỉnh, thành phố hoàn thành được nhiệm vụ của mình. Đồng thời, cấp tỉnh, thành phố với tư cách là đại diện của nhân dân trong tỉnh, thành phố, phải ra sức phát huy mọi khả năng của địa phương về lao động, đất đai, rừng, biển..., cùng với cấp huyện, tổ chức tốt sản xuất và lưu thông, phân phối, để làm tốt trách nhiệm đối với nhân dân trong tỉnh, thành phố.

Cấp huyện đóng vai trò rất quan trọng trong việc đưa nông nghiệp lên sản xuất lớn xã hội chủ nghĩa. Huyện là địa bàn tổ chức lại sản xuất, tổ chức và phân công lại lao động, kết hợp công nghiệp với nông nghiệp, sản xuất với lưu thông, kinh tế toàn dân với kinh tế tập thể, công nhân với nông dân, Nhà nước với nhân dân. Huyện là cứ điểm để tiến hành ba cuộc cách mạng, xây dựng chế độ mới, nền kinh tế mới, nền văn hoá mới và con người mới ở nông thôn; là nơi thực hiện quyền làm chủ tập thể của nhân dân ở địa phương; là cấp bảo đảm đời sống vật chất và văn hoá của nhân dân. Tất cả mọi quan hệ giữa Nhà nước và nông dân trong lĩnh vực sản xuất và lưu thông, phân phối đều thực hiện thông qua cấp huyện. Do đó, xây dựng cấp huyện thành một cấp kế hoạch nông nghiệp, thủ công nghiệp và công nghiệp nhỏ, một cấp quản lý sản xuất và lưu thông, là đòi hỏi cấp bách hiện nay. Đồng thời, cần quy định rõ quyền hạn, trách nhiệm quản lý hành chính của cấp xã.

Bốn là, tổ chức và quản lý tốt các đơn vị cơ sở, một khâu có tác dụng quyết định đến hiệu quả của toàn bộ công tác quản lý kinh tế. Những năm qua, chúng ta đã thu được một số kinh nghiệm và đã rút ra được những kết luận cần thiết về tổ chức và quản lý đơn vị cơ sở. Đó là: lấy kế hoạch làm công cụ chủ yếu; mở rộng quyền chủ động sản xuất, kinh doanh của cơ sở; thực hiện đầy đủ chế độ hạch toán kinh tế; giáo dục chính trị, tư tưởng đi đôi với khuyến khích vật chất; đề cao kỷ luật và trách nhiệm. Phải căn cứ vào những kết luận ấy, phấn đấu đưa nhanh việc quản lý các đơn vị cơ sở vào nền nếp, làm cho các đơn vị cơ sở chóng trưởng thành. Những việc cần làm là: xác định phương hướng sản xuất, kiện toàn bộ máy quản lý, làm tốt kế hoạch kinh tế - kỹ thuật, tổ chức lao động hợp lý, chặt chẽ, cung ứng kịp thời vật tư cho sản xuất, tăng cường quản lý sản xuất, lao động, tài chính, vật tư, tiến hành hạch toán kinh tế, bảo đảm chất lượng sản phẩm, cải tiến quan hệ giữa các cơ sở với nhau và với các cấp bên trên của cơ sở; điều chỉnh, bổ sung các chế độ, thể lệ cần thiết. Việc này đòi hỏi sự cố gắng lớn và đồng bộ của tất cả các ngành, các cấp và của bản thân cơ sở. ở miền Nam, đối với những cơ sở quốc doanh và công tư hợp doanh, trong khi xây dựng chế độ tổ chức và quản lý mới, cần xoá bỏ những yếu tố tiêu cực và phản động trong tổ chức sản xuất và quản lý cũ, giữ lại những yếu tố tích cực, hợp lý. Phải đẩy mạnh liên hiệp hoá sản xuất, tạo điều kiện để tổ chức các công ty, các xí nghiệp liên hiệp, các liên hiệp xí nghiệp hoặc dùng hình thức quá độ là nhóm sản phẩm.

Trong nông nghiệp, chúng ta cũng đã tích lũy được nhiều kinh nghiệm về quản lý hợp tác xã. Phải căn cứ vào những kinh nghiệm ấy mà tích cực cải tiến quản lý hợp tác xã, đi đôi với tăng cường cấp huyện và xây dựng huyện thành đơn vị kinh tế nông - công nghiệp hoặc nông - lâm - công nghiệp, trên cơ sở quy hoạch và kế hoạch của cả nước và của từng tỉnh.

Năm là, tăng cường tổ chức và cải tiến lưu thông, phân phối, một khâu rất quan trọng để bảo đảm quan hệ đúng đắn giữa công nghiệp với nông nghiệp, giữa lợi ích của Nhà nước, của tập thể với lợi ích của cá nhân, giữa tích luỹ với tiêu dùng, đảm bảo giao lưu giữa nông thôn với thành thị và giữa các vùng trong nước. Trong quá trình cải tạo và phát triển kinh tế từ sản xuất nhỏ lên sản xuất lớn xã hội chủ nghĩa, cần coi trọng tăng cường tổ chức và cải tiến quản lý ở tất cả các khâu: thương nghiệp, giá cả, tiền lương, tiền tệ, tín dụng, tài chính nhằm phục vụ tốt việc phân công lao động, phát triển lực lượng sản xuất, cải tạo quan hệ sản xuất và phục vụ đời sống nhân dân.

Để cải tiến quản lý kinh tế, phải làm tốt công tác thông tin kinh tế, tăng cường kỷ luật báo cáo, thống kê, tổ chức tốt hệ thống thông tin nhạy bén từ dưới lên và từ trên xuống, bảo đảm cho các cấp quản lý kịp thời nắm được các diễn biến trong sản xuất và đời sống để có biện pháp giải quyết chính xác, nhanh chóng.

Một vấn đề rất quan trọng hiện nay là thi hành nghiêm chỉnh chế độ trách nhiệm cá nhân. Phải gắn chặt trách nhiệm với quyền lợi, kỷ luật của tổ chức với tinh thần tự giác của từng người thành một cơ chế có hiệu lực buộc mọi người phải làm tròn trách nhiệm, khuyến khích mọi người lao động nhiều hơn và tốt hơn. Trách nhiệm phải được quy định rõ ràng; đối với mỗi nhiệm vụ, mỗi loại công việc, phải sớm quy định tiêu chuẩn, định mức cụ thể, làm cho ai cũng phải biết mình làm đến đâu về số lượng và chất lượng thì hoàn thành nhiệm vụ. Phải bố trí người có tư cách và năng lực tương xứng với nhiệm vụ; thẩm tra tư cách, năng lực trước khi giao nhiệm vụ, nếu chưa đủ thì phải bồi dưỡng. Quyền lợi bao gồm cả thưởng và phạt, cả vật chất và tinh thần. Thưởng và phạt phải công minh.

Cùng với việc tăng cường hiệu lực của Nhà nước về mặt tổ chức quản lý kinh tế, cần ra sức tăng cường hiệu lực của Nhà nước về mặttổ chức và quản lý văn hoá, nhằm đáp ứng ngày càng tốt hơn những nhu cầu của nhân dân về văn hoá, giáo dục, y tế, v.v., bảo đảm quyền làm chủ tập thể về văn hoá của nhân dân, thúc đẩy cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa về tư tưởng và văn hoá.

Là công cụ xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ chủ nghĩa xã hội, Nhà nước ta luôn luôn phải coi trọng nhiệm vụ củng cố quốc phòng, an ninh chính trị và trật tự xã hội, bảo đảm cho đất nước luôn luôn sẵn sàng, đủ sức đập tan mọi cuộc tiến công của bọn gây chiến, bọn xâm lược và những hành động chống đối của bọn phản cách mạng.

Để bảo vệ sự nghiệp cách mạng xã hội chủ nghĩa, bảo vệ độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ, vùng trời, vùng biển, biên giới và hải đảo của Tổ quốc, trong giai đoạn mới của cách mạng, chúng ta phải tích cực xây dựng nền quốc phòng toàn dân vững mạnh. Sức mạnh quốc phòng của nhân dân ta là sức mạnh của đường lối chính trị, quân sự của Đảng, là sức mạnh tổng hợp, toàn diện của chế độ xã hội chủ nghĩa. Nhiệm vụ xây dựng và củng cố quốc phòng là nhiệm vụ của toàn dân, toàn quân, của hệ thống chuyên chính vô sản dưới sự lãnh đạo của Đảng. Chúng ta phải xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân hùng mạnh, có lực lượng thường trực mạnh, lực lượng hậu bị rộng rãi và được huấn luyện tốt, có quân đội nhân dân chính quy, hiện đại gồm các quân chủng, binh chủng cần thiết, có bộ đội chủ lực, bộ đội địa phương, có lực lượng dân quân tự vệ hùng hậu. Chừng nào còn chủ nghĩa đế quốc thì chúng ta phải chú ý đầy đủ hiện đại hoá lực lượng quốc phòng và củng cố khả năng phòng thủ của đất nước. Trong hoàn cảnh một nước nghèo lại vừa ra khỏi một cuộc chiến tranh ác liệt, kéo dài, thì các lực lượng vũ trang, ngoài nghĩa vụ luôn luôn sẵn sàng bảo vệ Tổ quốc, còn phải tích cực làm nhiệm vụ xây dựng kinh tế, góp phần xây dựng cơ sở vật chất - kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội. Chỉ có trên cơ sở đẩy mạnh công cuộc xây dựng kinh tế, công nghiệp hoá xã hội chủ nghĩa nước nhà, chúng ta mới phát triển được công nghiệp quốc phòng, xây dựng lực lượng vũ trang thật sự chính quy và hiện đại, triển khai việc phòng thủ đất nước một cách toàn diện. Theo tinh thần ấy, chúng ta phải thực hiện chế độ nghĩa vụ quân sự đối với trai tráng và chế độ quân đội làm nhiệm vụ xây dựng kinh tế.

Đảng đánh giá rất cao chiến công của quân đội trong cuộc chiến tranh yêu nước vĩ đại vừa qua. Đảng tin chắc rằng quân đội mãi mãi xứng đáng là đội quân đáng tin cậy trong sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc, đồng thời là một đội quân xây dựng tài giỏi, một trường học lớn rèn luyện con người mới đối với các thế hệ thanh niên.

Trong thời gian qua, trên lĩnh vực an ninh chính trị và trật tự xã hội, chúng ta đã đạt được những thành tích to lớn chống lại những âm mưu thâm độc của bọn đế quốc, trước hết là đế quốc Mỹ, chống lại những hoạt động phá hoại của các loại gián điệp và phần tử phản cách mạng khác. Dưới sự lãnh đạo của Đảng, và được sự ủng hộ của quần chúng nhân dân đông đảo, các lực lượng an ninh đã hoàn thành xuất sắc những nhiệm vụ được Đảng và Nhà nước trao cho. Trong tình hình hiện nay, bảo đảm an ninh chính trị và trật tự xã hội vẫn là nhiệm vụ cực kỳ quan trọng của Nhà nước ta, là một trong những công tác rất lớn ở những vùng mới giải phóng. Phải tiếp tục trấn áp bọn phản cách mạng hiện hành, đập tan những mưu mô ngóc đầu dậy của bọn phản động. Không ngừng tăng cường lực lượng công an nhân dân vững về chính trị, giỏi về nghiệp vụ, có tổ chức và kỷ luật chặt chẽ, có trình độ khoa học, kỹ thuật khá, có các loại trang bị, thiết bị chuyên môn hiện đại. Phải kết hợp lực lượng chuyên trách chính quy với quần chúng nhân dân đông đảo; luôn luôn giáo dục và nâng cao tinh thần cảnh giác cách mạng cho quần chúng, kiên trì phát động quần chúng tích cực tham gia công tác giữ gìn an ninh chính trị và trật tự xã hội. Chúng ta còn phải chú ý cải tiến và phối hợp tốt hoạt động của các ngành công an, viện kiểm sát, toà án và các cơ quan tư pháp là những tổ chức có nhiệm vụ bảo vệ pháp chế xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích, trật tự của xã hội mới và quyền làm chủ tập thể của nhân dân.

Để tăng cường hiệu lực của Nhà nước, cần thi hành những biện pháp cần thiết nhằm bảo đảm Nhà nước ta luôn luôn là Nhà nước của dân. Muốn thế, cần nêu cao vị trí của Quốc hội và Hội đồng nhân dân các cấp. Trong hệ thống chính quyền Nhà nước ta, Quốc hội là cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất của cả nước, và các Hội đồng nhân dân là cơ quan quyền lực nhà nước của các địa phương. Dưới sự lãnh đạo của Đảng, Quốc hội quyết định những công việc quan trọng nhất của Nhà nước, và các Hội đồng nhân dân địa phương quyết định những công việc quan trọng của chính quyền nhà nước ở địa phương. Quốc hội và các Hội đồng nhân dân cử ra các cơ quan chấp hành, ở Trung ương là Hội đồng Chính phủ và ở các cấp là Uỷ ban nhân dân. Quốc hội và Hội đồng nhân dân các cấp giám sát toàn bộ hoạt động của bộ máy chính quyền nhà nước các cấp. Trách nhiệm của Hội đồng Chính phủ và Uỷ ban nhân dân các cấp trước Quốc hội và Hội đồng nhân dân các cấp phải được quy định rõ ràng và thể hiện đầy đủ bằng những thể thức cụ thể. Phải quy định chế độ và tạo điều kiện để các đại biểu Quốc hội và đại biểu Hội đồng nhân dân có thể thu thập và phản ánh ý kiến của nhân dân cho các cơ quan nhà nước và theo dõi cách giải quyết của các cơ quan ấy. Phải có chế độ liên hệ thường xuyên giữa cử tri và đại biểu Quốc hội, đại biểu Hội đồng nhân dân, bảo đảm sự kiểm tra và quyền bãi miễn của cử tri đối với đại biểu do họ bầu ra.

Một trong những nhiệm vụ hàng đầu của Hội đồng Chính phủ và Uỷ ban nhân dân các cấp là đề ra các chủ trương và biện pháp để thể hiện ngày càng đầy đủ hơn quyền làm chủ tập thể của nhân dân về các mặt: chính trị, kinh tế, văn hoá, và bảo đảm cho quyền làm chủ ấy được tôn trọng và thực hiện đầy đủ.

Tổ chức kiểm tra chặt chẽ và nghiêm túc sự hoạt động của các cơ quan nhà nước là biện pháp rất quan trọng để nâng cao hiệu lực của Nhà nước. Cơ cấu kiểm tra bao gồm hệ thống tự kiểm tra trong bộ máy nhà nước, sự kiểm tra của Đảng và của các tổ chức quần chúng. Kiểm tra phải thành một cơ chế buộc từng tổ chức, từng cán bộ, từng người dân tuân thủ Hiến pháp và các pháp luật, chế độ, thể lệ, làm tốt từng công việc, từng sản phẩm đúng tiêu chuẩn số lượng và chất lượng đã quy định. Nhân dân sử dụng quyền của mình theo Hiến pháp và pháp luật để đấu tranh với những hành động sai trái trong việc quản lý kinh tế, văn hoá, đời sống, buộc các cơ quan nhà nước thực hiện đúng và tốt quyền làm chủ tập thể của nhân dân. Tất cả các cơ quan nhà nước, từ trung ương đến cơ sở, phải trả lời kịp thời và đầy đủ những vấn đề do quần chúng nêu ra. Các cơ quan báo chí cần mở rộng hoạt động điều tra, nghiên cứu, phản ánh ý kiến xây dựng của quần chúng, phê phán chủ nghĩa quan liêu và tệ cửa quyền.

Quyền làm chủ tập thể của nhân dân bằng Nhà nước dưới sự lãnh đạo của Đảng phải được xác định bằng Hiến pháp và pháp luật. Sức mạnh và nội dung cơ bản của pháp chế xã hội chủ nghĩa chính là quyền làm chủ tập thể của nhân dân. Cần tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa, làm cho mọi hoạt động của các cơ quan nhà nước đi vào khuôn phép và quy chế nghiêm chỉnh, thật sự tôn trọng quyền làm chủ tập thể và bảo đảm quyền lợi của công dân.

Cùng với việc xây dựng Hiến pháp mới của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam, Quốc hội sẽ thông qua Luật Tổ chức Hội đồng Chính phủ, Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân các cấp, và các luật lệ khác về tổ chức và hoạt động của Nhà nước. Cần xây dựng và ban hành kịp thời một hệ thống pháp luật ngày càng hoàn chỉnh, trong đó chú trọng xây dựng sớm luật kinh tế.

Quyền làm chủ tập thể của nhân dân không những được thể hiện bằng quyền lực của Nhà nước, mà còn được thể hiện bằng tinh thần làm việc tận tụy và thái độ phục vụ nhân dân không điều kiện của cán bộ và nhân viên nhà nước. Chúng ta nghiêm khắc lên án thái độ hách dịch, cửa quyền, vô trách nhiệm, thậm chí nhẫn tâm trước những khó khăn và đau khổ của nhân dân. Cần có những biện pháp thiết thực ngăn ngừa một số cán bộ và nhân viên nhà nước biến thành lớp người đặc quyền đặc lợi. Mặt khác, quyền làm chủ tập thể của nhân dân phải được thể hiện ở thái độ của mỗi công dân biết chăm lo đến công việc chung của tập thể, của xã hội, luôn luôn làm tròn nghĩa vụ đối với Nhà nước, đối với Tổ quốc. Pháp luật phải quy định rõ quyền lợi và nghĩa vụ của công dân, đòi hỏi mọi công dân phải làm tròn nghĩa vụ, phải tuân theo pháp luật. Đối với những người không tự giác thì phải cưỡng chế và bất cứ ai vi phạm pháp luật đều phải xử phạt thích đáng.

