Thời gian gần đây nhân kỷ niệm 100 năm Cách mạng Tháng Mười Nga, 170 năm Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản và 200 năm ngày sinh Các Mác, trên nhiều diễn đàn và nhiều trang báo chí ở phương Tây, ở các nước Đông Âu, các nước thuộc Liên Xô trước đây, với những mức độ khác nhau, đã nổi lên một chiến dịch đả kích chủ nghĩa Mác. Lý lẽ thông thường hiện nay cho rằng, chủ nghĩa tư bản đã thay đổi đến mức không còn nhận biết được nữa so với thời của C.Mác, và do đó những tư tưởng của C.Mác không còn phù hợp nữa; rằng chủ nghĩa Mác là đấu tranh giai cấp dẫn tới đầu rơi, máu đổ, không thích hợp với thế giới đương đại đang trong quá trình toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế… Từ lập luận kiểu đó, người ta phê phán chủ nghĩa Mác. Đầu tiên là những bài phê bình "thận trọng" một số luận điểm, đưa ra một vài khiếm khuyết của chủ nghĩa Mác, rồi sau đó, tiến tới sự phê phán những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác, coi học thuyết Mác - Lênin đã thuộc về quá khứ, không còn phù hợp với thế giới đương đại và cuối cùng là phủ định chủ nghĩa Mác nói chung.
Việc bôi nhọ chủ nghĩa xã hội và phê phán chủ nghĩa Mác đang được các thế lực thù địch đẩy tới. Số lượng những người tham gia vào công việc này có phần tăng thêm. Ngoài những kẻ thù tư tưởng của chủ nghĩa Mác từ trước tới nay và những người theo các khuynh hướng phi mác xít trong phong trào công nhân quốc tế, điều đáng ngạc nhiên là có những nhân vật mới đây còn tự coi mình là trung thành với chủ nghĩa Mác, thì hôm nay quay ra công kích Mác một cách gay gắt, gán cho chủ nghĩa Mác - Lênin đủ các tội danh. Có người chẳng hiểu gì về Mác, chưa hề nghiên cứu Mác cùng lớn tiếng phê phán Mác!
Tại sao có tình trạng như thế? Phải chăng chủ nghĩa Mác đã lỗi thời? Chủ nghĩa Mác có còn phù hợp trong thế giới đương đại hay không?
Đúng là hiện nay chủ nghĩa Mác đang đứng trước thử thách nghiêm trọng. Thực tiễn đã có những biểu hiện khác với những quan niệm truyền thống của chúng ta và không giống như dự đoán của Mác. Tuy nhiên, tất cả những điều đó đều có nguyên do và có thể cắt nghĩa được. Có những loại vấn đề và những nguyên nhân tác động trực tiếp, có những vấn đề sâu xa hơn, thuộc về bản thân chủ nghĩa Mác.
Nguyên nhân trực tiếp trở thành cơ hội để người ta phủ nhận chủ nghĩa Mác là những hiện tượng mới nảy sinh của chủ nghĩa tư bản hiện đại và chủ nghĩa xã hội trong thế giới đương đại: một mặt, chủ nghĩa tư bản mà Mác tuyên bố tất yếu sẽ diệt vong thì đã chưa chết và chưa chuẩn bị chết. Mặt khác, chủ nghĩa xã hội đã được sinh ra và dường như được mô phỏng theo những nguyên lý của chủ nghĩa Mác-Lênin thì lại kém hiệu quả và đã sụp đổ ở các nước Đông Âu và ở nơi đầu nguồn là Liên Xô (cũ).
Trước tiên chúng ta xem xét về chủ nghĩa tư bản hiện đại. Như C.Mác đã tiên đoán, bất bình đẳng trong thu nhập của chủ nghĩa tư bản ngày nay đã tăng lên mạnh mẽ. Theo báo cáo của Oxfan ngày 20-1-2018, 82% số tài sản được tạo ra trên thế giới thuộc về 1% dân số thế giới (là những người giàu có), trong khi hơn nửa dân số thế giới đang khốn khó, cũng theo Oxfan, 42 tỷ phú giàu nhất của thế giới có thu nhập ngang với 3,7 tỷ người. Chủ nghĩa tư bản đã tạo ra sự thịnh vượng hơn bao giờ hết mà lịch sử nhân loại từng chứng kiến, nhưng cái giá phải trả vô cùng to lớn, nhất là khi nói tới cảnh xa hoa tột đỉnh của một số ít con người và cảnh cùng cực của hàng tỉ con người. Đó chính là mâu thuẫn không thể chối cãi trong lòng chế độ tư bản.
