Mối quan hệ giữa Đảng và dân trong tư tưởng Hồ Chí Minh (tiếp)

PTS. Đàm Vǎn Thọ, PTS. Vũ Hùng

 

Chương II 
QUÁ TRÌNH HÌNH THÀNH TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ MỐI QUAN HỆ GIỮA ĐẢNG VÀ DÂN NHỮNG LUẬN ĐIỂM CHỦ YẾU CỦA HỒ CHÍ MINH VỀ DÂN VÀ ĐẢNG


1. Quá trình hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh về mối quan hệ giữa Đảng và Dân. 

Lịch sử dân tộc Việt Nam là lịch sử của một dân tộc kiên cường, bền bỉ trong công cuộc đấu tranh dựng nước và giữ nước. Trong quá trình lịch sử oanh liệt của mình, nhân dân ta đã xây dựng nên truyền thống tốt đẹp mà tiêu biểu là chủ nghĩa yêu nước, lòng nhân ái, ý thức cộng đồng, tinh thần tự chủ, ý chí kiên cường bất khuất không chịu làm nô lệ, không chịu mất nước. Nhờ truyền thống đó mà mỗi khi chủ quyền của Tổ quốc bị xâm phạm, nhân dân ta đã anh dũng đứng lên đánh đuổi ngoại xâm. Từ cuộc khởi nghĩa của Hai Bà Trưng chống nhà Hán đô hộ, đến chiến thắng Đường, Tống, Nguyên, Minh, đánh bại 200.000 quân xâm lược nhà Thanh cuối thế kỷ XVIII đã chứng minh hùng hồn tinh thần yêu nước, quật khởi của nhân dân ta. Những chiến công hiển hách ấy không chỉ nói lên tinh thần yêu nước, sự đồng tâm nhất trí giữ nước và dựng nước của ông cha ta mà còn khẳng định sức mạnh vô địch của nhân dân. 

Khi thực dân Pháp xâm lược nước ta vào giữa thế kỷ XIX, chế độ phong kiến nhà Nguyễn đã trở nên thối nát phản động, đầu hàng thực dân đế quốc, phản bội lại đất nước, nhưng với tinh thần yêu nước nồng nàn nhân dân ta đã anh dũng đứng lên chống bọn cướp nước và bọn bán nước. 

Trong suốt 80 nǎm đô hộ của thực dân Pháp nhiều phong trào yêu nước của nhân dân ta do các sĩ phu phong kiến yêu nước khởi xướng đã liên tiếp nổ ra như: phong trào Cần Vương, phong trào Đông Du, phong trào Đông Kinh nghĩa thục, khởi nghĩa Yên Thế v.v... Nhưng tất cả những phong trào yêu nước đó đều thất bại. 

Có rất nhiều nguyên nhân dẫn đến sự thất bại của các phong trào yêu nước ở cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX. Nhưng rõ nhất và tập trung nhất là do thiếu một đường lối cứu nước đúng đắn nên không huy động tập hợp được sức mạnh nhân dân. 

Phong trào Cần Vương tuy kéo dài 12 nǎm (từ 1885 đến 1896) nhưng vẫn loay hoay trong hệ tư tưởng phong kiến nên không có khả nǎng tập hợp được đông đảo quần chúng nhân dân, vì giai cấp phong kiến đã thối nát, phần lớn đã đầu hàng thực dân, làm tay sai cho đế quốc và đàn áp, bóc lột thậm tệ nông dân, nên bị nhân dân oán ghét. 

Phan Chu Trinh, một chí sĩ yêu nước cuối thế kỷ XIX đầu XX đã từ bỏ con đường cứu nước theo lập trường phong kiến hướng tới lập trường dân chủ tư sản. Nhưng cụ lại chủ trương cải lương, muốn dựa vào sự giúp đỡ của Pháp, sửa đổi chế độ vua quan phong kiến và thay vào đó chế độ đại nghị tư sản. Còn Phan Bội Châu, chủ trương bạo động đánh đổ ách thống trị của thực dân Pháp giành độc lập cho dân tộc, nhưng lại dựa vào Nhật để đánh đuổi Pháp. Đúng như Trần Dân Tiên đã nhận xét về con đường cứu nước của hai cụ Phan như sau: 

"Phan Châu Trinh chỉ yêu cầu người Pháp thực hiện cải lương... chẳng khác gì đến xin giặc rủ lòng thương" còn "Phan Bội Châu hy vọng Nhật giúp đỡ để đuổi Pháp. Điều đó rất nguy hiểm, chẳng khác gì "đưa hổ cửa trước, rước beo cửa sau". 

Cuộc khởi nghĩa nông dân ở núi rừng Yên Thế do cụ Hoàng Hoa Thám lãnh đạo cũng thất bại do không có đường lối rõ ràng, "còn nặng cốt cách phong kiến", không tập hợp được quần chúng đông đảo. 

Giữa lúc phong trào yêu nước của Việt Nam đang bế tắc không biết đi về đâu thì xuất hiện Nguyễn ái Quốc - Hồ Chí Minh. Người đã ý thức một cách sâu sắc thân phận của người dân mất nước sống kiếp nô lệ dưới ách thống trị của thực dân phong kiến. Vì vậy, Người càng đồng cảm với nỗi khổ của nhân dân bao nhiêu, càng đánh giá cao tấm lòng yêu nước, thương dân của các cụ Phan Bội Châu, Phan Chu Trinh và các vị cách mạng tiền bối khác bấy nhiêu. Mặc dầu rất khâm phục tinh thần yêu nước của các vị cách mạng đàn anh nhưng Người nhận thấy những khuyết tật trong đường lối cứu nước mà họ đã chọn. Với tinh thần phê phán cách mạng, Người nhận thấy cần phải có một lý luận mới, một đường lối cách mạng mới, soi sáng cho con đường cách mạng Việt Nam. 

Trước khi đến với chủ nghĩa Mác - Lênin, trong nhận thức của Hồ Chí Minh, ngoài chủ nghĩa yêu nước truyền thống của dân tộc, Người đã tiếp thu một cách có phê phán những giá trị vǎn hoá của phương Đông và phương Tây. Đó là Nho giáo mà Người đã tiếp nhận qua các nhà Nho yêu nước - thứ Nho giáo đã được Việt Nam hoá. Nổi bật là những tư tưởng tiến bộ đề cao "đạo làm người", đề cao vai trò của dân, cùng với tinh thần "Tứ hải giai huynh đệ"... Đồng thời, Hồ Chí Minh cũng đã phê phán, lược bỏ những mặt hạn chế về thế giới quan, nhân sinh quan của Nho giáo - như quan niệm thứ bậc về con người chỉ bó hẹp trong quan hệ người - người bằng quan hệ "quân tử" - "tiểu nhân", sự coi khinh lao động chân tay, coi khinh phụ nữ... để xây dựng một quan điểm tư tưởng về một thế giới đoàn kết, nhân ái cho mọi người mà trước hết và trên hết là nhân dân bị áp bức đoạ đầy ở Tổ quốc mình và các nước khác. Điều này được thể hiện trong việc Hồ Chí Minh sử dụng những mệnh đề Nho giáo nhưng đã thay vào đó những nội dung cách mạng như: "Trung với nước", "Hiếu với dân", "bốn phương vô sản đều là anh em"... và tư tưởng của đạo Phật hy sinh tranh đấu diệt lũ ác ma, cứu chúng sinh ra khỏi khổ nạn, xây dựng một xã hội bình đẳng, no ấm, hạnh phúc và an lạc cho mọi chúng sinh. 

Với vǎn hoá phương Tây, ngay ở độ tuổi 13, khi được nghe những từ: tự do, bình đẳng, bác ái... Người đã muốn tìm xem những gì ẩn dấu đằng sau những từ ấy. Và khi bôn ba hải ngoại, Người đã chủ động tìm hiểu những tinh hoa vǎn hoá phương Tây qua sách báo, qua tiếp xúc, qua những tư tưởng tiến bộ. 

Trước khi ra đi tìm đường cứu nước, cứu dân Hồ Chí Minh chưa hiểu biết gì về Đảng Cộng sản cũng như chưa có tư tưởng về mối quan hệ giữa Đảng và dân. 

Chặng đường phát triển tư tưởng cách mạng đầu tiên của Hồ Chí Minh là những nǎm tháng lǎn lộn trong quần chúng lao động ở nhiều nước trên thế giới. Tại những nơi này, bằng những nghề đã làm, những phương thức sống và sự giao tiếp rộng rãi trong hoạt động xã hội, với ý thức sâu sắc về thân phận người dân nô lệ dưới ách thống trị của thực dân đế quốc, Người đã vô cùng xúc động trước đời sống khổ cực của giai cấp công nhân và nhân dân lao động ở các nước. Đây chính là cuộc khảo nghiệm đầu tiên giúp Người nhận thức được thực trạng thế giới và hình thành ý thức về giai cấp và dân tộc. Cũng từ đây hình thành con đường nhận thức của Hồ Chí Minh là từ thực tiễn cuộc sống khái quát thành lý luận. Bằng những điều mắt thấy tai nghe, Hồ Chí Minh bước đầu đã rút ra những kết luận quan trọng: 

- ở đâu, thực dân và tư bản cũng đều tàn ác, vô nhân đạo; xã hội tư bản là áp bức, là bóc lột. 

- ở đâu, giai cấp công nhân và nhân dân lao động cũng bị bóc lột dã man, bị ngược đãi. 

- Các dân tộc thuộc địa đều có kẻ thù không đội trời chung là thực dân, đế quốc. 

Và Người đã khái quát: "Dù màu da có khác nhau, trên đời này chỉ có hai giống người: giống người bóc lột và giống người bị bóc lột. Mà cũng chỉ có một mối tình hữu ái là thật mà thôi: tình hữu ái vô sản" 

Điều này chứng tỏ Hồ Chí Minh đã có bước chuyển cǎn bản về nhận thức: từ ý thức về thân phận người nô lệ, mất nước, Người đã ý thức về thân phận người nô lệ trong chế độ tư bản. Nói cách khác, từ giác ngộ dân tộc, sự giác ngộ giai cấp được hình thành. 

Có thể xem đây là những tri thức đầu tiên mà Người tự đúc rút qua khảo nghiệm. Đó cũng chính là cơ sở khởi đầu của một quá trình trưởng thành về ý thức giai cấp, về sự liên minh giai cấp trong đấu tranh cách mạng- nền tảng của sự ra đời tư tưởng về mối quan hệ giữa Đảng và nhân dân ở Hồ Chí Minh. 

Điều đáng nói ở đây là, chỉ trong một thời gian ngắn, từ nǎm 1911 đến đầu nǎm 1919, những tri thức trên đã được khẳng định. Đặc biệt là sau Hội nghị Véc xây, câu hỏi mà Người từng ấp ủ ở lứa tuổi 13 của mình là muốn biết sự thật những gì ẩn chứa đằng sau các từ "Tự do", "Bình đẳng", "Bác ái"... của phương Tây đã được giải đáp. Theo Người thì đằng sau những lời đường mật đó, bộ mặt thật của chủ nghĩa đế quốc thực dân và sự xảo trá của kẻ thủ đã được phơi bày một cách đầy đủ nhất. 

Người nêu lên một kết luận có ý nghĩa rất lớn về mặt lý luận và thực tiễn soi đường cho cuộc đấu tranh của nhân dân ta và nhân dân các nước thuộc địa khác. Đó là: "Muốn được giải phóng, các dân tộc chỉ có thể trông cậy vào mình, trông cậy vào lực lượng của bản thân mình". Kết luận này Người rút ra trước khi đến với chủ nghĩa Mác - Lênin, nhưng lại trùng hợp với luận điểm của Mác. Đó là: Sự giải phóng con người phải do chính con người đảm nhiệm. 

