Nhận thức và vận dụng sáng tạo tư tưởng Hồ Chí Minh về giai cấp công nhân trong sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở nước ta

PGS, TS. Nguyễn Đức Bách

Phần II 
QUÁN TRIỆT, VẬN DỤNG QUAN ĐIỂM CỦA CHỦ TỊCH HỒ CHÍ MINH VỀ CÔNG NGHIỆP HOÁ TRONG SỰ NGHIỆP ĐỔI MỚI
 

Trong kho tàng tư tưởng Hồ Chí Minh, chúng ta có thể và cần phải tiếp tục sưu tầm, tập hợp, nghiên cứu, vận dụng... rất nhiều vấn đề lý luận và tổng kết thực tiễn, cả trong quá trình Người đi nǎm châu bốn biển tìm đường cứu nước, quá trình hình thành Đảng ta, dẫn tới Cách mạng Tháng Tám 1945, trong cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân cũng như trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội. Từ khi Đảng ta khởi xướng và lãnh đạo công cuộc đổi mới đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa, Đảng, Nhà nước, các tổ chức chính trị - xã hội, các cơ quan khoa học, các nhà lãnh đạo - quản lý, các nhà khoa học càng có nhiều nhu cầu và điều kiện sưu tầm thêm, nghiên cứu, vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh một cách có hệ thống hơn, sâu sắc, toàn diện và thiết thực hơn. 

Trong bài viết này, xin đề cập và phân tích một số quan điểm cơ bản và rất thiết thực của Hồ Chí Minh về giai cấp công nhân Việt Nam trong sự nghiệp công nghiệp hoá xã hội chủ nghĩa (mà hiện nay ta phát triển thành quan điểm công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa). 

- Trước hết, cần làm rõ: Hồ Chí Minh có đề cập đến "hiện đại hoá" hay chỉ đề cập "công nghiệp hoá"? 

Khách quan và khoa học mà xem xét thì Hồ Chí Minh chưa bao giờ dùng hai thuật ngữ công nghiệp hoá và hiện đại hoá đi liền nhau, thậm chí chưa bao giờ dùng cụm từ "hiện đại hoá", chủ yếu Hồ Chí Minh nói về công nghiệp hoá và công nghiệp hoá xã hội chủ nghĩa. 

Nhưng, (và điều này mới thực sự quan trọng và cần thiết cho chúng ta), Hồ Chí Minh đã rất nhiều lần gắn quan niệm về công nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa với việc xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội trong đó có công nghiệp và nông nghiệp hiện đại, vǎn hoá và khoa học tiên tiến, (có thể thấy trong ..... "báo cáo về dự thảo Hiến pháp sửa đổi tại Quốc hội nước Việt Nam dân chủ cộng hoà" khoá I, kỳ họp 11 ngày 18-12-1959; Báo cáo chính trị tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ III (1960); "Ba mươi nǎm hoạt động của Đảng, viết cho tạp chí "Những vấn đề hoà bình và chủ nghĩa xã hội" số 2-1960; "Bài nói chuyện tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ nhất của Hội phổ biến khoa học kỹ thuật Việt Nam" (ngày 18-5-1963); "Bài nói chuyện tại Hội nghị ngành công nghiệp nặng" (ngày 31-12-1964); "Bài nói chuyện tại Hội nghị ngành công nghiệp nhẹ" (ngày 16-10-1965); "Bài nói chuyện với các đại biểu công nhân và cán bộ ngành than" (ngày 5-11-1968). 

Hồ Chí Minh dùng thuật ngữ "hiện đại hoá" nhưng tư tưởng công nghiệp hoá xã hội chủ nghĩa cũng có nghĩa là phải gắn với xây dựng cơ sở vật chất - kỹ thuật hiện đại của chủ nghĩa xã hội là một nội dung rất cơ bản trong tư tưởng Hồ Chí Minh về giai cấp công nhân trong sự nghiệp công nghiệp hoá xã hội chủ nghĩa nước nhà. Đây chính là một trong những ý nghĩa phương pháp luận đẻ chúng ta vận dụng hiện nay. 