Hiệu lực của Nhà nước quy đến cùng do cán bộ quyết định. Quy mô ngày càng rộng lớn của những hoạt động của Nhà nước đòi hỏi phải có một đội ngũ đông đảo cán bộ có chất lượng cho từng ngành, từng cấp, từ trung ương đến cơ sở. Cán bộ nhà nước phải có trình độ chuyên môn và nghiệp vụ giỏi, có sáng kiến, có năng lực tổ chức thực tiễn, đồng thời phải nhiệt tình, tận tụy, hy sinh, có tinh thần trách nhiệm, có ý thức kỷ luật, liên hệ mật thiết với quần chúng. Tóm lại, phải là những cán bộ cách mạng, chứ không thể là những công chức bàn giấy. Xây dựng đội ngũ cán bộ ấy là trách nhiệm của cả Đảng và Nhà nước.

Đảng là người lãnh đạo toàn bộ hoạt động xã hội trong điều kiện chuyên chính vô sản. Sự lãnh đạo của Đảng là bảo đảm cao nhất cho chế độ làm chủ tập thể của nhân dân lao động, cho sự tồn tại và hoạt động của Nhà nước xã hội chủ nghĩa. Vì vậy, bảo đảm tốt sự lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước là một điều kiện quyết định để tăng cường Nhà nước, nâng cao hiệu lực của Nhà nước. Mặt khác, Đảng không thể lãnh đạo xã hội, lãnh đạo nhân dân tiến hành sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội nếu không có Nhà nước. Sự lãnh đạo của Đảng và quyền làm chủ tập thể của nhân dân thể hiện tập trung ở Nhà nước, được thực hiện chủ yếu thông qua hoạt động của Nhà nước. Phải thường xuyên kiện toàn bộ máy nhà nước, nâng cao không ngừng quyền lực và hiệu quả quản lý của Nhà nước mới hoàn thành được những nhiệm vụ chính trị do Đảng đề ra, mới thực hiện được sự lãnh đạo của Đảng đối với xã hội. Nâng cao năng lực tổ chức của Đảng trước hết chính là nâng cao năng lực của Đảng trong việc xây dựng, kiện toàn, sử dụng và phát huy Nhà nước như là một công cụ sắc bén nhất để tổ chức thực hiện đường lối, chính sách của Đảng. Vai trò và hiệu lực quản lý của Nhà nước được nâng cao là dấu hiệu quan trọng nhất nói lên trình độ và năng lực tổ chức của Đảng.

Đảng quyết định đường lối, chính sách, phương hướng hoạt động của Nhà nước và những vấn đề quan trọng về tổ chức bộ máy nhà nước ở các cấp. Thông qua Nhà nước, đường lối, chính sách của Đảng biến thành quyết định của bản thân quần chúng, thành hành động hằng ngày của quần chúng. Đảng dựa vào các tổ chức Đảng và các đoàn thể quần chúng để kiểm tra sự hoạt động của các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện đường lối, chính sách của Đảng, thực hiện quyền làm chủ tập thể của nhân dân.

Mặt khác, Đảng tôn trọng quyền hạn, pháp luật nhà nước, kịp thời giải quyết những đề nghị của các cơ quan nhà nước về chủ trương, chính sách. Đảng bắt buộc tất cả các tổ chức, các cán bộ, đảng viên của Đảng phải tôn trọng quyền lực của cơ quan nhà nước, nghiêm chỉnh chấp hành pháp luật và các quyết định, chỉ thị của cơ quan nhà nước, coi đó là kỷ luật của Đảng.

Trong sự lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước hiện nay, phải khắc phục tình trạng lẫn lộn công việc Đảng và công việc Nhà nước, tình trạng tổ chức Đảng ở một số địa phương và cơ sở bao biện công việc của Nhà nước, làm giảm hiệu lực của bộ máy nhà nước và thực tế là hạ thấp vai trò lãnh đạo của Đảng. Đồng thời, cũng phải chống khuynh hướng coi nhẹ vai trò và trách nhiệm của tổ chức Đảng trong cơ quan nhà nước, coi tổ chức Đảng chỉ như một cơ quan tuyên truyền, động viên, không có tác dụng lãnh đạo thật sự; chống lối phân công máy móc, tách rời hoạt động của cấp uỷ Đảng với hoạt động của cơ quan nhà nước, thực chất là tách rời việc quyết định chủ trương với việc tổ chức thực hiện.

Thưa các đồng chí,

Cách mạng là ngày hội của quần chúng. Công tác cách mạng phải được tiến hành bằng phong trào cách mạng. Trong kháng chiến cứu nước, chúng ta đã dấy lên những phong trào thi đua đánh Mỹ đầy khí thế phấn khởi, hào hùng. Nhưng về xây dựng chủ nghĩa xã hội, chúng ta chưa tạo ra được những phong trào thật mạnh mẽ. Mấy năm nay, chúng ta vận động quần chúng ra sức thi đua lao động sản xuất, cần kiệm xây dựng chủ nghĩa xã hội. Nhưng có phong trào thi đua chỉ rầm rộ lúc đầu; có phong trào, công sức của quần chúng bỏ ra nhiều, nhưng hiệu quả mang lại chưa tương xứng. Nguyên nhân là do sự lãnh đạo của các tổ chức Đảng chưa tốt, chủ trương, kế hoạch thiếu chặt chẽ, liên tục, những điều kiện vật chất cần thiết không được chuẩn bị đầy đủ và thiếu sự phối hợp giữa các tổ chức Đảng, Nhà nước, đoàn thể quần chúng.

Muốn có phong trào cách mạng, vấn đề không phải là tạo ra những hình thức bồng bột nhất thời, tách rời quá trình sản xuất và đấu tranh của quần chúng, mà là nắm vững khoa học và nghệ thuật phát động quần chúng, tổ chức, lãnh đạo một cách có kế hoạch, tạo ra phong trào cách mạng sâu rộng và liên tục, biến nó thành những phong trào sôi nổi thường xuyên của quần chúng thực hiện thắng lợi những nhiệm vụ cụ thể hằng ngày. Một phong trào quần chúng như vậy đòi hỏi phải có mục tiêu rõ ràng, cụ thể; phải khéo kết hợp các biện pháp chính trị và kinh tế, giáo dục và hành chính, tư tưởng và tổ chức; phải phối hợp chặt chẽ, nhịp nhàng giữa các tổ chức Đảng, các cơ quan nhà nước, các đoàn thể quần chúng, các tổ chức kinh tế, xã hội.

Trong quần chúng bao giờ cũng có số tiên tiến, số trung bình và số lạc hậu. Công tác quần chúng phải nhằm phát huy và không ngừng mở rộng đội ngũ tiên tiến, nâng số trung bình lên tiên tiến, thu hẹp diện những người lạc hậu. Và điều đó chỉ có thể làm được qua phong trào cách mạng của quần chúng. Có phong trào cách mạng mới làm chuyển biến được tư tưởng của quần chúng; và chính qua phong trào, bản thân quần chúng tự đánh giá mình và tự giáo dục mình. Dùng quần chúng giáo dục và động viên quần chúng trong chính ngay hành động cách mạng hằng ngày, đó là phương pháp hiệu quả nhất để vận động phong trào cách mạng.

Quyền làm chủ tập thể của nhân dân lao động không những được thực hiện chủ yếu bằng Nhà nước, mà còn được thực hiện bằng cácđoàn thể quần chúng.

Nhiệm vụ chung của các đoàn thể là bảo đảm cho quần chúng tham gia và kiểm tra công việc của Nhà nước, đồng thời là trường học về chủ nghĩa xã hội, xây dựng các giai cấp và tầng lớp xã hội thành những giai cấp và tầng lớp mới, làm chủ tập thể xã hội chủ nghĩa.

Trong cách mạng xã hội chủ nghĩa, Đảng phải ra sức chăm lo xây dựng đội ngũ giai cấp công nhân không ngừng lớn mạnh về số lượng và chất lượng, xứng đáng với vai trò giai cấp tiên phong, giai cấp lãnh đạo sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội. Phải hoàn thiện và thực hiện đầy đủ những quy chế nhà nước, bảo đảm cho công nhân tham gia tích cực và có hiệu quả vào việc quản lý xí nghiệp, quản lý kinh tế, quản lý xã hội.

Công đoàn là tổ chức quần chúng rộng lớn của giai cấp công nhân, là trường học của chủ nghĩa cộng sản, trường học quản lý kinh tế, quản lý nhà nước đối với công nhân. Công đoàn phải làm tốt nhiệm vụ tham gia công việc của Nhà nước và kiểm tra hoạt động của Nhà nước, tham gia quản lý xí nghiệp. Công đoàn phải giáo dục ý thức xã hội chủ nghĩa cho công nhân; bồi dưỡng thái độ lao động mới, lao động có kỷ luật, có kỹ thuật, có năng suất cao, lao động thật thà; rèn luyện tinh thần khắc phục khó khăn.

Công đoàn phải tổ chức tốt phong trào thi đua lao động sản xuất, cần kiệm xây dựng chủ nghĩa xã hội, phối hợp với thủ trưởng chính quyền lãnh đạo phong trào thi đua. Công đoàn phải cùng với cơ quan nhà nước chăm lo việc học tập cho công nhân về văn hoá, kỹ thuật, nghiệp vụ, tay nghề, đào tạo từ trong công nhân những cán bộ kỹ thuật và cán bộ quản lý giỏi. Bảo đảm những quyền lợi chính đáng của công nhân, công đoàn phải góp phần đắc lực cùng cơ quan nhà nước giải quyết các vấn đề thiết thực về đời sống, phúc lợi tập thể, về điều kiện lao động, học tập, nghỉ ngơi... của công nhân, viên chức; đặc biệt chú ý làm tốt việc bảo hộ lao động, đề phòng và chống tai nạn lao động. ở miền Nam, công đoàn còn có nhiệm vụ bảo đảm vai trò và quyền lợi của công nhân trong các xí nghiệp tư nhân và các xí nghiệp công tư hợp doanh, hướng các xí nghiệp ấy sản xuất và kinh doanh theo đúng đường lối của Đảng, đúng chính sách và pháp luật của Nhà nước.

Tổ chức công đoàn phải thu hút rộng rãi công nhân, viên chức trong guồng máy Nhà nước, trong các xí nghiệp công, thương nghiệp quốc doanh. ở miền Nam, các tổ chức công đoàn phải đặc biệt chú ý thu hút đông đảo công nhân công nghiệp. Số lượng công nhân, viên chức càng đông càng đòi hỏi công đoàn phải được xây dựng vững mạnh, gắn chặt với các ngành kinh tế - kỹ thuật, gắn chặt với sản xuất. Đội ngũ cán bộ lãnh đạo công đoàn phải nắm vững đường lối, chính sách của Đảng, am hiểu công tác quản lý kinh tế, đi sát quần chúng công nhân, phần lớn không thoát ly sản xuất.

Nông dân lao động10 là một giai cấp cơ bản cùng với giai cấp công nhân hợp thành đội quân chủ lực xây dựng chủ nghĩa xã hội. Công tác vận động nông dân ở miền Bắc phải tập trung vào việc tiến hành ba cuộc cách mạng, tổ chức lại sản xuất nông nghiệp theo hướng sản xuất lớn xã hội chủ nghĩa, xây dựng chế độ mới và con người mới ở nông thôn. Hợp tác xã là tổ chức sản xuất và cũng là tổ chức quần chúng rộng rãi của nông dân tập thể, có tác dụng to lớn trong việc đoàn kết, giáo dục, nâng cao ý thức và năng lực làm chủ tập thể của nông dân, xây dựng nông dân thành giai cấp nông dân tập thể. Xây dựng và củng cố hợp tác xã ngày càng vững mạnh, đó là trách nhiệm của các cấp bộ Đảng và Nhà nước, nhất là cấp huyện và xã. Là một hình thức thể hiện quyền làm chủ tập thể của nông dân, đại hội nông dân tập thể các cấp cần được tiến hành đều đặn, đúng kỳ hạn và có chất lượng cao.

ở nông thôn miền Nam hiện nay, phải thu hút đông đảo nông dân vào Nông hội, giáo dục nông dân nâng cao lòng yêu nước, yêu chủ nghĩa xã hội, vận động nông dân ra sức phục hồi và phát triển sản xuất theo sự hướng dẫn của Nhà nước, xây dựng lại xóm làng, tăng cường đoàn kết, giúp nhau trong sản xuất và đời sống, đấu tranh xoá bỏ các tàn dư phong kiến, các hình thức bóc lột, đầu cơ trong nông thôn, đưa nông thôn tiến nhanh và tiến vững chắc vào con đường hợp tác hoá nông nghiệp và sản xuất lớn xã hội chủ nghĩa.

Trí thức giữ vai trò ngày càng quan trọng trong xây dựng và phát triển kinh tế, văn hoá, khoa học và kỹ thuật. Để xây dựng chủ nghĩa xã hội, chẳng những phải củng cố khối liên minh công nông mà còn phải đoàn kết công nông với trí thức, trong đó tuyệt đại bộ phận xuất thân từ công nông, là con em công nông được chế độ mới đào tạo thành trí thức. Công nhân, nông dân lao động, trí thức xã hội chủ nghĩa đều là những người chủ tập thể của xã hội, gắn bó chặt chẽ với nhau trong sự nghiệp xây dựng xã hội mới.

Đảng và Nhà nước ta phải đẩy mạnh việc đào tạo một đội ngũ đông đảo trí thức có tài năng trên tất cả các ngành hoạt động xã hội, tuyệt đối trung thành với Tổ quốc, với nhân dân, với sự nghiệp cách mạng xã hội chủ nghĩa, có quyết tâm và nghị lực lớn, dám chinh phục những đỉnh cao của văn hoá, khoa học, kỹ thuật, đủ sức vận dụng một cách sáng tạo những thành tựu khoa học, kỹ thuật hiện đại để giải quyết những vấn đề cụ thể của đất nước. Các cơ quan đảng, nhà nước và các đoàn thể nhân dân cần coi trọng việc giáo dục chính trị cho trí thức, bố trí, sử dụng anh chị em một cách hợp lý, tạo những điều kiện vật chất và tinh thần thuận lợi, trước hết là các phương tiện làm việc, phương tiện nghiên cứu, để anh chị em có thể nhanh chóng phát triển tài năng, phục vụ tốt nhất cho công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội. Cần sử dụng tốt những cán bộ khoa học, kỹ thuật đã làm việc dưới chế cũ ở miền Nam, giúp anh chị em chóng trở thành những người trí thức xã hội chủ nghĩa. Về phần anh chị em trí thức, cần khắc phục những nhược điểm như chủ quan, tự mãn, xa rời quần chúng, xa rời sản xuất, đánh giá không đúng mối quan hệ giữa cá nhân và tập thể, v.v..

Tiền đồ rạng rỡ của Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa nằm trong tay thanh niên, thiếu niên và nhi đồng. Trong suốt nửa thế kỷ qua, kể từ Thanh niên cách mạng đồng chí Hội cho đến Đoàn Thanh niên Lao động Hồ Chí Minh, dưới sự lãnh đạo của những người cộng sản, các thế hệ thanh niên Việt Nam luôn luôn là lực lượng xung kích trong các cao trào đấu tranh cách mạng, trong hai cuộc kháng chiến vĩ đại, trong sự nghiệp cách mạng xã hội chủ nghĩa ngày nay. Được rèn luyện trong lò lửa cách mạng, nhiều thế hệ thanh niên mới đã và đang hình thành. Đó là những lớp người có lý tưởng cách mạng, có hiểu biết chính trị, có kiến thức văn hoá, khoa học, kỹ thuật, dũng cảm và sáng tạo trong chiến đấu cũng như trong sản xuất. Cần phát huy những truyền thống tốt đẹp của thanh niên, bồi dưỡng và đào tạo thanh niên thành những con người mới xã hội chủ nghĩa kế tục trung thành và xuất sắc sự nghiệp cách mạng vẻ vang của Đảng và của dân tộc, bảo đảm đưa sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản ở nước ta đến thắng lợi hoàn toàn. "Bồi dưỡng thế hệ cách mạng cho đời sau là một việc rất quan trọng và rất cần thiết"11, là một nhiệm vụ chính trị quan trọng lâu dài của toàn Đảng. Đó cũng là trách nhiệm nặng nề và vẻ vang của đoàn thanh niên.

Đoàn thanh niên phải được xây dựng và củng cố vững mạnh về chính trị, tư tưởng và tổ chức, để xứng đáng là tổ chức thanh niên cộng sản, là trường học cộng sản chủ nghĩa đối với tuổi trẻ, là cánh tay đắc lực và đội hậu bị đáng tin cậy của Đảng. Đoàn phải giáo dục, rèn luyện thanh niên một cách toàn diện, phát huy vai trò xung kích của thanh niên trong ba cuộc cách mạng, trong sự nghiệp khôi phục và phát triển kinh tế, phát triển văn hoá, trong các phong trào thi đua lao động sản xuất và bảo vệ Tổ quốc. Đoàn có trách nhiệm bồi dưỡng và giới thiệu đoàn viên ưu tú vào Đảng, cung cấp cán bộ tốt cho Đảng và Nhà nước.