Sau này, vào nǎm 1921, khi thành lập Hội Liên hiệp thuộc địa, trong bản Tuyên ngôn, do chính Hồ Chí Minh soạn thảo, đã viết: "Vận dụng công thức của Các Mác, chúng tôi xin nói với anh em rằng, công cuộc giải phóng anh em chỉ có thể thực hiện bằng sự nỗ lực của bản thân anh em". 

Như vậy, với Hồ Chí Minh, bên cạnh sự cần thiết phải đoàn kết các dân tộc thuộc địa và nhân dân lao động các nước, thì tư tưởng tự lực cánh sinh là chính. Kết luận đó của Người là kết quả hợp logich của quá trình nhận thức bản chất phản động của chủ nghĩa đế quốc, thực dân, và lòng tin ở vai trò, sức mạnh to lớn ở sự đoàn kết của nhân dân lao động. 

Nhờ có lòng tin về khả nǎng tiềm ẩn cách mạng của nhân dân các nước thuộc địa, mà ngay trong những tháng nǎm đen tối nhất của các dân tộc châu á, Người đã dự báo: "Ngày mà hàng trǎm triệu nhân dân châu á bị tàn sát và áp bức thức tỉnh để gạt bỏ sự bóc lột đê tiện của bọn thực dân lòng tham không đáy, họ sẽ hình thành một lực lượng khổng lồ và trong khi thủ tiêu một trong những điều kiện tồn tại của chủ nghĩa tư bản, chủ nghĩa đế quốc, họ có thể giúp đỡ những người anh em mình ở phương Tây làm nhiệm vụ giải phóng hoàn toàn". 

Về sức mạnh tiềm tàng của người Đông Dương Hồ Chí Minh đã khẳng định: "Người Đông Dương không chết, người Đông Dương vẫn sống, sống mãi mãi. Sự đầu độc có hệ thống của bọn thực dân không thể làm tê liệt sức sống, càng không thể làm tê liệt tư tưởng cách mạng" của họ. "Đằng sau sự phục tùng tiêu cực, người Đông Dương giấu một cái gì đang sục sôi, đang gào thét và sẽ bùng nổ một cách ghê gớm, khi thời cơ đến. Bộ phận ưu tú (tức là Đảng Cộng sản - người trích nhấn mạnh) có nhiệm vụ phải thúc đẩy cho thời cơ đó mau đến. 

Sự tàn bạo của chủ nghĩa tư bản đã chuẩn bị đất rồi: Chủ nghĩa xã hội chỉ còn phải làm cái việc là gieo hạt giống của công cuộc giải phóng nữa thôi". 

Vậy là niềm tin vào sức mạnh to lớn của nhân dân ở Hồ Chí Minh không chỉ bắt nguồn trong truyền thống yêu nước chống ngoại xâm của dân tộc ta, mà còn được đúc rút qua kinh nghiệm của các cuộc cách mạng điển hình của thế giới. Từ các cuộc Cách mạng Pháp (1789), Cách mạng Mỹ (1776) đến Cách mạng Tháng Mười Nga (1917), Hồ Chí Minh kết luận về sức mạnh của nhân dân là: "Dân khí mạnh thì quân lính nào, súng ống nào cũng không chống lại" nổi. 

Muốn làm cách mạng thì phải đoàn kết dân chúng bị áp bức để đánh đổ giai cấp áp bức mình. Muốn cách mạng thành công thì phải dựa vào lực lượng của quần chúng nhân dân, phải có công nông làm gốc, phải có đảng của giai cấp công nhân - đảng duy nhất có đủ khả nǎng tập hợp, tổ chức lãnh đạo nhân dân làm cuộc cách mạng giải phóng giai cấp, giải phóng nhân dân khỏi ách thống trị của chủ nghĩa đế quốc. 

ý thức được sự hình thành mối quan hệ giữa lực lượng cách mạng và vai trò lãnh đạo cách mạng nên ngay từ đầu nǎm 1923 trong một bức thư trả lời các đồng chí cộng sản ở Pháp, Hồ Chí Minh đã nói rõ ý định của mình: "Trở về nước, đi vào quần chúng, thức tỉnh họ, tổ chức họ, đoàn kết họ, huấn luyện họ, đưa họ ra đấu tranh giành tự do độc lập". Muốn vậy phải hình thành sớm tổ chức tiền thân của Đảng Cộng sản và điều đó đã thành hiện thực: Hội An nam Thanh niên Cách mạng được tổ chức từ nǎm 1925. "Có thể nói rằng, nó là quả trứng, mà từ đó, nở ra con chim non cộng sản (Đảng Cộng sản". 

Chẳng bao lâu sau, vào nǎm 1930, ở Việt Nam, lực lượng chính trị đó là Đảng Cộng sản đã ra đời. 

Tóm lại, trong quá trình tìm đường cứu nước, tư tưởng Hồ Chí Minh về sức mạnh của quần chúng nhân dân đã gặp gỡ những quan điểm phổ biến của chủ nghĩa Mác - Lênin về vai trò của quần chúng nhân dân trong lịch sử. Người khẳng định nếu có một đảng cách mạng chân chính để tập hợp tổ chức, lãnh đạo thì nhất định nhân dân ta có thể tự mình đứng lên đánh đổ ách thống trị của thực dân đế quốc, giành lại độc lập, tự do cho đất nước, mang lại hạnh phúc cho nhân dân. Đó là quá trình nhận thức của Hồ Chí Minh từ thực tiễn cuộc sống đến với lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, để từ lý luận đó mà áp dụng vào thực tiễn đấu tranh của dân tộc, tìm ra phương pháp mới đưa cách mạng Việt Nam đến thắng lợi, mở ra quan hệ hiện thực giữa Đảng với nhân dân hơn sáu thập kỷ qua. 

2. Những luận điểm chủ yếu của Hồ Chí Minh về dân 

Quan điểm của Hồ Chí Minh về dân rất nhất quán và sâu sắc trên cơ sở kế thừa những giá trị truyền thống tốt đẹp của dân tộc và tinh hoa của nhân loại, mà đỉnh cao là học thuyết Mác-Lênin. Chính những quan điểm đó đã chỉ ra tính chất, đặc điểm và nội dung của mối quan hệ giữa Đảng với dân. Hơn nữa, những quan điểm đó đang trở thành những định hướng cơ bản, những yêu cầu bức thiết cho công cuộc đổi mới và chỉnh đốn Đảng ta hiện nay. 

Cần khẳng định rằng, trong tư tưởng Hồ Chí Minh, dân là một phạm trù rất rộng nhưng vẫn bao hàm và thể hiện tính giai cấp rất rõ rệt. Hồ Chí Minh thường dùng khái niệm dân bên cạnh các khái niệm: nhân dân, quần chúng nhân dân, đồng bào... tuỳ lúc, tuỳ nơi, tuỳ từng quan hệ cho thích hợp. Đó là những khái niệm đồng nghĩa, có cùng nội hàm để chỉ mọi người Việt Nam yêu nước không phân biệt già, trẻ, gái trai, giàu nghèo, không phân biệt tôn giáo, tầng lớp - trong đó công nông chiếm tuyệt đại đa số. Khái niệm dân hay nhân dân, quần chúng, đồng bào mà Hồ Chí Minh sử dụng rất dung dị, mộc mạc, dễ hiểu nhưng cũng rất tinh tế, uyển chuyển trong chiều sâu tư tưởng của Người. 

Chúng ta biết rằng, chủ nghĩa Mác - Lênin khi bàn về phạm trù nhân dân thường giới hạn trong phạm vi của mối quan hệ giai cấp, giữa giai cấp vô sản với giai cấp nông dân, các tầng lớp bị áp bức bóc lột, mở rộng ra là các dân tộc bị áp bức trên toàn thế giới. 

Hồ Chí Minh đã kế thừa toàn bộ tư tưởng đúng đắn và cách mạng đó của học thuyết Mác-Lênin khi bàn về phạm trù dân. Hơn thế nữa trong điều kiện của một nước thuộc địa nửa phong kiến, muốn giành được độc lập cho Tổ quốc, ấm no hạnh phúc cho nhân dân cần phải có một quan niệm về nhân dân rộng rãi hơn phù hợp với đặc điểm, truyền thống yêu nước, sự gắn bó cộng đồng và tinh thần cách mạng của nhân dân Việt Nam. Thấu hiểu bài học lịch sử về sức mạnh của quần chúng nhân dân, dưới ánh sáng của chủ nghĩa Mác-Lênin, đứng vững trên lập trường giai cấp công nhân, Hồ Chí Minh đã phát triển, làm phong phú thêm nội hàm của khái niệm dân phù hợp với điều kiện thời đại và đặc điểm của dân tộc. 

Sự phát triển sáng tạo của Hồ Chí Minh là: 

Thứ nhất, Người quan niệm dân là người trong cùng một cộng đồng, một quốc gia, một lãnh thổ thống nhất. Người gọi nhân dân là "quốc dân", là "đồng bào" là "người trong một nước"... 

Thứ hai, dân có chung một cội nguồn, "đều chung một tổ tiên", là con "cùng một bọc" là "con Lạc cháu Hồng", "đều là con cháu Việt Nam, đều là anh em ruột thịt". Vì vậy, "chúng ta sống chết có nhau, sướng khổ cùng nhau, no đói giúp nhau". 

Thứ ba, dân còn là các tầng lớp, các thế hệ, các giới, các đoàn thể. 

Thứ tư, theo tinh thần "Bốn phương vô sản đều là anh em", dân còn bao hàm cả nghĩa quốc tế, nhân loại. Đó là "đại gia đình giai cấp công nhân toàn thế giới", là bạn bè nǎm châu bốn biển, là nhân dân các châu lục đang đấu tranh chống lại sự nô dịch, bất công để giành độc lập, tự do, tiến bộ và hoà bình chung trên hành tinh chúng ta. 

Thứ nǎm, dân còn dùng để chỉ những người yêu nước, xây dựng đất nước, là lực lượng cách mạng. 

Sự mở rộng nhận thức về dân, làm tǎng nội hàm của khái niệm dân ở Hồ Chí Minh không có gì trái với quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin, mà chỉ làm cho phạm trù đó trở nên phong phú, đa dạng, vừa mang tính cách mạng, tính giai cấp vừa mang tính dân tộc, càng làm nổi tính chỉnh thể của phạm trù dân. 

Đây là nét nổi trội và xuyên suốt trong tư tưởng Hồ Chí Minh. Khái niệm về dân mà Người dùng, một mặt thể hiện quan điểm giai cấp, quan điểm quần chúng của chủ nghĩa Mác-Lênin, mặt khác lại mang tính sáng tạo, tính thực tiễn, phù hợp với điều kiện, hoàn cảnh và bản sắc của dân tộc ta. Điều đó đã dẫn đến khả nǎng to lớn trong việc thuyết phục, thu phục mọi lực lượng, mọi khả nǎng của cả dân tộc vào khối đại đoàn kết toàn dân, nhằm hướng lực lượng toàn dân vào mục tiêu giải phóng dân tộc, giành độc lập tự do, hạnh phúc cho nhân dân. Chính vì vậy, tư tưởng về dân của Hồ Chí Minh đã trở thành tư tưởng chỉ đạo cho việc xây dựng Mặt trận dân tộc thống nhất trong các thời kỳ cách mạng Việt Nam. 