Mác cho rằng, trong quá trình tồn tại và phát triển, chủ nghĩa tư bản sẽ tới một thời điểm mà trong đó mâu thuẫn giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất gay gắt cực độ, cái vỏ quan hệ tư bản chủ nghĩa sẽ vỡ bung ra. Tuy nhiên, Mác đã khẳng định là để tới đó, chủ nghĩa tư bản phải phát triển tới mức tột đỉnh. Cái đỉnh ấy ngày nay chưa xuất hiện. Chính Mác cũng chưa bao giờ ấn định thời gian kết thúc của chủ nghĩa tư bản.
Một điều nữa cần đề cập tới là trong khi nghiên cứu chủ nghĩa tư bản để đưa ra những luận điểm trên, Mác đã trừu tượng hóa, coi phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa khi đó là duy nhất thống trị. Sự xuất hiện và phát triển của chủ nghĩa xã hội đã trở thành đối tượng đáng kể nhất làm cho chủ nghĩa tư bản mất đi vị trí độc tôn và bởi thế, chủ nghĩa tư bản không thể phát triển tự phát trên cơ sở của bản thân nó nữa mà buộc phải tự điều chỉnh lại mình. Trong quá trình điều chỉnh để thích nghi đó, chủ nghĩa tư bản đã ứng dụng thành công các thành tựu của cuộc cách mạng khoa học - kỹ thuật và đặc biệt đã sử dụng có hiệu quả nhiều giải pháp của chủ nghĩa xã hội. Vì thế, chủ nghĩa tư bản đã tạm thời làm dịu đi những mâu thuẫn vốn có trong lòng nó. Gọi là tạm thời làm dịu mâu thuẫn của chủ nghĩa tư bản vì theo quy luật không tránh khỏi, chủ nghĩa tư bản vẫn lâm vào khủng hoảng trầm trọng, như cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu từ năm 2008, bắt đầu từ Mỹ và lan ra toàn thế giới. Mặt khác, cũng cần thấy rõ là chính những thành công của chủ nghĩa tư bản hiện đại, lại một lần nữa tạo thêm những tiền đề, những yếu tố của phương thức sản xuất mới, hình thành nền tảng công nghệ mới, cơ sở hạ tầng ở tầm cao mà chủ nghĩa xã hội sẽ được xây dựng trên đó. Những tiền đề ấy là việc điều hòa sản xuất, ở mức độ nhất định trong phạm vi toàn xã hội; các cơ chế phân phối lại ngoài thu nhập quốc dân; hệ thống bảo hiểm và các quỹ phúc lợi xã hội; sự tham gia của nhân dân lao động vào công tác quản lý; sự mở rộng dân chủ hơn với các tầng lớp nhân dân. Chủ nghĩa tư bản đã vô tình hoặc đã buộc phải thực hiện những vấn đề trên. Và chính vì thế, có thể nói rằng, xã hội tư bản hiện đại, một mặt, tất nhiên đang là tư bản chủ nghĩa, nhưng mặt khác, chính nó đang chuẩn bị cho sự phủ định mình.
Về khủng hoảng của chủ nghĩa xã hội. Nguyên nhân của những khó khăn và bi kịch của chủ nghĩa xã hội ở Liên Xô và Đông Âu là do rất nhiều yếu tố. Sự xuất hiện và xây dựng chủ nghĩa xã hội đã diễn ra theo một kịch bản hoàn toàn khác với dự kiến của Mác. Trên thực tế chủ nghĩa xã hội không phải là kết quả của sự phủ định chủ nghĩa tư bản. Nó được thực hiện ở những nước tư bản chủ nghĩa kém phát triển, ở những nơi có tình thế cho giai cấp vô sản giành chính quyền nhưng lại thiếu cơ sở vật chất kỹ thuật cho chủ nghĩa xã hội. Chủ nghĩa Mác chưa dự tính đến việc chủ nghĩa xã hội tồn tại song song với chủ nghĩa tư bản và hơn thế nữa, lại ở điểm xuất phát thấp hơn các nước tư bản phương Tây.
