Trong tác phẩm Nhà nước và cách mạng, lần đầu tiên vấn đề nhà nước được V.I.Lênin trình bày một cách có hệ thống. Giá trị lý luận và thực tiễn của tác phẩm là đã làm sáng tỏ tính quy luật trong sự sinh thành, vận động và phát triển, đưa ra những dự báo khoa học về xu hướng và điều kiện về sự tự tiêu vong của nhà nước trong tiến trình tới chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản. Tác phẩm vẫn giữ nguyên giá trị khoa học, cách mạng và tính thời sự.
Trong tình hình hiện nay, nắm vững thực chất và vận dụng tư tưởng của tác phẩm là cơ sở vững chắc để xây dựng và hoàn thiện nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa.
1. Lý luận về nhà nước trong tác phẩm Nhà nước và cách mạng
Những đóng góp của V.I.Lênin về lý luận nhà nước ở việc làm sáng tỏ những quan điểm của C.Mác và Ph.Ăngghen về nhà nước, trở thành vũ khí lý luận sắc bén cho cuộc đấu tranh của giai cấp công nhân, giành lấy, tổ chức và thực thi quyền lực nhà nước, cũng như đấu tranh chống lại mọi âm mưu hòng xuyên tạc, bẻ cong và nhằm bác bỏ lý luận mácxít về nhà nước. Tác phẩm đi sâu, phát triển lý luận mácxít về nhà nước trên một số phương diện.
Nhất quán với tư tưởng của C.Mác và Ph.Ăngghen, V.I.Lênin tiếp tục khẳng định rằng, nhà nước là một hiện tượng lịch sử, sự tồn tại và tiêu vong của nhà nước là tùy thuộc vào những điều kiện cụ thể; “nhà nước chỉ là một tổ chức thống trị của một giai cấp”(1) và “bất cứ nhà nước nào cũng là một bộ máy để một giai cấp này trấn áp giai cấp khác”(2).
Theo V.I.Lênin, khái niệm “nhà nước” là để chỉ bộ máy nhà nước trong xã hội có giai cấp. Ông viết: “đặc trưng của nhà nước là sự tồn tại của một giai cấp đặc biệt, tập trung quyền lực trong tay. Dĩ nhiên, không ai có thể dùng hai tiếng nhà nước để gọi một cộng đồng, trong đó tất cả mọi thành viên đều thay phiên nhau quản lý “tổ chức của trật tự”(3). Sự tập trung quyền lực chính trị trong tay một giai cấp đặc biệt là đặc trưng để phân biệt nhà nước với mọi hình thức tổ chức xã hội khác. V.I.Lênin chỉ rõ: “Nếu quyền lực chính trị trong nước nằm trong tay một giai cấp có quyền lợi phù hợp với quyền lợi của đa số, thì mới có thể thực hiện việc điều khiển công việc quốc gia thực sự theo đúng nguyện vọng của đa số. Nhưng nếu quyền lực chính trị nằm trong tay một giai cấp có quyền lợi khác với quyền lợi của đa số, thì việc điều khiển công việc quốc gia theo nguyện vọng của đa số không khỏi trở thành một sự lừa gạt, hoặc đưa đến chỗ đàn áp đa số ấy”(4).
V.I.Lênin giải thích: “Quyền chính trị là gì, nếu không phải là cách diễn đạt, là việc ghi nhận so sánh lực lượng?”(5). Đây chính là sự phát triển quan điểm của C.Mác và Ph.Ăngghen: quyền lực chính trị, theo đúng nghĩa của nó, là bạo lực có tổ chức của một giai cấp để trấn áp một giai cấp khác.
Về nguồn gốc của nhà nước, V.I.Lênin nêu rõ, bản thân nhà nước với sự xuất hiện và tồn tại của nó đã là một vấn đề trung tâm của chính trị, nó trở thành một trong những dấu hiệu đặc trưng, một trong những dấu hiệu căn bản nhất để nhận diện xã hội chính trị đã ra đời như thế nào trong lịch sử.
V.I.Lênin đã kế thừa những quan điểm của C.Mác và Ph. Ăngghen về nhà nước và đưa ra hai quan điểm quan trọng: “Nhà nước là sản phẩm và biểu hiện của những mâu thuẫn giai cấp không thể điều hòa được. Bất cứ đâu, hễ lúc nào và chừng nào mà, về mặt khách quan, những mâu thuẫn giai cấp không thể điều hòa được, thì nhà nước xuất hiện. Và ngược lại: sự tồn tại của nhà nước chứng tỏ rằng những mâu thuẫn giai cấp là không thể điều hòa được”(6).