- Đề cập đến giai cấp công nhân và sứ mệnh lịch sử của nó trong các giai đoạn cách mạng là một trong những nội dung cơ bản và nổi bật nhất trong tư tưởng Hồ Chí Minh. Nhưng nếu chỉ giới hạn nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh về vai trò giai cấp công nhân trong sự nghiệp công nghiệp hoá xã hội chủ nghĩa tức là trong giai đoạn xây dựng chủ nghĩa xã hội thì khó hơn vì vấn đề hẹp và cụ thể hơn. 

Ta có thể khảo sát tư tưởng Hồ Chí Minh xung quanh chủ đề nêu trên qua các khía cạnh sau đây: 

Thứ nhất, vai trò của giai cấp công nhân trong sự nghiệp công nghiệp hoá xã hội chủ nghĩa thể hiện thông qua vai trò lãnh đạo của Đảng ta đối với toàn xã hội trong giai đoạn cách mạng mới, đặc biệt là lãnh đạo kinh tế. 

Ví dụ, khi nói chuyện với cán bộ, công nhân viên chức nhà máy điện Hà Nội, Hồ Chí Minh đề cập đến vai trò lãnh đạo của giai cấp công nhân thông qua Đảng và quản lý Nhà nước ngay ở từng xí nghiệp. Quản lý xí nghiệp là nhằm mục đích xây dựng chủ nghĩa xã hội... Muốn quản lý tốt thì cán bộ và công nhân phải thông suốt tư tưởng, phải có thái độ làm chủ nước nhà, làm chủ xí nghiệp... phải nâng cao tinh thần trách nhiệm, phải làm đến nơi đến chốn, làm tốt, vượt mọi khó khǎn... Cán bộ tham gia lao động, công nhân tham gia quản lý. 

Hiện nay chúng ta nói về phát huy nguồn lực con người trong sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước thì tư tưởng Hồ Chí Minh nêu trên vẫn chỉ đạo thiết thực nhất cho việc phát huy một trong những nguồn lực con người có ý nghĩa hàng đầu đó là nguồn lực cán bộ, Đảng viên và công nhân nước ta, đặc biệt là từ các cơ sở sản xuất kinh doanh công nghiệp. 

Người còn nhấn mạnh rằng: lãnh đạo phát động quần chúng phải thiết thực, sâu rộng, tránh tình trạng chỉ chú ý hình thức, học tập phải kết hợp với sản xuất và thực hành tiết kiệm; phải khuyến khích và coi trọng ý kiến, sáng kiến của công nhân; cái gì cần sửa phải sửa ngay, cái gì cần phải có thời gian và kế hoạch nghiên cứu thì phải nói cho công nhân hiểu và quyết tâm làm đúng (T.G nhấn mạnh). Bây giờ chúng ta nêu phương châm trong lãnh đạo và cơ chế thực hiện là "dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra" trong quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước cũng xuất phát từ những tư tưởng của Hồ Chí Minh 

Trong giai đoạn xây dựng chủ nghĩa xã hội, Hồ Chí Minh càng nhấn mạnh vai trò lãnh đạo xã hội của Đảng ta, Hồ Chí Minh chỉ rõ trong quá trình lãnh đạo sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội, Đảng phải mạnh hơn bao giờ hết (Sau đó Người nhấn mạnh việc giai cấp công nhân, trong điều kiện Đảng của nó cầm quyền thì tập trung nhất là lãnh đạo Nhà nước. Chỉ có lãnh đạo Nhà nước thì Đảng mới thể hiện sự lãnh đạo của mình trong lĩnh vực kinh tế - một trọng tâm quan trọng nhất của nhiệm vụ chiến lược trong giai đoạn xây dựng chủ nghĩa xã hội và từ đó mới cụ thể hoá việc lãnh đạo phát triển kinh tế công nghiệp, kinh tế nông nghiệp và các ngành kinh tế - xã hội khác. 

Thứ hai, Hồ Chí Minh đề cập vai trò giai cấp công nhân trong công nghiệp hoá xã hội chủ nghĩa thông qua quan hệ tác động trực tiếp giữa hai ngành kinh tế cơ bản là công nghiệp và nông nghiệp, trong đó giai cấp công nhân và công nghiệp phải vươn lên đóng vai trò giúp đỡ, hướng dẫn, từng bước cải tạo nông nghiệp, nông thôn, nông dân. 