Tăng cường giáo dục thanh niên về thế giới quan Mác - Lênin, về đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước, về truyền thống cách mạng của dân tộc và của Đảng, về đạo đức mới và nếp sống mới. Bồi dưỡng cho thanh niên có tinh thần làm chủ tập thể, có lý tưởng cao đẹp, có khí phách anh hùng, "Sống, chiến đấu, lao động và học tập theo gương Bác Hồ vĩ đại", "Đâu Tổ quốc cần thanh niên có, đâu khó có thanh niên".

Tổ chức tốt cho thanh niên học văn hoá, khoa học, kỹ thuật và nghề nghiệp. Thu hút ngày càng nhiều thanh niên vào các cơ quan lãnh đạo và quản lý để bồi dưỡng, đào tạo được nhiều cán bộ trẻ. Phải quan tâm đến quyền lợi của thanh niên, chăm lo sức khoẻ, điều kiện lao động, học tập và giải trí. Hướng dẫn thanh niên giải quyết đúng các vấn đề về tình bạn, tình yêu, hôn nhân và gia đình, đấu tranh ngăn ngừa và khắc phục ảnh hưởng của lối sống tư sản, của văn hoá tư sản, xây dựng nếp sống văn minh, lành mạnh, có tổ chức, có kỷ luật.

Đoàn cần cải tiến phương pháp hoạt động cho phù hợp với đặc điểm của tuổi trẻ. Phải có những hình thức tổ chức rộng rãi để thu hút đông đảo thanh niên ngoài Đoàn vào các hoạt động xã hội, vào những hành động cách mạng thiết thực, và qua đó mà giáo dục, rèn luyện họ.

Đoàn thanh niên có tránh nhiệm phụ trách Đội Thiếu niên tiền phong Hồ Chí Minh và Đội Nhi đồng Hồ Chí Minh. Cần giáo dục thiếu niên, nhi đồng theo năm điều Bác Hồ dạy, xây dựng ý thức làm chủ tập thể, ngăn ngừa những ảnh hưởng xấu; khắc phục những quan điểm và phương pháp giáo dục lạc hậu. Nhà nước cần có kế hoạch sản xuất và cung cấp những phương tiện tốt cho nhu cầu hoạt động, luyện tập của thiếu niên và nhi đồng.

Thắng lợi của cách mạng đã đưa người phụ nữ Việt Nam lên địa vị làm chủ tập thể trong xã hội, có quyền bình đẳng với nam giới về mọi mặt, có những bước tiến nhảy vọt trong đời sống vật chất và tinh thần, có vai trò to lớn trong chiến đấu cũng như trong sản xuất, trong công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội. Đảng, Nhà nước và nhân dân ta rất tự hào về người phụ nữ Việt Nam: "anh hùng, bất khuất, trung hậu, đảm đang", những người mẹ đã sinh ra và nuôi dưỡng lớp lớp thế hệ anh hùng Việt Nam. Nhưng chúng ta còn phải phấn đấu nhiều hơn nữa để thực hiện triệt để nhiệm vụ giải phóng phụ nữ, bảo đảm cho phụ nữ cùng với toàn dân thực hiện quyền làm chủ tập thể đầy đủ nhất. Xã hội ta, Nhà nước ta có trách nhiệm lớn trong vấn đề này. Nội dung chủ yếu của công tác vận động phụ nữ ngày nay là phát động mạnh mẽ phong trào phụ nữ thi đua lao động, sản xuất, cần kiệm xây dựng chủ nghĩa xã hội dưới khẩu hiệu: "giỏi việc nước, đảm việc nhà, thực hiện nam nữ bình đẳng", phát huy lực lượng và khả năng của phụ nữ trong mọi hoạt động xã hội, trong việc quản lý kinh tế, văn hoá, quản lý nhà nước, xây dựng người phụ nữ mới xã hội chủ nghĩa, góp phần xây dựng gia đình văn hoá mới.

Phải kiên quyết đấu tranh xoá bỏ những quan điểm lạc hậu, bảo thủ về vai trò của người phụ nữ trong gia đình, ngoài xã hội, những tàn dư tư tưởng phong kiến trọng nam khinh nữ còn sót lại trong nhân dân, cả trong một số cán bộ đảng viên. Ra sức bồi dưỡng, nâng cao trình độ văn hoá, khoa học, kỹ thuật, trình độ nghề nghiệp của phụ nữ, tích cực đào tạo và bồi dưỡng cán bộ nữ, đưa phụ nữ vào các cơ quan lãnh đạo và quản lý, cải thiện điều kiện lao động và công tác để giữ gìn sức khoẻ cho chị em.

Đảng và Nhà nước phải có chính sách và biện pháp cụ thể bảo đảm cho phụ nữ làm tròn chức trách người mẹ, một chức trách cao quý nhất, đẹp đẽ nhất trong đời sống cộng đồng. Phải tích cực giải quyết những khó khăn về đời sống của phụ nữ, từ việc ăn, ở, sinh đẻ, nuôi con, chữa bệnh, học hành đến điều kiện lao động, công tác và nghỉ ngơi, giúp chị em giảm nhẹ công việc chợ búa, bếp núc. Phải đặc biệt chăm lo đời sống và sức khoẻ của phụ nữ ở những vùng bị tàn phá nhiều trong chiến tranh, những vùng bị Mỹ - nguỵ chiếm đóng lâu ngày. Đó là những công việc quan trọng và cấp bách hiện nay để thiết thực giải phóng phụ nữ, đào tạo người phụ nữ mới, phát huy nghị lực và tài năng của phụ nữ, động viên, thúc đẩy phong trào phụ nữ nước ta tiến lên những bước mới.

Hội liên hiệp phụ nữ cần giáo dục các tầng lớp phụ nữ, làm cho chị em hiểu rõ mối quan hệ khăng khít giữa giải phóng phụ nữ và xây dựng chủ nghĩa xã hội, thấy rõ trách nhiệm của người phụ nữ đối với Tổ quốc, xã hội và gia đình, nâng cao ý thức làm chủ và tinh thần phấn đấu vươn lên của chị em trên mọi mặt công tác. Việc động viên phong trào phụ nữ, giải quyết những khó khăn và các vấn đề về quyền lợi của chị em phải do các cơ quan nhà nước phối hợp chặt chẽ với các đoàn thể nhân dân, mà nòng cốt là Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam, để cùng làm dưới sự lãnh đạo của Đảng. Phải có những biện pháp về nhiều mặt và những hình thức vận động thích hợp với phụ nữ ở các lứa tuổi, các ngành nghề, các khu vực cư trú và hoạt động khác nhau.

Chính sách của Đảng về vấn đề tôn giáo từ trước đến nay là tôn trọng tự do tín ngưỡng của nhân dân, tôn trọng quyền theo đạo hoặc không theo đạo của mọi công dân, đối xử bình đẳng về mặt pháp luật với các tôn giáo, đoàn kết tất cả những người yêu nước và tiến bộ trong các tôn giáo để cùng nhau xây dựng và bảo vệ đất nước, chống những hoạt động lợi dụng tôn giáo để làm hại đến lợi ích của Tổ quốc, của nhân dân, của sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội.

Đảng và Nhà nước ta luôn luôn chú ý đẩy mạnh phong trào lao động sản xuất, xây dựng cuộc sống mới, chăm lo cải thiện đời sống vật chất và văn hoá của đồng bào không có đạo cũng như có đạo, ra sức phát triển y tế, giáo dục, nhất là ở những vùng mới giải phóng ở miền Nam, không ngừng giáo dục, nâng cao tinh thần yêu nước xã hội chủ nghĩa, làm tốt công tác phổ biến đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước, kiên quyết đập tan những luận điệu tuyên truyền, xuyên tạc của bọn đế quốc và bọn phản động núp trong tôn giáo.

Nhân dân ta, dân tộc ta có truyền thống đoàn kết rất đáng tự hào. Từ khi có Đảng, truyền thống ấy ngày càng phát huy mạnh mẽ trong Mặt trận dân tộc thống nhất.

Trong thời gian qua, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và Mặt trận Dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam đã làm tròn nhiệm vụ vẻ vang là động viên và tập hợp các tầng lớp nhân dân, các dân tộc anh em, các lực lượng cách mạng, yêu nước và tiến bộ ở cả hai miền dưới ngọn cờ đại đoàn kết dân tộc để xây dựng và bảo vệ miền Bắc, chiến đấu cứu nước, hoàn thành giải phóng miền Nam, tạo nên một sức mạnh vĩ đại để đánh thắng quân thù. Đại đoàn kết trong Mặt trận dân tộc thống nhất là một trong những nhân tố quyết định thắng lợi của cách mạng Việt Nam.

Cách mạng càng tiến lên thì khối đoàn kết trong Mặt trận dân tộc thống nhất càng được củng cố. Ngày nay, khi cả nước hoàn thành nhiệm vụ cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân, chuyển sang cách mạng xã hội chủ nghĩa thì tính chất, nhiệm vụ, thành phần, nội dung hoạt động của Mặt trận có những thay đổi quan trọng. Vừa qua, Hội nghị hiệp thương giữa Uỷ ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, Uỷ ban Trung ương Mặt trận Dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam và Uỷ ban Trung ương Liên minh các lực lượng dân tộc, dân chủ và hoà bình Việt Nam đã quyết định sẽ triệu tập Đại hội thành lập Mặt trận dân tộc duy nhất trong cả nước. Mặt trận bao gồm nhiều chính đảng, đoàn thể, giai cấp, tầng lớp khác nhau, lấy liên minh công nông làm cơ sở. Tính chất của nó là Mặt trận yêu nước, yêu chủ nghĩa xã hội, và mục tiêu xây dựng một nước Việt Nam hoà bình, độc lập, thống nhất và xã hội chủ nghĩa trở thành lý tưởng chung của mọi thành viên trong Mặt trận. Nhiệm vụ của Mặt trận là củng cố khối đoàn kết toàn dân, đoàn kết các dân tộc anh em trong nước, tăng cường sự nhất trí về chính trị và tinh thần trong xã hội, phát huy nhiệt tình cách mạng và tinh thần làm chủ tập thể của nhân dân, động viên toàn dân thi đua thực hiện thắng lợi ba cuộc cách mạng, xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội ở nước ta.

Mặt trận là hình thức tổ chức nhằm thực hiện sự thống nhất hành động giữa các đoàn thể thành viên, làm việc theo nguyên tắc hiệp thương dân chủ, hợp tác, tương trợ. Các cấp uỷ Đảng phải lãnh đạo việc thống nhất và phối hợp hành động giữa các đoàn thể trong Mặt trận, để thực hiện Cương lĩnh của Mặt trận và nhiệm vụ riêng của từng đoàn thể, động viên, thúc đẩy mạnh mẽ phong trào cách mạng của quần chúng.

Trong những năm qua, bà con Việt kiều luôn luôn hướng về Tổ quốc thân yêu, góp phần tích cực vào sự nghiệp chống Mỹ, cứu nước. Trong giai đoạn mới, chắc chắn kiều bào sẽ góp sức cùng đồng bào trong nước khôi phục và phát triển kinh tế, phát triển văn hoá, khoa học, kỹ thuật, cống hiến nhiều hơn nữa vào công cuộc xây dựng lại nước nhà.

Giải quyết đúng đắn vấn đề dân tộc là một trong những nhiệm vụ có tính chất chiến lược của cách mạng Việt Nam.

Trong những năm chống Mỹ, cứu nước và xây dựng chủ nghĩa xã hội, đồng bào các dân tộc ít người đã có những cống hiến vẻ vang vào sự nghiệp cách mạng chung. Những thành tích to lớn trong sản xuất và chiến đấu, sự tiến bộ về mọi mặt của các dân tộc ít người, tình đoàn kết ngày càng củng cố giữa các dân tộc là kết quả rực rỡ của chính sách dân tộc của Đảng. Nhiệm vụ của Đảng và Nhà nước ta hiện nay là ra sức tăng cường khối đoàn kết không gì lay chuyển nổi giữa các dân tộc trong cả nước, phát huy tinh thần cách mạng và năng lực sáng tạo của các dân tộc ít người trong sự nghiệp xây dựng Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Chính sách dân tộc của Đảng là thực hiện triệt để quyền bình đẳng về mọi mặt giữa các dân tộc, tạo những điều kiện cần thiết để xoá bỏ tận gốc sự chênh lệch về trình độ kinh tế, văn hoá giữa dân tộc ít người và dân tộc đông người, đưa miền núi tiến kịp miền xuôi, vùng cao tiến kịp vùng thấp, làm cho tất cả các dân tộc đều có cuộc sống ấm no, hạnh phúc, đều phát triển về mọi mặt, đoàn kết giúp nhau cùng tiến bộ, cùng làm chủ tập thể Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.

Để thực hiện chính sách dân tộc của Đảng, vấn đề mấu chốt là đẩy mạnh ba cuộc cách mạng, ra sức phát triển kinh tế và văn hoá ở các vùng dân tộc, phát triển nông nghiệp, lâm nghiệp, xây dựng các vùng kinh tế mới, các khu công nghiệp, mở mang giao thông vận tải và thương nghiệp xã hội chủ nghĩa, phát triển văn hoá, giáo dục, nghệ thuật, khoa học, y tế, thể dục thể thao, bảo vệ bà mẹ và trẻ em, v.v., nhanh chóng nâng cao đời sống vật chất và văn hoá của đồng bào các dân tộc ít người, đặc biệt chú trọng vùng cao và vùng biên giới. Đảng và Nhà nước cần có những chủ trương, chính sách cụ thể khuyến khích, thúc đẩy các hoạt động kinh tế, văn hoá, xã hội ở các vùng dân tộc; có chế độ đãi ngộ thích đáng cho những cán bộ và công nhân công tác ở những khu vực có nhiều khó khăn; tích cực đào tạo và bồi dưỡng cán bộ dân tộc ít người trong tất cả các lĩnh vực công tác của Đảng, Nhà nước và đoàn thể, trước hết chú trọng cán bộ lãnh đạo và cán bộ quản lý kinh tế.

Phải làm tốt hơn nữa công tác tuyên truyền, giáo dục, làm cho đồng bào các dân tộc, đông người cũng như ít người, hiểu rõ rằng cuộc sống ấm no, văn minh, hạnh phúc của tất cả các dân tộc gắn liền với sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội; tất cả các dân tộc đều có khả năng, có nghĩa vụ đem hết sức mình đóng góp vào sự nghiệp vẻ vang ấy. Trong Đảng cũng như trong nhân dân, phải tiếp tục phê phán, khắc phục những tư tưởng dân tộc lớn, dân tộc hẹp hòi, tâm lý kỳ thị dân tộc còn rơi rớt lại, những khuynh hướng biệt phái, chia rẽ dân tộc, trái với chính sách dân tộc của Đảng. Chi bộ, đảng bộ cơ sở, các cấp uỷ Đảng, các cơ quan chính quyền và đoàn thể phải thấu suốt và thực hiện tốt chính sách dân tộc của Đảng. Phải hiểu thấu đáo điều kiện sinh hoạt, tâm lý, tình cảm các dân tộc; tôn trọng phong tục, tập quán, giữ gìn và phát huy những truyền thống văn hoá tiến bộ của các dân tộc ít người. Tích cực lãnh đạo, hướng dẫn đồng bào các dân tộc xây dựng nếp sống văn minh, khoa học, sửa đổi và bỏ dần những phong tục, tập quán lạc hậu, có hại đến sự nghiệp phát triển kinh tế mới, văn hoá mới và xây dựng con người mới xã hội chủ nghĩa ở các vùng dân tộc. Đối với những phong tục, tập quán lạc hậu, trái khoa học, mang tính chất mê tín, dị đoan, đương nhiên cần phải sửa đổi, nhưng phải tiến hành dần bằng cách tuyên truyền, thuyết phục quần chúng, kiên nhẫn chờ đợi quần chúng, tuyệt đối không dùng biện pháp mệnh lệnh, thô bạo.

VI - Tình hình thế giới, nhiệm vụ quốc tế và chính sách đối ngoại của Đảng ta

Thưa các đồng chí,

Từ khi chủ nghĩa Mác ra đời, lịch sử thế giới đã chứng kiến biết bao đổi thay to lớn.

Dưới sự lãnh đạo thiên tài của Lênin, Cách mạng xã hội chủ nghĩa Tháng Mười thắng lợi là bước nhảy vọt vĩ đại đầu tiên mở ra thời đại mới, thời đại quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội trên phạm vi toàn thế giới.