Đây là luận điểm căn bản của V.I.Lênin về nguồn gốc của nhà nước. Đây là sự kế thừa và khái quát một cách cô đọng, xúc tích của V.I.Lênin, đồng thời là sự phê phán trực diện các quan điểm sai trái về nguồn gốc của nhà nước, những ý kiến cho rằng nhà nước cũng chỉ là sản phẩm phản ánh ý niệm từ bên ngoài, sản phẩm từ bên ngoài áp đặt vào xã hội, sản phẩm làm theo ý Chúa, sản phẩm của Chúa.
Về bản chất giai cấp của nhà nước, V.I.Lênin khẳng định: Nhà nước mang bản chất giai cấp sâu sắc. Bất cứ nhà nước nào cũng mang bản chất giai cấp đã tổ chức, nuôi dưỡng và sử dụng phục vụ lợi ích của nó. Xem xét các nhà nước trong lịch sử cho thấy: Nhà nước trong chế độ chiếm hữu nô lệ - chủ nô nắm lấy nhà nước để áp bức vô nhân đạo đối với nô lệ; Nhà nước của chế độ phong kiến - địa chủ nắm lấy nhà nước để đàn áp nông dân; Nhà nước tư bản - Tư sản nắm lấy nhà nước để trấn áp giai cấp vô sản. Nhà nước vô sản công khai tuyên bố rằng: nhiệm vụ thứ nhất của nó là trấn áp sự phản kháng của giai cấp bóc lột đã bị lật đổ cho đến khi triệt để tiêu diệt chúng. Nhà nước vô sản là nhà nước kiểu mới - nhà nước của dân, do dân, vì dân. Ngoài bản chất giai cấp, nhà nước vô sản còn mang bản chất xã hội sâu sắc.
V.I.Lênin chỉ rõ, nếu tính giai cấp là bản chất của mọi nhà nước, thì dân chủ hay chuyên chính cũng chỉ là hai mặt của bản chất đó mà thôi: “Bất cứ một nhà nước nào cũng đều có nghĩa là dùng bạo lực; nhưng toàn bộ sự khác nhau là ở chỗ dùng bạo lực đối với những người bị bóc lột hay đối với kẻ đi bóc lột, ở chỗ có dùng bạo lực đối với giai cấp những người lao động và những người bị bóc lột không”(7). Đối với V.I.Lênin: “Chuyên chính cách mạng của giai cấp vô sản là một chính quyền do giai cấp vô sản giành được và duy trì bằng bạo lực đối với giai cấp tư sản...”(8).
Chuyên chính vô sản không hề đối lập với dân chủ, mà là phần bổ sung, là hình thức thể hiện của dân chủ: “Chuyên chính vô sản, nghĩa là việc tổ chức đội tiền phong của những người bị áp bức thành giai cấp thống trị để trấn áp bọn áp bức, thì không thể giản đơn đóng khung trong việc mở rộng chế độ dân chủ được. Đồng thời với việc mở rộng rất nhiều chế độ dân chủ - lần đầu tiên biến thành chế độ dân chủ cho người nghèo, chế độ dân chủ cho nhân dân chứ không phải cho bọn nhà giàu - chuyên chính vô sản còn thực hành một loạt biện pháp hạn chế quyền tự do đối với bọn áp bức, bọn bóc lột, bọn tư bản”(9).
Điều cần quan tâm là, trong xã hội xã hội chủ nghĩa - lực lượng đóng vai trò thống trị trong xã hội, và vì thế nắm quyền chuyên chính, dân chủ và pháp luật là đại đa số nhân dân lao động. “Dân chủ cho tuyệt đại đa số nhân dân và trấn áp bằng vũ lực bọn bóc lột, bọn áp bức nhân dân, nghĩa là tước bỏ dân chủ đối với bọn chúng: đó là sự biến đổi của chế độ dân chủ trong thời kỳ quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa cộng sản”(10).