Hồ Chí Minh nêu nhiều lần về mục tiêu của sự nghiệp công nghiệp hoá xã hội chủ nghĩa và của sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta là xây dựng nước ta trở thành một nước có nền kinh tế xã hội chủ nghĩa với công nghiệp và nông nghiệp hiện đại vǎn hoá khoa học và kỹ thuật tiên tiến.

Đến nǎm 1961, nǎm đầu của kế hoạch 5 nǎm lần thứ nhất, trong "Hội nghị bàn về cuộc chỉnh huấn mùa xuân 1961", Hồ Chí Minh cũng đặc biệt nhấn mạnh quan hệ và vai trò của công nghiệp và nông nghiệp trong quá trình công nghiệp hoá xã hội chủ nghĩa, rằng: "Chúng ta phải phấn đấu cho nông nghiệp phát triển đảm bảo cho lương thực dồi dào. Chúng ta phải phấn đấu cho nền công nghiệp mau lớn mạnh, cho công nghiệp hoá xã hội chu rnghĩa thành công như đã đề ra trong nghị quyết Đại hội lần thứ III của Đảng. Người nêu khẩu hiệu: "Tất cả phục vụ sản xuất" là với ý nghĩa tập trung đó. 

Hồ Chí Minh nói về quan hệ giữa nông nghiệp và công nghiệp là thực chất nói về những "địa bản", những "mặt trận", những ngành nghề mà ở đó chủ thể trực tiếp của sự tác động giữa công nghiệp và nông nghiệp chủ yếu là công nhân và nông dân. Bởi vì công nghiệp và nông nghiệp nếu không có những chủ thể trực tiếp và chủ yếu của nó thì cũng chẳng có vận động và quan hệ tác động lẫn nhau. Đương nhiên, trong các quan hệ tác động đó, luôn có vai trò của các chủ thể khác nhau trong toàn xã hội, nhất là vai trò lãnh đạo của Đảng và quản lý của Nhà nước trong quá trình công nghiệp hoá xã hội chủ nghĩa, chứ không thể coi công nghiệp chỉ là của công nhân; nông nghiệp chỉ là của nông dân, nhưng chủ thể trực tiếp và chủ yếu nhất là công nhân và nông dân thì hoàn toàn thực tế. 

Về vai trò và tác động nêu trên, Hồ Chí Minh diễn đạt rất cụ thể, dễ hiểu, nhưng rất cơ bản và rất khả thi rằng, "nông nghiệp phải phát triển mạnh để cung cấp đủ lương thực cho nhân dân; cung cấp đủ nguyên liệu (như bông, mía, chè...) cho nhà máy, cung cấp đủ nông sản (như lạc, đỗ, đay...) để xuất khẩu, đổi lấy máy móc"1. Và, "Công nghiệp phải phát triển mạnh mẽ để cung cấp đủ hàng tiêu dùng càn thiết cho nhân dân, trước hết là cho nông dân; cung cấp máy bơm nước, phân hoá học, thuốc trừ sâu... để đẩy mạnh nông nghiệp; và cung cấp dần dần máy cày, máy bừa cho các hợp tác xã nông nghiệp. Công nghiệp phát triển thì nông nghiệp mới phát triển. Cho nên công nghiệp và nông nghiệp phải giúp đỡ lẫn nhau và cùng phát triển, như hai chân đi khoẻ và đi đều thì tiến bước nhanh và nhanh chóng đi đến mục đích"2. 

