Thế kỷ 19 đã sản sinh ra nhiều nhà tư tưởng vĩ đại, những lãnh tụ thiên tài của giai cấp vô sản và nhân dân lao động toàn thế giới. Ðứng ở hàng đầu các vĩ nhân đó là Các Mác và người bạn chiến đấu gần gũi suốt đời của ông là Ph. Ăngghen, tiếp theo là V.I. Lênin.
Các Mác sinh ngày 5/5/1818 tại Triơ, thành phố Rênani, thuộc nước Phổ xưa, nay là nước Ðức. Xuất thân trong một gia đình luật sư, ngay từ lúc còn là sinh viên, Các Mác đã nghiên cứu và tinh thông nhiều môn học như luật, sử và triết học. Năm 23 tuổi (1841) ông đỗ tiến sĩ triết học, và từ đó ngày càng tỏ rõ là một nhà nghiên cứu khoa học xã hội tài năng. Kế tục và phát triển một cách thiên tài ba trào lưu tư tưởng chủ yếu của thế kỷ 19 là: triết học cổ điển Ðức, kinh tế học chính trị cổ điển Anh, chủ nghĩa xã hội Pháp, Mác đã tổng kết tri thức của nhân loại và sáng lập chủ nghĩa duy vật biện chứng và duy vật lịch sử, học thuyết kinh tế mác xít và chủ nghĩa xã hội khoa học, làm cho chủ nghĩa xã hội từ không tưởng trở thành khoa học, rồi đem khoa học đó kết hợp với phong trào công nhân, biến nó thành vũ khí sắc bén của giai cấp vô sản trong cuộc đấu tranh chống chủ nghĩa tư bản. "Tư bản", bộ sách Mác coi là sự nghiệp của cả đời mình, và Tuyên ngôn của Ðảng Cộng sản do Mác khởi thảo lúc vừa tròn 30 tuổi (1848) là những tác phẩm bất hủ.
Chủ nghĩa Mác, từ khi ra đời cho đến nay, luôn là mặt trời chiếu sáng, cơ sở tư tưởng, lý luận và là ngọn cờ chiến đấu đầy khí phách của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và các dân tộc bị áp bức trong cuộc đấu tranh lật đổ chủ nghĩa tư bản, đế quốc thực dân và xây dựng chủ nghĩa xã hội.
Gần hai thế kỷ đã qua kể từ ngày sinh của Các Mác. Ðó là một thời kỳ lịch sử mà thế giới đã trải qua nhiều sự biến đổi lớn lao. Nếu như thế kỷ 19, nhìn một cách tổng thể, thế giới còn đặt dưới ách thống trị của chủ nghĩa tư bản, chủ nghĩa đế quốc và thực dân, thì thế kỷ 20, bộ mặt thế giới đã đổi khác rất nhiều. Hai cuộc đại chiến thế giới vào nửa đầu thế kỷ này đã dẫn đến sự sụp đổ một mảng lớn của chủ nghĩa đế quốc, thực dân, sự ra đời và thắng lợi của cách mạng xã hội chủ nghĩa trên một loạt nước, trước hết là Cách mạng Tháng Mười Nga năm 1917, cuộc cách mạng mở ra thời đại mới trong lịch sử loài người - thời đại quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội. Sự hình thành hệ thống xã hội chủ nghĩa thế giới và đi liền với nó là sự sụp đổ hệ thống thuộc địa của chủ nghĩa thực dân sau đại chiến thế giới lần thứ hai, đánh dấu một đỉnh cao mới của các phong trào cách mạng trên hành tinh chúng ta. Ðiều gần như nghịch lý là vào thập niên cuối cùng của thế kỷ 20, đã diễn ra sự đổ vỡ của chế độ xã hội chủ nghĩa ở Liên Xô và các nước Ðông Âu, kéo theo thoái trào tạm thời của phong trào cộng sản và công nhân trên thế giới. Những chính trị gia và học giả cỡ lớn của chủ nghĩa tư bản hí hửng tuyên bố sự cáo chung của chủ nghĩa xã hội vào cuối thế kỷ và tung hô sự vĩnh hằng của chủ nghĩa tư bản hiện đại. Nhưng những dự báo vội vàng và thiếu tính khoa học đó đã nhanh chóng bị thực tiễn bác bỏ. Ðã không có bất cứ sự cáo chung nào mà ngược lại, chủ nghĩa xã hội vẫn tồn tại và tiếp tục phát triển ở nhiều nước, chiếm gần một phần ba dân số thế giới thông qua cải cách, mở cửa và đổi mới.
Thập niên đầu của thế kỷ 21 còn cho thấy những dấu hiệu rõ ràng về sự phục hồi từng bước của phong trào cộng sản và công nhân quốc tế, đặc biệt là sự ra đời của chủ nghĩa xã hội Mỹ la-tinh với thắng lợi của lực lượng cánh tả ở nhiều quốc gia. Thập niên đầu ấy cũng cho thấy những khuyết tật cố hữu của chủ nghĩa tư bản mà tiêu biểu nhất là cuộc khủng hoảng kinh tế - tài chính toàn cầu vừa diễn ra trong hai năm 2008 - 2009 và đến nay hậu quả nặng nề của nó chưa thể nói đến bao giờ mới khắc phục xong.
Không phải ngẫu nhiên khi bình minh của thế kỷ 21 vừa hé mở, ở nhiều diễn đàn khác nhau, nhiều nhà khoa học chân chính, cả những người không phải mác xít đều nhận rằng, thế kỷ mới này vẫn là thế kỷ của Mác. Càng không phải ngẫu nhiên vào giữa lúc cuộc khủng hoảng kinh tế - tài chính toàn cầu đang diễn ra gay gắt, người ta đã tìm đọc lại các tác phẩm của Mác và khẳng định giá trị bền vững của học thuyết Mác, nhất là học thuyết về kinh tế chính trị của ông.
Cách mạng Việt Nam, trong hơn 80 năm qua, dưới sự lãnh đạo của Ðảng Cộng sản Việt Nam, sở dĩ giành được những thắng lợi to lớn và có ý nghĩa lịch sử là nhờ có sự dẫn dắt của chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh. Gắn liền độc lập dân tộc với chủ nghĩa xã hội, chúng ta đã phát huy cao độ sức mạnh dân tộc kết hợp với sức mạnh của thời đại.
Trong sự nghiệp đổi mới ngày nay, Ðảng ta nhất quán kiên định lấy chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng và kim chỉ nam cho hành động. Song kiên định không có nghĩa là giáo điều sách vở, mà phải là vận dụng sáng tạo và phát triển. Kiên định còn có một ý nghĩa khác: trong khi coi chủ nghĩa Mác - Lênin là học thuyết cách mạng có tính khoa học nhất, phù hợp sự phát triển của thời đại ngày nay, thì đối với việc nghiên cứu những vấn đề cơ bản của thời đại và thế giới đương đại, chúng ta không bác bỏ một cách vũ đoán, trái lại, chủ động nghiên cứu và tiếp thu có chọn lọc các lý thuyết phát triển, các trào lưu lý luận và các thành tựu khoa học xã hội thế giới.
Chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh mãi mãi là ngọn cờ chiến đấu và chiến thắng của cách mạng Việt Nam.
Tháng 5/2010
HÀ ĐĂNG