2. Đảng Cộng sản Việt Nam phát triển quan điểm của V.I.Lênin về nhà nước trong xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam
Tư tưởng V.I.Lênin về nhà nước được hình thành trên cơ sở sự vận dụng và phát triển sáng tạo học thuyết Mác về nhà nước vào điều kiện cụ thể của nước Nga và tình hình thế giới những năm đầu thế kỷ XX. Những tư tưởng ấy chứa đựng nhiều giá trị có ý nghĩa lý luận và thực tiễn đối với công cuộc xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam hiện nay.
Ở nước ta, vấn đề xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam là một nhiệm vụ chính trị quan trọng, góp phần đưa đến thắng lợi của công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội. Trong quá trình xây dựng và hoàn thiện lý luận về nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam, Đảng ta luôn lấy chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng và vận dụng sáng tạo vào điều kiện cụ thể của đất nước.
Quan điểm của Đảng ta về nhà nước pháp quyền ngày càng được hoàn chỉnh với việc đẩy mạnh cải cách, hội nhập quốc tế, hướng đến xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa: Nhà nước ta là công cụ của chế độ làm chủ tập thể xã hội chủ nghĩa,…Trong thời kỳ quá độ, đó là nhà nước chuyên chính vô sản thực hiện chế độ dân chủ xã hội chủ nghĩa. Dưới sự lãnh đạo của Đảng, chức năng của Nhà nước ta là thể chế hóa bằng pháp luật quyền hạn, lợi ích, nghĩa vụ của nhân dân lao động và quản lý kinh tế, xã hội theo pháp luật; quản lý nhà nước bằng pháp luật.
Đại hội VII của Đảng (năm 1991) đã đề ra chủ trương tiếp tục cải cách bộ máy nhà nước; sửa đổi Hiến pháp, cải tiến tổ chức và hoạt động của Quốc hội, sửa đổi cơ cấu tổ chức và phương thức hoạt động của Chính phủ, của chính quyền địa phương các cấp. Đến Hội nghị đại biểu toàn quốc giữa nhiệm kỳ khóa VII (năm 1994), lần đầu tiên Đảng ta chính thức sử dụng thuật ngữ “Nhà nước pháp quyền” và nêu cụ thể, toàn diện những quan điểm, nguyên tắc, nội dung xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân, vì dân ở Việt Nam: tiếp tục xây dựng và từng bước hoàn thiện nhà nước pháp quyền Việt Nam. Đó là nhà nước của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân, quản lý mọi mặt đời sống xã hội bằng pháp luật, đưa đất nước phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Nhà nước pháp quyền Việt Nam được xây dựng trên cơ sở tăng cường, mở rộng khối đại đoàn kết toàn dân, lấy liên minh giữa giai cấp công nhân với nông dân và đội ngũ trí thức làm nền tảng, do Đảng lãnh đạo.
Nghị quyết Trung ương 8 (khóa VII) nêu 5 quan điểm cơ bản cần nắm vững trong quá trình xây dựng và hoàn thiện Nhà nước: xây dựng Nhà nước xã hội chủ nghĩa của dân, do dân, vì dân, lấy liên minh giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức làm nền tảng, do Đảng Cộng sản lãnh đạo. Thực hiện đầy đủ quyền làm chủ của nhân dân, giữ nghiêm kỷ cương xã hội, chuyên chính với mọi hành động xâm phạm lợi ích của Tổ quốc và nhân dân; quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công và phối hợp chặt chẽ giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện ba quyền: lập pháp, hành pháp, tư pháp; quán triệt nguyên tắc tập trung dân chủ trong tổ chức và hoạt động của Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam; tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa, xây dựng Nhà nước pháp quyền Việt Nam; quản lý xã hội bằng pháp luật, đồng thời coi trọng giáo dục, nâng cao đạo đức xã hội chủ nghĩa; tăng cường vai trò lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước
Đại hội VIII của Đảng (năm 1986), tiếp tục khẳng định các quan điểm về xây dựng Nhà nước pháp quyền trong Nghị quyết Trung ương 8 (khóa VII). Hội nghị Trung ương 3 (khóa VIII) nhấn mạnh ba yêu cầu: tiếp tục phát huy tốt hơn và nhiều hơn quyền làm chủ của nhân dân qua các hình thức dân chủ đại diện và dân chủ trực tiếp; tiếp tục xây dựng và hoàn thiện Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam trong sạch, vững mạnh, hoạt động có hiệu lực, hiệu quả; tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước.