Trên thực tế, Mặt trận đã quy tụ được mọi giai cấp, đảng phái, tầng lớp, thành phần, tôn giáo... nghĩa là tất cả những ai có lòng yêu nước, tán thành độc lập dân tộc và cùng chung xây dựng một nước Việt Nam tự do và hạnh phúc. Nhưng Mặt trận vẫn luôn lấy công - nông- trí làm nòng cốt. 

Như vậy, khái niệm dân của Hồ Chí Minh đã thực sự trở thành cơ sở tư tưởng đại đoàn kết. Tư tưởng đó vượt khỏi khuôn khổ tư tưởng thuần tuý của một con người, trở thành một chiến lược cách mạng của Đảng ta. 

Tư tưởng về dân của Hồ Chí Minh rất phong phú, nhưng ở đây có thể khái quát thành những luận điểm lớn chủ yếu sau đây: 

Thứ nhất, dân là gốc của nước, của cách mạng: 

"Dân là gốc của nước", "nước lấy dân làm gốc" là tư tưởng vốn có trong Nho giáo, trong học thuyết của Khổng Mạnh. Hồ Chí Minh từng nói: Trong học thuyết của Khổng Tử có nhiều điều không đúng, song những điều hay trong đó thì chúng ta nên học". "Nước lấy dân làm gốc" là một trong "những điều hay", là một tư tưởng sâu sắc của Nho giáo mà ông cha ta đã kế thừa và vận dụng ở những thời kỳ hưng thịnh của các vương triều trong quá trình dựng nước và giữ nước suốt mấy nghìn nǎm lịch sử. Tư tưởng đó cũng đã dược Hồ Chí Minh trân trọng tiếp thu và thường xuyên vận dụng trong cả cuộc đời hoạt động của Người, đặc biệt là từ sau khi Cách mạng Tháng Tám 1945 thành công, Người trở thành vị Chủ tịch đầu tiên của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà và cũng là Chủ tịch Đảng. Nho giáo mà Hồ Chí Minh sử dụng là thứ Nho giáo đã Việt Nam hoá. Vì ngôn ngữ Nho giáo đã quen thuộc với dân tộc ta nên Hồ Chí Minh thường dùng các mệnh đề Nho giáo nhưng đã chắt lọc cho phù hợp với yêu cầu mới của Cách mạng. Cũng là chữ trung hiếu, ở Khổng Tử là trung với vua và hiếu với bố mẹ, ở Hồ Chí Minh là "trung với nước hiếu với dân". 

Dân với nước gắn bó với nhau. Trước hết phải có một địa bàn lãnh thổ {điều kiện tự nhiên} nhất định thì dân mới có thể làm ǎn, sinh sống, phát triển thành một cộng đồng xã hội được. Nhưng tự thân một vùng đất đai tự nhiên nào đó chưa thể gọi là "nước" được, mà phải có công lao khai phá xây dựng của dân có tổ chức xã hội thì mới thành Nước. Nước phải có dân và do dân lập nên. Không có dân thì không có nước, do đó dân là gốc của Nước. "Gốc" là cơ sở quan trọng nhất của một sự vật, như ta thường nói: tài liệu gốc, chứng từ gốc, kinh tế là gốc của chính trị và quân sự v.v... Thay đổi tận "gốc " là thay đổi sự vật một cách triệt để. Mất "gốc" là mất cái gì cǎn bản nhất, làm cho một sự vật biến chất, không còn là nó nữa. 

Nước là một quốc gia, một vùng lãnh thổ có chủ quyền của những cộng đồng dân cư mà bao giờ cũng có những người cầm quyền (một triều đại, một chính phủ) mang danh đại diện. Dân là gốc, là nền của Nước nhưng không phải ai cũng nhận rõ vai trò đó của dân. Hồ Chí Minh đã từng thẳng thắn vạch ra sai lầm đó. Người nói: "Một pho tượng hay một lâu đài cũng phải có cái nền rất vững chắc mới đứng vững được. Nhưng người ta dễ nhìn thấy pho tượng và lâu đài mà không chú ý đến cái nền. Như thế là chỉ thấy cái ngọn mà quên mất cái gốc". 

Hồ Chí Minh không những nhận thức sâu sắc mà còn phát triển những nội dung mới, làm phong phú thêm tư tưởng dân là gốc của nước, của cách mạng. 

Người khẳng định vai trò của lao động, của nhân dân là những người lao động đã làm ra mọi của cải vật chất và giá trị vǎn hoá, nuôi sống bộ máy nhà nước và toàn thể xã hội, làm cho xã hội tồn tại và phát triển: "Xã họi có cơm ǎn, áo mặc nhà ở là nhờ người lao động. Xây nên giàu có, tự do dân chủ cũng là nhờ người lao động. Trí thức mở mang cũng là nhờ lao động (lao động trí óc). Vì vậy lao động là sức chính của sự tiến bộ loài người". Người nhắc nhở những người được hưởng thụ của cải tiêu dùng phải biết ơn, trả ơn những người đã làm ra những thứ đó là nhân dân: "Cơm chúng ta ǎn, áo chúng ta mặc, vật liệu chúng ta dùng, đều do mồ hôi nước mắt của nhân dân mà ra. Vì vậy chúng ta phải đền bù xứng đáng cho nhân dân". Đó chính là tư tưởng ơn dân, "uống nước nhớ nguồn" - một đạo lý cao đẹp của dân tộc ta. 

Hồ Chí Minh còn khẳng định dân là lực lượng chủ yếu, là gốc của các cuộc Cách mạng. Đồng chí Trường Chinh đã so sánh và nhận xét: "Trước Hồ Chủ tịch, các nhà cách mạng Việt Nam thường cho rằng cách mạng nước ta phải do những vị anh hùng xuất chúng, những người tài cao học rộng làm; những người đó chỉ cần hô một tiếng là quần chúng nhân dân nổi dậy rǎm rắp và thực hiện ý muốn chủ quan của họ. Hồ Chủ tịch, trái lại, đã nhận rõ sự nghiệp cách mạng là của quần chúng nhân dân đông đảo, trước hết là của những tầng lớp nghèo khổ nhất, bị áp bức bóc lột nhiều nhất, của công nhân và nông dân". 

Do tính chất và nội dung của cách mạng là rất phức tạp, phải thay thế chế độ cũ bằng chế độ mới, nên Hồ Chí Minh đã thấy rõ và nhiều lần khẳng định vai trò quyết định của quần chúng nhân dân: "Cách mạng là do nhân dân tự làm lấy, Đảng chỉ là người lãnh đạo"; "Sự nghiệp cách mạng rộng lớn và khó thực hiện; nó không thể do một người hay một nhà làm mà tốt được"; "Cách mạng là sự nghiệp của quần chúng chứ không phải là của cá nhân anh hùng nào"; "Cá nhân anh hùng thì dù cho những cá nhân ấy anh dũng thế nào cũng không đi đến kết quả". Đương nhiên, Người cũng thấy rõ mối quan hệ giữa cá nhân, lãnh tụ với quần chúng nhân dân, nhưng vai trò quyết định vẫn là quần chúng nhân dân: "Cán bộ không đội viên, lãnh đạo không có quần chúng, thì không làm gì được". Qua nghiên cứu về các cuộc cách mạng ở các nước, đặc biệt là cách mạng Nga, Hồ Chí Minh rút ra một bài học kinh nghiệm quan trọng: "Cách mệnh thì phải đoàn kết dân chúng bị áp bức để đánh đổ cả cái giai cấp áp bức mình, chứ không phải chỉ nhờ 5,7 người giết 2,3 anh vua, 9,10 anh quan mà được. Hai đảng ấy (tức là đảng "Công nhân giải phóng" thành lập nǎm 1875 và "Công đảng" thành lập nǎm 1878 ở Nga - người trích nhấn mạnh); tuy hy sinh hết nhiều người,làm được nhiều sự ám sát oanh liệt, nhưng vì đi sai đường cách mệnh, không có sức dân chúng làm nền, cho nên bị Chính phủ trị mãi đến nỗi tan". 

ở nước ta, trong những nǎm 20 của thế kỷ này cả dân tộc đang sống dưới ách thống trị của thực dân phong kiến, nhưng Hồ Chí Minh đã thấy được ý chí và sức mạnh của nhân dân. Trong thư gửi Khải Định vào tháng 8 nǎm 1922, Nguyễn ái Quốc đã thẳng thừng phê phán sự ươn hèn và lố lǎng của ông vua bù nhìn, đồng thời ca ngợi ý chí và sức mạnh của nhân dân: "Ngài sẽ thấy rằng ý chí của nhân dân - một ý chí đã được hun đúc trong nghèo đói và khổ cực - một ý chí còn mạnh hơn và dẻo dai hơn sóng cả, cuối cùng sẽ khoét hổng dần và đánh bật cái tảng đá bề ngoài có vẻ vững chắc là sự áp bức bóc lột kia đi". Nhận định ấy còn được Nguyễn ái Quốc nhắc lại trong tác phẩm Đường cách mệnh: "Dân khí mạnh thì quân lính nào, súng ống nào cũng không chống lại được". 

Vì áp bức mà sinh ra cách mệnh. Cách mệnh muốn thắng lợi phải dựa vào dân chúng, trong đó, phải lấy công nông làm gốc. Hồ Chí Minh đã lý giải vì sao lại như vậy: 

"1. Là vì công nông bị áp bức nặng hơn 

2. Là vì công nông là đông nhất cho nên sức mạnh hơn hết, 

3. Là vì công nông là tay không chân rồi, nếu thua thì chỉ mất một cái kiếp khổ, nếu được thì được cả thế giới, cho nên họ gan góc. Vì những cớ ấy, nên công nông là gốc cách mệnh". 

Dân là gốc của nước, của cách mạng vì dân có số lượng đông, vì mọi "lực lượng đều ở nơi dân", "lực lượng của dân chúng nhiều vô cùng"; "Công an có nǎm, bảy vạn người, quân đội có mấy chục vạn người nhưng vẫn còn ít lắm bên cạnh lực lượng nhân dân". Chính vì vậy mà xưa nay những đội quân xâm lược nước ta của các nước thực dân, đế quốc, mặc dù được "trang bị đến tận rǎng" vẫn bị đánh bại bởi chiến tranh nhân dân, chiến tranh toàn dân của ta. 

Dân không những có lực lượng đông mà còn rất cần cù, thông minh, khéo léo, có nhiều kinh nghiệm quí báu."Dân chúng biết giải quyết nhiều vấn đề một cách giản đơn, mau chóng, đầy đủ mà những người tài giỏi, những đoàn thể to lớn, nghĩ mãi không ra". 

Dân có lực lượng đông đảo, có trí tuệ tập thể, có khả nǎng và kinh nghiệm để giải quyết mọi công việc lớn nhỏ, đúng như câu ca dao mới của nhân dân Quảng Bình đã khẳng định: 

"Dễ mười lần không dân cũng chịu 

Khó trǎm lần dân liệu cũng xong". 

Vì vậy, Hồ Chí Minh thường xuyên nhắc nhở: "Nếu biết dựa vào nhân dân thì việc gì cũng xong"; "Dân chúng đồng lòng, việc gì làm cũng được; dân chúng không ủng hộ việc gì làm cũng không nên"; "Nước lấy dân làm gốc... Gốc có vững cây mới bền, xây lầu thắng lợi trên nền nhân dân". 