Trong sự tác động qua lại giữa công nghiệp và nông nghiệp giữa công nhân và nông dân trong sự nghiệp công nghiệp hoá xã hội chủ nghĩa, Hồ Chí Minh đặc biệt nhấn mạnh vai trò chủ động của giai cấp công nhân đồng thời cũng lại phải chư ý tạo những điều kiện chǎm lo phát triển giai cấp công nhân để giai cấp này thể hiện được vai trò của mình. Người viết: "Để thực hiện từng bước công nghiệp hoá xã hội chủ nghĩa... cán bộ và công nhân ngành công nghiệp phải có quyết tâm hoàn thành và hoàn thành vượt mức kế hoạch... Có chỉ tiêu kế hoạch rồi chưa đủ mà phải có biện pháp cụ thể, vững chắc, phải có tinh thần cố gắng rất cao để thực hiện bằng djdược kế hoạch đã đề ra. Chỉ tiêu kế hoạch một phần, biện pháp phải hai phần, cố gắng phải ba phần... Phải giáo dục cho cán bộ và công nhân nhận rõ mình là chủ nước nhà, là chủ xí nghiệp, do đó mà tích cực chống quan liêu, lãng phí, tham ô, đề cao tinh thần quý trọng củ công, ra sức cần kiệm xây dựng đất nước. Cán bộ, đảng viên, đoàn viên thanh niên lao động, cán bộ công đoàn phải gương mẫu thực hiện và làm cho tất cả anh chị em công nhân thấm nhuần tinh thần ấy... phải quan tâm đến điều kiện sinh hoạt vật chất của công nhân... chǎm nom đến chỗ ǎn, chỗ ở, chỗ làm việc của công nhân..."3. Đó là những lời Người chỉ dẫn trong Hội nghị công nghiệp toàn miền Bắc ngày 16-1-1961. 

Đến Hội nghị ngành công nghiệp nặng ngày 31-12-1964 Hồ Chí Minh càng trực tiếp nhấn mạnh vai trò, trách nhiệm của giai cấp công nhân trong công nghiệp hoá xã hội chủ nghĩa, thông qua từ cấp uỷ đảng, cán bộ đến mỗi người công nhân trong toàn ngành. Người chỉ rõ: "Toàn ngành công nghiệp nặng cần phải cố gắng làm thật tốt cuộc vận động "3 xây 3 chống". Muốn như vậy, thì từ Bộ đến mỗi cơ sở sản xuất phải quyết tâm chuyển mạnh, cán bộ lãnh đạo phải làm gương mẫu, phải cải tiến phương pháp công tác, phải ra sức phát huy trí tuệ và tinh thần sáng tạo của quần chúng công nhân. Phải tǎng cường sự lãnh đạo của Đảng... Phải thắt chặt tình đoàn kết nhất trí giữa Đảng và quần chúng. Phải đẩy mạnh thi đua yêu nước..., mỗi cán bộ, mỗi công nhân phải trau dồi đạo đức cách mạng trong sinh hoạt và trong công tác để hoàn thành nhiệm vụ cách mạng của mình"4. 

Với ngành và đội ngũ giai cấp công nhân trong công nghiệp nhẹ, Hồ Chí Minh đã chỉ rõ vai trò của nó rằng, "Ngành công nghiệp nhẹ quan hệ rất khǎng khít với đời sống hàng ngày của nhân dân. Vì vậy nhiệm vụ của công nghiệp nhẹ là rất quan trọng... "Ba xây ba chống"... là một cuộc vận động cách mạng to lớn, nhằm là cho công nhân và cán bộ nâng cao giác ngộ xã hội chủ nghĩa, nhận rõ hơn trách nhiệm của mình và làm tốt mọi công tác Đảng và Chính phủ giao cho... Từ Bộ trưởng đến Thứ trưởng, đến cán bộ cơ sở phải xung phong gương mẫu, phải thật thà tự phê bình và hoan nghênh quần chúng phê bình mình. Phải mở rộng dân chủ, phải thật sự phát động quần chúng một cách sôi nổi và liên tục..."3. Người chỉ dẫn cho cán bộ và công nhân ngành công nghiệp nhẹ từ tháng 1-1965, cho đến nay vẫn giữ nguyên giá trị và rất "cập nhật" với ý nghĩa của công nghiệp hoá, hiện địa hoá đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa. 

Thứ ba, tư tưởng Hồ Chí Minh về vai trò giai cấp công nhân trong sự nghiệp công nghiệp hoá xã hội chủ nghĩa còn thể hiện qua quan điểm của Người về vai trò, nội dung của "Liên minh công nông và các tầng lớp lao động khác" trong giai đoạn cách mạng xã hội chủ nghĩa: 