Quan điểm về Nhà nước pháp quyền tiếp tục được bổ sung, hoàn thiện tại Đại hội IX của Đảng, khi xác định: Đẩy mạnh cải cách tổ chức và hoạt động của Nhà nước, phát huy dân chủ, tăng cường pháp chế với các nội dung xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa dưới sự lãnh đạo của Đảng; cải cách thể chế và phương thức hoạt động của Nhà nước; phát huy dân chủ, giữ vững kỷ luật, kỷ cương, tăng cường pháp chế.
Nhiệm vụ cụ thể của quá trình xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam được Đại hội X của Đảng (năm 2006) xác định: xây dựng cơ chế vận hành của Nhà nước, bảo đảm nguyên tắc tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân; quản lý nhà nước là thống nhất, có sự phân công, phối hợp giữa các cơ quan trong việc thực hiện quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp; hoàn thiện hệ thống pháp luật, tăng tính cụ thể, khả thi của các quy định trong văn bản pháp luật; xây dựng, hoàn thiện cơ chế kiểm tra, giám sát tính hợp hiến và hợp pháp trong các hoạt động và quyết định của các cơ quan công quyền.
Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm 2011) đã xác định mô hình xã hội xã hội chủ nghĩa mà nhân dân ta xây dựng dựa trên tám đặc trưng và “xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của Nhân dân, do Nhân dân, vì Nhân dân” là một đặc trưng cơ bản.
Nghị quyết Đại hội XII của Đảng (năm 2016) nhấn mạnh: tiếp tục xây dựng, hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa do Đảng lãnh đạo là nhiệm vụ trọng tâm của đổi mới hệ thống chính trị,... Đồng thời, khẳng định: tiếp tục xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân do Đảng lãnh đạo là nhiệm vụ trọng tâm của đổi mới hệ thống chính trị. Nâng cao năng lực, hiệu lực, hiệu quả hoạt động của Nhà nước. Xác định rõ hơn vai trò, vị trí, chức năng, nhiệm vụ và quyền hạn của các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp trên cơ sở các nguyên tắc pháp quyền, bảo đảm quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công rành mạch, phối hợp chặt chẽ và tăng cường kiểm soát quyền lực nhà nước. Xây dựng hệ thống pháp luật đầy đủ, kịp thời, đồng bộ, thống nhất, khả thi, công khai, minh bạch, ổn định, lấy quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của người dân, doanh nghiệp làm trọng tâm thúc đẩy đổi mới sáng tạo, bảo đảm yêu cầu phát triển nhanh, bền vững.
Đại hội XIII của Đảng (năm 2021) nhấn mạnh: “Tiếp tục xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân do Đảng lãnh đạo là nhiệm vụ trọng tâm của đổi mới hệ thống chính trị”(11). Đẩy mạnh việc xây dựng, hoàn thiện hệ thống pháp luật đồng bộ, hiện đại, khả thi, công khai, minh bạch, ổn định, dễ tiếp cận, bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của nhân dân, thúc đẩy đổi mới sáng tạo, bảo đảm yêu cầu phát triển bền vững kinh tế - xã hội và quốc phòng, an ninh trong điều kiện mới.
Ngày 09-11-2022, Hội nghị Trung ương 6 khóa XIII ban hành Nghị quyết 27-NQ/TW về tiếp tục xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam giai đoạn mới, xác định những quan điểm xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở nước ta hiện nay như sau:
Một là, kiên định, vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh; kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội; kiên định đường lối đổi mới và bảo đảm sự lãnh đạo, cầm quyền của Ðảng. Nắm vững và xử lý tốt các mối quan hệ lớn giữa Ðảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý và nhân dân làm chủ; giữa nhà nước, thị trường và xã hội; giữa thực hành dân chủ xã hội chủ nghĩa và tăng cường pháp chế, bảo đảm kỷ cương xã hội. Tiếp tục xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân dưới sự lãnh đạo của Ðảng là nhiệm vụ trọng tâm của đổi mới hệ thống chính trị; luôn đặt trong tổng thể công tác xây dựng, chỉnh đốn Ðảng và hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh; phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc, huy động sự vào cuộc của cả hệ thống chính trị với quyết tâm cao, nỗ lực lớn, hành động quyết liệt, kiên trì, hiệu quả; thực hiện thắng lợi sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh.