Cũng như tổ tiên ta trước đây, Hồ Chí Minh thường nêu lên ba yếu tố quan trọng trong đời sống xã hội của con người - đó là thiên thời, địa lợi, nhân hoà - trong đó nhân hoà là quan trọng nhất. Người nói: ở trong xã hội, muốn thành công phải có ba điều kiện là: thiên thời, địa lợi, nhân hoà. Ba diều kiện ấy đều quan trọng cả. Nhưng thiên thời không quan trọng bằng địa lợi mà địa lợi không quan trọng bằng nhân hoà". Theo Người, nhân hoà là "tất cả mọi người đều nhất trí", nghĩa là đại đoàn kết, là lực lượng đoàn kết của toàn dân. 

Chính vì "dân là gốc của nước" cho nên dân là quí nhất, là quan trọng hơn hết. Hồ Chí Minh đã khẳng định: "Trong bầu trời không có gì quí bằng nhân dân. Trong thế giới không gì mạnh bằng lực lượng đoàn kết của toàn dân... Trong xã hội không có gì tốt đẹp, vẻ vang bằng phục vụ cho lợi ích của nhân dân". Đây là một tư tưởng tổng quát, có tính triết lý sâu xa, thể hiện một thế giới quan khoa học, một quan niệm nhân sinh đúng đắn đầy ý nghĩa nhân vǎn cao cả. 

"Dân là gốc của nước" nên phải chǎm sóc đến gốc vì "gốc có vững cây mới bền", dân có giàu nước mới mạnh. 

Thứ hai, dân là chủ của đất nước, của xã hội, là chủ vận mệnh của chính mình 

Tư tưởng dân chủ - dân là chủ của đất nước, của Nhà nước, của xã hội, chủ vận mệnh của chính mình là tư tưởng mới mẻ, chưa có trong tư tưởng truyền thống của dân tộc ta, càng chưa có trong tư tưởng Nho giáo. Tư tưởng dân chủ của Hồ Chí Minh xuất hiện và được khẳng định sau khi nhân dân ta dưới sự lãnh đạo của Đảng tiến hành Cách mạng Tháng Tám 1945 thành công. 

"Cách mạng Tháng Tám đã lật đổ nền quân chủ mấy mươi thế kỷ, đã đánh tan xiềng xích thực dân gần 100 nǎm, đã đưa chính quyền lại cho nhân dân, đã xây nền tảng cho nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà, độc lập, tự do, hạnh phúc. 

Đó là một cuộc thay đổi cực kỳ to lớn trong lịch sử nước ta. 

Cách mạng Tháng Tám thắng lợi đã làm cho chúng ta trở nên một bộ phận trong đại gia đình dân chủ thế giới". 

Tư tưởng dân chủ chính là cái cốt lõi nhất, bản chất nhất của tư tưởng Hồ Chí Minh về dân. "Nước ta là nước dân chủ", "chế dộ ta là chế độ dân chủ", là những câu Hồ Chí Minh không chỉ nói một lần mà Người đã nhắc lại nhiều lần trong nhiều hoàn cảnh khác nhau, ở những tác phẩm khác nhau. "Dân chủ", theo Hồ Chí Minh, nghĩa là "Dân là chủ", "nhân dân là người chủ". Điều đó, Hồ Chí Minh đã nhiều lần nói rõ: "Nước ta là nước dân chủ, địa vị cao nhất là dân, vì dân là chủ". "Chế độ ta là chế độ dân chủ, tức là nhân dân là người chủ". 

Nước ta là nước dân chủ được lấy làm tiêu đề của một trong bốn phần của tác phẩm Dân vận - một tác phẩm rất ngắn, chỉ khoảng 600 chữ, nhưng hàm chứa nhiều khái niệm quan trọng, nhiều tư tưởng lớn về dân, trong đó có tư tưởng dân chủ. ở đây Hồ Chí Minh đã trình bày một cách rất cô đọng và sáng tỏ nội dung cơ bản tư tưởng dân chủ bằng bảy câu rất ngắn mà đặc sắc như những danh ngôn. 

"Bao nhiêu lợi ích đều vì dân 

Bao nhiêu quyền hạn đều của dân 

Công việc đổi mới, xây dựng là trách nhiệm của dân 

Sự nghiệp kháng chiến, kiến quốc là công việc của dân 

Chính quyền từ xã đến Chính phủ Trung ương do dân cử ra 

Đoàn thể từ Trung ương đến xã do dân tổ chức nên 

Nói tóm lại, quyền hành và lực lượng đều ở nơi dân". 

Bảy câu mà câu nào cũng có chữ dân. Và dân không phải ở vị trí phụ thuộc mà ở địa vị cao nhất, địa vị làm chủ, chi phối mọi thứ khác, làm cho mọi thứ khác đều phải xuất phát từ đó và đều hướng vào đó. Bảy câu nói về dân và nói được rất nhiều vấn đề liên quan trực tiếp đên dân: Lợi ích, quyền hạn, trách nhiệm, công việc, chính quyền, đoàn thể, quyền hành và lực lượng. Bảy câu mà nói được vai trò quyết định của dân đối với tổ chức quan trọng nhất là chính quyền và đoàn thể (tức là Đảng trong thời gian rút vào hoạt động bí mật từ cuối nǎm 1945 đến đầu nǎm 1951) của cơ sở xã hội từ dưới lên {chính quyền từ xã đến Chính phủ Trung ương và từ trên xuống (Đoàn thể từ Trung ương đến xã). Bảy câu mà nói đến cả kháng chiến, kiến quốc, xây dựng, liên quan đến những vấn đề đại sự của nhân loại là chiến tranh và hoà bình; đặc biệt là từ nǎm 1949 Hồ Chí Minh đã nói đến cả "công việc đổi mới" là vấn đề ngày nay đang trở thành thuật ngữ quen thuộc với mọi người. 

Dân chủ nghĩa là dân là chủ. Dân là chủ vì dân có quyền hạn, có quyền hành - tức là có khả nǎng thực tế quyết định, định đoạt, điều hành những tổ chức, những công việc do mình làm chủ. Nhiều người lầm tưởng rằng quyền hành là ở các tổ chức nhà nước do những cán bộ có chức có quyền nắm giữ. Thực ra đó là quyền lực được nhân dân giao phó, uỷ thác. Khi những người đó thôi giữ chức vụ đại diện cho quyền lực của nhân dân thì họ cũng hết quyền. Chính vì quyền hành là của dân nên dân mới có thể cử ra chính quyền từ xã đến Chính phủ Trung ương, và mới có thể tổ chức nên đoàn thể từ Trung ương đến xã. Và cũng vì thế mà Hồ Chí Minh đã từng khẳng định: "Dân là chủ thì Chính phủ phải là đầy tớ... Nếu Chính phủ làm hại dân thì dân có quyền đuổi Chính phủ." 

Dân có quyền vì dân có lực lượng. Lực lượng của dân là vô cùng, vô tận, đã tạo ra mọi của cải vật chất và mọi giá trị tinh thần của xã hội trong mọi thời đại và mọi hoàn cảnh. 

Như vậy, dân là chủ vì mọi "quyền hành và lực lượng đều ở nơi dân". Dân đã là chủ thì đương nhiên dân có lợi ích của người làm chủ, nghĩa là "bao nhiêu lợi ích đều vì dân". Quan tâm đến lợi ích, coi trọng lợi ích là thể hiện rõ quan điểm triết học duy vật lịch sử , rất đúng với lý luận và có ý nghĩa thực tiễn to lớn trong công cuộc đổi mới hiện nay. 

Dân là chủ, có quyền hành, lợi ích thì đương nhiên cũng có nghĩa vụ, trách nhiệm đối với mọi công việc, từ kháng chiến, kiến quốc đến xây dựng đổi mới đất nước. Hồ Chí Minh đã nhiều lần đề cập đến vấn đề này, kêu gọi các tầng lớp nhân dân làm tròn nghĩa vụ của người công dân, người chủ nước nhà. Người nói rằng dân là chủ thì dân phải có trách nhiệm của người làm chủ; dân có quyền lợi làm chủ, thì phải có nghĩa vụ làm tròn bổn phận công dân, giữ đúng đạo đức công dân. 

Bổn phận công dân và đạo đức công dân đó là sự thống nhất giữa trách nhiệm và nghĩa vụ của người dân. Theo Hồ Chí Minh, những phạm trù trên có nội dung và yêu cầu ở người dân rất cụ thể. Đó là ý thức chấp hành pháp luật, tuân theo kỷ cương lao động, đóng góp để xây dựng chế độ, mà cao nhất là tinh thần hy sinh bảo vệ Tổ quốc, bảo vệ chế độ xã hội mới. Đứng trước trách nhiệm và nghĩa vụ, Người kêu gọi mọi người phải bình đẳng: "Các tầng lớp nhân dân ta - công nhân, nông dân, lao động trí óc, các nhà công thương, đồng bào thiểu số - ai nấy hãy làm tròn nghĩa vụ của người công dân, người chủ nước nhà". Đó là một sự bình đẳng được dựa trên nền tảng của sự thống nhất về lợi ích. Người nói: "Lợi ích chung của nhà nước và lợi ích riêng của người dân là nhất trí; quyền lợi của công dân và nghĩa vụ công nhân là nhất trí; đã là người chủ của nước nhà thì phải phụ trách đối với Tổ quốc". 

Theo Hồ Chí Minh, trách nhiệm và bổn phận công dân không chỉ là việc chấp hành đầy đủ chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước mà nhân dân còn phải tham gia vào việc xây dựng các chủ trương chính sách, tham gia xây dựng Đảng, thẩm định sự đúng đắn của một đường lối, một chủ trương. Muốn làm được điều đó dân cũng cần phải tự nâng cao trình độ để xứng đáng với người làm chủ. 

Với những quan điểm trên, Hồ Chí Minh đã hoàn thiện về mặt nhận thức vai trò, vị trí của nhân dân trong cách mạng. Những quan điểm đó chính là sự kế thừa, phát triển sáng tạo học thuyết Mác về vai trò quần chúng nhân dân trong lịch sử và tư tưởng "nước lấy dân làm gốc" của ông cha ta. 

Theo Người, dân là gốc, là nền tảng của cách mạng thì dân phải có quyền làm chủ thực sự. Xưa nay, trong lịch sử, nhiều người đã đề cao vai trò, sức mạnh nhân dân. Nhưng quan niệm "bao nhiêu quyền hạn đều của dân", "quyền hành và lực lượng đều ở nơi dân" thì chỉ có Hồ Chí Minh là người duy nhất. 

Nét độc đáo trong quan niệm về quyền lực nhân dân của Hồ Chí Minh là ở chỗ nó tuân theo phép biện chứng một cách triệt để, vì: "Cách mạng là sự nghiệp của quần chúng". Độc lập, tự do chính là kết quả của sự hy sinh xương máu của mọi tầng lớp nhân dân. "Chính quyền từ xã đến Chính phủ Trung ương do dân cử ra". Muốn xây dựng được chế độ mới thành công cũng phải dựa vào công sức, tiền của của nhân dân. Do vậy mọi thành quả của cách mạng và quyền lực của chế độ xã hội ắt phải thuộc về dân, là của dân. 

Sự khác thường, chính là ở chỗ, nhiều cá nhân, nhiều tập đoàn, giai cấp sau khi đã giành được chính quyền và củng cố được địa vị thống trị của mình, thì quên dân, thậm chí đi ngược lại quyền lợi của dân, phản dân. Chính vì vậy Hồ Chí Minh luôn luôn đòi hỏi phải tôn trọng quyền làm chủ của nhân dân, phải bảo vệ lợi ích của nhân dân, phải yêu dân, dựa vào dân, gần dân, lắng nghe, học hỏi, tin dân. Cán bộ Đảng cũng như cán bộ chính quyền đều là đầy tớ của dân, phải hết lòng hết sức phục vụ dân. 