Thắng lợi oanh liệt của Liên Xô và các lực lượng cách mạng khác trong Chiến tranh thế giới thứ hai làm sụp đổ một mảng lớn hệ thống đế quốc chủ nghĩa, đánh dấu một thời kỳ phát triển vĩ đại mới của cách mạng thế giới. Một loạt nước dân chủ nhân dân đã ra đời. Thắng lợi to lớn của cách mạng Trung Quốc làm cho cán cân lực lượng nghiêng hẳn về phía cách mạng. Chủ nghĩa xã hội vượt ra khỏi phạm vi một nước, trở thành một hệ thống thế giới. Ba mươi năm qua, các nước xã hội chủ nghĩa đã lớn mạnh vượt bậc về mọi mặt. Liên Xô đang đẩy mạnh công cuộc xây dựng cơ sở vật chất - kỹ thuật của chủ nghĩa cộng sản, đã trở thành một cường quốc về công nghiệp và quốc phòng, dẫn đầu thế giới về nhiều ngành khoa học, kỹ thuật và sản phẩm công nghiệp quan trọng. Trung Quốc đang tiến nhanh trên con đường xây dựng thành một cường quốc xã hội chủ nghĩa có công nghiệp, nông nghiệp và quốc phòng hiện đại, văn hoá và khoa học tiên tiến. Tất cả các nước xã hội chủ nghĩa khác đều tiến rất nhanh; nhiều nước đang đẩy mạnh công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội phát triển. Tổng sản lượng công nghiệp của các nước xã hội chủ nghĩa đã chiếm hơn 40% sản lượng công nghiệp của thế giới. Lực lượng quốc phòng của các nước xã hội chủ nghĩa hùng hậu hơn bao giờ hết và ngày càng được tăng cường. Ngày nay, với những thành tựu to lớn về mọi mặt, hệ thống xã hội chủ nghĩa thế giới đã có một sức mạnh tổng hợp vượt quá lực lượng của chủ nghĩa đế quốc. Ưu thế ấy cứ theo thời gian mà tăng lên một cách chắc chắn, không gì ngăn cản được. Sự lớn mạnh nhanh chóng và liên tục của các nước xã hội chủ nghĩa bắt nguồn từ tính ưu việt của chế độ mới do giai cấp công nhân và đảng Mác - Lênin lãnh đạo. Trong chế độ đó, nền kinh tế kế hoạch hoá lấy việc thoả mãn nhu cầu vật chất và văn hoá của nhân dân làm mục đích, cho phép khai thác tốt mọi năng lực sản xuất và tài nguyên của đất nước để phát triển nền sản xuất xã hội với nhịp độ nhanh, không có khủng hoảng, thất nghiệp, tạo ra một đời sống tốt đẹp và có bảo đảm cho mọi người trong xã hội. Cuộc sống ngày càng chứng tỏ sức mạnh của chủ nghĩa xã hội là vô địch và hệ thống xã hội chủ nghĩa thế giới ngày càng phát huy tác dụng là nhân tố quyết định sự phát triển của xã hội loài người. Đó là thành trì kiên cố của cách mạng vô sản thế giới, là chỗ dựa vững chắc cho phong trào đấu tranh vì hoà bình, độc lập dân tộc và tiến bộ xã hội.

Bão táp cách mạng của phong trào giải phóng dân tộc làm rung chuyển ba châu á, Phi, Mỹ latinh, lôi cuốn hai nghìn triệu người ở hầu khắp các nước vốn là thuộc địa và nửa thuộc địa, là sự kiện lớn thứ hai của thời đại chúng ta sau sự hình thành của hệ thống xã hội chủ nghĩa. Chủ nghĩa thực dân cũ trên thế giới về cơ bản đã bị đập tan. Một loạt quốc gia được độc lập ở nhiều mức độ khác nhau lần lượt bước lên vũ đài chính trị quốc tế, tiếp tục đấu tranh chống chủ nghĩa đế quốc, chủ nghĩa thực dân cũ và mới đứng đầu là đế quốc Mỹ, nhằm củng cố độc lập về chính trị, giành lại quyền làm chủ những tài nguyên thiên nhiên bị chúng bòn rút, để xây dựng, phát triển nền kinh tế quốc dân độc lập và tự chủ. Đặc điểm của phong trào độc lập dân tộc ngày nay là có xu thế ngày càng gắn liền với chủ nghĩa xã hội. Thời đại mới chẳng những tạo ra cho nhân dân các nước bị áp bức trước đây một sức mạnh chưa từng có trong cuộc đấu tranh giành độc lập, tự do, mà còn mở ra cho các nước này một khả năng mới, khả năng quá độ lên chủ nghĩa xã hội từ tình trạng kinh tế chậm phát triển. Phong trào giải phóng dân tộc và độc lập dân tộc, vì thế, đóng vai trò rất quan trọng trong việc thực hiện sự quá độ lên chủ nghĩa xã hội trên phạm vi thế giới.

Phong trào đấu tranh của giai cấp công nhân trong các nước tư bản chủ nghĩa ngày càng phát triển với quy mô rộng lớn và tính tổ chức cao, với nội dung phong phú và hình thức linh hoạt chưa từng thấy. Những đợt bãi công liên tiếp bao gồm hàng triệu người kéo dài hàng tuần, hàng tháng, những cuộc xuống đường rộng lớn biểu dương lực lượng, những cuộc vận động đưa đại biểu của mình vào nghị viện và các cơ quan dân cử khác của bộ máy nhà nước tư sản, sự phối hợp hành động giữa các tổ chức công đoàn và các lực lượng dân chủ được đẩy mạnh, v.v. tất cả những điều đó làm nổi bật tính chiến đấu, thế tiến công và năng lực cách mạng tiềm tàng vô cùng to lớn của giai cấp công nhân. Dưới khẩu hiệu thống nhất hành động đấu tranh cho các quyền dân tộc, dân chủ, dân sinh, giai cấp công nhân và các lực lượng dân chủ khác đã kết hợp chặt chẽ mọi hình thức và biện pháp đấu tranh, trực tiếp giáng những đòn nặng nề vào chủ nghĩa tư bản lũng đoạn nhà nước. ở một số nước, các Đảng Cộng sản giữ vị trí quan trọng trong đời sống chính trị của đất nước, đã giành được những thắng lợi to lớn và đang giương cao ngọn cờ dân tộc, dân chủ và chủ nghĩa xã hội, thực hiện liên minh rộng rãi chống bọn tư bản lũng đoạn nhà nước trong nước và quốc tế, nhằm giành thắng lợi từng bước để đưa cách mạng tiến lên. Giai cấp công nhân trong các nước tư bản chủ nghĩa phát triển đang gánh vác nhiệm vụ vẻ vang trước lịch sử là đánh bại chủ nghĩa tư bản lũng đoạn nhà nước ngay tại dinh luỹ cuối cùng của nó, loại trừ vĩnh viễn chủ nghĩa tư bản ra khỏi đời sống xã hội.

Ba dòng thác ấy hợp thành cao trào cách mạng vĩ đại và đang ở thế tiến công, chĩa mũi nhọn đấu tranh vào chủ nghĩa đế quốc.

Để đối phó với phong trào cách mạng thế giới và cứu vãn chế độ tư bản đang trong cơn hấp hối, chủ nghĩa tư bản chuyển sang chủ nghĩa tư bản lũng đoạn nhà nước với nhịp độ hết sức khẩn trương. Đồng thời, chủ nghĩa đế quốc do Mỹ cầm đầu ra sức chuẩn bị chiến tranh thế giới mới, tìm mọi cách phản kích phong trào cách mạng hòng giành lại những vị trí đã mất, đè bẹp phong trào giải phóng dân tộc và ngăn chặn sự phát triển của chủ nghĩa xã hội. Chúng ráo riết tăng cường quân sự, chạy đua vũ trang, phục hồi chủ nghĩa quân phiệt, lập hàng loạt căn cứ quân sự và các khối liên minh quân sự xâm lược, đẩy mạnh "chiến tranh lạnh" ở khắp nơi, hòng bao vây, uy hiếp, phá hoại và chia rẽ các nước xã hội chủ nghĩa. Đối với các nước thuộc địa và phụ thuộc cũ, bọn đế quốc, nhất là đế quốc Mỹ, thi hành chủ nghĩa thực dân mới bằng nhiều thủ đoạn vừa thô bạo, vừa tinh vi. Chúng âm mưu kìm giữ các nước mới trỗi dậy trong quỹ đạo của chủ nghĩa tư bản hòng chống lại ảnh hưởng to lớn của chủ nghĩa xã hội. Đó là chính sách của bọn đế quốc nhằm giành giật thị trường, nguồn nguyên liệu, nhiên liệu và khu vực đầu tư, đồng thời là một chính sách cơ bản của đế quốc Mỹ nhằm thực hiện âm mưu làm bá chủ thế giới.

ở Việt Nam, chủ nghĩa thực dân mới của Mỹ đã tỏ ra hết sức tàn bạo và xảo quyệt. Đế quốc Mỹ mưu toan đẩy lùi cách mạng Việt Nam hòng đảo ngược cục diện chung của thế giới. Nhưng sau hai mươi năm dính líu vào Việt Nam - trong đó gần mười năm quân viễn chinh Mỹ trực tiếp tham chiến - đế quốc Mỹ đã bị đánh cho tơi tả, phải chấp nhận thất bại và rút quân về nước. Chiến lược "phản ứng linh hoạt" của Mỹ đã bị phá sản hoàn toàn. Các khối liên minh quân sự do Mỹ dựng lên cái thì tan rã, cái thì lục đục. Địa vị quốc tế của Mỹ giảm sút hơn bao giờ hết.

Sau khi mất độc quyền về vũ khí hạt nhân, việc Mỹ thất bại trong chiến tranh xâm lược Việt Nam là một điều có ý nghĩa rất quan trọng. Thất bại đó đánh dấu một bước ngoặt đi xuống của đế quốc Mỹ. Từ chỗ là cường quốc đế quốc chủ nghĩa số một, Mỹ đã suy yếu nhiều về quân sự, chính trị, kinh tế, tài chính, kéo cả thế giới tư bản chủ nghĩa lún sâu vào một thời kỳ tổng khủng hoảng toàn diện và không phương cứu chữa.

Ba mươi năm sau Chiến tranh thế giới thứ hai, cục diện thế giới đã thay đổi nhanh chóng. Trong khi hệ thống tư bản chủ nghĩa quằn quại trong tổng khủng hoảng, thì các lực lượng xã hội chủ nghĩa, độc lập dân tộc, dân chủ và hoà bình lớn mạnh hẳn lên, và sau thắng lợi của cách mạng ba nước Việt Nam, Lào, Campuchia, đã xuất hiện một biến đổi mới trong lực lượng so sánh có lợi cho cách mạng, một bước phát triển mới trong cuộc đấu tranh của nhân dân thế giới vì hoà bình, độc lập dân tộc, dân chủ và chủ nghĩa xã hội. Xu thế phát triển của lịch sử rõ ràng là không thể đảo ngược. Tình hình cách mạng thế giới ngày nay thuận lợi hơn bao giờ hết, và đang đứng trước những triển vọng vô cùng tốt đẹp.

Cuộc sống ngày càng khẳng định tính hiện thực của khả năng ngăn ngừa chiến tranh thế giới, giữ gìn hoà bình lâu dài cho các dân tộc, của chính sách cùng tồn tại hoà bình giữa các nước có chế độ xã hội khác nhau. Thực tiễn cách mạng cũng chứng minh rằng hoà bình không phải chỉ là kết quả của phong trào dân chủ chống chiến tranh, mà chủ yếu là kết quả của phong trào đấu tranh cách mạng của tất cả các lực lượng chống đế quốc, của chiến lược tiến công đánh lùi từng bước, đánh đổ từng bộ phận chủ nghĩa đế quốc, phá tan từng chính sách chiến tranh, làm thất bại bất cứ loại chiến tranh nào do đế quốc gây ra, tiến tới làm thất bại toàn bộ chính sách gây chiến của chúng. Tất nhiên, bản chất xâm lược của chủ nghĩa đế quốc không thay đổi. Đế quốc Mỹ không từ bỏ chính sách vũ lực, không giảm bớt mà đang đẩy mạnh chạy đua vũ trang. Tình hình đó đòi hỏi các lực lượng cách mạng phải luôn luôn cảnh giác, kiên trì cuộc đấu tranh vì hoà bình, nhằm làm thất bại mọi âm mưu đen tối của bọn hiếu chiến.

Đấu tranh vì hoà bình là một nhiệm vụ chiến lược gắn liền chặt chẽ với các nhiệm vụ đấu tranh vì độc lập dân tộc, dân chủ và chủ nghĩa xã hội. Độc lập dân tộc là mục tiêu đầu tiên của nhân dân nhiều nước. Ngày nào còn chủ nghĩa đế quốc thì ngày đó vấn đề đấu tranh giải phóng dân tộc, bảo vệ độc lập dân tộc, thực hiện quyền dân tộc tự quyết và sự bình đẳng giữa các dân tộc vẫn là những vấn đề hàng đầu trong chương trình hành động của các lực lượng cách mạng thế giới. Nhất là ngày nay, bằng chính sách thực dân mới và chiến lược toàn cầu phản cách mạng, đế quốc Mỹ vẫn ra sức duy trì những thuộc địa và căn cứ quân sự của chúng trên thế giới, can thiệp ở nơi này, lật đổ ở nơi kia, xâm phạm chủ quyền các nước mới giải phóng và cả các nước "đồng minh" của Mỹ, đồng thời không ngừng tìm cách phá hoại các nước xã hội chủ nghĩa, thì độc lập dân tộc là một khẩu hiệu cách mạng, đáp ứng đúng yêu cầu bức thiết của nhân dân các nước trên thế giới.

Dân chủ là một yêu cầu rất quan trọng gắn liền với độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội. Trong các nước đang đấu tranh để vứt bỏ xiềng xích của chủ nghĩa thực dân, dân chủ là một nội dung cơ bản để động viên đông đảo quần chúng đứng lên chống đế quốc và bọn tay sai, vì thế dân chủ trước hết phải là dân chủ cho nhân dân lao động, lực lượng chủ yếu đấu tranh giành độc lập dân tộc. Trong các nước tư bản, đế quốc thì dân chủ là một khẩu hiệu cách mạng, là ngọn cờ tập hợp những lực lượng đông đảo trong nhân dân chung quanh giai cấp công nhân để đấu tranh, nhằm đánh lùi từng bước chủ nghĩa tư bản lũng đoạn nhà nước, giành thắng lợi bộ phận, tạo ra những tiền đề để tiến lên giành thắng lợi hoàn toàn cho chủ nghĩa xã hội.

Trong điều kiện lịch sử hiện nay, khi chủ nghĩa tư bản đã đi sâu vào giai đoạn tột cùng của nó, trở thành vật chướng ngại, lực lượng phản động trên con đường tiến lên của xã hội loài người, thì chủ nghĩa xã hội xuất hiện như là mục tiêu đấu tranh trực tiếp của tất cả các nước. Chưa bao giờ cách mạng xã hội chủ nghĩa lại có khả năng phát triển mạnh mẽ như ngày nay. Mọi phong trào độc lập dân tộc, dân chủ chân chính đều gắn liền với chủ nghĩa xã hội, đều hướng tới chủ nghĩa xã hội. Con đường tiến lên chủ nghĩa xã hội là con đường bảo đảm cho các dân tộc có độc lập thật sự và tránh khỏi rơi vào ách thống trị của chủ nghĩa thực dân mới. Đó cũng là con đường bảo đảm một nền dân chủ thật sự, dân chủ cho số đông người trong xã hội, vượt xa giới hạn của nền dân chủ tư sản đã lỗi thời.

Cuộc cách mạng mới về khoa học - kỹ thuật trên thế giới hiện nay mở ra những khả năng to lớn cho các nước xã hội chủ nghĩa tiến lên chiếm lĩnh những đỉnh cao mới trên con đường chinh phục thiên nhiên, nhằm xây dựng thắng lợi chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản, đồng thời tạo điều kiện cho các nước chậm phát triển, trên cơ sở độc lập về chính trị, có thể sử dụng những thành tựu khoa học, kỹ thuật hiện đại để nhanh chóng xoá bỏ nghèo nàn, lạc hậu, vượt qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa mà tiến thẳng lên chủ nghĩa xã hội.

Sức mạnh của thời đại chúng ta là sức mạnh tổng hợp của ba dòng thác cách mạng, những lực lượng đang quyết định nội dung chủ yếu, phương hướng chủ yếu và những đặc điểm chủ yếu của lịch sử phát triển của xã hội loài người, những lực lượng đang thúc đẩy sự quá độ của thế giới từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội. Dựa vào lực lượng của ba dòng thác cách mạng, tiếp tục vận dụng đúng đắn chiến lược tiến công, giai cấp công nhân và nhân dân lao động các nước nhất định sẽ đưa cao trào cách mạng hiện nay phát triển lên một bước mới, đánh lùi từng bước, đánh đổ từng bộ phận chủ nghĩa đế quốc, tiếp tục đẩy bánh xe lịch sử không ngừng tiến lên, giành những thắng lợi to lớn hơn nữa trong cuộc đấu tranh thực hiện những mục tiêu cao cả của thời đại chúng ta.

Con đường tất thắng của cách mạng mỗi nước là phải biết kết hợp lực lượng của bản thân mình với sức mạnh của thời đại và thế tiến công của các lực lượng cách mạng thế giới, để đề ra chiến lược, sách lược và phương pháp đấu tranh thích hợp với lực lượng so sánh và hoàn cảnh cụ thể ở nước mình. Song cuộc đấu tranh cho hoà bình, độc lập dân tộc, dân chủ và chủ nghĩa xã hội đòi hỏi phải xây dựng và phát triển mặt trận thống nhất của nhân dân thế giới chống chủ nghĩa đế quốc, một mặt trận hết sức rộng lớn, chĩa mũi nhọn đấu tranh vào tên đế quốc đầu sỏ là Mỹ. Trong cuộc đấu tranh nhằm giải quyết vấn đề "ai thắng ai" giữa chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa tư bản trên phạm vi toàn thế giới, việc khôi phục và củng cố đoàn kết trong hệ thống xã hội chủ nghĩa, trong phong trào cộng sản và công nhân quốc tế trên cơ sở chủ nghĩa Mác - Lênin và chủ nghĩa quốc tế vô sản là vấn đề có ý nghĩa cực kỳ quan trọng. Sứ mệnh cao cả của những người cộng sản là phấn đấu thực hiện sự đoàn kết đó nhằm thúc đẩy lịch sử tiến lên.