Hai là, thực hiện nhất quán nguyên tắc tất cả quyền lực nhà nước thuộc về Nhân dân, phát huy quyền làm chủ của nhân dân trong Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam; quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công rành mạch, phối hợp chặt chẽ, kiểm soát hiệu quả giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp dưới sự giám sát của nhân dân.
Ba là, bảo đảm thượng tôn Hiến pháp và pháp luật. Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam tổ chức và hoạt động theo Hiến pháp và pháp luật, quản lý xã hội bằng Hiến pháp và pháp luật, đồng thời coi trọng giáo dục, nâng cao đạo đức xã hội chủ nghĩa; thể chế hóa kịp thời, đầy đủ và tổ chức thực hiện hiệu quả chủ trương, đường lối của Ðảng; lấy con người là trung tâm, mục tiêu, chủ thể và động lực phát triển đất nước; Nhà nước tôn trọng, bảo đảm, bảo vệ quyền con người, quyền công dân.
Bốn là, bám sát thực tiễn đất nước và xu thế phát triển của thời đại, kế thừa những thành tựu đã đạt được, tiếp thu có chọn lọc kinh nghiệm quốc tế phù hợp với Việt Nam; kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại, sức mạnh quốc gia với sức mạnh quốc tế; bảo đảm cao nhất lợi ích quốc gia - dân tộc, bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ, an ninh quốc gia, chế độ xã hội chủ nghĩa.
Năm là, bảo đảm tổng thể, đồng bộ, liên thông giữa đổi mới lập pháp, cải cách hành chính, cải cách tư pháp; kết hợp hài hòa giữa kế thừa, ổn định với đổi mới, phát triển; tiến hành khẩn trương, nghiêm minh, nhất quán, có trọng tâm, trọng điểm và lộ trình, bước đi vững chắc. Những vấn đề thực tiễn đòi hỏi, đã rõ, được thực tiễn chứng minh là đúng, có sự thống nhất cao thì kiên quyết thực hiện; những vấn đề chưa rõ, còn nhiều ý kiến khác nhau thì tiếp tục nghiên cứu, tổng kết thực tiễn, thực hiện thí điểm khi cơ quan có thẩm quyền cho phép; những chủ trương đã thực hiện, nhưng không phù hợp thì nghiên cứu điều chỉnh, sửa đổi kịp thời.
Tư tưởng về nhà nước có một vị trí đặc biệt quan trọng trong hệ thống lý luận của V.I.Lênin, bởi đó là những lý thuyết khoa học gắn chặt với quan điểm chính trị; gắn liền với những hoạt động thực tiễn sinh động của V.I.Lênin. Chính vì vậy, nghiên cứu, vận dụng những tư tưởng V.I.Lênin về nhà nước có ý nghĩa đặc biệt quan trọng đối với quá trình xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
Xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam là công việc khó khăn, bền bỉ, đòi hỏi tính tích cực, chủ động và sáng tạo rất lớn của Đảng và Nhà nước. Hoàn thành mục tiêu hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân cũng xuất phát từ đòi hỏi toàn Đảng, toàn dân, toàn bộ hệ thống chính trị. Xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa vững mạnh để quản lý xã hội có hiệu quả, giữ vững chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ đất nước.
Những chỉ dẫn của V.I.Lênin trong tác phẩm Nhà nước và cách mạng đến nay vẫn giữ nguyên giá trị đối với Đảng ta trong việc xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩaViệt Nam, Nhà nước của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân, góp phần thực hiện thắng lợi sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
_________________
(1) V.I.Lênin: Toàn tập,t.32, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2005,tr.303.
(2), (9) V.I.Lênin: Toàn tập,t.37, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2005,tr.122, 297.
(3) V.I.Lênin: Toàn tập, t.1, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2005,tr.550.
(4) V.I.Lênin: Toàn tập, t.34, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2005,tr.52.
(5) V.I.Lênin: Toàn tập,t.21, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2005,tr.150.
(6), (10) V.I.Lênin: Toàn tập, t.33, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2005,tr.9, 109.
(7) V.I.Lênin: Toàn tập, t.31, Nxb Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2005, tr.356.
(8) V.I.Lênin: Toàn tập,t.43, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2005,tr.380.
(11) ĐCSVN: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, t.I, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2021, tr.174.
NGUYỄN HỒNG THẬT
Trường Chính trị tỉnh Tây Ninh/Tạp chí Lý luận chính trị