Như vậy, "dân chủ là của quí báu nhất của nhân dân", cũng là tư tưởng mới mẻ, độc đáo của Hồ Chí Minh. Tư tưởng của Hồ Chí Minh thể hiện ở chỗ Người khẳng định: dân là chủ, địa vị cao nhất là dân, quyền hành và lực lượng đều ở nơi dân, tất cả lợi ích đều vì dân, dân có quyền lợi thì cũng phải làm tròn nghĩa vụ, trách nhiệm của mình đối với đất nước và xã hội. Tư tưởng dân chủ của Hồ Chí Minh đã chứa đựng toàn bộ nguyên lý vì dân, do dân, của dân mà Đảng ta đã nhận thức rõ và đang lãnh đạo, triển khai trên mọi lĩnh vực của đời sống xã hội trong sự nghiệp đổi mới hiện nay. 

Thứ ba, Dân có lực lượng to lớn, tiềm nǎng vô tận, nhưng không thuần nhất mà có nhiều tầng lớp khác nhau, cần phải được giác ngộ, tổ chức, lãnh đạo đúng đắn 

Hồ Chí Minh quan niệm: "Dân chúng không nhất luật như nhau. Trong dân chúng, có nhiều tầng lớp khác nhau, trình độ khác nhau, ý kiến khác nhau". Quan niệm như vậy là rất phù hợp với thực tế và rất cần thiết để có phương pháp ứng xử thích hợp với từng đối tượng cụ thể trong dân chúng. 

Thật vậy, xét về mặt xã hội, dân là một tập hợp người không đơn giản, không thuần nhất, mà được phân loại, xếp hạng theo những tiêu chí nhất định: giới tính, lứa tuổi, giai cấp, tầng lớp, nghề nghiệp... Trong xã hội phong kiến ở nước ta trước đây vua chúa gọi tất cả những người sống trong lãnh thổ mà họ cai trị là "thần dân", "muôn dân", "trǎm họ". Trong dân chúng lại xếp hạng và phân biệt đối xử theo mức độ "giàu, nghèo, quí, tiện". "Thứ dân", "bình dân", "thường dân" là những người dân bình thường, không có địa vị xã hội, không thuộc lớp "thượng lưu", không phải là những con người "cao quí". "Lê dân" là dân chúng đông đảo, là nhân dân lao động bị áp bức, bóc lột. "Tiện dân" là loại dân nghèo nàn, cùng khổ, làm những nghề nghiệp hèn hạ, bị xã hội khinh rẻ. 

Xã hội phong kiến còn phân chia dân làm bốn hạng, có tính chất nghề nghiệp, gọi là "tứ dân", và sắp xếp giá trị xã hội từ cao đến thấp là: sĩ, nông, công, thương. "Sĩ" là người có học, người tri thức, người lao động trí óc được coi là trí tuệ của xã hội, được xã hội kính trọng nhất trong tứ dân. "Nông" là nhà nông, những người làm ruộng chiếm đại đa số dân cư trong xã hội nông nghiệp "dĩ nông vi bản" sản xuất ra thóc gạo để nuôi xã hội, nên được xếp thứ hai trong tứ dân. Tuy nhiên, do quan niệm "dân dĩ thực vi thiên" và "có thực mới vực được đạo" nên vị trí nhất nhì giữa sĩ và nông cũng không phải thật ổn định, mà đôi khi đổi chỗ cho nhau: "Nhất sĩ nhì nông, hết gạo chạy rông, nhất nông nhì sĩ". "Công" bao gồm những người làm nghề thủ công, làm thợ sản xuất ra đồ dùng hay phục vụ những nhu cầu cần thiết khác cho xã hội, được xếp hạng thứ ba trong tứ dân. "Thương" là những người làm nghề buôn bán, bị coi thường nhất trong tứ dân với những từ ngữ đầy tính miệt thị: "con buôn", "lái buôn" và luôn luôn bị nghi ngờ về tính trung thực: thật thà cũng thể lái buôn. 

Trong xã hội hiện đại, do sự phát triển của nền công nghiệp và kinh tế hàng hoá, đã xuất hiện hai giai cấp mới đối lập nhau là giai cấp tư sản và giai cấp công nhân. Hai giai cấp này trở thành hai giai cấp cơ bản trong xã hội mới cùng với các giai cấp và các tầng lớp vốn có trong xã hội cũ, tiếp tục tồn tại, phát triển, phân hoá, chuyển hoá, làm cho dân chúng bị phân chia thành nhiều bộ phận rất đa dạng và phức tạp. Ngoài lợi ích chung của cộng đồng, các tầng lớp, các bộ phận trong nhân dân đều có khả nǎng, nhu cầu, nguyện vọng, lợi ích riêng biệt, và do đó có vai trò khác nhau đối với sự phát triển của xã hội. 

Hồ Chí Minh quan tâm nhiều đến thái độ chính trị và hành động cách mạng của các tầng lớp nhân dân. Người đã nhiều lần nói về phẩm chất cao đẹp của nhân dân ta: Dân ta có một lòng nồng nàn yêu nước, rất cần cù, thông minh và khéo léo, có nhiều kinh nghiệm quí báu. Người khẳng định: Chúng ta phải ghi tạc vào đầu chân lý này: Dân rất tốt. Tuy nhiên do dân chúng không thuần nhất mà có nhiều thành phần, nhiều tầng lớp, nhiều bộ phận, nhiều trình độ, nhiều ý kiến khác nhau, có những nhu cầu và lợi ích riêng khác nhau, lại thường bị giai cấp bóc lột thống trị lừa phỉnh, cưỡng ép, "chia để trị", cho nên "dân thường chia rẽ phái này bọn kia". Và nhìn tổng thể, trong dân bao giờ cũng có ba loại người: tiên tiến, trung bình, lạc hậu, mà trong đó loại trung bình, vừa vừa, ở giữa nhiều hơn hết. Chính vì đặc điểm của dân như vậy cho nên Hồ Chí Minh khẳng định rằng cách mệnh trước hết phải làm cho dân giác ngộ, ... sức cách mệnh phải tập trung; muốn tập trung phải có đảng cách mệnh vận động và tổ chức dân chúng. Đó chính là cơ sở sâu xa của sự cần thiết phải có Đảng lãnh đạo, cơ sở sâu xa của tư tưởng dân vận của Hồ Chí Minh và cũng là cơ sở sâu xa của tư tưởng chiến lược đại đoàn kết nổi tiếng của Người: 

" Đoàn kết, đoàn kết, đại đoàn kết 

Thành công, thành công, đại thành công". 

3. Quan niệm của Hồ Chí Minh về Đảng và Đảng cầm quyền trong mối quan hệ với dân. 

a) Quan niệm về Đảng của Hồ Chí Minh 

Quan niệm về Đảng của Hồ Chí Minh là một di sản tư tưởng phong phú, quí báu. Đó là cống hiến to lớn của Người đối với sự phát triển học thuyết Mác-Lênin về Đảng Cộng sản, đặc biệt là Đảng Cộng sản trong điều kiện một nước nông nghiệp lạc hậu là thuộc địa của chủ nghĩa đế quốc. 

Di sản tư tưởng của Người có ý nghĩa quan trọng trong việc rèn luyện, xây dựng củng cố Đảng thực sự trong sạch, vững mạnh, xứng đáng là lực lượng lãnh đạo xã hội có quan hệ gắn bó máu thịt với nhân dân. 

Hồ Chí Minh đề cao dân. Người khẳng định cách mạng là sự nghiệp của nhân dân chứ không phải sự nghiệp của một cá nhân anh hùng nào. Nhưng cách mạng muốn bảo đảm thắng lợi phải tập hợp nhân dân thành một khối đoàn kết thống nhất. Nhân dân phải được tổ chức, lãnh đạo. Chỉ có đảng cách mạng chân chính của giai cấp công nhân mới đủ khả nǎng để thực hiện nhiệm vụ lãnh đạo nhân dân làm cách mạng. 

Như vậy sự ra đời của Đảng Cộng sản là điều kiện tiên quyết, đồng thời là đòi hỏi tự nhiên, là nhu cầu của cuộc sống nhằm thoả mãn khát vọng được giải phóng, tự do, mưu cầu hạnh phúc của nhân dân. Nhu cầu đó trùng hợp với mục tiêu của cách mạng và hoài bão cứu nước của Hồ Chí Minh. Vì vậy, Đảng ra đời trở thành tất yếu khách quan. 

Tuy nhiên sự ra đời đó phải có những điều kiện nhất định. Theo Mác và Ǎngghen thì Đảng Cộng sản ra đời là sự kết hợp của chủ nghĩa cộng sản khoa học với phong trào công nhân. Lênin nhấn mạnh thêm về tính đặc thù của sự kết hợp đó: 

"... Trong mỗi nước, sự kết hợp ấy lại là một sản phẩm của lịch sử, lại được thực hiện bằng những con đường đặc biệt, tuỳ theo điều kiện không gian và thời gian" 

Chính Hồ Chí Minh là người cộng sản đầu tiên của Việt Nam thể hiện tư tưởng của Lênin về việc thực hiện bằng con đường đặc biệt của sự kết hợp để thành lập chính đảng vô sản của giai cấp công nhân Việt Nam . Người khẳng định: "Chủ nghĩa Mác - Lênin kết hợp với phong trào công nhân và phong trào yêu nước đã dẫn tới việc thành lập Đảng Cộng sản Đông Dương vào đầu nǎm 1930" 

Theo Hồ Chí Minh, trong điều kiện của một nước thuộc địa nửa phong kiến, công nghiệp chưa phát triển, giai cấp công nhân còn nhỏ bé, nhưng lại có phong trào yêu nước phát triển mạnh mẽ, rộng khắp thì phải làm cho chủ nghĩa Mác - Lênin không chỉ thâm nhập vào giai cấp công nhân mà còn phải ǎn sâu vào phong trào yêu nước của mọi tầng lớp nhân dân. Hơn nữa, tình hình lúc bấy giờ chưa cho phép thành lập ngay một đảng Cộng sản mà trước hết phải truyền bá chủ nghĩa Mác - Lênin để giác ngộ quần chúng, tập hợp lực lượng chuẩn bị cho sự ra đời của Đảng Cộng sản. 

Sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam là điều kiện tiên quyết để bảo đảm cho cách mạng thành công. 

Nhưng để Đảng hoàn thành được sứ mệnh lịch sử vẻ vang đó, Đảng phải thực sự trong sạch và vững mạnh. 

Người luôn xem việc xây dựng củng cố Đảng trở thành một tổ chức chính trị trong sạch, vững mạnh, gắn bó máu thịt với nhân dân là yếu tố quyết định bảo đảm sự thành công của cách mạng. Để làm được điều đó, Người thường chỉ dẫn: Trong Đảng phải phát huy dân chủ nội bộ; phải thường xuyên tự phê bình và phê bình thẳng thắn và thật thà. Đặc biệt phải giữ gìn truyền thống đoàn kết nhất trí trong Đảng như giữ gìn con ngươi của mắt mình. Đồng thời Đảng phải luôn luôn sáng tạo, chỉnh đốn và tự đổi mới. 

Đảng mạnh do có đội ngũ đảng viên có phẩm chất đạo đức cách mạng, trung thành với lý tưởng cách mạng, gắn bó với nhân dân, gương mẫu trong lời nói và việc làm, biết hy sinh quyền lợi cá nhân để bảo vệ quyền lợi Tổ quốc, quyền lợi nhân dân, sống trong sạch giản dị, thường xuyên chống chủ nghĩa cá nhân... đó là biểu hiện đạo đức cách mạng của người đảng viên. 