Cách mạng Việt Nam là một bộ phận khăng khít của cách mạng thế giới. Thắng lợi trọn vẹn của nhân dân ta trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước gắn liền với sự ủng hộ chí tình và sự giúp đỡ to lớn của anh em bầu bạn khắp năm châu. Một lần nữa, chúng ta bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc của Đảng, Nhà nước và nhân dân ta đối với Liên Xô, Trung Quốc, các nước xã hội chủ nghĩa anh em khác, đối với hai nước Lào và Campuchia anh em, đối với các Đảng Cộng sản và công nhân và đối với nhân dân tiến bộ trên toàn thế giới về sự ủng hộ và giúp đỡ quý báu đó. Thắng lợi của nhân dân ta góp phần xứng đáng vào thắng lợi chung và sự lớn mạnh không ngừng của các lực lượng cách mạng thế giới. Nó cũng tạo ra những thuận lợi mới cho Đảng, Nhà nước và nhân dân ta tiếp tục làm tròn nghĩa vụ quốc tế của mình.

Trong giai đoạn mới, Đảng, Nhà nước và nhân dân ta cần ra sức tranh thủ những điều kiện quốc tế thuận lợi để nhanh chóng hàn gắn những vết thương chiến tranh, khôi phục và phát triển kinh tế, phát triển văn hoá, khoa học, kỹ thuật, củng cố quốc phòng, xây dựng cơ sở vật chất - kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội ở nước ta; đồng thời tiếp tục kề vai sát cánh với các nước xã hội chủ nghĩa anh em và tất cả các dân tộc trên thế giới đấu tranh vì hoà bình, độc lập dân tộc, dân chủ và chủ nghĩa xã hội, chống chủ nghĩa đế quốc, đứng đầu là đế quốc Mỹ.

Chính sách đối ngoại của chúng ta là:

Ra sức củng cố và tăng cường tình đoàn kết chiến đấu và quan hệ hợp tác giữa nước ta với tất cả các nước xã hội chủ nghĩa anh em, làm hết sức mình để góp phần cùng các nước xã hội chủ nghĩa, phong trào cộng sản và công nhân quốc tế khôi phục và củng cố đoàn kết, tăng cường ủng hộ và giúp đỡ lẫn nhau, trên cơ sở chủ nghĩa Mác - Lênin và chủ nghĩa quốc tế vô sản, có lý, có tình, làm cho lý tưởng cao đẹp của chủ nghĩa Mác - Lênin ngày càng thắng lợi rực rỡ.

Ra sức bảo vệ và phát triển mối quan hệ đặc biệt giữa nhân dân Việt Nam với nhân dân Lào và nhân dân Campuchia, tăng cường tình đoàn kết chiến đấu, lòng tin cậy, sự hợp tác lâu dài và giúp đỡ lẫn nhau về mọi mặt giữa nước ta với hai nước anh em, trên nguyên tắc hoàn toàn bình đẳng, tôn trọng độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của nhau, tôn trọng lợi ích chính đáng của nhau, làm cho ba nước vốn đã gắn bó với nhau trong công cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc sẽ mãi mãi gắn bó với nhau trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ đất nước, vì độc lập và phồn vinh của mỗi nước.

Hoàn toàn ủng hộ sự nghiệp đấu tranh chính nghĩa của nhân dân các nước Đông Nam châu á vì độc lập dân tộc, dân chủ, hoà bình và trung lập thật sự, không có căn cứ quân sự và quân đội của đế quốc trên đất nước mình; sẵn sàng thiết lập và phát triển quan hệ hữu nghị và hợp tác với các nước trong khu vực này trên cơ sở tôn trọng độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ của nhau, không xâm lược nhau, không can thiệp vào công việc nội bộ của nhau, bình đẳng và cùng có lợi, cùng tồn tại trong hoà bình.

Hoàn toàn ủng hộ cuộc đấu tranh của nhân dân các nước châu á, châu Phi, châu Mỹ latinh chống chủ nghĩa đế quốc, chủ nghĩa thực dân cũ và mới, chủ nghĩa phân biệt chủng tộc, vì độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội; thắt chặt tình đoàn kết hữu nghị và quan hệ hợp tác, giúp nhau về mọi mặt giữa nước ta với các nước đang phát triển; góp phần tích cực vào cuộc đấu tranh của phong trào các nước không liên kết chống chính sách xâm lược và lũng đoạn của chủ nghĩa đế quốc, nhằm bảo vệ độc lập, tự do, giành lại quyền làm chủ vĩnh viễn tài nguyên thiên nhiên của mình và thiết lập một trật tự kinh tế quốc tế mới trên cơ sở tôn trọng chủ quyền dân tộc.

Hoàn toàn ủng hộ sự nghiệp chính nghĩa của giai cấp công nhân và nhân dân lao động các nước tư bản chủ nghĩa đang ra sức xây dựng mặt trận thống nhất rộng rãi, chĩa mũi nhọn đấu tranh vào bọn tư bản lũng đoạn trong nước và nước ngoài, giành quyền dân sinh, dân chủ, tiến bộ xã hội, bảo vệ độc lập dân tộc và bảo vệ hoà bình thế giới, giành thắng lợi từng bước, tiến lên giành thắng lợi hoàn toàn cho chủ nghĩa xã hội.

Thiết lập và mở rộng quan hệ bình thường giữa nước ta với tất cả các nước khác trên cơ sở tôn trọng độc lập, chủ quyền, bình đẳng và cùng có lợi.

Kiên quyết cùng các nước anh em và nhân dân tiến bộ trên thế giới tiếp tục chung sức đấu tranh chống chính sách xâm lược và gây chiến của bọn đế quốc, đứng đầu là đế quốc Mỹ, góp phần tích cực vào sự nghiệp giữ gìn và củng cố hoà bình trên thế giới.

Trung thành với chủ nghĩa Mác - Lênin, Đảng ta không ngừng giáo dục đảng viên và nhân dân ta thấm nhuần những tình cảm cách mạng trong sáng của Hồ Chủ tịch, tiếp tục giương cao ngọn cờ độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, kết hợp nhuần nhuyễn chủ nghĩa yêu nước chân chính với chủ nghĩa quốc tế vô sản, chống mọi khuynh hướng cơ hội chủ nghĩa và mọi biểu hiện của chủ nghĩa dân tộc tư sản và tiểu tư sản, giữ vững độc lập tự chủ, ra sức làm tròn nhiệm vụ đối với dân tộc và làm tốt nghĩa vụ quốc tế đối với nhân dân các nước.

VII - Nâng cao vai trò lãnh đạo và sức chiến đấu của đảng

Thưa các đồng chí,

Lịch sử nước ta trong nửa thế kỷ nay là thời kỳ của những cao trào cách mạng nối tiếp nhau, của những cuộc khởi nghĩa, những cuộc chiến tranh cách mạng, của những quá trình cải tạo và xây dựng trong hoàn cảnh vừa có chiến tranh, vừa có hoà bình. Vài chục năm lại đây, Việt Nam là một trong những tiêu điểm của sự kết hợp các trào lưu cách mạng của thời đại chúng ta.

Đảng ta đứng ở trung tâm các sự kiện vĩ đại ấy, và cũng chính trong lò lửa các sự kiện ấy mà Đảng ngày càng được tôi luyện và không ngừng lớn lên. Đảng đã lãnh đạo ba cao trào cách mạng12 dẫn tới Cách mạng Tháng Tám thành công; đã tổ chức thắng lợi hai cuộc kháng chiến thần thánh của dân tộc; đã cùng một lúc điều khiển hai chiến lược cách mạng: cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân và cách mạng xã hội chủ nghĩa; đã lãnh đạo nhân dân ta vừa làm nhiệm vụ dân tộc, vừa làm nghĩa vụ quốc tế. Những kẻ thù mà cách mạng phải đương đầu và đã chiến thắng gồm đủ loại: trong nước và ngoài nước, phong kiến và đế quốc, thực dân cũ và thực dân mới, những thế lực phản động quốc tế lớn mạnh nhất, kể cả tên đế quốc đầu sỏ. Cách mạng đã phải đối phó và đập tan đủ loại chiến lược, chiến thuật nham hiểm về chính trị, quân sự và tư tưởng của kẻ thù.

Đảng ta sở dĩ lãnh đạo được nhân dân làm nên những sự nghiệp vĩ đại ấy, trước hết là nhờ nắm vững chủ nghĩa Mác - Lênin, tuyệt đối trung thành với chủ nghĩa Mác - Lênin. Đảng nắm chủ nghĩa Mác - Lênin không phải trên câu chữ mà từ trong thực chất cách mạng và khoa học vốn là hai đặc tính căn bản kết hợp làm một trong bản thân chủ nghĩa Mác - Lênin. Đảng biết quán triệt đặc tính căn bản ấy của chủ nghĩa Mác - Lênin trong hoạt động chính trị, tư tưởng và tổ chức của mình, trong đường lối cách mạng và phương pháp cách mạng, trong toàn bộ cuộc đấu tranh của Đảng ở tất cả các thời kỳ. Chính điều đó cũng cắt nghĩa vì sao Đảng ta, mặc dù sinh ra và lớn lên ở một nước nông nghiệp lạc hậu, vốn là thuộc địa và nửa phong kiến, giai cấp công nhân còn rất ít ỏi, song trước sau vẫn giữ vững tính chất của một đảng của giai cấp công nhân.

Giương cao ngọn cờ độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, đường lối đó là sợi chỉ đỏ xuyên suốt toàn bộ lịch sử cách mạng Việt Nam từ khi có Đảng, là ngọn cờ bách chiến bách thắng của cách mạng Việt Nam. Với đường lối cơ bản ấy, Đảng đã giải quyết đúng một loạt vấn đề về chiến lược và sách lược trong cách mạng dân tộc dân chủ cũng như trong cách mạng xã hội chủ nghĩa. Lịch sử cách mạng Việt Nam từ khi có Đảng không những phát triển trên cơ sở đường lối đúng đắn mà còn là một lịch sử phong phú về hình thức và phương pháp đấu tranh. Hoạt động bí mật và hoạt động công khai, đấu tranh hợp pháp và đấu tranh không hợp pháp, đấu tranh quần chúng và hoạt động nghị trường, đấu tranh chính trị, đấu tranh quân sự và đấu tranh ngoại giao, khởi nghĩa từng phần và tổng khởi nghĩa, chiến tranh du kích và chiến tranh chính quy, v.v.. Đảng ta đã vận dụng các phương pháp vốn có trong kho tàng kinh nghiệm đấu tranh cách mạng của giai cấp vô sản thế giới một cách sáng tạo, thích hợp với những điều kiện cụ thể của nước ta.

Cách mạng là sáng tạo bởi vì chân lý luôn luôn là cụ thể. Quán triệt tinh thần ấy, Đảng ta bao giờ cũng lấy thực tiễn của cách mạng Việt Nam, lấy hiện thực sinh động của xã hội Việt Nam làm điểm xuất phát trong việc vận dụng những nguyên lý của chủ nghĩa Mác - Lênin. Chính nhờ có đường lối và phương pháp cách mạng được đề ra một cách độc lập và sáng tạo, mà cách mạng Việt Nam mới thu được thắng lợi to lớn như ngày nay.

Thưa các đồng chí,

Giai đoạn mới của cách mạng đặt Đảng ta trước những trách nhiệm mới hết sức nặng nề là lãnh đạo nhân dân tiến hành cách mạng xã hội chủ nghĩa trong cả nước, xây dựng trên Tổ quốc ta một xã hội phát triển cao, có cuộc sống tốt đẹp nhất trong lịch sử dân tộc.

Nhiệm vụ trước hết là vạch ra được một cương lĩnh, một chương trình hành động có đủ căn cứ khoa học, phù hợp với tình hình nước ta. Nhiệm vụ này không đơn giản. Đảng ta, hơn hai mươi năm qua, nhất là từ Đại hội lần thứ III đến nay, đã có những cố gắng lớn về mặt này. Ngày nay, khi nước nhà đã hoàn toàn độc lập và thống nhất, những vấn đề về xây dựng chủ nghĩa xã hội đặt ra với tất cả chiều sâu, tầm cỡ rộng lớn và tính cụ thể của nó. Điều đó đòi hỏi Đảng phải có sự nỗ lực đặc biệt trong công tác lý luận. Những nghị quyết của Đại hội toàn quốc lần thứ IV này của Đảng thể hiện sự cố gắng đó của toàn Đảng, đem lại những giải đáp căn bản cho các vấn đề đặt ra trên con đường cách mạng xã hội chủ nghĩa trong cả nước. Quá trình thực hiện nghị quyết của Đại hội chắc chắn sẽ tiếp tục làm sáng tỏ hơn nữa, cụ thể hoá và phát triển hơn nữa đường lối của Đảng.

Cuộc đấu tranh để thực hiện thắng lợi các nghị quyết của Đại hội đòi hỏi Đảng phải thật vững mạnh. Đảng ta, toàn thể cán bộ, đảng viên chẳng những phải có trình độ nhận thức ngày càng cao hơn, đặc biệt là về phương pháp lý luận, về các quy luật kinh tế và quy luật đấu tranh giai cấp trong điều kiện Đảng lãnh đạo chính quyền, mà còn phải có năng lực mới trong lĩnh vực tổ chức thực tiễn của cách mạng xã hội chủ nghĩa, lĩnh vực mà hiện nay Đảng ta còn nhiều nhược điểm.

Đảng phải mạnh trong toàn bộ cơ thể của mình từ các cơ quan đầu não đến các tế bào cơ sở, bảo đảm cho mọi đường lối, chính sách của Đảng thông suốt từ trên xuống dưới, từ trong Đảng đến các cơ quan nhà nước và các đoàn thể quần chúng, đến nhân dân đông đảo.

Trong mười sáu năm qua, công tác xây dựng Đảng đã có những thành tích lớn. Việc Đảng ta giải quyết đúng đắn và sáng tạo những vấn đề về đường lối chống Mỹ, cứu nước và xây dựng chủ nghĩa xã hội, về quan hệ quốc tế, là biểu hiện sự thành công của việc xây dựng Đảng về chính trị. Công tác tư tưởng đã có tác dụng nâng cao trình độ giác ngộ chính trị, sự hiểu biết về lý luận, về đường lối của Đảng, phát huy nhiệt tình cách mạng của cán bộ, đảng viên, khắc phục có hiệu quả những quan điểm sai lầm. Trong công tác tổ chức, chúng ta đã mở rộng hàng ngũ Đảng, phát triển cơ sở Đảng rộng khắp, đào tạo và bồi dưỡng một đội ngũ cán bộ đông đảo, điều động và phân bổ trên quy mô lớn lực lượng cán bộ, đảng viên, đáp ứng về cơ bản những nhu cầu cấp bách về tổ chức và cán bộ trong quá trình phát triển của cách mạng nước ta. ở miền Nam, trong chiến đấu ác liệt với quân thù mấy chục năm qua, nhiều cơ sở Đảng bị tổn thất, hàng chục vạn cán bộ, đảng viên bị hy sinh, tù đày, nhưng cơ sở Đảng vẫn ăn sâu bám chắc trong quần chúng. Từ sau ngày hoàn toàn giải phóng, tổ chức cơ sở Đảng được mở rộng nhanh chóng, các tỉnh uỷ, huyện uỷ, đảng uỷ cơ sở đã được tăng cường một bước, bảo đảm sự lãnh đạo thống nhất và mau lẹ từ trung ương xuống địa phương. Đường lối đúng của Đảng đã quyết định phương hướng đúng của công tác tư tưởng và tổ chức; ngược lại, những thành công trong lĩnh vực tư tưởng và tổ chức đã bảo đảm cho đường lối được thực hiện thắng lợi.

Bên cạnh những thành tích to lớn trên đây, công tác xây dựng Đảng cũng còn khuyết điểm và thiếu sót. Một thiếu sót và nhược điểm lớn là chưa thấu suốt đầy đủ, trong nhận thức và trong thực tiễn, lý luận về xây dựng Đảng trong điều kiện Đảng lãnh đạo Nhà nước tiến hành cách mạng xã hội chủ nghĩa. Từ thiếu sót lớn đó đẻ ra nhiều thiếu sót và khuyết điểm khác. Chủ nghĩa kinh nghiệm về xây dựng Đảng và về phương thức lãnh đạo của Đảng đang gây trở ngại cho việc nâng cao sức chiến đấu của Đảng ở nhiều nơi. Một số hình thức tổ chức, phương pháp công tác không thích hợp nữa, nhưng vẫn chưa được cải tiến. Việc tổ chức thi hành nhiều nghị quyết của Trung ương về xây dựng Đảng, về công tác cán bộ chưa thật kiên quyết và triệt để. Công tác phát triển Đảng có lúc còn lỏng lẻo, kết nạp cả một số người không đủ tiêu chuẩn. Công tác giáo dục chính trị, tư tưởng thiếu sắc bén, không kịp thời; việc nâng cao trình độ lý luận, chính trị và nghiệp vụ cho cán bộ, đảng viên làm chậm; việc tự phê bình và phê bình để ngăn ngừa và đấu tranh chống các mặt tiêu cực chưa được thực hiện đúng mức. Kỷ luật Đảng chưa được chấp hành nghiêm minh, không kịp thời đưa những phần tử thoái hoá và lạc hậu ra khỏi Đảng. Nhiều cấp uỷ và cán bộ lãnh đạo coi nhẹ công tác xây dựng Đảng. Những khuyết điểm nói trên có phần ảnh hưởng không tốt đến sức chiến đấu của Đảng.