Ngay cả khi quan niệm về chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản, những nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác tỏ ra hết sức thận trọng. Ăngghen đã từng nhấn mạnh: "Theo tôi, cái mà người ta gọi là "xã hội xã hội chủ nghĩa" không phải là một xã hội hoàn chỉnh ngay một lúc, mà cũng như mọi chế độ xã hội khác, nó cần phải được xem xét trong sự biến đổi và cải tạo thường xuyên"1. Những tác phẩm của Lênin dưới nhan đề "Di huấn chính trị" có một ý nghĩa đặc biệt đối với sự phát triển quan điểm mácxít. Điều chủ yếu của toàn bộ tác phẩm là việc thừa nhận "toàn bộ quan điểm của chúng ta về chủ nghĩa xã hội đã thay đổi về căn bản"2.
Như vậy, từ thực trạng của các nước xã hội chủ nghĩa, vấn đề đặt ra là muốn theo kịp và sau đó chiến thắng được chủ nghĩa tư bản trong cuộc đua tranh, chủ nghĩa xã hội cần phải chủ động rất cao, tự giác rất cao, nắm thật vững những đặc điểm lịch sử cụ thể, vận dụng một cách có hiệu quả các quy luật phát triển kinh tế - xã hội để tìm ra cho được chiến lược tăng tốc. Thế nhưng chủ nghĩa xã hội hiện thực ở Liên Xô trước đây và ở các nước Đông Âu đã được xây dựng theo ý muốn chủ quan, cứng nhắc, khuôn mẫu và trái quy luật. Khi đã nhận ra những khuyết tật của chủ nghĩa xã hội và tiến hành công cuộc cải tổ, đổi mới nó, thì ở nhiều nước lại thiếu sự chuẩn bị những giải pháp tháo gỡ, củng cố hoặc xây lại, mà mới kịp làm được một công việc đầu tiên là phá bỏ những gì đã có! Vậy nên việc chủ nghĩa xã hội thua kém chủ nghĩa tư bản là do sự giáo điều hóa, thô thiển hóa chủ nghĩa Mác, chứ đâu phải do bản thân chủ nghĩa Mác. Cũng như sự sụp đổ nhanh chóng của các nước xã hội chủ nghĩa ở Đông Âu và ở Liên Xô một phần chính là do sai lầm trực tiếp và cả sự phản bội của giới lãnh đạo, do sự thiếu hiểu biết hoặc cố tình xa rời chủ nghĩa Mác, chứ đâu phải là sai lầm của học thuyết mác xít.
Về những nhân tố chủ quan. Ở đây có hai cấp độ: một là, những khiếm khuyết của bản thân chủ nghĩa Mác; hai là, cái sai của những người kế tục và phát triển của chủ nghĩa Mác-Lênin.
Cũng như bất kỳ một học thuyết khoa học nào khác, do hạn chế của lịch sử, những nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác, không phải không có những nhận định thiếu chính xác. Chẳng hạn, khi nghiên cứu chủ nghĩa tư bản, Mác đã phát hiện quy luật vận động phát triển của nó, nhưng lại không đánh giá hết tính co dãn, khả năng tự biến đổi của xã hội tư sản. Đọc Mác, người ta thấy dường như mâu thuẫn của chủ nghĩa tư bản cứ ngày một tăng lên và dường như mọi tiến bộ xã hội được thực hiện trong điều kiện chủ nghĩa tư bản cũng đều chống lại chủ nghĩa tư bản, làm cho chế độ xã hội đó thêm ngắc ngoải. Thực tiễn cho thấy cách đặt vấn đề như vậy là một chiều, còn phiến diện và thậm chí xa lạ với bản thân phương pháp luận mác xít.
