Quốc hội thông qua Luật Tố cáo (sửa đổi)

Luật Tố cáo (sửa đổi) gồm 9 chương, 67 điều quy định về tố cáo và giải quyết tố cáo đối với hành vi vi phạm pháp luật trong việc thực hiện nhiệm vụ, công vụ và hành vi vi phạm pháp luật khác về quản lý nhà nước trong các lĩnh vực; bảo vệ người tố cáo; trách nhiệm của các cơ quan, tổ chức trong việc quản lý công tác giải quyết tố cáo.

Luật Tố cáo (sửa đổi) giữ nguyên hình thức tố cáo như hiện nay. “Việc tố cáo được thực hiện bằng đơn hoặc được trình bày trực tiếp tại cơ quan, tổ chức có thẩm quyền”, Điều 22 nêu rõ.

Đại biểu Quốc hội bấm nút thông qua Luật Tố cáo (sửa đổi). (Ảnh: TH).

Báo cáo giải trình, tiếp thu chỉnh lý dự thảo Luật Tố cáo (sửa đổi) trước khi Quốc hội biểu quyết thông qua dự thảo Luật, Chủ nhiệm Ủy ban Pháp luật Nguyễn Khắc Định cho hay, đa số ý kiến đề nghị giữ hình thức tố cáo như Luật hiện hành là tố cáo bằng đơn và tố cáo trực tiếp để bảo đảm tính khả thi. Một số ý kiến đề nghị mở rộng hình thức tố cáo qua thư điện tử, fax, điện thoại, tin nhắn điện thoại…

Ủy ban Thường vụ Quốc hội xin tiếp thu ý kiến của đa số đại biểu Quốc hội, giữ hình thức tố cáo như Luật hiện hành.

“Đối với những thông tin có nội dung tố cáo được phản ánh không theo hình thức nêu trên, nếu có nội dung rõ ràng về người có hành vi vi phạm pháp luật, có tài liệu, bằng chứng cụ thể về hành vi vi phạm pháp luật thì cơ quan tiếp nhận thông tin phải tiến hành việc kiểm tra, thanh tra, xử lý theo thẩm quyền hoặc chuyển đến cơ quan, tổ chức có thẩm quyền xem xét giải quyết, xử lý để không bỏ sót, bỏ lọt các hành vi vi phạm pháp luật”, Chủ nhiệm Nguyễn Khắc Định nói.

Luật bổ sung quy định: Trường hợp tố cáo xuất phát từ vụ việc khiếu nại đã được giải quyết đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của pháp luật nhưng người khiếu nại không đồng ý mà chuyển sang tố cáo người đã giải quyết khiếu nại thì chỉ thụ lý tố cáo khi người tố cáo cung cấp được thông tin, tài liệu, bằng chứng để xác định người giải quyết khiếu nại có hành vi vi phạm pháp luật.

Theo Ủy ban Thường vụ Quốc hội, thực trạng khá phổ biến hiện nay là nhiều đơn tố cáo xuất phát từ vụ việc khiếu nại đã được giải quyết đúng trình tự, thủ tục, thẩm quyền theo quy định của pháp luật, người khiếu nại không đồng ý, chuyển sang tố cáo người giải quyết khiếu nại nhưng không cung cấp được bằng chứng, thông tin chứng minh hành vi vi phạm, khiến cho tình hình giải quyết khiếu nại, tố cáo phức tạp, kéo dài, khó giải quyết dứt điểm. Do đó, việc bổ sung quy định này vào dự thảo Luật là cần thiết để khắc phục tình trạng nói trên, đáp ứng yêu cầu giải quyết tố cáo hiện nay.

Đồng thời, Luật đã quy định cụ thể điều kiện, yêu cầu của việc rút tố cáo, trách nhiệm giải quyết tố cáo khi hành vi bị tố cáo vẫn có dấu hiệu vi phạm pháp luật, việc xử lý hành vi cố ý tố cáo sai sự thật kể cả trong trường hợp rút tố cáo.

Liên quan đến bảo vệ người tố cáo, luật quy định: Bảo vệ người tố cáo là việc bảo vệ bí mật thông tin của người tố cáo; bảo vệ vị trí công tác, việc làm, tính mạng, sức khỏe, tài sản, danh dự, nhân phẩm của người tố cáo, vợ, chồng, cha đẻ, mẹ đẻ, cha nuôi, mẹ nuôi, con đẻ, con nuôi của người tố cáo (gọi chung là người được bảo vệ).

Khi có căn cứ về việc vị trí công tác, việc làm, tính mạng, sức khỏe, tài sản, danh dự, nhân phẩm của người quy định tại khoản 1 Điều này đang bị xâm hại hoặc có nguy cơ bị xâm hại ngay tức khắc hay họ bị trù dập, phân biệt đối xử do việc tố cáo, người giải quyết tố cáo, cơ quan khác có thẩm quyền tự quyết định hoặc theo đề nghị của người tố cáo quyết định việc áp dụng biện pháp bảo vệ cần thiết…/.

 

Phản hồi

Thông tin người gửi phản hồi

Liên kết website