Khi báo cáo trước Quốc hội về dự thảo Hiến pháp sửa đổi (1959), Hồ Chí Minh khẳng định: "Liên minh công nông càng được thắt chặt. Những người trí thức cách mạng đang góp phần tích cực vào công cuộc xây dựng nước nhà...". Như vậy là Hồ Chí Minh vẫn tiếp tục nhất quán tư tưởng của mình và của Đảng ta từ trước và trong Đại hội II (1951) về liên minh. Đó là không chỉ thấy lực lượng công nông, dù đó là nòng cốt, cơ bản nhất, mà còn nhiều tầng lớp lao động khác, nhất là trí thức cách mạng. Trước và trong dịp Đại hội II của Đảng Lao động Việt Nam (tháng 2 -1951), Hồ Chí Minh đã có tư tưởng rõ ràng và đúng đắn rằng: cách mạng cần công nông, cách mạng cũng cần trí thức... và thực ra chỉ có cách mạng mới biết trọng trí thức... cho nên công nông trí phải đoàn kết thành một khối. Tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ nhất của Hội phổ biến khoa học kỹ thuật Việt Nam, Hồ Chí Minh lại nhấn mạnh vai trò trí thức, rằng: trí thức phải là những chiến sĩ trên mặt trận tư tưởng, vǎn hoá, khoa học kỹ thuật; phải góp tài góp sức để cải tiến bộ mặt của xã hội ta. 

Chính Hồ Chí Minh đã vận dụng và cụ thể hoá tư tưởng Mác - Lênin về "liên minh công nông và các tầng lớp lao động khác" thành "Liên minh công nông trí thức" ở Việt Nam mà Chính cương Đại hội II Đảng Lao động Việt Nam đã ghi rõ: Nhà nước ta là nhà nước dân chủ nhân dân, dựa trên nền tảng liên minh giai cấp công nhân với nông dân và lao động trí thức và do giai cấp công nhân lãnh đạo. Tư tưởng này được Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII của Đảng kế thừa và phát triển trong Cương lĩnh của công cuộc đổi mới hiện nay. 

Ở đây ta càng thấy tính hiện đại và "cập nhật" của tư tưởng Hồ Chí Minh và của Đảng ta từ lâu đã chú ý đến trí tuệ, trí thức ngay trong Liên minh. Chính vai trò của giai cấp công nhân trong công nghiệp hoá xã hội chủ nghĩa sẽ thể hiện không đơn điệu, một chiều từ phía giai cấp công nhân và Đảng của nó đến nông dân, nông nghiệp, nông thôn... và các lĩnh vực, các lực lượng khác, mà chủ yếu lại thông qua "Liên minh công nông trí thức" và khối đại đoàn kết toàn dân mà đại biểu rộng rãi nhất là Mặt trận dân tộc thống nhất (nay là Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, trong đó Liên minh công nông trí thức là nòng cốt). Trong quá trình thực hiện liên minh, Hồ Chí Minh từ lâu đã xác định một nhiệm vụ mà cho đến nay vẫn rất hiện đại và "cập nhật" đối với quá trình công nghiệp hoá , hiện đại hoá đất nước đó là nhấn mạnh trọng tâm "phải lấy nông nghiệp làm chính, nhưng phải toàn diện, phải chú ý cả các mặt công nghiệp, thương nghiệp, tài chính, ngân hàng, giao thông, kiến trúc, vǎn hoá, giáo dục, y tế.. Các ngành này phải lấy phục vụ nông nghiệp là trung tâm". Những tư tưởng quan điểm nên thể hiện trong Bài nói chuyện của Hồ Chí Minh với cán bộ và nhân dân Hải Dương ngày 15-2-1965. 