Những kinh nghiệm phong phú tích luỹ được qua thực tiễn xây dựng Đảng trong những năm qua cho phép chúng ta nêu lên mấy phương châm lớn chỉ đạo công tác xây dựng Đảng sau đây:

Thứ nhất, phải xây dựng Đảng vững mạnh về cả ba mặt: chính trị, tư tưởng và tổ chức. Ba mặt ấy gắn liền với nhau, quyết định lẫn nhau. Xây dựng Đảng về tư tưởng và về tổ chức phải kết hợp chặt chẽ với nhau, phải xuất phát từ đường lối và nhiệm vụ chính trị, đồng thời bảo đảm cho đường lối và nhiệm vụ chính trị được xác định đúng, được thấu suốt và thực hiện đầy đủ.

Thứ hai, phải qua phong trào cách mạng của quần chúng, qua việc xây dựng chế độ làm chủ tập thể của quần chúng mà tiến hành công tác xây dựng Đảng; tổ chức cho quần chúng tham gia xây dựng Đảng, góp phần kiểm tra sự hoạt động của Đảng, kiểm tra công tác và phẩm chất của cán bộ, đảng viên.

Thứ ba, khi đã lãnh đạo chính quyền thì sức mạnh của Đảng nằm trong sức mạnh tổng hợp của hệ thống chuyên chính vô sản. Việc xây dựng Đảng, tăng cường sức chiến đấu của Đảng, vì vậy, phải gắn liền với việc kiện toàn tổ chức và nâng cao năng lực của Nhà nước, gắn liền với việc xây dựng và củng cố các tổ chức quần chúng.

Thứ tư, việc nâng cao chất lượng cán bộ, đảng viên phải kết hợp với việc nâng cao chất lượng của chi bộ và đảng bộ cơ sở, với việc tăng cường cơ quan lãnh đạo và kiện toàn bộ máy tổ chức ở từng cấp, từng ngành. Tổ chức mạnh là điều kiện để cho từng người mạnh, từng người mạnh lại là điều kiện để tổ chức mạnh.

Thứ năm, trong công tác phát triển Đảng, phải coi trọng chất lượng, chống khuynh hướng chạy theo số lượng đơn thuần; phát triển Đảng luôn luôn đi đôi với củng cố Đảng. Một mặt, kết nạp những người thật sự ưu tú, đủ tiêu chuẩn; mặt khác, kịp thời đưa ra khỏi Đảng những phần tử thoái hoá, biến chất. Cảnh giác đề phòng những phần tử xấu, phản động, xu thời, vụ lợi chui vào Đảng.

Tăng cường các tổ chức cơ sở của Đảng là nhiệm vụ quan trọng đặc biệt trong công tác xây dựng Đảng. Chi bộ, đảng bộ cơ sở là những đơn vị chiến đấu cơ bản, là những tế bào của Đảng, là nơi biến đường lối, chính sách của Đảng thành hành động cách mạng của đảng viên và quần chúng, là nơi rèn luyện đảng viên và cán bộ; là nơi Đảng tiếp xúc hằng ngày với nhân dân, tìm hiểu tâm tư, tình cảm và nguyện vọng của nhân dân. Chi bộ, đảng bộ cơ sở mạnh hay không mạnh, một việc làm của chi bộ, đảng bộ cơ sở, của đảng viên tốt hay không tốt, đúng hay sai đều tác động trực tiếp đến đời sống vật chất, tinh thần và có khi đến cả sinh mệnh chính trị của người dân, đến lòng tin của nhân dân đối với Đảng.

Ngày nay, tổ chức cơ sở Đảng được xây dựng và hoạt động ăn khớp với các đơn vị cơ sở của tổ chức Nhà nước và của nền kinh tế quốc dân. Trên cơ sở những nguyên tắc chung thống nhất, các tổ chức cơ sở Đảng ở các lĩnh vực hoạt động khác nhau có thể có những hình thức tổ chức và nội dung, phương pháp lãnh đạo khác nhau, phù hợp với tính chất và phạm vi công tác của từng đơn vị. Đảng bộ cơ sở nói chung có trách nhiệm quyết định các chủ trương và biện pháp công tác quan trọng của đơn vị nhằm thực hiện đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước, những nhiệm vụ do cấp trên đề ra. Tiến hành công tác chính trị, tư tưởng và tổ chức nhằm thu hút toàn thể đảng viên và quần chúng tham gia tích cực vào việc vạch ra và thực hiện thắng lợi các nhiệm vụ, kế hoạch công tác của đơn vị; kiểm tra hoạt động của cán bộ, đảng viên trong việc vận dụng, chấp hành đường lối, chính sách của Đảng, Hiến pháp và pháp luật của Nhà nước. Toàn bộ hoạt động của tổ chức cơ sở Đảng phải nhằm mục tiêu thúc đẩy phong trào quần chúng tiến hành ba cuộc cách mạng, bảo đảm hoàn thành các nhiệm vụ của đơn vị, qua những hoạt động thực tiễn ấy mà xây dựng tổ chức Đảng vững mạnh. Không thể thừa nhận một chi bộ, một đảng bộ cơ sở là tốt nếu ở đó ba cuộc cách mạng làm không tốt, nếu sản xuất không lên, năng suất lao động không tăng, nghĩa vụ đối với Nhà nước không hoàn thành, quyền làm chủ của quần chúng bị xâm phạm, đời sống quần chúng về mọi mặt không được ổn định và nâng cao dần, những nguyên tắc tổ chức và sinh hoạt nội bộ của chi bộ, không được thực hiện tốt, v.v..

Vấn đề mấu chốt hiện nay để tăng cường sức chiến đấu của tổ chức cơ sở Đảng là phải ra sức nâng cao trình độ chính trị, lý luận, văn hoá và năng lực công tác thực tiễn của đảng viên, xây dựng tốt đội ngũ cốt cán, đồng thời cải tiến phương thức hoạt động của đảng bộ cơ sở. Đảng bộ cơ sở, trước hết là Ban Chấp hành đảng bộ, phải xác định nhiệm vụ chính trị của đảng bộ và có kế hoạch thực hiện tốt nhiệm vụ ấy; phải hiểu rõ và giải quyết đúng mối quan hệ giữa Đảng, Nhà nước và nhân dân; vừa nắm chắc chức năng lãnh đạo chính trị và kiểm tra của Đảng, vừa phát huy quyền lực của các cơ quan chính quyền, tôn trọng chế độ quản lý của Nhà nước, tôn trọng và phát huy vai trò của các đoàn thể trong việc tổ chức thực hiện từng nhiệm vụ cụ thể.

Cần cải tiến sinh hoạt của các chi bộ và đảng bộ cơ sở. Các cuộc hội nghị chi bộ, đảng bộ phải có nội dung chính trị cụ thể và phong phú; phải thảo luận các vấn đề về đường lối, chính sách của Đảng, về nhiệm vụ của địa phương hoặc đơn vị, về kế hoạch tổ chức thực hiện những nhiệm vụ đó, phân công, phân nhiệm rõ ràng cho từng cán bộ, đảng viên, kiểm điểm kết quả công tác của chi bộ và của từng đảng viên. Phấn đấu tạo ra trong các tổ chức Đảng, trong hoạt động hằng ngày cũng như trong các hội nghị Đảng, một không khí sôi nổi, đầy sức chiến đấu, phát huy được trí tuệ tập thể, sáng kiến và ý thức trách nhiệm cao của mọi đảng viên.

Cùng với việc xây dựng tổ chức Đảng ở cơ sở, cần coi trọng việc kiện toàn bộ máy của Đảng ở các cấp. Các tỉnh, thành là những đơn vị kinh tế và hành chính có quy mô tương đối lớn, có tầm quan trọng chiến lược về nhiều mặt; vì vậy, các tỉnh uỷ, thành uỷ phải mạnh, không những có khả năng vận dụng đúng đắn và sáng tạo đường lối, chính sách của Đảng mà còn có khả năng góp phần với Trung ương xây dựng đường lối, chính sách. Tầm quan trọng của cấp huyện đang ngày càng tăng lên với việc từng bước xây dựng huyện thành đơn vị kinh tế nông - công nghiệp. Các huyện uỷ phải được tăng cường để đủ sức lãnh đạo xây dựng và phát triển kinh tế, văn hoá, đưa nông nghiệp lên sản xuất lớn xã hội chủ nghĩa, nâng cao đời sống nhân dân trong huyện.

Ngày nay, cấp uỷ Đảng phải là một tập thể có kinh nghiệm về công tác lãnh đạo chính trị, xây dựng Đảng, vận động quần chúng, có trình độ lý luận và những kiến thức cần thiết về kinh tế, văn hoá, khoa học và kỹ thuật. Sức mạnh của cấp uỷ trước hết là sức mạnh chung của tập thể. Mỗi người trong cấp uỷ phải có đủ tiêu chuẩn về phẩm chất chính trị và năng lực công tác phù hợp với vị trí và nhiệm vụ của mình. Đại hội Đảng các cấp nhất thiết phải được tiến hành đúng kỳ hạn và qua các đại hội, các cấp uỷ Đảng cần được đổi mới, thành phần công nhân phải được chú ý tăng thêm.

Thực hiện triệt để nguyên tắc tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách trong cấp uỷ. Tạo mọi điều kiện cần thiết để mỗi cấp uỷ viên có thể tham gia đầy đủ vào việc bàn bạc, quyết định các chủ trương; định rõ nhiệm vụ, quyền hạn và trách nhiệm cụ thể của từng người. Phải hết sức tránh biến Ban thường vụ thành một cấp đứng trên cấp uỷ, tránh lối cá nhân độc đoán, chuyên quyền; đồng thời, tránh lối ỷ lại vào tập thể, sợ trách nhiệm, không dám quyết đoán.

Các cấp uỷ cần ra sức khắc phục nhược điểm về mặt lãnh đạo tổ chức, cố gắng sửa đổi nhanh lề lối làm việc; tìm tòi những hình thức và phương pháp công tác mới, khoa học, có hiệu quả, khắc phục lối làm việc thủ công nghiệp. Cấp uỷ Đảng phải biết xây dựng và ngày càng hoàn thiện hệ thống thông tin nội bộ, dành một phần quan trọng thì giờ và công sức vào công tác điều tra, nghiên cứu, làm thử, xây dựng điển hình, tổng kết kinh nghiệm. Tổ chức chu đáo, thường xuyên và có hệ thống công tác kiểm tra việc thực hiện đường lối, chính sách, ngăn ngừa xảy ra sai lầm, ngăn ngừa các vụ vi phạm nguyên tắc. Không kiểm tra coi như không lãnh đạo.

Năng lực lãnh đạo của Đảng, sức chiến đấu của Đảng, phụ thuộc một cách quyết định vào chất lượng đội ngũ đảng viên. Sự giác ngộ về lý tưởng cộng sản chủ nghĩa - phẩm chất hàng đầu của người đảng viên - ngày nay phải được biểu hiện cụ thể, trực tiếp hằng ngày ở vai trò tiên phong của người đảng viên trong ba cuộc cách mạng. Đảng viên phải tiêu biểu cho con người mới, gương mẫu trong lao động, trong công tác và trong lối sống, bảo vệ tài sản xã hội chủ nghĩa, có lập trường kiên định trong việc thực hiện đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước; luôn luôn giữ vững ý chí chiến đấu, nâng cao cảnh giác cách mạng đối với kẻ thù giai cấp; đấu tranh không khoan nhượng chống mọi hành vi đi ngược lại lợi ích của chủ nghĩa xã hội. Hoàn toàn không xứng đáng là đảng viên cộng sản nếu chỉ bo bo vun vén cho lợi ích riêng, giữ thái độ tiêu cực, thờ ơ trước các nhiệm vụ xã hội và lợi ích xã hội chủ nghĩa.

Đảng viên chẳng những phải có tinh thần chiến đấu cách mạng cao mà còn phải có tri thức, có đủ năng lực hoàn thành nhiệm vụ. Đảng viên phải ra sức học tập để nâng cao không ngừng trình độ lý luận Mác - Lênin, sự hiểu biết về đường lối, chính sách của Đảng, trình độ văn hoá, khoa học và nghiệp vụ chuyên môn, để bất kỳ hoạt động trong lĩnh vực nào cũng tỏ rõ là người lao động tự giác, có năng suất lao động và hiệu suất công tác cao, đồng thời làm tròn nhiệm vụ người lãnh đạo. Gần gũi và thương yêu nhân dân, tin tưởng ở nhân dân, tôn trọng quyền làm chủ tập thể và chăm lo đời sống của nhân dân; biết giải thích cho nhân dân hiểu đường lối, chính sách của Đảng, lắng nghe ý kiến của nhân dân, tự mình làm gương và biết lôi cuốn quần chúng làm theo; tìm tòi, học hỏi những kinh nghiệm của quần chúng trong việc thực hiện nhiệm vụ cách mạng, đó là những yêu cầu không thể thiếu được đối với đảng viên. Thói quan liêu, độc đoán chuyên quyền, đặc quyền, đặc lợi là kẻ thù nguy hiểm đối với một đảng lãnh đạo chính quyền.

Ý thức tổ chức, kỷ luật là điều đòi hỏi đầu tiên đối với một chiến sĩ cộng sản. Trình độ giác ngộ chính trị, đạo đức cách mạng, lập trường giai cấp của đảng viên phải thể hiện trong thực tiễn bằng sự gắn bó với tổ chức, bằng việc nghiêm chỉnh thực hiện đúng đường lối, chính sách và Điều lệ Đảng, các nghị quyết của Đảng, gương mẫu tuân theo pháp luật Nhà nước và kỷ luật của các đoàn thể. Một đảng chiến đấu, một đảng hành động cách mạng, đặc biệt là trong điều kiện chuyên chính vô sản, không thể dung túng trong hàng ngũ mình những phần tử vô kỷ luật, tự đặt mình trên tổ chức, ra ngoài tổ chức.

Đảng phải luôn luôn tiếp thụ được sinh lực mới. Lớp lớp công nhân, nông dân tập thể, trí thức xã hội chủ nghĩa, nhất là thanh niên nam, nữ thuộc các giai cấp và tầng lớp ấy, những người lao động hăng hái, dũng cảm, thiết tha yêu Tổ quốc và yêu chủ nghĩa xã hội, có kiến thức chính trị, văn hoá, đã được rèn luyện, thử thách trong thực tiễn cách mạng, là nguồn bổ sung dồi dào cho đội ngũ cán bộ, đảng viên của Đảng. Trong nhiều vùng mới giải phóng ở miền Nam, số lượng đảng viên còn ít, việc mở rộng hàng ngũ Đảng là cần thiết. Song công tác phát triển Đảng cần được chỉ đạo thật chặt chẽ. Qua phong trào cách mạng của quần chúng, phát hiện những người ưu tú, giáo dục, bồi dưỡng để kết nạp những người thật sự giác ngộ lý tưởng của Đảng, hăng say lao động, liên hệ chặt chẽ với quần chúng. Trước hết phải nhằm vào những người ưu tú trong giai cấp công nhân, nhất là công nhân đại công nghiệp; đồng thời, lựa chọn những người ưu tú trong nông dân lao động, những cán bộ, chiến sĩ ưu tú trong các lực lượng vũ trang nhân dân. Những người trí thức ưu tú đã được rèn luyện, thử thách trong thực tiễn cách mạng cũng cần được chú ý bồi dưỡng để kết nạp vào Đảng. Tránh khuynh hướng hẹp hòi, nhưng cần tỉnh táo đề phòng những phần tử cơ hội muốn vào Đảng để có chức, có quyền, có thế. Đặc biệt đề phòng những thủ đoạn của bọn phản động, bọn gián điệp tìm cách chui vào Đảng. Việc kết nạp đảng viên nhất thiết phải theo đúng tiêu chuẩn, đúng thủ tục quy định trong Điều lệ.

Mặt khác, phải kiên quyết và kịp thời loại ra khỏi Đảng những phần tử thoái hoá, biến chất, những kẻ đã mất hết tinh thần chiến đấu cách mạng, những phần tử chui vào Đảng để mưu đồ lợi ích riêng, những kẻ lợi dụng chức quyền để ức hiếp quần chúng, xâm phạm tài sản xã hội chủ nghĩa, những kẻ chia rẽ, bè phái.

Những đảng viên trình độ giác ngộ chính trị quá kém, không có tác dụng lãnh đạo, sau khi đã được giúp đỡ tích cực mà không thấy tiến bộ, cũng cần đưa ra khỏi Đảng. Mỗi đảng bộ phải có những biện pháp tích cực nhất để bồi dưỡng tinh thần chiến đấu cách mạng, nhanh chóng nâng cao trình độ chính trị, văn hoá của đảng viên.

Xây dựng đội ngũ cán bộ của Đảng và Nhà nước mạnh cả về chất lượng lẫn số lượng, có đủ khả năng hoàn thành những nhiệm vụ cách mạng trong giai đoạn mới là công tác rất quan trọng và rất cấp bách hiện nay. Đảng phải có chính sách cán bộ phù hợp với đòi hỏi của giai đoạn mới; phải cải tiến công tác lựa chọn, đào tạo, bồi dưỡng và sử dụng cán bộ, xây dựng được một đội ngũ cán bộ tiêu biểu cho đường lối chính trị do Đại hội lần thứ IV của Đảng đề ra, kiên quyết phấn đấu và đủ sức phấn đấu cho sự thực hiện thắng lợi đường lối đó.

Chất lượng người cán bộ là sự thống nhất giữa phẩm chất chính trị và năng lực công tác, thể hiện ở kết quả hoàn thành nhiệm vụ. Không thể tách rời và đối lập yêu cầu về phẩm chất chính trị với yêu cầu về năng lực công tác, vì thiếu một mặt nào cũng là không đủ tiêu chuẩn người cán bộ của Đảng và Nhà nước, nhất là đối với cán bộ lãnh đạo và quản lý.