Vị trí, vai trò lãnh đạo của Đảng không phải do Đảng tự xác định mà do nhân dân thừa nhận và tôn vinh. Vị trí vai trò đó được hình thành, xác định và thể hiện trong mối quan hệ biện chứng giữa Đảng với dân. 

b) Những luận điểm chủ yếu của Hồ Chí Minh về Đảng cầm quyền trong mối quan hệ với dân 

Lý luận về Đảng cầm quyền của giai cấp vô sản là một vấn đề còn mới mẻ. Mác và Ǎngghen đã nói đến việc giai cấp vô sản mỗi nước muốn hành động với tư cách là một giai cấp, phải thành lập chính đảng độc lập của mình, tiến hành cách mạng bạo lực, "trước hết phải giành lấy chính quyền, phải tự vươn lên thành giai cấp dân tộc, phải tự mình trở thành dân tộc". Nhưng giành được chính quyền rồi, Đảng của giai cấp công nhân cầm quyền như thế nào, lãnh đạo Nhà nước vô sản ra sao thì chưa thấy các ông nói đến. Sỡ dĩ như vậy có lẽ là vì trong thời kỳ Mác và Ǎngghen sống và hoạt động, Nhà nước vô sản đầu tiên trên thế giới - Công xã Pa ri 1871- chỉ tồn tại có 72 ngày, chưa đủ cung cấp những dữ kiện cần thiết để các ông tổng kết vấn đề đó về mặt lý luận. Lênin là người hoạt động lâu nǎm trong Đảng Công nhân Xã hội - Dân chủ Nga (Đảng Bônsêvích Nga), đã lãnh đạo Cách mạng Tháng Mười nǎm 1917 thành công và là người đứng đầu Nhà nước Xôviết trong khoảng 6 nǎm; ông đã nêu ra những nguyên tắc thành lập và hoạt động của một Đảng Cộng sản kiểu mới, đã có những chủ trương mạnh dạn và đúng đắn (như thanh đảng) nhằm củng cố vai trò lãnh đạo của Đảng trong điều kiện đảng cầm quyền. Stalin là người kế tục Lênin, đứng đầu Đảng Cộng sản Liên Xô và Nhà nước Xô viết trong 30 nǎm, đã có nhiều ý kiến về Đảng Cộng sản, nhưng chủ yếu là giải thích và chứng minh để làm rõ hơn những nguyên tắc chung về đảng kiểu mới của giai cấp vô sản của Lênin; hơn nữa "mô hình chủ nghĩa xã hội kiểu Stalin", "tệ sùng bái cá nhân Stalin" và những hành vi và hậu quả của sự độc đoán, chuyên quyền của Stalin vẫn đang là những vấn đề phải nghiên cứu và đánh giá; do đó, cũng không giúp ích được bao nhiêu cho việc nhận thức lý luận về Đảng cầm quyền. 

Hồ Chí Minh, người sáng lập, lãnh đạo và rèn luyện Đảng ta, đã có nhiều công lao và đóng góp to lớn đối với Đảng và công tác xây dựng Đảng. Có thể nói rằng vấn đề Đảng và xây dựng Đảng có một vị trí cực kỳ quan trọng và nội dung vô cùng phong phú, được Người quan tâm nhiều nhất và có một sự chú ý đặc biệt. Những luận điểm của Hồ Chí Minh về Đảng cầm quyền là những đóng góp cực kỳ quan trọng vào học thuyết về Đảng Cộng sản. 

Có thể nêu lên mấy luận điểm chủ yếu của Hồ Chí Minh 

về Đảng cầm quyền trong mối quan hệ với Dân như sau: 

Thứ nhất: Đảng cầm quyền là đảng đã giành được chính quyền và lãnh đạo chính quyền của dân, do dân, vì dân. 

Đảng cầm quyền là một khái niệm của khoa học chính trị có nội dung xác định, chỉ rõ một đảng chính trị đại diện cho một giai cấp đang nắm giữ chính quyền, quản lý đất nước, điều hành mọi hoạt động của xã hội phù hợp với lợi ích của giai cấp mình. 

ở các nước tư bản chủ nghĩa , khái niệm "đảng cầm quyền" đã được sử dụng phổ biến từ lâu để chỉ một chính đảng nào đó có đại biểu giành được thắng lợi trong các cuộc bầu cử Quốc hội, tranh chức tổng thống (như ở Mỹ - Pháp) hoặc chức thủ tướng (như ở Anh, Nhật, ấn Độ, Italia...) 

ở nước Nga sau Cách mạng Tháng Mười 1917, Lênin đã nhiều lần dùng khái niệm "đảng cầm quyền" và đôi khi dùng cả khái niệm "đảng chấp chính" để khẳng định vai trò trách nhiệm của Đảng Bônsêvích đối với nhân dân Xôviết trong công cuộc bảo vệ và xây dựng Tổ quốc xã hội chủ nghĩa đầu tiên của loài người. 

ở nước ta, Hồ Chí Minh đã dùng thuật ngữ "Đảng cầm quyền" lần duy nhất trong Di chúc của Người nǎm 1969. Nhưng thực ra từ rất lâu trước đó, Hồ Chí Minh đã nhiều lần dùng một thuật ngữ khác có nội hàm tương đương, hoàn toàn có thể thay thế cho thuật ngữ "Đảng cầm quyền", đó là thuật ngữ "Đảng nắm chính quyền". Theo Hồ Chí Minh, điều kiện và cũng là đặc trưng để một Đảng Cộng sản vốn hoạt động bất hợp pháp trở thành đảng cầm quyền là lãnh đạo cách mạng thành công, giành lấy chính quyền. Khi đã nắm chính quyền thì đương nhiên Đảng có trách nhiệm lãnh đạo chính quyền. Ngay cả trong tình trạng rối ren phức tạp của đất nước trong những nǎm 1945-1946, khi chính quyền cách mạng non trẻ bị thù trong giặc ngoài uy hiếp nguy hiểm như "ngàn cân treo sợi tóc", tuy phải tuyên bố tự giải tán nhưng thực chất là Đảng rút vào bí mật và vẫn cầm quyền, lãnh đạo chính quyền. Từ Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ II (1951) Đảng ta trở thành công khai hoạt động với tư cách là đảng cầm quyền, đã lãnh đạo cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp thắng lợi, giải phóng miền Bắc và đưa miền Bắc tiến lên con đường xã hội chủ nghĩa. Khi cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước đang ở giai đoạn gay go ác liệt, giặc Mỹ leo thang chiến tranh rất tàn bạo với âm mưu thâm độc và lời tuyên bố huênh hoang "đưa miền Bắc trở lại thời kỳ đồ đá", Đảng ta không hề buông lơi vai trò trách nhiệm lãnh đạo "quyết tâm đánh thắng giặc Mỹ xâm lược" và đã được nhân dân hết lòng tin cậy, ủng hộ. Như mọi người đều biết, trong Di chúc lịch sử, Hồ Chí Minh đã dặn dò và khẳng định lần cuối cùng, nhất quán trước sau như một: "Đảng ta là một Đảng cầm quyền". Như vậy tư tưởng về Đảng cầm quyền đã được Hồ Chí Minh nhiều lần nhắc đến với những thuật ngữ khác nhau, nhưng ý nghĩa và thực chất chỉ là một: Đảng đã giành được chính quyền, nắm giữ và lãnh đạo chính quyền Nhà nước. Mặc dù do những điều kiện lịch sử cụ thể tác động, đã mấy lần phải đổi tên (Đảng Cộng sản Việt Nam, Đảng Cộng sản Đông Dương, Đảng Lao động Việt Nam, rồi lại Đảng Cộng sản Việt Nam), Đảng ta vẫn trước sau như một, giữ vững bản chất giai cấp công nhân và tính tiên phong cách mạng: Ngoài lời ích của giai cấp, của nhân dân, của dân tộc, Đảng ta không có lợi ích nào khác. Đảng ta vẫn giữ vững những nguyên tắc tổ chức của một Đảng kiểu mới, đó là: tập trung dân chủ; tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách; tự phê bình và phê bình... Đặc biệt Đảng ta luôn luôn giữ vững mục đích tôn chỉ của mình là lãnh đạo nhân dân thực hiện lý tưởng cao cả không một phút nào được lãng quên là phấn đấu cho Tổ quốc hoàn toàn độc lập, cho chủ nghĩa xã hội hoàn toàn thắng lợi trên đất nước ta và trên toàn thế giới. 

Giành được chính quyền, lãnh đạo chính quyền là đặc điểm chủ yếu nhất phân biệt sự khác nhau về chất hai thời kỳ hoạt động của Đảng trong quá trình lãnh đạo cách mạng Việt Nam. Trước đây, khi chưa có chính quyền, ngay cả khi đã đấu tranh thắng lợi với các đảng phái khác, giành được quyền lãnh đạo cách mạng Việt Nam, nhưng Đảng vẫn phải hoạt động bí mật, bị loại khỏi vòng pháp luật, là đối tượng khủng bố, trấn áp của chính quyền. Chỉ đến khi Cách mạng Tháng Tám thắng lợi, giành được chính quyền, Đảng mới lãnh đạo chính quyền. Vấn đề chính quyền là vấn đề cơ bản của mọi cuộc cách mạng. Do đó, giành được chính quyền có tầm quan trọng đặc biệt như Ǎngghen nói là đã mở được "cái cửa duy nhất dẫn vào xã hội mới". Trở thành đảng cầm quyền là cả một bước nhảy vọt lớn về vai trò lãnh đạo cách mạng của Đảng. Đã "cầm quyền" thì đương nhiên Đảng phải có quyền lực. Không có quyền lực Đảng không thể lãnh đạo nhà nước được. Tuy nhiên, quyền lực của Đảng không phải là quyền lực nhà nước. Nhà nước nói chung là bộ máy cai trị, nên đặc trưng của quyền lực nhà nước là dựa trên cơ sở pháp luật, có sức mạnh của bạo lực với phương thức chủ yếu là cưỡng chế (tất nhiên cũng có giáo dục, khuyến khích bằng lợi ích kinh tế...). Đảng cầm quyền là một tổ chức chính trị lãnh đạo nhà nước. "Lãnh đạo" chính là một quyền lực thực tế rất lớn. Nhà nước phải chịu sự lãnh đạo của Đảng, phục tùng sự lãnh đạo của Đảng. Nhà nước có quyền lực thì Đảng lãnh đạo nhà nước tất yếu cũng phải có quyền lực. Nhưng đây là quyền lực chính trị thể hiện bằng phương thức giáo dục, thuyết phục, chinh phục, đồng thời cũng thể hiện bằng quyền uy của tổ chức. Trên thực tế ở nước ta, quyền lực chính trị của Đảng được thể hiện rất rõ rệt và mọi người đều thừa nhận. Trong phạm vi toàn quốc cũng như ở từng đa phương, Đại hội Đảng là sự kiện quan trọng nhất, được mọi tầng lớp xã hội quan tâm nhất vì đó là nơi quyết định đường lối, chủ trương, chính sách và quyết định cả về tổ chức cán bộ. Với uy tín chính trị và quyền uy về tổ chức, Đảng cầm quyền có quyền lực thực tế rất lớn. Nếu trước đây, Nhà nước tách rời và đối lập với nhân dân, là lực lượng thống trị áp bức nhân dân, thì ngày nay Nhà nước dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản đã khác về bản chất, trở thành Nhà nước dân chủ nhân dân. Điều 1, Hiến pháp nǎm 1946 của nước ta đã thừa nhận: "Nước Việt Nam là một nước dân chủ cộng hoà. Tất cả quyền binh trong nước là của toàn thể nhân dân Việt Nam, không phân biệt nòi giống, gái trai, giàu nghèo, giai cấp, tôn giáo". Chính Hồ Chí Minh đã từng khẳng định rằng: Cách mạng Tháng Tám đã lật đổ nền quân chủ mấy mươi thế kỷ, đã đánh tan xiềng xích thực dân gần 100 nǎm, đã đưa chính quyền lại cho nhân dân, đã xây dựng nền tảng cho nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà Độc lập Tự do Hạnh phúc. Chính quyền dân chủ nhân dân đó chính là chính quyền "của dân, do dân, vì dân" mà bản chất của nó đã được xác định trong tư tưởng Hồ Chí Minh: "Các cơ quan của Chính phủ từ toàn quốc cho đến các làng, đều là công bộc của dân, nghĩa là để gánh vác việc chung cho dân, chứ không phải để đè đầu dân như trong thời kỳ dưới quyền thống trị của Pháp, Nhật". ở đây, có một vấn đề có ý nghĩa lý luận và thực tiễn rất lớn cần phải nhận rõ là: Quyền lực bao giờ cũng có hai mặt: Một mặt nó là công cụ mạnh mẽ để cải tạo con người, phát triển xã hội, thúc đẩy bước tiến của lịch sử. Nhưng mặt khác nó cũng có thể là sức mạnh để đàn áp nhân dân, kìm hãm xã hội, làm tha hoá con người, kể cả những kẻ nắm quyền lực. Khi quyền lực thuộc về đông đảo quần chúng nhân dân và những người đại biểu của nhân dân được giao cho nắm quyền lực không những là người lãnh đạo mà còn là người đầy tớ thật trung thành của nhân dân thì quyền lực sẽ phát huy mặt tích cực của nó. Ngược lại, khi quyền lực chỉ phụ thuộc vào một số ít người, thậm chí chỉ thuộc về một người, trở thành độc tài chuyên chế thì tất cả những tiêu cực, xấu xa của quyền lực sẽ bộc lộ. 