Trên cơ sở chung đó, Hồ Chí Minh yêu cầu rất rõ việc nâng cao vai trò, nǎng lực... của giai cấp công nhân trong quán trình tác động vào nông nghiệp, nông dân, nông thôn và các lĩnh vực khác để công nghiệp hoá xã hội chủ nghĩa thành công. Người nhấn mạnh rằng: "... máy móc ngày càng tinh xảo, nếu không có trình độ vǎn hoá và kỹ thuật thì không thể điều khiển được...nên việc học tập vǎn hoá, nâng cao trình độ kỹ thuật là rất cần thiết... Trai, gái, trẻ, già, cán bộ, công nhân đều phải học cả... Mặt khác phải thực hiện hạch toán kinh tế cho tốt, phải đảm bảo các bộ phận sản xuất cân đối, tiến hành ǎn khớp, nhịp nhàng..., phát huy nhiều sáng kiến... tiết kiệm vật liệu, thì giờ..., đúc kết sáng kiến đã đạt được đểphổ biến rộng rãi và áp dụng ý kiến của công nhân đề nghị...". Hơn nữa, nếu ta biết rằng, tư liệu về quản lý và khoa học kỹ thuật của các nước phát triển, hiện đại ngày nay cho biết về 4 yếu tố cơ bản của công nghiệp hoá, hiện đại hoá đó là: "kỹ thuật" (T:Technology); con người (H:Human); "Thông tin" (I: Information); "tổ chức" (O:Organization) thì tìm lại tư tưởng Hồ Chí Minh, ta cũng đã thấy về cơ bản có những ý đó Người nói: "Công tác cải tiến quản lý, cải tiến kỹ thuật và cải tiến tổ chức như cái kiềng ba chân... Muốn làm tốt các việc này phải thực hiện dân chủ... phải nâng cao kỷ luật liên đoàn, ... an toàn lao động, chống lãng phí... phải chú trọng học tập kinh nghiệm và tác phong công tác tốt của các đồng chí chuyên gia bạn". Như vậy, theo tư tưởng Hồ Chí Minh chỉ có giai cấp công nhân thông qua Đảng, đội tiên phong của giai cấp đó, mới vừa là thành viên số một của liên minh công nông, trí thức, vừa là người đảm nhận tốt vai trò lãnh đạo liên minh và lãnh đạo xã hội trong sự nghiệp công nghiệp hoá nước nhà. 

NXB. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2000

1. Xem Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1996, t.9, tr. 588. 
2. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1996, t.10, tr. 544-545. 
3. Sđd., 1996, t.10, tr. 444-445. 
4. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1996, t.10, tr.261-262. 
5. Sđd, t.11, tr.354. 
6. Sđd, t.9, tr.584. 
7. Sđd, t.10, tr.50-51.

Phản hồi

Thông tin người gửi phản hồi

Hướng dẫn kiểm tra, giám sát phục vụ đại hội đảng bộ các cấp tiến tới Đại hội XIV của Đảng

(ĐCSVN) - Tại văn bản số 08-HD/UBKTTW ngày 18/11/2024, Ủy ban Kiểm tra Trung ương hướng dẫn công tác kiểm tra, giám sát phục vụ đại hội đảng bộ các cấp tiến tới Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIV của Đảng.

Phương án nghiên cứu sắp xếp, sáp nhập các bộ, cơ quan thuộc Chính phủ

(ĐCSVN) - Theo phương án nghiên cứu sắp xếp, sáp nhập được Trưởng Ban Tổ chức Trung ương Lê Minh Hưng nêu tại Hội nghị toàn quốc sáng 1/12, sẽ tối thiểu giảm được 5 bộ, 2 cơ quan trực thuộc Chính phủ.

Phương án sáp nhập các ủy ban của Quốc hội và cơ quan thuộc Ủy ban Thường vụ Quốc hội

(ĐCSVN) - Sáng 1/12, Trưởng Ban Tổ chức Trung ương Lê Minh Hưng thông báo chuyên đề về các nội dung chính, trọng tâm việc triển khai tổng kết Nghị quyết 18. Theo phương án định hướng được nêu sẽ giảm 4 ủy ban của Quốc hội và 1 cơ quan trực thuộc Ủy ban Thường vụ Quốc hội.

Phương án giảm 4 cơ quan Đảng, 25 ban cán sự đảng, 16 đảng đoàn trực thuộc Trung ương

(ĐCSVN) - Sáng 1/12, đồng chí Lê Minh Hưng, Uỷ viên Bộ Chính trị, Bí thư Trung ương Đảng, Trưởng ban Tổ chức Trung ương đã trình bày các nội dung chính, trọng tâm việc triển khai tổng kết Nghị quyết 18-NQ/TW của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XII.

Quy trình kỷ luật đảng viên thuộc thẩm quyền của Trung ương Đảng, Bộ Chính trị, Ban Bí thư

(ĐCSVN) - Thay mặt Bộ Chính trị, Thường trực Ban Bí thư Lương Cường vừa ký Quyết định số 165-QĐ/TW ngày 6/6/2024 của Bộ Chính trị ban hành Quy trình xem xét, thi hành kỷ luật đối với tổ chức Đảng, đảng viên thuộc thẩm quyền của Ban Chấp hành Trung ương Đảng, Bộ Chính trị, Ban Bí thư.

Liên kết website