Phẩm chất chính trị vừa là lòng trung thành, tận tuỵ, đức tính hy sinh, vừa là ý thức nhạy bén và sáng suốt về chính trị, tính chủ động, tích cực và tinh thần trách nhiệm cao đối với nhiệm vụ của mình và đối với sự nghiệp cách mạng, lòng tin tưởng vững chắc vào đường lối của Đảng, tinh thần kiên định trong đấu tranh để bảo vệ và thực hiện đường lối đó. Cách mạng càng tiến lên thì càng đòi hỏi người cán bộ phải nâng cao không ngừng trình độ lý luận Mác - Lênin, sự hiểu biết về đường lối, chính sách của Đảng, kiến thức chuyên môn và năng lực tổ chức thực tiễn. Người cán bộ lãnh đạo và quản lý không thể thiếu những hiểu biết cần thiết về sản xuất, về khoa học và kỹ thuật, về tổ chức và quản lý, phải sát quần chúng, hiểu rõ tâm tư, nguyện vọng của quần chúng, sát thực tiễn và nhạy bén với thực tiễn, với những vấn đề mới nảy sinh trong cuộc sống, có cách xem xét đúng và giải quyết đúng các vấn đề ấy.

Đảng, Nhà nước và các đoàn thể quần chúng phải tổ chức việc giáo dục lý luận, chính trị, bồi dưỡng và nâng cao nhanh chóng trình độ và năng lực công tác của các loại cán bộ, trước hết là cán bộ lãnh đạo, cán bộ quản lý và những cán bộ đã hoạt động nhiều năm mà chưa có điều kiện học tập. Cùng với việc tăng cường hệ thống trường Đảng ở các cấp, cần mở nhiều loại trường, lớp về tổ chức và quản lý kinh tế, về đào tạo các kỹ sư kinh tế; phát triển mạnh các trường bổ túc văn hoá cho cán bộ, tổ chức rộng rãi việc phổ biến kiến thức khoa học và kỹ thuật bằng những hình thức thích hợp và có hiệu quả. Đối với mỗi cán bộ, ngày nay việc học tập chính trị, lý luận, văn hoá, khoa học, kỹ thuật và nghiệp vụ đã trở thành một nghĩa vụ cấp bách. Thoả mãn với những kinh nghiệm và kiến thức cũ, không cố gắng vươn lên nắm lấy những tri thức mới thì khó tránh khỏi sai lầm trong công tác và chắc chắn không thể làm tròn nhiệm vụ trong giai đoạn mới.

Để đáp ứng nhu cầu ngày càng lớn về cán bộ hiện nay và sắp tới, cùng với việc ra sức bồi dưỡng, nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ hiện có, cần gấp rút đào tạo, bổ sung hàng loạt cán bộ mới, trẻ, xuất thân từ công nhân, nông dân lao động và trí thức cách mạng. Phải hết sức chú ý tăng thành phần công nhân trong đội ngũ cán bộ lãnh đạo, cán bộ quản lý. Phải rất coi trọng việc đào tạo, bồi dưỡng, cất nhắc cán bộ dân tộc ít người, cán bộ nữ, trong công tác lãnh đạo, quản lý cũng như trong công tác khoa học, kỹ thuật. Mạnh dạn giao việc, cất nhắc những cán bộ mới, trẻ đã được thử thách trong công tác, là một trong những nhiệm vụ và biện pháp quan trọng nhất hiện nay để kiện toàn, đổi mới đội ngũ cán bộ của Đảng và Nhà nước. Phải có cách nhìn đúng, sự đánh giá đúng khả năng của lực lượng trẻ, chống thái độ hẹp hòi của một số cán bộ, đảng viên. Mỗi cấp uỷ, mỗi chi bộ, mỗi đảng viên đều có trách nhiệm tìm tòi, phát hiện, lựa chọn đào tạo cán bộ mới nhằm đáp ứng nhiệm vụ trước mắt và kế tục sự nghiệp cách mạng lâu dài của Đảng. Mỗi cán bộ ở cương vị lãnh đạo có trách nhiệm đào tạo cán bộ dự bị, góp phần chuẩn bị người thay thế mình. Đồng thời, Đảng và Nhà nước phải phát huy đến mức cao nhất tài năng và kinh nghiệm lãnh đạo của các cán bộ cũ đã trải qua nhiều thử thách trong cách mạng. Hiện nay, trong đội ngũ cán bộ của Đảng ta có đại biểu của nhiều thế hệ, từ những cán bộ hoạt động trước Cách mạng Tháng Tám, những cán bộ trưởng thành trong cuộc kháng chiến chống Pháp, những cán bộ hoạt động và trưởng thành trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước và xây dựng chủ nghĩa xã hội, đến những cán bộ mới được đào tạo trong những năm gần đây. Đó là thuận lợi lớn cho việc kiện toàn các cơ quan lãnh đạo và quản lý, bảo đảm tính liên tục, vững chắc trong sự nghiệp lãnh đạo của Đảng. Chính sách cán bộ của Đảng ta từ trước đến nay và từ nay về sau vẫn là kết hợp kinh nghiệm của người lớn tuổi với sức vươn lên của người trẻ tuổi, phát huy ưu điểm riêng của từng loại cán bộ.

Việc đào tạo, cất nhắc, bổ sung cán bộ đi liền với việc thay đổi, đổi mới từng phần đội ngũ cán bộ. Đảng luôn luôn quan tâm đến sự ổn định công tác của cán bộ, bảo đảm cho mỗi cán bộ yên tâm làm việc, đi sâu vào chuyên môn, tích luỹ ngày càng nhiều kinh nghiệm. Nhưng sự ổn định chỉ có ý nghĩa khi người cán bộ được sử dụng đúng chỗ, đúng việc, phát huy được tài năng, phục vụ đắc lực cho cách mạng. Đối với những cán bộ mà phẩm chất chính trị hoặc năng lực công tác không tương xứng với trách nhiệm, không đảm đương nổi công việc, thậm chí còn gây trở ngại cho công tác lãnh đạo và quản lý thì nhất thiết phải sắp xếp lại cho hợp lý. Phải từ yêu cầu công việc mà đặt người chứ không phải vì người mà đặt việc. Công việc đòi hỏi đến đâu thì bố trí người đến đó. Đối với mỗi công việc, phải tìm được người thích hợp nhất. Đặt cán bộ vào đúng chỗ mà người cán bộ có thể phát huy được tối đa tài năng và sức sáng tạo của mình để cống hiến được nhiều nhất cho cách mạng, đó là một trong những yêu cầu chính của công tác cán bộ.

Công tác cán bộ phải được tiến hành dưới sự chỉ đạo tập trung của Đảng. Các cấp uỷ Đảng cần trực tiếp xem xét và tập thể quyết định việc lựa chọn, đánh giá, cất nhắc, thay đổi những cán bộ giữ chức vụ quan trọng trong bộ máy Đảng, chính quyền, các đoàn thể nhân dân. Cần kiện toàn bộ máy giúp việc cấp uỷ và cơ quan lãnh đạo chính quyền về công tác cán bộ; nâng cao trình độ khoa học trong việc nghiên cứu chính sách và tổ chức thực hiện từng khâu của công tác cán bộ. Công tác cán bộ phải có kế hoạch trước mắt và kế hoạch lâu dài, theo sát các yêu cầu của nhiệm vụ chính trị trong từng thời kỳ cụ thể.

Cấp uỷ Đảng cần định ra và thực hiện đúng các chế độ, quy tắc làm việc trong công tác cán bộ để nắm chắc tình hình cán bộ nói chung và hiểu sâu từng cán bộ thuộc phạm vi quản lý trực tiếp của cấp uỷ, bảo đảm nguyên tắc tập thể lãnh đạo và dân chủ, tránh những hiện tượng chủ quan, phiến diện. Cần có những hình thức thích hợp để thu thập ý kiến của cán bộ, đảng viên, cả những cán bộ ngoài Đảng và quần chúng, về chính sách cán bộ và việc lựa chọn, cất nhắc, thay đổi những cán bộ lãnh đạo và quản lý. Trong công tác cán bộ, phải khắc phục tư tưởng bảo thủ, hẹp hòi, cục bộ, bè phái và thành kiến hoặc cảm tình riêng.

Từ khi thành lập đến nay, Đảng ta luôn luôn giữ vững sự đoàn kết, thống nhất trong hàng ngũ của mình trước mọi thử thách của đấu tranh cách mạng. Tiếp tục phát huy truyền thống quý báu đó, thực hiện lời căn dặn của Hồ Chủ tịch: "giữ gìn sự đoàn kết nhất trí của Đảng như giữ gìn con ngươi của mắt mình" là một nhiệm vụ thiêng liêng nhất của toàn Đảng, của mọi cán bộ, đảng viên.

Đảng ta không dung thứ bất kỳ biểu hiện nào của chủ nghĩa bè phái. Đảng coi sự chia rẽ bè phái trong Đảng là một trong những tội ác nặng nhất đối với cách mạng. Là đội tiên phong, bộ tham mưu chiến đấu của giai cấp công nhân, là bộ phận tích cực nhất và tiên tiến nhất của xã hội, Đảng là một ý chí và chỉ một mà thôi.

Về mặt tư tưởng, sự đoàn kết, thống nhất trong Đảng dựa trên cơ sở chủ nghĩa Mác - Lênin thể hiện trong đường lối chính trị được toàn Đảng vạch ra, trên cơ sở sự giác ngộ của toàn thể đảng viên về lý tưởng, mục đích và những nhiệm vụ của Đảng. Sự thống nhất về tư tưởng được bảo đảm bằng sự thống nhất về tổ chức. Nhờ đó mới có được sự thống nhất trong hành động. Là nguyên tắc tổ chức cơ bản của Đảng, chế độ tập trung dân chủ bảo đảm vững chắc về mặt tổ chức cho sự thống nhất của Đảng.

Đoàn kết, thống nhất không có nghĩa là không có thảo luận, tranh luận. Trái lại, chính thảo luận, tranh luận một cách dân chủ là những tiền đề và phương pháp không thể thiếu được để thực hiện đoàn kết và thống nhất. Chế độ tập trung dân chủ không hạn chế tự do tư tưởng; nó đòi hỏi và bảo đảm cho tất cả đảng viên có quyền bàn bạc và tham gia quyết định công việc của Đảng, có quyền trình bày trong tổ chức Đảng ý kiến của mình trên mọi vấn đề thuộc lợi ích cách mạng. Việc phát huy đến mức cao nhất quyền dân chủ, trí tuệ và sự sáng tạo của mọi đảng viên là một trong những bảo đảm quan trọng cho sức sống của Đảng. Lối độc đoán, chuyên quyền, tác phong gia trưởng, sự đàn áp tư tưởng cũng như lối đoàn kết một chiều, xuê xoa trên các vấn đề có tính nguyên tắc, là hoàn toàn xa lạ đối với chính đảng vô sản.

Song, dân chủ phải dưới sự chỉ đạo tập trung; dân chủ đầy đủ nhất phải kết hợp với tập trung cao nhất; hai mặt ấy làm tiền đề cho nhau tạo thành bản chất của chế độ tập trung dân chủ mà những nguyên tắc của chế độ ấy là: số ít phục tùng số nhiều, cấp dưới phục tùng cấp trên, cá nhân phục tùng tổ chức, toàn Đảng phục tùng Đại hội đại biểu toàn quốc của Đảng và Ban Chấp hành Trung ương - cơ quan lãnh đạo cao nhất giữa hai kỳ Đại hội - do Đại hội bầu ra. Vi phạm những nguyên tắc ấy có nghĩa là phá hoại kỷ luật của Đảng, phá hoại sự thống nhất của Đảng.

Tự phê bình và phê bình là một quy luật phát triển và tiến bộ của Đảng, cũng là một phương pháp căn bản để tăng cường đoàn kết, thống nhất trong Đảng.

Trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội, luôn luôn diễn ra cuộc đấu tranh giữa cái mới và cái cũ, giữa cái tiến bộ và cái lạc hậu. Trước sự thay đổi của tình hình và nhiệm vụ, có đồng chí nhận thức nhanh, có đồng chí nhận thức chậm, không chuyển biến kịp với tình hình và nhiệm vụ mới. Ngoài ra, do những hoàn cảnh phức tạp khác nhau, nhiều đảng viên còn chịu những ảnh hưởng tư tưởng phi vô sản. Vì vậy, cuộc đấu tranh giữa cái mới và cái cũ, giữa cái tiến bộ và cái lạc hậu, giữa tư tưởng vô sản và tư tưởng phi vô sản cũng tất yếu và thường xuyên xảy ra trong Đảng. Tự phê bình và phê bình đi đôi với việc nâng cao trình độ nhận thức của cán bộ, đảng viên là phương pháp căn bản để giải quyết những mâu thuẫn đó, tạo nên sự nhất trí ngày càng cao trong Đảng, để giáo dục cán bộ, đảng viên phát huy ưu điểm, khắc phục khuyết điểm, tiến bộ không ngừng.

Để giữ gìn và phát huy truyền thống đoàn kết, thống nhất của Đảng, còn phải thường xuyên bồi dưỡng tình thân ái đồng chí giữa cán bộ, đảng viên. Thái độ chân thành và cởi mở, sự thương yêu và tôn trọng lẫn nhau, đức khiêm tốn, sự quan tâm, thông cảm lẫn nhau, hết lòng giúp nhau hoàn thành nhiệm vụ và cùng tiến bộ. Đó là những nét tiêu biểu của tình đoàn kết cộng sản. Đó cũng là những đức tính không thể thiếu được của con người mới xã hội chủ nghĩa. ở đâu xây dựng vững chắc được những đức tính đó thì ở đó không còn chỗ cho những tính toán nhỏ nhen, đầu óc địa vị, kèn cựa, tính đố kỵ, ghen ghét, đầu óc công thần, tự mãn, thói tranh công, đổ lỗi, v.v.. Chính những thói tệ này - chứ không phải sự khác nhau nghiêm trọng gì về quan điểm, về chủ trương công tác - nhiều khi lại là nguyên nhân chủ yếu gây nên những tình trạng mất đoàn kết nơi này, nơi kia trong Đảng.

Để nâng cao sức chiến đấu của Đảng, cần phải ra sức cải tiến và tăng cường công tác tư tưởng trong Đảng.

Nhiệm vụ hàng đầu hiện nay là làm cho cán bộ, đảng viên trong toàn Đảng thấu suốt Nghị quyết của Đại hội Đảng kỳ này, nâng cao một cách cơ bản trình độ chính trị và tính tự giác trong hoạt động của cán bộ, đảng viên. Muốn vậy, phải cải tiến các hình thức và phương pháp giáo dục trong Đảng; nâng cao chất lượng sinh hoạt chính trị, tổ chức tốt hệ thống thông báo thời sự, chính sách; định kỳ mở những lớp bồi dưỡng ngắn ngày về đường lối và quan điểm của Đảng cho cán bộ, đảng viên.

Tăng cường giáo dục lý luận Mác - Lênin, đường lối, chính sách của Đảng, đi đôi với việc nâng cao trình độ văn hoá, khoa học, kỹ thuật, nghiệp vụ cho cán bộ, đảng viên là một nhiệm vụ đặc biệt quan trọng hiện nay trong công tác tư tưởng.

Cần ra sức cải tiến để nâng cao hiệu quả công tác giáo dục lý luận; hướng cải tiến chủ yếu là quán triệt hơn nữa phương châm lý luận liên hệ với thực tiễn; bảo đảm đầy đủ tính khoa học, tính chiến đấu trong nội dung giảng dạy; bảo đảm gây được phong cách suy nghĩ khoa học, độc lập và sáng tạo của người học. Cần đặc biệt chú trọng việc đào tạo, bồi dưỡng một cách cơ bản, có hệ thống, với chất lượng cao, đội ngũ giảng viên lý luận. Cải tiến phương pháp giáo dục, củng cố hệ thống trường Đảng tập trung và mở rộng hệ thống trường Đảng tại chức. Tăng cường cơ sở vật chất và những phương tiện cần thiết cho công tác giáo dục lý luận và chính trị của Đảng.

Một nhiệm vụ quan trọng hiện nay trong hoạt động tư tưởng của Đảng là đẩy mạnh công tác nghiên cứu nhằm làm sáng tỏ hơn nữa về mặt lý luận những vấn đề cơ bản của cách mạng Việt Nam. Trên lĩnh vực này, Đảng ta đã có những thành tựu đáng kể. Song, không thể không thấy rằng công tác lý luận của Đảng chưa theo kịp sự phát triển của tình hình thực tế ở trong nước và trên thế giới. Những kinh nghiệm rất phong phú mà cách mạng Việt Nam đã tích luỹ được đang đòi hỏi nhiều cố gắng hơn nữa nhằm tổng kết sâu sắc về lý luận. Đặc biệt là tiến trình cách mạng hiện nay, thực tiễn cả nước xây dựng chủ nghĩa xã hội và đường lối chung của Đảng trong giai đoạn mới đang đặt ra một loạt vấn đề cần được soi sáng và thuyết minh một cách cụ thể, toàn diện và có hệ thống về mặt lý luận. Nhiệm vụ đó đòi hỏi sự nỗ lực về trí tuệ của toàn Đảng, sự cố gắng đặc biệt của các cơ quan của Đảng và Nhà nước có trách nhiệm trên mặt trận lý luận và tư tưởng. Cần đồng thời đẩy mạnh được công tác nghiên cứu cơ bản về lý luận Mác - Lênin và các lĩnh vực khác của khoa học xã hội, nghiên cứu và biên soạn lịch sử Đảng.