Cần nhắc lại rằng khi ra đi tìm đường cứu nước, cứu dân, Hồ Chí Minh đã đi qua nhiều đại dương, đặt chân trên nhiều châu lục, đã từng sống và hoạt động nhiều nǎm ở những nước tư bản phát triển như Anh, Pháp, Mỹ. Bôn ba hải ngoại, Người không chỉ thấy rõ: 

"á - Âu đâu cũng lòng trong đục 

Vàng máu chia hai cảnh khổ giàu", mà còn nghiên cứu tiếp thụ những tư tưởng tiến bộ so với tư tưởng truyền thống phương Đông về dân chủ, tự do, bình đẳng của những nền vǎn hoá phương Tây. Chắc hẳn là Người đã đọc và chịu ảnh hưởng của những nhà vǎn, nhà tư tưởng, nhà triết học lớn của thế kỷ ánh sáng Pháp - những người học thức như ông Montesquieu, Voltaire và Rousseau tuyên truyền chủ nghĩa tự do, bình đẳng. Hiển nhiên là Người đã kế thừa những tư tưởng nhân vǎn về quyền con người và quyền công dân trong Tuyên ngôn độc lập của Mỹ (1776) và Tuyên ngôn nhân quyền và dân quyền của Cách mạng Pháp (1791) mà Người đã trích dẫn và phân tích ngay trong đoạn mở đầu của bản Tuyên ngôn độc lập bất hủ khai sinh nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà ngày 2 tháng 9 nǎm 1945. 

Đặc biệt là tư tưởng quyền hành ở nơi dân, quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân đã hình thành ở Hồ Chí Minh rất sớm, từ trong những nǎm 20, khi Đảng Cộng sản Việt Nam chưa ra đời, và được phát triển cụ thể thêm sau Cách mạng Tháng Tám, khi Đảng đã có chính quyền nhà nước. 

Những tư tưởng về nhân quyền và dân quyền, "quyền lực là của nhân dân", "Nhà nước là của dân, do dân, vì dân", "Chính phủ là do nhân dân lập nên và có thể bị nhân dân phế bỏ", đó là những tư tưởng dân chủ của giai cấp tư sản thời kỳ đang lên, mới từ "đẳng cấp thứ ba" tiến hành cách mạng tư sản thành công, trở thành giai cấp cầm quyền; tư tưởng dân chủ đó là sự tiến bộ vượt bậc so với tư tưởng quân chủ của chế độ phong kiến. Tuy nhiên, cách mạng tư sản kết thúc sau khi giai cấp tư sản giành được chính quyền, thiết lập được chế độ tư bản chủ nghĩa. Nhiều chính phủ tư sản đã vi phạm quyền con người và quyền công dân mà giai cấp tư sản đã từng khẳng định trong những lời tuyên bố và những bản Tuyên ngôn nổi tiếng. Sự vi phạm nhân quyền và dân quyền trắng trợn nhất của các chính phủ tư sản chính là đã xâm lược các nước chậm tiến, thống trị và bóc lột một cách dã man nhân dân các nước thuộc địa, mà Hồ Chí Minh đã tố cáo hết sức mạnh mẽ, sắc bén trong tác phẩm "Bản án chế độ thực dân Pháp" từ nǎm 1925 và trong bản "Tuyên ngôn độc lập" nǎm 1945 của Người. 

Về mặt lý luận, từ rất sớm trong tác phẩm "Đường Cách mệnh" Hồ Chí Minh đã nghiên cứu nhiều cuộc cách mạng, nhiều kiểu và hình thức Nhà nước của nhiều quốc gia trên thế giới và Người đã đi đến kết luận: "Cách mệnh tư bản là chưa phải cách mệnh đến nơi. 

Chúng ta đã hy sinh làm cách mệnh thì nên làm cho đến nơi, nghĩa là làm sao cách mệnh rồi thì quyền giao cho dân chúng số nhiều, chớ để trong tay một bọn ít người. Thế mới khỏi hy sinh nhiều lần, thế dân chúng mới được hạnh phúc". Cách mạng "làm cho đến nơi" chính là cách mạng vô sản - con đường duy nhất để cứu nước và giải phóng dân tộc, giành lấy chính quyền về tay "dân chúng số nhiều". ở nước ta, nhà nước của dân chúng số nhiều chính là Nhà nước thành lập sau Cách mạng Tháng Tám 1945- Nhà nước dân chủ nhân dân do giai cấp công nhân lãnh đạo. Đó là nhà nước mà các cơ quan và cán bộ từ Trung ương đến cơ sở đều do dân cử ra, "là đầy tớ của dân", "chỉ lo làm lợi cho dân", và nếu tỏ ra không xứng đáng với sự tín nhiệm của nhân dân thì "nhân dân có quyền bãi miễn" 

Khi chưa có chính quyền Đảng đã lãnh đạo nhân dân và các tổ chức chính trị, xã hội hoạt động đấu tranh cách mạng, nhưng chỉ sau khi giành được chính quyền, trở thành Đảng cầm quyền, Đảng mới lãnh đạo Nhà nước. ở đây, cái mới của hệ thống chính trị, chính là sự xuất hiện và hoạt động của bộ máy Nhà nước kiểu mới do Đảng lãnh đạo. Vì vậy mối quan hệ giữa Đảng với Nhà nước và sự lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước là đặc biệt quan trọng. Nhà nước do Đảng thiết lập nên để xây dựng và bảo vệ chế độ mới. Không có Đảng Cộng sản thì cũng không có nhà nước kiểu mới, do đó, đương nhiên Nhà nước phải phục tùng sự lãnh đạo của Đảng. Phải có sự lãnh đạo của Đảng với một định hướng chính trị đúng đắn, Nhà nước mới có thể thật sự trở thành Nhà nước "của dân, do dân, vì dân". Đồng thời, là một bộ phận của hệ thống chính trị mới, Đảng không thể đứng trên Nhà nước, trở thành cơ quan" siêu quyền lực", "siêu nhà nước" mà phải hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật, phải tôn trọng vai trò của Nhà nước. 

Thứ hai: Đảng cầm quyền là người tổ chức và lãnh đạo sự nghiệp cách mạng xã hội chủ nghĩa và xây dựng chủ nghĩa xã hội, làm cho dân giàu, nước mạnh. 

Khi Đảng Cộng sản lãnh đạo nhân dân tiến hành cách mạng vô sản, cách mạng giải phóng dân tộc hoặc cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân thành công, giành được chính quyền, thì không thể dừng lại ở đó. Bởi vì đứng về toàn bộ sự nghiệp cách mạng của Đảng thì giành chính quyền không phải là mục đích cuối cùng, không phải là cách mạng kết thúc mà mới chỉ là bắt đầu với ý nghĩa là mới qua "cái cửa duy nhất dẫn vào xã hội mới". Ngay sau khi Cách mạng Tháng Tám 1945 thành công, trong thư "Gửi Uỷ ban nhân dân các kỳ, tỉnh, huyện và làng", Hồ Chí Minh đã nói: "Ngày nay chúng ta đã xây dựng nên nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà. Nhưng nếu nước được lập mà dân không hưởng hạnh phúc tự do thì độc lập cũng chẳng có nghĩa lý gì". Do đó, Đảng phải thực hiện "cách mạng không ngừng", tiếp tục tiến hành cách mạng xã hội chủ nghĩa và xây dựng chủ nghĩa xã hội. Trong sự nghiệp cách mạng xã hội chủ nghĩa và xây dựng chủ nghĩa xã hội, vai trò và trách nhiệm lãnh đạo không thuộc về ai khác ngoài Đảng Cộng sản. Cần phải thấy rõ sự khác biệt giữa nhiệm vụ mới với nhiệm vụ cũ. So với việc phá bỏ chế độ cũ thì việc tổ chức xây dựng chế độ mới - chế độ xã hội chủ nghĩa - là một nhiệm vụ rất lâu dài, khó khǎn, phức tạp; đặc biệt là trong điều kiện nước ta, điểm xuất phát đi lên chủ nghĩa xã hội rất thấp; vốn là một nước nông nghiệp lạc hậu, không trải qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa. Chính Hồ Chí Minh đã nhìn thấu suốt và khẳng định: "Cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa là một cuộc biến đổi khó khǎn nhất và sâu sắc nhất. Chúng ta phải xây dựng một xã hội hoàn toàn mới xưa nay chưa từng có trong lịch sử dân tộc ta. Chúng ta phải thay đổi triệt để những nếp sống thói quen, ý nghĩa và thành kiến có gốc rễ sâu xa hàng ngàn nǎm... Chúng ta phải biến một nước dốt nát, cực khổ thành một nước vǎn hoá cao và đời sống tươi vui hạnh phúc". Vì vậy, trách nhiệm lịch sử của Đảng cầm quyền không hề giảm nhẹ mà còn nặng nề hơn gấp bội, khó khǎn, phức tạp; đặc biệt là trong điều kiện nước ta, điểm xuất phát đi lên chủ nghĩa xã hội rất thấp; vì nước ta vốn là một nước nông nghiệp lạc hậu, không trải qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa. Chính Hồ Chí Minh đã nhìn thấu suốt và khẳng định: "Cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa là một cuộc biến đổi khó khǎn nhất và sâu sắc nhất. Chúng ta phải xây dựng một xã hội hoàn toàn mới xưa nay chưa từng có trong lịch sử dân tộc ta. Chúng ta phải thay đổi triệt để những nếp sống, thói quen, ý nghĩa và thành kiến có gốc rễ sâu xa hàng ngàn nǎm... Chúng ta phải biến một nước dốt nát, cực khổ thành một nước vǎn hoá cao và đời sống tươi vui hạnh phúc". Vì vậy, trách nhiệm lịch sử của Đảng cầm quyền không hề giảm nhẹ mà còn nặng nề hơn gấp bội. 

