(ĐCSVN) - Đảng viên ở bất cứ cương vị công tác nào, có dấu hiệu tham nhũng đều phải được xem xét làm rõ và xử lý nghiêm theo quy định của Đảng và pháp luật của Nhà nước, không có “vùng cấm”.
Ủy ban kiểm tra có trách nhiệm giám sát đảng viên trong việc thực hiện
trách nhiệm nêu gương, giữ gìn đạo đức, lối sống. (Ảnh:HH/dangcongsan.vn)
Thay mặt Bộ Chính trị, Thường trực Ban Bí thư Trần Quốc Vượng vừa ký ban hành Quy định số 01-QĐ/TW ngày 10/5/2018 về trách nhiệm và thẩm quyền của ủy ban kiểm tra từ cấp huyện và tương đương trở lên trong công tác phòng, chống tham nhũng.
Trong đó nêu rõ các nguyên tắc: Thứ nhất, ủy ban kiểm tra phải chủ động thực hiện công tác phòng, chống tham nhũng trên cơ sở chức năng, nhiệm vụ, thẩm quyền theo quy định của Điều lệ Đảng. Thứ hai, coi trọng công tác phòng ngừa, khi phát hiện đảng viên có hành vi tham nhũng phải kiểm tra, xem xét và xử lý nghiêm minh, chính xác, kịp thời. Thứ ba, đảng viên ở bất cứ cương vị công tác nào, có dấu hiệu tham nhũng đều phải được xem xét làm rõ và xử lý nghiêm theo quy định của Đảng và pháp luật của Nhà nước, không có “vùng cấm”. Thứ tư, xử lý nghiêm tổ chức đảng, đảng viên có hành vi dung túng, bao che tham nhũng hoặc cản trở, can thiệp trái quy định vào việc xử lý các vụ việc tham nhũng.
Quy định cũng nêu rõ, trong phòng ngừa và phát hiện tham nhũng, uỷ ban kiểm tra có trách nhiệm giám sát tổ chức đảng, đảng viên trong việc triển khai và thực hiện kê khai, công khai tài sản theo quy định; giám sát đảng viên trong việc thực hiện trách nhiệm nêu gương, giữ gìn đạo đức, lối sống; đảng viên có dư luận bất minh về tài sản và sinh hoạt, trong thực hiện chức trách; nhiệm vụ được giao; giám sát đảng viên có trách nhiệm trực tiếp đấu tranh phòng, chống tham nhũng…
Về việc phát hiện vi phạm về tham nhũng, ủy ban kiểm tra có trách nhiệm tiếp nhận và xử lý đơn, thư phản ánh, tố cáo về tham nhũng theo thẩm quyền phục vụ cho việc phát hiện tham nhũng; trường hợp không thuộc trách nhiệm, thẩm quyền giải quyết thì phải chuyển cho ủy ban kiểm tra cấp có thẩm quyền xem xét, giải quyết theo quy định. Đồng thời, thu thập thông tin có liên quan đến tham nhũng từ các tổ chức đảng, cơ quan, đơn vị quản lý cán bộ, đảng viên và thông qua tự phê bình, phê bình trong tổ chức đảng…
Về việc kiểm tra khi có dấu hiệu vi phạm, giải quyết tố cáo và xử lý hành vi tham nhũng, ủy ban kiểm tra có quyền kiểm tra các tổ chức đảng và đảng viên khi có dấu hiệu vi phạm về tham nhũng. Được trưng tập cán bộ các cơ quan đảng và nhà nước vào các đoàn kiểm tra; khi cần thiết báo cáo cấp ủy chỉ đạo việc thành lập các đoàn kiểm tra đối với các vụ việc trọng điểm, phức tạp. Có quyền yêu cầu đảng viên không được xuất cảnh; khi cần thiết, đề nghị các cơ quan có thẩm quyền tạm hoãn xuất cảnh theo quy định của pháp luật đối với đảng viên có dấu hiệu tham nhũng và có biểu hiện bỏ trốn…
Về xử lý hành vi tham nhũng, ủy ban kiểm tra có quyền yêu cầu cơ quan, tổ chức có thẩm quyền xem xét, xử lý kỷ luật về hành chính, bố trí lại công tác đối với đảng viên có hành vi tham nhũng chưa đến mức xử lý hình sự. Xử lý hoặc kiến nghị xử lý về trách nhiệm người đứng đầu và cấp phó của người đứng đầu tổ chức đảng, cơ quan, đơn vị trong việc để xảy ra tham nhũng hoặc bao che cho tham nhũng; chuyển cơ quan tư pháp vụ việc tham nhũng để xử lý và yêu cầu các cơ quan này thông báo kết quả giải quyết cho cấp ủy, ủy ban kiểm tra biết để xem xét, xử lý kỷ luật về Đảng theo thẩm quyền…