Phải đào tạo một đội ngũ cán bộ lý luận và khoa học xã hội có phẩm chất chính trị tốt, rất mực trung thành với sự nghiệp của Đảng, có trình độ khoa học cao, nắm vững phương pháp của chủ nghĩa Mác - Lênin và những thành tựu mới nhất của khoa học xã hội, đủ sức phục vụ Đảng trong việc nghiên cứu và làm sáng tỏ những vấn đề phức tạp của lý luận cách mạng và của quá trình phát triển xã hội hiện đại.

Toàn bộ công tác tư tưởng trong Đảng phải quán triệt phương hướng sau đây: giáo dục sâu sắc tư tưởng xã hội chủ nghĩa và cộng sản chủ nghĩa, làm thấu suốt tính cách mạng và tính khoa học, tinh thần độc lập tự chủ và sáng tạo của Đảng. Kịp thời ngăn chặn và phê phán mọi biểu hiện tư tưởng không vô sản trong cán bộ, đảng viên thể hiện trên nhận thức, trong hành động, trái với quan điểm và đường lối của Đảng, thể hiện trong các mặt quan hệ xã hội, nhất là trong quan hệ với quần chúng, cũng như thể hiện trong phẩm chất, đạo đức và sinh hoạt hằng ngày. Phải kiên quyết khắc phục tư tưởng tiểu tư sản mà biểu hiện phổ biến về mặt chính trị là sự dao động, hữu khuynh và "tả" khuynh, mà hữu khuynh là chủ yếu; về mặt ý thức là chủ nghĩa cá nhân dưới nhiều màu sắc; về mặt phương pháp là chủ nghĩa chủ quan, một chiều. Phải kiên quyết đấu tranh chống mọi ảnh hưởng của tư tưởng tư sản và những tàn dư tư tưởng phong kiến trong cán bộ, đảng viên.

Giai đoạn mới của cách mạng đòi hỏi toàn thể cán bộ, đảng viên phải nâng cao ý chí cách mạng tiến công, tinh thần trách nhiệm, tính tổ chức và kỷ luật trong việc chấp hành nhiệm vụ của Đảng, chống tư tưởng bảo thủ, "xả hơi", công thần, hưởng lạc, chống thái độ vô trách nhiệm, vô kỷ luật; nâng cao ý thức cần kiệm liêm chính, chí công vô tư, một lòng một dạ phục vụ nhân dân, quý trọng và bảo vệ của công, chống tư tưởng đặc quyền, đặc lợi, xâm phạm tài sản xã hội chủ nghĩa, nâng cao lòng trung thực, thật thà, ý thức bảo vệ chân lý, tinh thần đoàn kết, chống chia rẽ, bè phái, chống cục bộ, bản vị, địa phương chủ nghĩa. Rèn luyện tác phong đại công nghiệp, khẩn trương, cụ thể, thiết thực, khoa học, sát thực tế, lối làm việc tập trung dân chủ, chống quan liêu, độc đoán, chuyên quyền, đồng thời đề cao trách nhiệm cá nhân. Phát huy tinh thần ham học, ra sức trau dồi kiến thức mới, chống thói lười biếng trong suy nghĩ và học tập.

Phải luôn luôn ghi nhớ và quyết tâm làm đúng lời dạy của Hồ Chủ tịch: "Phải giữ gìn Đảng ta thật trong sạch, phải xứng đáng là người lãnh đạo, là người đày tớ thật trung thành của nhân dân".

Thưa các đồng chí,

Đại hội lần thứ IV của Đảng họp khi đất nước ta bước vào một kỷ nguyên mới chưa từng có trong lịch sử dân tộc. Đó là kỷ nguyên một nước Việt Nam độc lập, thống nhất hoàn toàn và vĩnh viễn, một nước Việt Nam xã hội chủ nghĩa đang tiến tới giàu mạnh, văn minh, một nhân tố quan trọng của sự nghiệp hoà bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội ở Đông Nam châu á và trên thế giới.

Đại hội vạch ra đường lối cách mạng xã hội chủ nghĩa cho cả nước trong một thời kỳ lịch sử lâu dài, và quyết định những phương hướng nhiệm vụ của kế hoạch 5 năm lần thứ hai, kế hoạch mở đầu thời kỳ phát triển kinh tế và văn hoá sau chiến tranh. Đại hội sẽ bầu Ban Chấp hành Trung ương mới và thông qua Điều lệ (sửa đổi) của Đảng.

Trong đường lối cách mạng xã hội chủ nghĩa ở nước ta, điều cơ bản là nắm vững chuyên chính vô sản, phát huy quyền làm chủ tập thể của nhân dân lao động, tiến hành đồng thời ba cuộc cách mạng, thực hiện công nghiệp hoá nước nhà, xây dựng chế độ làm chủ tập thể xã hội chủ nghĩa, nền sản xuất lớn xã hội chủ nghĩa, nền văn hoá mới và con người mới xã hội chủ nghĩa, nhằm đạt tới đích hoàn thiện chế độ của chúng ta về các mặt chính trị, kinh tế, văn hoá và xã hội.

Đó là con đường thực hiện những cải biến cách mạng sâu rộng trong xã hội ta, xoá bỏ áp bức, bóc lột, tăng cường đoàn kết toàn dân, đoàn kết dân tộc thành một khối thống nhất vững như bàn thạch. Đó cũng là con đường tăng cường Nhà nước xã hội chủ nghĩa của chúng ta, làm cho nó thể hiện đầy đủ quyền làm chủ tập thể của nhân dân, làm cho chính quyền và nhân dân thật sự là một, bảo đảm cho nhân dân sử dụng được chính quyền để thực hiện quyền làm chủ tập thể của mình, và ngược lại, làm cho chính quyền làm đúng chức trách là người thừa hành quyền lực của nhân dân, kiên quyết ngăn ngừa, khắc phục tệ quan liêu.

Dựa vào sức mạnh làm chủ tập thể của nhân dân, chúng ta sẽ tận dụng và tổ chức lại lực lượng lao động xã hội, tổ chức lại sản xuất để khai thác tốt tiềm năng của đất nước, nhằm xoá bỏ nghèo nàn, lạc hậu, từng bước xây dựng cuộc sống mới ấm no, hạnh phúc. Trong kế hoạch 5 năm lần thứ hai, chúng ta phải cố gắng rất lớn trong việc khắc phục những hậu quả của chiến tranh, cải thiện một bước đời sống nhân dân, xây dựng cơ sở vật chất - kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội, bồi dưỡng và đào tạo cán bộ.

Muốn làm được những điều trên đây, Đảng phải nâng cao sức chiến đấu và hiệu lực lãnh đạo của mình hơn nữa. Lúc còn sống, Hồ Chủ tịch rất quan tâm đến việc xây dựng và củng cố Đảng, giáo dục và rèn luyện đảng viên. Trước khi qua đời, điều Bác căn dặn chúng ta trước hết là nói về Đảng. Để mãi mãi xứng đáng với Bác và gánh vác được nhiệm vụ nặng nề trong giai đoạn mới, tất cả cán bộ, đảng viên phải trau dồi đạo đức cách mạng và năng lực công tác, nêu cao vai trò người chiến sĩ tiên phong, một lòng một dạ phục vụ Đảng, phục vụ nhân dân. Toàn Đảng phải đoàn kết chặt chẽ chung quanh Ban Chấp hành Trung ương, đoàn kết trong Đảng để đoàn kết nhân dân, đoàn kết quân dân, đoàn kết các dân tộc anh em trong nước, và phấn đấu không mệt mỏi biến lý tưởng của Đảng thành hiện thực trên Tổ quốc thân yêu của chúng ta.

Thưa các đồng chí,

Chủ nghĩa cộng sản là mục đích cao nhất của Đảng ta. Đó là mùa xuân của nhân loại, là xã hội đẹp nhất trong lịch sử nước ta ngày mai. Để phù hợp với mục đích chiến đấu của Đảng, để tỏ rõ tính chất của Đảng, và do đó, để nâng cao hơn nữa ý thức của đảng viên đối với Đảng, Ban Chấp hành Trung ương thể theo nguyện vọng của nhiều đồng chí và cấp bộ Đảng, đề nghị Đại hội từ nay đổi tên Đảng thành Đảng Cộng sản Việt Nam, cái tên quang vinh thể hiện lý tưởng cao cả của Đảng ta.

Thưa các đồng chí,

Ngót nửa thế kỷ nay, Đảng đã lãnh đạo nhân dân ta đấu tranh để giành lại non sông gấm vóc từ tay bọn xâm lược. Ngày nay, Tổ quốc ta, đồng bằng, núi rừng, biển cả... tất cả đã vĩnh viễn trở về tay nhân dân ta. Giữa những ngày Đại hội lịch sử này, mỗi chúng ta, những người cộng sản và những công dân nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam, ai cũng cảm thấy lớn lên cùng với Đảng quang vinh và Tổ quốc anh hùng của mình!

Trong những chặng đường cách mạng vừa qua, Đảng ta và nhân dân ta đã kết thành một khối bằng những mối dây liên hệ máu thịt vô cùng bền chặt. Đảng ta hiểu rõ và hoàn toàn tin tưởng sức mạnh dời non lấp biển của nhân dân ta. Đó là một nhân dân vĩ đại, rất đáng tự hào, một nhân dân kiên cường, bất khuất, không quản ngại bất cứ sự hy sinh nào trong chiến tranh để đánh thắng quân thù, một nhân dân anh dũng, thông minh, cần cù và sáng tạo trong chiến đấu vì tự do và xây dựng cuộc sống mới. Nhân dân ta cũng hiểu rõ Đảng ta và gửi gắm tất cả lòng tin vào Đảng. Trong cuộc trường chinh để giành lại độc lập, tự do cho dân tộc, ở đâu và lúc nào cũng có Đảng. Đảng đi đầu trong chiến đấu, Đảng xông pha nơi khó khăn. Đảng gắn bó với nhân dân bằng những gì Đảng đã làm cho sự nghiệp giải phóng đất nước. Trong giai đoạn mới, Đảng quyết làm tất cả vì phồn vinh của Tổ quốc, vì hạnh phúc của nhân dân.

Đại hội lần thứ IV của Đảng đánh dấu một cuộc tiến quân vĩ đại vào thời kỳ hoà bình xây dựng chủ nghĩa xã hội. Chúng ta quyết "xây dựng lại đất nước ta đàng hoàng hơn, to đẹp hơn" như Hồ Chủ tịch hằng mong ước. Chúng ta sẽ biến đất nước ta thành một nước công - nông nghiệp hiện đại, có quốc phòng vững mạnh, có văn hoá, khoa học tiên tiến, có cuộc sống văn minh và hạnh phúc, có vị trí xứng đáng trên thế giới.

Chúng ta biết rõ con đường đi tới không chỉ có thuận lợi mà còn nhiều khó khăn, trong đó có cả những thiếu sót và sự non kém của chúng ta nữa. Nhưng lúc này hơn lúc nào hết, chúng ta nhìn về tương lai với lòng tin mãnh liệt và nghị lực tràn đầy.

Những nghị quyết Đại hội sắp thông qua sẽ mở ra những chân trời rộng lớn cho sự phát triển toàn diện của đất nước ta, cho sự nảy nở của trí tuệ và tài năng của mọi người Việt Nam chúng ta.

Thực hiện những nghị quyết của Đại hội là nghĩa vụ, lợi ích và danh dự của những người cộng sản Việt Nam và của tất cả nhân dân Việt Nam.

Toàn thể nhân dân ta: công nhân, nông dân, quân đội, thanh niên, phụ nữ, trí thức, tất cả các tầng lớp và các dân tộc anh em trong đại gia đình Việt Nam hãy chuyển chủ nghĩa anh hùng cách mạng trong chiến đấu cứu nước thành chủ nghĩa anh hùng cách mạng trong lao động sáng tạo xây dựng Tổ quốc! Cách mạng xã hội chủ nghĩa là ngày hội của chúng ta. Hãy biến cả nước ta và mỗi địa phương, mỗi đơn vị thành những công trường xây dựng vĩ đại, tràn ngập khí thế cách mạng tiến công!

Vì Tổ quốc, vì chủ nghĩa xã hội, toàn Đảng, toàn dân, toàn quân hãy hăng hái tiến lên!

- Đảng Lao động Việt Nam, người tổ chức mọi thắng lợi của cách mạng Việt Nam, muôn năm!

- Nhân dân Việt Nam anh hùng, muôn năm!

- Nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam quang vinh, muôn năm!

- Chủ nghĩa Mác - Lênin vô địch, muôn năm!

- Chủ tịch Hồ Chí Minh vĩ đại sống mãi trong sự nghiệp của chúng ta!

- Chúc tình hữu nghị của nhân dân các nước xã hội chủ nghĩa, tình đoàn kết quốc tế của những người cộng sản, của tất cả các lực lượng giải phóng xã hội và dân tộc, củng cố và phát triển!

Đảng Cộng sản Việt Nam:

Báo cáo chính trị của

Ban Chấp hành Trung ương Đảng

tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IV,

Nxb. Sự thật, Hà Nội, 1977. 

_____________________

1. Từ ngày 30 tháng 9 đến ngày 7 tháng 10 năm 1974.

2. Từ ngày 18 tháng 12 năm 1974 đến ngày 8 tháng 1 năm 1975.

3. Đó là các Hội nghị lần thứ 19, 22, 23 của Trung ương Đảng.

4. Từ năm 1958 đến cuối năm 1964.

5. Gần như toàn bộ các thành phố, thị xã đều bị đánh phá, trong đó 12 thị xã, 51 thị trấn bị phá huỷ hoàn toàn; 4.000 trong tổng số 5.788 xã bị đánh

phá, trong đó 30 xã bị phá huỷ hoàn toàn. Tất cả các khu công nghiệp bị đánh phá, nhiều khu bị đánh với mức độ huỷ diệt. Các nhà máy điện đều bị

đánh hỏng nặng. 5 triệu mét vuông nhà ở (chưa kể ở nông thôn) bị phá huỷ. Tất cả các tuyến đường sắt, 100% cầu, toàn bộ hệ thống bến cảng,

 đường biển, đường sông và kho tàng đều bị đánh phá. Địch gây tổn thất cho 1.600 công trình thuỷ lợi, hầu hết các nông trường và hàng trăm nghìn

hécta ruộng vườn, giết hại 40.000 trâu, bò. Đế quốc Mỹ đã đánh phá 3.000 trường học, 350 bệnh viện, trong đó 10 bệnh viện bị san phẳng.

6. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2002, t.9, tr.314.

7. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.10, tr.128.

8. C. Mác - Ph. Ăngghen: Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản, Nxb. Sự thật, Hà Nội, 1974, tr. 81.

9. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.10, tr. 700.

10. Ở miền Bắc, nông dân lao động đã trở thành giai cấp nông dân tập thể.

11Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.12, tr. 510.

12 Cao trào 1930-1931, phong trào Mặt trận Dân chủ 1936-1939, phong trào Mặt trận Phản đế và Mặt trận Việt Minh 1940-1945.

Phản hồi

Thông tin người gửi phản hồi

Hướng dẫn kiểm tra, giám sát phục vụ đại hội đảng bộ các cấp tiến tới Đại hội XIV của Đảng

(ĐCSVN) - Tại văn bản số 08-HD/UBKTTW ngày 18/11/2024, Ủy ban Kiểm tra Trung ương hướng dẫn công tác kiểm tra, giám sát phục vụ đại hội đảng bộ các cấp tiến tới Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIV của Đảng.

Phương án nghiên cứu sắp xếp, sáp nhập các bộ, cơ quan thuộc Chính phủ

(ĐCSVN) - Theo phương án nghiên cứu sắp xếp, sáp nhập được Trưởng Ban Tổ chức Trung ương Lê Minh Hưng nêu tại Hội nghị toàn quốc sáng 1/12, sẽ tối thiểu giảm được 5 bộ, 2 cơ quan trực thuộc Chính phủ.

Phương án sáp nhập các ủy ban của Quốc hội và cơ quan thuộc Ủy ban Thường vụ Quốc hội

(ĐCSVN) - Sáng 1/12, Trưởng Ban Tổ chức Trung ương Lê Minh Hưng thông báo chuyên đề về các nội dung chính, trọng tâm việc triển khai tổng kết Nghị quyết 18. Theo phương án định hướng được nêu sẽ giảm 4 ủy ban của Quốc hội và 1 cơ quan trực thuộc Ủy ban Thường vụ Quốc hội.

Phương án giảm 4 cơ quan Đảng, 25 ban cán sự đảng, 16 đảng đoàn trực thuộc Trung ương

(ĐCSVN) - Sáng 1/12, đồng chí Lê Minh Hưng, Uỷ viên Bộ Chính trị, Bí thư Trung ương Đảng, Trưởng ban Tổ chức Trung ương đã trình bày các nội dung chính, trọng tâm việc triển khai tổng kết Nghị quyết 18-NQ/TW của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XII.

Quy trình kỷ luật đảng viên thuộc thẩm quyền của Trung ương Đảng, Bộ Chính trị, Ban Bí thư

(ĐCSVN) - Thay mặt Bộ Chính trị, Thường trực Ban Bí thư Lương Cường vừa ký Quyết định số 165-QĐ/TW ngày 6/6/2024 của Bộ Chính trị ban hành Quy trình xem xét, thi hành kỷ luật đối với tổ chức Đảng, đảng viên thuộc thẩm quyền của Ban Chấp hành Trung ương Đảng, Bộ Chính trị, Ban Bí thư.

Liên kết website