Có thể nêu một ví dụ khác như lập trường của Mác, Ăngghen và sau này của cả Lênin về quan hệ hàng hóa và cơ chế thị trường. Các ông đã không dành chỗ đứng cho nền sản xuất hàng hóa trong tiến trình xây dựng chủ nghĩa xã hội. Lênin đã được thực hiện theo Mác và đã thất bại. Chính sách "cộng sản thời chiến" đã để lại di chứng nặng nề cho nền kinh tế nước Nga thời đó. Thực tế chứng tỏ rằng, trong giai đoạn đầu của chủ nghĩa xã hội, cơ chế thị trường đã tự giải quyết vô vàn mối quan hệ kinh tế - xã hội mà những giải pháp tập trung quan liêu không thể thay thế nó được. Cũng chính Lênin đã điều chỉnh, đã đổi mới, đã sáng tạo bằng "chính sách kinh tế mới" (NEP) nổi tiếng.
Nói tới nhân tố chủ quan, có lẽ điều cần nhấn mạnh nhất phải là việc tự phê phán của những người cộng sản. Lênin là nhà mác xít rất mẫu mực trong việc tiếp thu chủ nghĩa Mác một cách có phê phán và cùng với nó là tự phê phán để làm giàu và hoàn thiện thêm cho học thuyết Mác. Đã là một học thuyết khoa học thì lúc nào cũng phải tự xem xét. Việc xem xét và tự phê phán chủ nghĩa Mác khác xa và thậm chí trái ngược với chủ nghĩa xét lại. Chủ nghĩa xét lại mưu toan từ bỏ nguyên tắc, muốn làm biến dạng chủ nghĩa Mác. Còn việc tự phê phán chỉ có một mục tiêu duy nhất là làm cho chủ nghĩa Mác ngày càng toàn diện, phong phú thêm.
Trong lịch sử phong trào cộng sản và công nhân quốc tế, thấy nổi rõ một điểm là những đảng cộng sản và công nhân chưa nắm được chính quyền thường lại có sự tự phê phán mạnh mẽ hơn những đảng cầm quyền. Đáng lý đây phải là nhiệm vụ của những người đang xây dựng chủ nghĩa xã hội, bởi chính đây là cuộc sống; là thực tiễn phong phú nhất. Một yếu tố mà không ít đảng cầm quyền thiếu mạnh dạn trong việc xem xét chủ nghĩa Mác và tự phê phán mình là tâm lý sợ xét lại hơn sợ giáo điều. Nhưng thực ra chủ nghĩa giáo điều không kém phần nguy hại vì nó cứ yên vị trong một cái vỏ ốc, nó làm cho chủ nghĩa Mác thành máy móc, thành khuôn mẫu và thiếu thực tiễn sinh động.
Một số nguyên nhân quan trọng khác cũng cần phải nói tới. Đó là việc một số đảng công nhân luôn bằng lòng với chủ nghĩa Mác và bằng lòng với mình nên thường coi nhẹ công tác lý luận, đồng nhất công tác lý luận với công tác chính trị, trong khi ấy lại rất ít để ý tới hoặc rất ít tiếp thu cái mới. Tất cả những sai lầm và các nguyên nhân kể trên đã làm cho chủ nghĩa Mác mất đi tính sống động vốn có của nó, và nếu tình hình cứ như vậy, chủ nghĩa Mác sẽ thiếu hơi thở của cuộc sống trở thành lạc hậu, không thể lý giải được những vấn đề mới mà thực tiễn đặt ra.
Để khắc phục các tình trạng đó, chúng ta cần đặc biệt coi trọng công tác lý luận. Chủ nghĩa Mác luôn luôn rộng mở, như một cơ thể sống phát triển không ngừng. Đó là một học thuyết khoa học gắn bó hữu cơ với thời cuộc, như cây xanh gắn bó với nắng gió và khí trời. Thực tiễn đòi hỏi phải có một sự đột phá lớn lao mới trong lý luận mác xít. Nguyên lý mác xít chỉ có thể được bảo tồn và làm giàu một cách sáng tạo trong điều kiện bước ngoặt của thời đại ngày nay, trên cơ sở những thành tựu mới của cách mạng khoa học kỹ thuật hiện đại, trên cơ sở đánh giá đúng những thay đổi lớn của thế giới, trên cơ sở phê phán có kế thừa những lý thuyết ngoài chủ nghĩa Mác, tiếp thu một cách có chọn lọc những yếu tố sáng tạo và hợp lý của các trào lưu tiến bộ khác, không đố kỵ, không xa lánh, không đối lập. Có thể khẳng định rằng, chủ nghĩa Mác là sự phê phán chủ nghĩa tư bản. Đó là sự phê phán sâu sắc, toàn diện, khắt khe nhất và chính xác nhất từ trước tới nay. Không những thế chủ nghĩa Mác còn là sự phê phán duy nhất làm thay đổi bộ phận lớn của thế giới. Điều đó muốn nhấn mạnh, chừng nào chủ nghĩa tư bản còn tồn tại, thì chủ nghĩa Mác còn tồn tại. Không những thế, chủ nghĩa Mác còn tiếp tục tồn tại cùng với loài người bước sang ngưỡng cửa của thời đại mới là chủ nghĩa cộng sản.