Đảng lãnh đạo nhân dân tiến hành cách mạng xã hội chủ nghĩa là nhằm xây dựng thành công chế độ xã hội chủ nghĩa ở nước ta. Chủ nghĩa xã hội là con đường đi lên, là mục tiêu phấn đấu mà Đảng và nhân dân ta, theo tư tưởng Hồ Chí Minh, đã dứt khoát lựa chọn. 

ở đây cần nói thêm rằng, chủ nghĩa xã hội mà Hồ Chí Minh đã lựa chọn không phải là một cái gì trừu tượng, mà là một chế độ xã hội tốt đẹp, ai cũng có thể cảm nhận được: "Chủ nghĩa xã hội là làm sao cho nhân dân đủ ǎn, đủ mặc, ngày càng sung sướng, ai nấy được đi học, ốm đau có thuốc, già không lao động được thì nghỉ, những phong tục tập quán không tốt dần dần được xoá bỏ... Tóm lại, xã hội ngày càng tiến, vật chất ngày càng tǎng, tinh thần ngày càng tốt, đó là chủ nghĩa xã hội". 

Thứ ba: Đảng cầm quyền phải liên hệ, gắn bó mật thiết với nhân dân, và trong mối quan hệ với nhân dân, Đảng là người lãnh đạo, là người đầy tớ thật trung thành của nhân dân. 

Liên hệ, gắn bó mật thiết với nhân dân là nguồn gốc chủ yếu tạo nên sức mạnh của Đảng ta, là một trong những điều kiện và nguyên nhân làm cho Đảng ta giữ vững được quyền lãnh đạo và giành được thắng lợi trong quá trình lãnh đạo cách mạng Việt Nam. Vì vậy, liên hệ gắn bó mật thiết với dân là một yêu cầu khách quan, cũng là một biện pháp quan trọng nhằm tǎng cường vai trò lãnh đạo của Đảng. 

Đảng ta cũng ở trong xã hội, cũng từ dân mà ra, "là con nòi, xuất thân từ giai cấp lao động", "từ Trung ương đến xã do dân tổ chức nên". Do đó, giữa Đảng và dân vốn có một mối liên hệ gắn bó nhất định. Tuy vậy, Đảng và dân không đồng nhất, không phải là một mà vẫn có sự khác biệt, có vai trò vị trí khác nhau. Nói đến Đảng là nói đến vai trò lãnh đạo, như Hồ Chí Minh đã từng khẳng định: "Đảng ta là một đảng cách mạng, một đảng lãnh đạo". Thực tế lịch sử cách mạng nước ta đã chứng minh rằng Đảng ta không những đã giành được quyền lãnh đạo cách mạng trong cả nước mà còn giữ được quyền lãnh đạo đó trên mọi lĩnh vực. 

Trong mối quan hệ Đảng - dân, nếu Đảng là người lãnh đạo thì dân là đối tượng lãnh đạo, chịu sự lãnh đạo và trong mọi thời kỳ cách mạng đều cần có sự lãnh đạo vững vàng của Đảng. Đảng lãnh đạo cách mạng, lãnh đạo dân là vì dân. Vì dân chính là điểm xuất phát và cũng là nội dung là mục tiêu phấn đấu của Đảng ta. Hồ Chí Minh đã nhiều lần khẳng định rằng, Đảng ta không có lợi ích nào khác, ngoài lợi ích của giai cấp, của nhân dân, của dân tộc; rằng Đảng chỉ mưu giải phóng cho dân, nên mọi việc đều vì lợi ích của dân mà làm và chịu trách nhiệm trước dân. Đặc biệt là khi Đảng ta đã trở thành Đảng cầm quyền, Hồ Chí Minh nhiều lần nhắc nhở cán bộ đảng viên và các tổ chức đảng phải luôn luôn nhớ rằng mình là đầy tớ của nhân dân chứ không là "quan" nhân dân. Trong Di chúc lịch sử của Người, một lần nữa Hồ Chí Minh khẳng định: "Đảng ta là một Đảng cầm quyền.. phải xứng đáng là người lãnh đạo, là người đầy tớ thật trung thành của nhân dân". Đây là một luận điểm mới mẻ, sáng tạo của Hồ Chí Minh, một đóng góp quan trọng vào lý luận xây dựng Đảng kiểu mới của giai cấp công nhân. Luận điểm này đã chỉ rõ cái bản chất nhất trong mối quan hệ giữa Đảng cầm quyền với dân. 

Nói Đảng vừa là người lãnh đạo vừa là người đầy tớ của dân thì dường như có cái gì "mâu thuẫn", phi lý, khó chấp nhận? Lãnh đạo và đầy tớ, về nhận thức là hai phạm trù khác nhau, và về thực tế có hai đối tượng khác nhau. Lãnh đạo nói khái quát là việc định hướng mục tiêu nhiệm vụ, đề ra đường lối, chủ trương, phương pháp tổ chức thực hiện mục tiêu, nhiệm vụ đó. Lãnh đạo chính là "bàn chỉ nam", là "người cầm lái" - một nhu cầu cần thiết khách quan - của mọi hoạt động xã hội. Đã có lãnh đạo thì phải có đối tượng lãnh đạo. Trong mối quan hệ Đảng - dân, thì đối tượng lãnh đạo của Đảng chính là dân, là quần chúng nhân dân, là con người với tất cả những nhu cầu và lợi ích mà Đảng cần nắm bắt và giải quyết thoả đáng. 

"Đầy tớ" là thuật ngữ thường dùng trong xã hội cũ để chỉ vị trí và công việc của người đi ở, kẻ làm thuê trong quan hệ với chủ. Đó là những người phải biết và chỉ biết hết lòng hết sức tận tụy hầu hạ, phục dịch chủ. Hàng mấy chục lần ở nhiều trường hợp khác nhau trong những thời gian khác nhau, Hồ Chí Minh đã nói các cơ quan Đảng và Nhà nước là "đầy tớ" của dân, nhưng cũng có lần Người gọi các cơ quan đó là "công bộc" của dân. Công bộc cũng là đầy tớ, đầy tớ chung của mọi người, phục vụ chung cho nhân dân. Trong mối quan hệ Đảng- dân, dân là chủ cũng có nghĩa Đảng là đầy tớ của dân. 

Dân là chủ, Đảng là đầy tớ nghĩa là Đảng phải trung thành và tận tuỵ phục vụ nhân dân. Trong vai trò của Đảng đối với dân, cái chung của người lãnh đạo và của người đầy tớ là vì dân, phục vụ nhân dân. Chính vì vậy mà Hồ Chí Minh đã đồng nhất vai trò Đảng là người lãnh đạo với Đảng là người đầy tớ của dân. Người không chỉ nói rằng Đảng "là người lãnh đạo, là người đầy tớ trung thành của nhân dân", mà có những lần Người còn khẳng định: "Đảng ta là Đảng lãnh đạo, nghĩa là tất cả các cán bộ, từ trung ương đến khu, đến tỉnh, đến huyện, đến xã, bất kỳ ở cấp nào - đều phải là người đầy tớ trung thành của nhân dân". "Lãnh đạo là làm đầy tớ nhân dân và phải làm cho tốt". 

Theo tư tưởng Hồ Chí Minh, Đảng cầm quyền là người lãnh đạo "sẵn sàng vui vẻ làm trâu ngựa, làm tôi tớ trung thành của nhân dân" thì chính sách của Đảng và Chính phủ, các cơ quan và cán bộ của Đảng và Chính phủ từ trên xuống dưới đều phải có trách nhiệm "hết sức chǎm nom đến đời sống của nhân dân". Dân đói, dân rét, dân ốm, dân dốt, Đảng và Chính phủ đều có lỗi. Dân không đủ muối, không có gạo đủ no, không có vải mặc đủ ấm, không có trường học cho các cháu, Đảng phải lo. Nghĩa là tất cả mọi việc Đảng phải lo, từ việc lớn đến việc nhỏ, từ đấu tranh thống nhất nước nhà, việc xây dựng chủ nghĩa xã hội đến cả việc "tương cà mắm muối" của dân, Đảng đều phải lo. Với cương vị là người sáng lập và đứng đầu Đảng và Nhà nước, trong bản Di chúc lịch sử, Hồ Chí Minh đã nói về mối quan hệ giữa Đảng và dân, khẳng định bản chất tốt đẹp của nhân dân ta và nhắc nhở về trách nhiệm của Đảng cầm quyền đối với dân: 

"Nhân dân ta rất anh hùng, dũng cảm, hǎng hái, cần cù. Từ ngày có Đảng, nhân dân ta luôn luôn đi theo Đảng, rất trung thành với Đảng. 

Đảng cần phải có kế hoạch thật tốt để phát triển kinh tế và vǎn hoá, nhằm không ngừng nâng cao đời sống của nhân dân". 

Như vậy, tư tưởng Hồ Chí Minh coi dân là người chủ của đất nước, của xã hội và coi những người lãnh đạo, những người cầm quyền là đầy tớ của nhân dân là tư tưởng hoàn toàn mới mẻ, không hề thấy trong tư tưởng Nho giáo và trong tư tưởng truyền thống của dân tộc ta. Tư tưởng đó thể hiện một chủ nghĩa nhân vǎn cao đẹp tuyệt vời ở Hồ Chí Minh. 

 

NXB. Chính trị Quốc gia, Hà Nội 1997

Phản hồi

Thông tin người gửi phản hồi

Quy trình kỷ luật đảng viên thuộc thẩm quyền của Trung ương Đảng, Bộ Chính trị, Ban Bí thư

(ĐCSVN) - Thay mặt Bộ Chính trị, Thường trực Ban Bí thư Lương Cường vừa ký Quyết định số 165-QĐ/TW ngày 6/6/2024 của Bộ Chính trị ban hành Quy trình xem xét, thi hành kỷ luật đối với tổ chức Đảng, đảng viên thuộc thẩm quyền của Ban Chấp hành Trung ương Đảng, Bộ Chính trị, Ban Bí thư.

Về thẩm quyền của người đứng đầu trong việc tạm đình chỉ công tác với cán bộ cấp dưới

(ĐCSVN) - Ngày 23/5/2024, đồng chí Lương Cường đã ký ban hành Quy định 148-QĐ/TW về thẩm quyền của người đứng đầu trong việc tạm đình chỉ công tác đối với cán bộ cấp dưới trong trường hợp cần thiết hoặc khi có dấu hiệu vi phạm nghiêm trọng quy định của Đảng, pháp luật của Nhà nước.

Quy định về chuẩn mực đạo đức cách mạng của cán bộ, đảng viên trong giai đoạn mới

(ĐCSVN) - Ngày 9/5, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã ký ban hành Quy định số 144-QĐ/TW của Bộ Chính trị về chuẩn mực đạo đức cách mạng của cán bộ, đảng viên trong giai đoạn mới.

Bộ Chính trị ban hành quy định phòng chống tham nhũng, tiêu cực trong điều tra, xét xử

(ĐCSVN) – Ngày 27/10/2023, Bộ Chính trị đã ban hành Quy định số 132-QĐ/TW về kiểm soát quyền lực, phòng, chống tham nhũng, tiêu cực trong hoạt động điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án.

Liên kết website