Thời gian là đá thử vàng. Vận dụng sáng tạo những nguyên lý mác xít, gần chín mươi năm qua là giai đoạn đặc biệt của Cách mạng Việt Nam dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam - Đảng Mác-Lênin, là thời gian mà đất nước phải chấp nhận và vượt qua nhiều thử thách to lớn, có lúc hiểm nghèo. Nhưng mỗi lần vượt qua thử thách là mỗi lần dân tộc Việt Nam tự vươn lên tạo dựng những mốc son lịch sử đánh dấu những thắng lợi vẻ vang.
Đó là thắng lợi Cách mạng Tháng Tám, lập nên và bảo vệ vững chắc chính quyền dân chủ nhân dân đầu tiên Đông Nam Á. Trong hoàn cảnh nền kinh tế - tài chính quốc gia kiệt quệ, giặc đói, giặc dốt hoành hành, lại thêm thù trong giặc ngoài quấy đảo với sức mạnh và ý đồ tưởng chừng có thể xóa bỏ chốc lát chính quyền cách mạng, nhưng với sự lãnh đạo tài tình của Đảng, đứng đầu là Chủ tịch Hồ Chí Minh vĩ đại, với kim chỉ nam là chủ nghĩa Mác-Lênin, con thuyền cách mạng Việt Nam đã vượt qua ghềnh thác, lướt sóng đi lên.
Đó là chiến thắng lẫy lừng của hai cuộc kháng chiến toàn dân, toàn diện, lâu dài, gian khổ, chiến đấu chống những thế lực thực dân đế quốc hung bạo, làm lên một “Điện Biên Phủ chấn động địa cầu”, “đánh cho Mỹ cút, đánh cho ngụy nhào”, giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước, mở ra kỷ nguyên độc lập tư do và chủ nghĩa xã hội cho dân tộc Việt Nam.
Đó là những thành tựu quan trọng có ý nghĩa chiến lược và đầy ấn tượng của công cuộc đổi mới toàn diện đời sống đất nước. Trong điều kiện vô cùng khó khăn do sự bao vây cấm vận của chủ nghĩa đế quốc và sự sụp đổ của chủ nghĩa xã hội ở các nước Đông Âu và Liên Xô, đất nước Việt Nam không những đứng vững mà còn phát triển, chính trị - xã hội ổn định, nền kinh tế có những bước tiến vững chắc, đời sống của nhân dân không ngừng được cải thiện. Thành quả đó cũng chính là sự khẳng định mục tiêu lý tưởng của Đảng và nhân dân Việt Nam là đúng đắn - với sự soi đường của phương pháp cách mạng mác xít.
Ngọn cờ tư tưởng và lý luận mà Đảng Cộng sản Việt Nam luôn giương cao là chủ nghĩa Mác - Lênin. Chủ nghĩa Mác là vỉa tầng quý giá nhất của trí tuệ loài người, là cốt lõi tinh thần của chủ nghĩa xã hội. Chính chủ nghĩa Mác - Lênin đã tạo điều kiện cho phong trào xã hội chủ nghĩa có những bước đi mạnh mẽ, đem lại cho chủ nghĩa xã hội vị trí xứng đáng trong những nấc thang phát triển của xã hội loài người. Chủ nghĩa Mác không nghĩ thay cho chúng ta. Nhưng chính chủ nghĩa Mác đã cung cấp cho chúng ta một phương pháp phân tích, một cách nhìn thích hợp, một chiến lược chính trị đúng để cải tạo và phát triển xã hội, để áp dụng một cách thành công vào công cuộc đổi mới mọi mặt đời sống xã hội hiện nay và thực tiễn xây dựng xã hội chủ nghĩa lâu dài trên đất nước Việt Nam./.